Hồi 9: Thất hiệp trùng phùng, mừng mừng tủi tủi
Một lúc sau, có sáu bảy người thuộc phái Không Động, phái Nga Mi bước vào khoang thuyền chào hỏi Du Liên Châu, Tây Hoa Tử, Vệ Tứ Nương. Dẫn đầu phái Không Động là một lão niên gầy gò rắn rỏi, mặc áo vải gai. Dẫn đầu phái Nga Mi là một ni cô trung niên. Đám người vừa tới thấy bọn Lý Thiên Viên ở trong khoang thuyền thì không khỏi kinh ngạc.
Tây Hoa Tử lớn tiếng nói:
– Đường tam gia, Tĩnh Hư sư thái, phái Võ Đang đã liên thủ với Thiên Ưng giáo rồi! Kỳ này phe ta thua thiệt hẳn.
Lão niên gầy gò mặc áo vải gai là Đường Văn Lượng, một trong Không Động ngũ lão, còn ni cô Tĩnh Hư sư thái là đại đệ tử đời thứ tư của phái Nga Mi, đều là hảo thủ có danh vọng trong võ lâm, nghe Tây Hoa Tử nói vậy liền sững sờ. Tĩnh Hư sư thái là người tinh tế, vốn biết tính nóng nảy bộp chộp của Tây Hoa Tử, nên chưa nói gì. Riêng Đường Văn Lượng lập tức trợn mắt nhìn Du Liên Châu, hỏi:
– Du nhị hiệp, có đúng thế không?
Du Liên Châu chưa đáp, Tây Hoa Tử đã cướp lời:
– Phái Võ Đang đã kết thông gia với Thiên Ưng giáo, Trương Thúy Sơn đã thành ái tế của Ân Thiên Chính…
Đường Văn Lượng lấy làm lạ, nói:
– Trương ngũ hiệp mất tích mười năm, nay đã biết ở đâu rồi ư?
Du Liên Châu chỉ Trương Thúy Sơn, nói:
– Đây là ngũ sư đệ Trương Thúy Sơn của tại hạ, còn vị này là cao nhân tiền bối của phái Không Động, Đường tam gia Đường Văn Lượng, đôi bên hãy làm quen đi nào.
Tây Hoa Tử lại nói:
– Vợ chồng Trương Thúy Sơn biết chỗ ở của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, nhưng không chịu nói ra, lại còn tung tin bịa đặt rằng Tạ Tốn đã chết.
Đường Văn Lượng vừa nghe mấy chữ “Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn” thì vừa sợ vừa tức, quát hỏi:
– Hắn ở đâu?
Trương Thúy Sơn nói:
– Việc này tại hạ phải bẩm rõ với gia sư trước đã, chưa thể nói bây giờ, mong các vị hãy lượng thứ.
Đường Văn Lượng mắt như tóe lửa, quát:
– Tên ác tặc Tạ Tốn ở đâu? Hắn giết cháu ta, Đường mỗ thề không đội trời chung với hắn. Hắn ở đâu? Ngươi có nói hay không thì bảo?
Câu sau cùng giọng của lão thật gay gắt, không còn nể nang gì hết.
Ân Tố Tố lạnh lùng nói:
– Các hạ chẳng qua là nhân vật có tuổi của phái Không Động, đâu đủ tư cách truy vấn Trương ngũ gia? Các hạ là bậc chí tôn trong võ lâm, hay là chưởng môn phái Võ Đang?
Đường Văn Lượng cả giận, giơ cả mười ngón tay toan bổ về phía Ân Tố Tố, nhưng thấy nàng là một thiếu phụ mảnh mai, còn mình đường đường là nhân vật tiền bối thành danh trong võ lâm, thật không tiện động thủ với nàng, đành nén giận hỏi Trương Thúy Sơn:
– Vị này là ai?
Trương Thúy Sơn nói:
– Là hiền thê của tại hạ.
Tây Hoa Tử nói xen vào:
– Chính là thiên kim ái nữ của Ân đại giáo chủ Thiên Ưng giáo. Hừ, yêu nữ của tà giáo, có tốt lành gì.
Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính võ công tinh thâm, cho tới nay, những ai trong võ lâm từng động thủ với Ân giáo chủ, chưa một ai chống đỡ nổi mười chiêu. Đường Văn Lượng vừa nghe nói nàng là nữ nhi của Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính thì bất giác e ngại, chỉ nói:
– Được, được, được lắm!
Tĩnh Hư sư thái từ khi bước vào khoang thuyền vẫn im lặng, bây giờ mới lên tiếng:
– Việc này đầu đuôi ra sao, mong Du nhị hiệp cho biết.
Du Liên Châu nói:
– Chuyện này có rất nhiều uẩn khúc, lại kéo dài đã mười năm, nhất thời chưa thể làm sáng tỏ ngay một lúc. Thôi để ba tháng sau, tệ phái sẽ thiết yến tại lầu Hoàng Hạc ở Võ Xương, mời hết thảy các môn phái, bang hội hữu quan tham dự, đúng sai phải trái thế nào, bấy giờ sẽ rõ. Ý các vị ra sao?
Tĩnh Hư sư thái gật đầu:
– Như thế rất hay.
Đường Văn Lượng nói:
– Đúng sai phải trái, ba tháng sau luận cũng được, nhưng ác tặc Tạ Tốn ẩn thân nơi đâu, mong Trương ngũ hiệp hãy nói ngay bây giờ.
Trương Thúy Sơn lắc đầu:
– Hiện giờ quả thực chưa tiện nói ra.
Đường Văn Lượng tuy rất bất mãn, nhưng nghĩ thầm phái Võ Đang đã liên thủ với Thiên Ưng giáo, vậy tạm thời đành chịu, song lẽ công bằng là ở lòng người, để xem ba tháng sau họ sẽ ăn nói thế nào với quần hùng thiên hạ. Cho nên lão không nói thêm, liền đứng dậy, chắp tay nói:
– Vậy ba tháng sau tái kiến, cáo từ.
Tây Hoa Tử nói:
– Đường tam gia, mấy người chúng tôi đi nhờ thuyền các hạ trở về, có được chăng?
Đường Văn Lượng nói:
– Được, có gì mà không được Tây Hoa Tử nói với Vệ Tứ Nương:
– Sư muội, mình đi thôi.
Lão vốn đi cùng thuyền với Du Liên Châu tới đây, bây giờ làm thế, rõ ràng coi phái Võ Đang là thù địch. Du Liên Châu vẻ mặt thản nhiên, khách sáo tiễn ra mũi thuyền, nói:
– Chúng tôi về núi bẩm rõ với sư tôn, rồi sẽ gửi thiếp mời quý vị tới dự anh hùng yến.
Ân Tố Tố đột nhiên nói:
– Tây Hoa đạo trưởng, tiểu nữ có một việc muốn thỉnh giáo.
Tây Hoa Tử ngạc nhiên quay đầu lại hỏi:
– Việc gì vậy?
Ân Tố Tố nói:
– Đạo trưởng cứ luôn miệng bảo tiểu nữ là yêu nữ tà giáo, không biết tà ở việc gì, yêu ở chỗ nào?
Tây Hoa Tử sững người, nói:
– Tà ma ngoại đạo, hồ mị yêu dâm, thì là như thế, cần gì phải nói nhiều? Nếu không tại sao đường đường một vị Trương ngũ hiệp của phái Võ Đang lại bị ngươi mê hoặc kia chứ? Hi hi ha ha!
Nói đoạn lão ta cười khẩy một hồi.
Ân Tố Tố nói:
– Được, đa tạ đã chỉ điểm!
Tây Hoa Tử thấy câu nói của mình khiến cho Ân Tố Tố á khẩu vô ngôn, cũng lấy làm bất ngờ, thấy nàng không nói gì nữa, bèn bước lên tấm ván bắc cầu đi sang thuyền phái Không Động.
Hai chiếc hải thuyền đều thuộc loại lớn có ba cột buồm, tuy đậu cạnh nhau nhưng cũng cách nhau ngót hai trượng, cầu ván bắc ngang rất dài. Tây Hoa Tử đối đáp mấy câu với Ân Tố Tố, nên thành người đi sau cùng, mấy người kia đã sang chiếc thuyền bên kia cả rồi. Tây Hoa Tử đi tới giữa tấm ván, chợt nghe sau lưng có tiếng gió thoảng, kèm theo một tiếng xoẹt nhỏ. Lão ta tuy tính tình nóng nảy, song võ công chẳng phải vừa, hành tẩu giang hồ đã nhiều, biết là có kẻ ám toán nên lập tức quay người lại rút trường kiếm cầm lăm lăm. Ngay lúc đó, lão ta thấy dưới chân hẫng hụt, tấm ván bắc cầu đã gãy rời làm đôi. Lão ta vội tung mình nhảy lên, nhưng giữa hai chiếc thuyền là khoảng không, dưới chân là biển sâu màu lam, nhảy thêm rồi đâu có thể nhảy lên lần nữa, “ùm” một tiếng, lão ta đã rơi xuống nước.
Tây Hoa Tử không biết bơi, thế là phải uống liền mấy ngụm nước mặn, hai tay đập loạn xạ, đột nhiên túm được một sợi dây thừng, lão mừng quá, giữ chặt lấy, cảm thấy có người đang kéo dây đưa mình lên mặt nước. Tây Hoa Tử ngẩng đầu nhìn, thấy người cầm đầu dây chính là Trình đàn chủ của Thiên Ưng giáo, đang tủm tỉm cười.
Thì ra Ân Tố Tố giận lão nói năng vô lễ, đợi lúc khách qua thuyền, bí mật dặn Phong Trình hai đàn chủ sắp đặt mưu kế. Phong đàn chủ nổi danh giang hồ về tuyệt kỹ sử dụng ba mươi sáu lưỡi phi đao, xuất thủ vừa nhanh vừa chuẩn xác. Mỗi lưỡi phi đao đều do thợ giỏi rèn bằng thép ròng, mỏng như lá liễu, sắc bén lạ thường; đối thủ nếu đưa binh khí ra đỡ phi đao của y, thường là binh khí sẽ bị tiện đứt. Vừa rồi y dùng phi đao cắt ván cầu, chỉ nghe xoẹt một tiếng nhỏ là ván đã đứt luôn. Trình đàn chủ đứng bên chuẩn bị sẵn dây thừng, đợi Tây Hoa Tử uống vài ngụm nước biển mới tung dây kéo lão ta lên.
Bọn Vệ Tứ Nương, Đường Văn Lượng thấy Tây Hoa Tử rơi xuống biển, tuy đoán là thủ đoạn của đối phương nhưng Phong đàn chủ xuất thủ quá lẹ, mọi người lại chỉ chú ý phía trước, đâu có ai nhìn thấy ván cầu đứt đôi như thế nào, đến lúc mọi người hô cứu thì Trình đàn chủ đã kéo được Tây Hoa Tử lên mặt nước.
Tây Hoa Tử nén giận, định bụng khi lên trên thuyền sẽ lập tức tấn công đối phương. Nào ngờ Trình đàn chủ chỉ kéo lão lên cách mặt nước chừng một thước, rồi không kéo nữa, mà nói:
– Đạo trưởng, nhất thiết không được động đậy, tại hạ sức yếu, đạo trưởng cử động mạnh e rằng tại hạ tuột tay thì nguy đấy.
Tây Hoa Tử nghĩ thầm, nếu y giả bộ ngây dại, cho mình rơi xuống biển lần nữa, chỉ e chẳng phải chuyện đùa, thôi đành nắm chắc dây thừng ở yên một chỗ, không dám leo lên.
Trình đàn chủ nói:
– Cẩn thận này!
Cánh tay y hất một cái, sợi thừng vút lên không thành một nửa vòng tròn. Cánh tay y quá khỏe, hất một cái mà đẩy Tây Hoa Tử văng đi xa bảy, tám trượng, rồi kéo giật lại, cho rơi xuống thuyền bên kia.
Tây Hoa Tử buông dây ra, hai chân đặt trên sàn thuyền. Thanh kiếm của lão ta đã bị rơi xuống biển, lúc này lão ta giận điên người, lại nghe tiếng reo cười nổi lên bên thuyền của Thiên Ưng giáo, liền rút thanh bội kiếm của Vệ Tứ Nương đang giắt bên lưng, toan nhảy qua thí mạng. Nhưng hai thuyền cách nhau quá xa, khó lòng vọt qua, lão ta đành hậm hực dậm chân, chỉ tay chửi rủa, chẳng làm gì được.
Ân Tố Tố bỡn cợt Tây Hoa Tử như thế, Du Liên Châu nhìn thấy hết, nghĩ thầm thiếu phụ này quả thực tà môn, không phải mối lương duyên của ngũ đệ, bèn nói:
– Ân, Lý hai vị đường chủ, phiền hai vị về bẩm báo với Ân giáo chủ, ba tháng sau yến hội tại lầu Hoàng Hạc ở Vũ Xương, nếu lão nhân gia không coi là nhẹ, thỉnh người giá lâm. Hôm nay chúng ta từ biệt ở đây. Ngũ đệ, ngũ đệ theo huynh về gặp ân sư chứ?
Trương Thúy Sơn nói:
– Vâng!
Ân Tố Tố thấy Du Liên Châu nói vậy, có ý bảo vợ chồng nàng phải xa nhau, bèn ngẩng lên nhìn trời, rồi cúi xuống sàn thuyền.
Trương Thúy Sơn biết nàng có ý nhắc lại lời thề “Trên trời dưới đất, vĩnh viễn bên nhau”, bèn nói:
– Nhị ca, tiểu đệ muốn đưa thê tử về khấu kiến ân sư, chờ khi nào lão nhân gia cho phép, sẽ đi bái kiến nhạc phụ, nhị ca nghĩ có được chăng?
Du Liên Châu hơi trù trừ, nghĩ thầm mình không nỡ bảo phu thê phụ tử sư đệ phải phân ly, nên gật đầu nói:
– Thế cũng được.
Ân Tố Tố cả mừng, nói với Lý Thiên Viên:
– Sư thúc, sư thúc hãy về bẩm với phụ thân tiểu nữ, rằng đứa con bất hiếu này may mắn thoát chết, ít bữa nữa sẽ trở về tổng đà bái kiến lão nhân gia.
Lý Thiên Viên nói:
– Hay lắm, ta ở tổng đà sẽ cung kính chờ đón hai vị đại giá.
Đoạn đứng lên cáo biệt Du Liên Châu.
Ân Tố Tố hỏi:
– Phụ thân tiểu nữ có khỏe không?
Lý Thiên Viên nói:
– Khỏe, khỏe lắm! Xem ra tinh thần còn mạnh mẽ hơn xưa.
Ân Tố Tố lại hỏi:
– Còn ca ca của tiểu nữ?
Lý Thiên Viên nói:
– Khỏe lắm! Lệnh huynh mấy năm nay võ công đột phi mãnh tiến, khiến sư thúc cố theo chẳng kịp, thật đáng hổ thẹn cho ta!
Ân Tố Tố mỉm cười:
– Sư thúc lại giễu cợt điệt nhi rồi.
Lý Thiên Viên nghiêm mặt nói:
– Ta không nói đùa đâu! Ngay cả phụ thân ngươi cũng phải khen ngợi là hắn đã giỏi hơn thầy, ngươi bảo thế có lợi hại không nào?
Ân Tố Tố nói:
– Ôi, trước mặt người ngoài, sư thúc mèo khen mèo dài đuôi, không sợ Du nhị hiệp chê cười hay sao.
Lý Thiên Viên cười:
– Trương ngũ hiệp đã là rể quý của chúng ta, Du nhị hiệp đâu còn là người ngoài nữa.
Nói xong ôm quyền cung kính chào, rồi bước ra khỏi khoang thuyền.
Du Liên Châu nghe mấy câu đó, trong lòng chẳng vui chút nào, chỉ hơi cau mày, không nói gì.
Trương Thúy Sơn chờ đám giáo chúng Thiên Ưng giáo rời thuyền rồi, vội hỏi:
– Nhị ca, thương thế của tam ca sau đó ra sao? Tam ca có… đỡ chút nào không?
Du Liên Châu “ừm” một tiếng, hồi lâu không đáp. Trương Thúy Sơn thì bồn chồn, chằm chằm nhìn sư ca, trong lòng cứ nổi lên cảm giác lo lắng, chỉ sợ nghe sư ca nói đến chữ “chết”.
Du Liên Châu chậm rãi nói:
– Tam đệ không chết, nhưng so với chết cũng chẳng khác bao nhiêu. Tam đệ tàn phế suốt đời, tứ chi không cử động được. Du Đại Nham Du tam hiệp, than ôi, trên giang hồ không còn nhân vật đó nữa!
Trương Thúy Sơn nghe nói tam ca không chết, lòng mừng rỡ, nhưng nghĩ tới một vị sư ca anh phong hiệp cốt mà phải chịu cảnh như thế thì chàng không nhịn được ứa nước mắt, nghẹn ngào hỏi:
– Cừu nhân hại tam ca là ai? Đã tìm ra chưa?
Du Liên Châu không đáp, ngoảnh đầu lại, đột nhiên mục quang như hai tia chớp chiếu thẳng vào mặt Ân Tố Tố, nghiêm nghị hỏi:
– Ân cô nương, cô nương có biết kẻ hại Du tam đệ của ta là ai không?
Ân Tố Tố không khỏi run rẩy, nói:
– Nghe bảo gân cốt tứ chi của Du tam hiệp bị người ta dùng “Kim cương chỉ lực” của phái Thiếu Lâm bẻ gãy.
Du Liên Châu nói:
– Đúng thế. Cô nương không biết là ai ư?
Ân Tố Tố lắc đầu, nói:
– Muội không biết.
Du Liên Châu không để ý đến nàng nữa, nói:
– Ngũ đệ, phái Thiếu Lâm nói là đệ đã giết tất cả già trẻ lớn bé của tiêu cục Long Môn ở phủ Lâm An, lại giết cả mấy vị tăng nhân phái Thiếu Lâm. Việc đó thật hay giả?
Trương Thúy Sơn nói:
– Việc đó…
Ân Tố Tố nói xen vào:
– Việc đó không liên quan gì tới ngũ ca, tất cả là do muội giết đấy.
Du Liên Châu nhìn nàng, mục quang lộ vẻ cực kỳ thống hận, nhưng trong giây lát liền dịu đi, vẻ mặt trở lại bình hòa, nói:
– Ta cũng biết ngũ đệ không đời nào giết người bừa bãi. Vì chuyện đó mà phái Thiếu Lâm ba lần cử người lên núi Võ Đang lý luận, song vì ngũ đệ đột nhiên mất tích, võ lâm ai ai cũng biết, nên việc đó không có ai đối chứng. Chúng ta nói phái Thiếu Lâm hại tam đệ, phái Thiếu Lâm thì nói ngũ đệ giết của họ mấy chục người. Rất may chưởng môn trụ trì Thiếu Lâm tự là Không Văn đại sư lão thành trì trọng không cho gây sự, nên mười năm nay mới tránh khỏi đại họa.
Ân Tố Tô nói:
Tất cả là do muội hồi ấy trẻ người non dạ, hành sự không biết nặng nhẹ tốt xấu, bây giờ nghĩ lại thật hối hận vô cùng. Thế nhưng người thì đã chết rồi, bây giờ mình cứ chối biến, không nhận đến cùng, là xong chuyện.
Du Liên Châu lộ vẻ mặt lạ lùng, liếc Trương Thúy Sơn một cái, nghĩ thầm sao hạng nữ nhi thế này mà ngũ đệ lại lấy làm vợ được.
Ân Tố Tố thấy Du Liên Châu tỏ ra lạnh nhạt với nàng, mở miệng chỉ gọi Ân cô nương, không hề gọi nàng là ” đệ tức” ( em dâu), thì bực thầm trong bụng, nói:
– Ai làm nấy chịu. Vụ đó muội quyết không để liên lụy đến phái Võ Đang của nhị ca, cứ để cho phái Thiếu âm đến kiếm Thiên Ưng giáo là xong.
Du Liên Châu cao giọng:
– Trên giang hồ, mọi việc không thể bỏ qua chữ “Lý”, không kể phái Thiếu Lâm hiện tà phái lớn nhất trong võ lâm, ngay đến cô nhi quả phụ vô quyền vô dũng, chúng ta cũng phải xử sự theo lý, chứ không thể ỷ mạnh hiếp yếu.
Nếu là mười năm trước, những lời giáo huấn nghiêm khắc của Du Liên Châu hẳn đã làm cho Ân Tố Tố thẹn quá hóa khùng, rút kiếm gây chuyện; nhưng bây giờ nàng thấy Trương Thúy Sơn cung kính vâng dạ, nên chỉ nghĩ thầm: “Mình chẳng muốn nghe mấy lời nhân nghĩa đạo đức, nhưng nếu cãi lại, chỉ e Trương lang thêm khó xử, thôi đành nhường nhịn vậy”. Nàng bèn dắt tay Vô Kỵ, nói:
– Vô Kỵ, để mẹ cho con ra xem chiếc thuyền lớn, con chưa bao giờ thấy nó, phải không?
Trương Thúy Sơn đợi thê tử ra khỏi khoang rồi, mới nói:
– Nhị ca, mười năm qua, tiểu đệ…
Du Liên Châu xua tay, nói:
– Ngũ đệ, huynh đệ hai ta bụng nào dạ nấy, tình như cốt nhục, dù có họa lớn đến mấy, nhị ca cũng sống chết cùng với ngũ đệ. Chuyện của phu phụ ngũ đệ, đừng nói với nhị ca vội, để về núi nghe sư phụ định đoạt. Nếu sư phụ trách phạt ngũ đệ, cả huynh đệ bảy người chúng ta cùng quỳ xuống cầu xin, hài nhi của ngũ đệ cũng đã lớn ngần này rồi, không lẽ sư phụ còn bắt phu thê phụ tử ngũ đệ mỗi người một ngả sao?
Trương Thúy Sơn cả mừng, nói:
– Đa tạ nhị ca.
Du Liên Châu bề ngoài cứng rắn, bên trong nhiệt thành, trong Võ Đang thất hiệp chính là người ít nói cười nhất, được năm sư đệ kính nể Du Liên Châu còn hơn cả so với đại sư ca Tống Viễn Kiều. Thực ra Du Liên Châu đối đãi với sư huynh đệ tình sâu nghĩa nặng, khi Trương Thúy Sơn đột nhiên mất tích, trong lòng Du Liên Châu đau đớn như muốn phát điên, nhưng ngoài mặt làm như vô sự; hôm nay sư huynh sư đệ trùng phùng, thực là hỉ sự đầu tiên trong đời Du Liên Châu, nhưng Du vẫn phải giữ vẻ nghiêm nghị, giáo huấn cho Ân Tố Tố một chập, bây giờ chỉ còn hai huynh đệ với nhau thì mới hơi lộ chân tình.
Điều Du Liên Châu lo ngại nhất là Ân Tố Tố đã giết quá nhiều đệ tử Thiếu Lâm, việc đó quyết không dễ thu xếp chút nào, nhưng tâm ý đã định sẵn, dù mình chết cũng phải bảo hộ cho gia đình sư đệ bình an chu toàn.
Trương Thúy Sơn lại hỏi:
– Nhị ca, bên mình xảy ra tranh chấp lớn với Thiên Ưng giáo, có phải cũng là vì phu phụ tiểu đệ? Việc này làm cho tiểu đệ vô cùng lo lắng.
Du Liên Châu không đáp, hỏi lại:
– Việc trên Vương Bàn sơn đảo đầu đuôi thế nào?
Trương Thúy Sơn bèn thuật lại việc chàng đêm nọ tiến vào tiêu cục Long Môn ra sao, gặp Ân Tố Tố thế nào, cùng đi dự lễ giương đao lập uy của Thiên Ưng giáo tại Vương Bàn sơn đảo ra sao, sau đó Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn ra tay tàn sát, đoạt lấy thanh đao Đồ Long và bức hai người xuống thuyền ra biển thế nào, nhất loạt kể hết.
Du Liên Châu nghe hết câu chuyện, hỏi rõ vụ Cao Tắc Thành và Tưởng Đào của phái Côn Luân, trầm ngâm một hồi, rồi nói:
– Hóa ra như vậy. Nếu cuối cùng ngũ đệ không trở về, không biết các uẩn khúc bên trong đến bao giờ mới sáng tỏ.
Trương Thúy Sơn nói:
– Đúng thế, nghĩa huynh của tiểu đệ… à, Tạ Tốn thực ra không phải hạng người tàn ác tới mức không thể cải hóa. Nhị ca, Tạ Tốn như thế chẳng qua là vì trong đời Tạ Tốn bị một tai họa quá bi thảm; tiểu đệ hiện đã kết nghĩa kim lan với Tạ Tốn.
Du Liên Châu gật đầu, nghĩ thầm: “Lại thêm một chuyện khó thu xếp lắm đây”.
Trương Thúy Sơn nói tiếp:
– Tiếng rống của nghĩa huynh tiểu đệ có một uy lực ghê gớm, làm cho tất cả mọi người trên Vương Bàn sơn đảo mất trí, Tạ Tốn bảo rằng mọi người tuy không chết nhưng sẽ hóa thành điên dại, như thế thì việc Tạ Tốn đoạt được thanh đao Đồ Long mới không bị lộ ra ngoài. Du Liên Châu nói:
– Tạ Tốn hành sự hung ác, nhưng y quả là một kỳ nhân, có điều là y tính trăm điều vẫn sót một điều, quên mất một người.
Trương Thúy Sơn hỏi:
– Là ai vậy?
Du Liên Châu nói:
– Bạch Quy Thọ.
Trương Thúy Sơn nói:
– Là đàn chủ Huyền Vũ đàn của Thiên Ưng giáo ư?
Du Liên Châu nói:
– Đúng thế. Cứ như lời ngũ đệ, trong số quần hào hiện diện hôm đó trên Vương Bàn sơn đảo, thì Bạch Quy Thọ nội công thâm hậu hơn cả, bị Tạ Tốn phun rượu đánh ngã ra chết giấc. Khi Tạ Tốn thi triển “Sư tử hống”, Bạch Quy Thọ giả dụ chưa chết giấc, thì chắc cũng đã mất trí vì tiếng hú đó…
Trương Thúy Sơn vỗ đùi, nói:
– Phải rồi, lúc ấy Bạch Quy Thọ vẫn nằm bất tỉnh dưới đất, không nghe tiếng hú, nhờ vậy sau này thần trí vẫn tỉnh táo! Nghĩa huynh của tiểu đệ tuy tính toán kín nhẽ, song không nghĩ ra điều này.
Du Liên Châu thở dài, nói:
– Từ Vương Bàn sơn đảo trở về mà không bị mất trí, chỉ có một mình Bạch Quy Thọ. Phái Côn Luân nội công tuy có chỗ độc đáo, nhưng công lực của Cao Tắc Thành và Tưởng Đào còn thô thiển, từ đó thành phế nhân ngẩn ngẩn ngơ ngơ. Hỏi hai người ai đã làm hại họ, Tưởng Đào chỉ lắc đầu không nói, còn Cao Tắc Thành thì trước sau chỉ nói tên một người là Ân Tố Tố.
Du Liên Châu ngừng giây lát, nói tiếp:
– Bây giờ nhị ca mới biết, thì ra Cao Tắc Thành khắc sâu hình bóng Ân Tố Tố trong đầu hắn. Hừm, lần sau Tây Hoa Tử còn nói năng xấc xược, nhị ca sẽ cho lão biết tay! Đệ tử phái Côn Luân của lão hành sự bất cẩn, lại đi trách cứ người khác.
Trương Thúy Sơn nói:
– Nếu Bạch Quy Thọ đã không bị mất trí, hẳn y phải biết rõ mọi nguyên ủy chứ.
Du Liên Châu nói:
– Thế nhưng y lại không chịu nói ra, ngũ đệ có biết tại sao không?
Trương Thúy Sơn nghĩ một chút, hiểu ra:
– Phải rồi, Thiên Ưng giáo muốn một mình đoạt lại thanh đao Đồ Long, không chịu tiết lộ cái tin chỉ riêng họ biết, nên trước sau cứ bảo là họ không biết gì.
Du Liên Châu nói:
– Cuộc tranh chấp lớn trong võ lâm hiện nay chính từ đó mà ra. Phái Côn Luân nói Ân Tố Tố làm hại Cao Tắc Thành và Tưởng Đào, mấy huynh đệ chúng ta cũng đều bảo ngũ đệ bị Thiên Ưng giáo hạ độc thủ.
Trương Thúy Sơn hỏi:
– Thế việc tiểu đệ đến Vương Bàn sơn đảo cũng do Bạch Quy Thọ nói ra ư?
Du Liên Châu nói:
– Không, y không chịu nói gì cả. Nhị ca cùng tứ đệ, lục đệ tới Vương Bàn sơn đảo tra xét, thấy hai mươi bốn chữ lớn ngũ đệ viết trên vách núi bằng thiết bút, mới biết ngũ đệ có tham dự lễ “giương đao lập uy” của Thiên Ưng giáo. Ba người chúng ta tìm không thấy tung tích gì của ngũ đệ trên đảo, bèn đi gặp Bạch Quy Thọ dò hỏi. Bạch Quy Thọ nói năng xấc xược, bị ta cho một chưởng. Ít lâu sau phái Côn Luân có người tìm đến, nhưng bị thua to, bị Thiên Ưng giáo giết mất hai người. Mười năm qua, cừu oán đôi bên cứ ngày càng sâu.
Trương Thúy Sơn vô cùng ân hận, nói:
– Chỉ vì phu phụ tiểu đệ khiến cho bao nhiêu người vô tội của các môn phái gặp nạn, tiểu đệ làm sao có thể yên lòng? Tiểu đệ về bẩm ân sư rồi sẽ đến các môn phái giải thích sự hiểu lầm, chịu tội với họ.
Du Liên Châu thở dài, nói:
– Cái đó do trời xui đất khiến, chứ không thể trách ngũ đệ. Hôm ấy sư phụ sai ta và thất đệ đi Lâm An, bảo hộ tiêu cục Long Môn nhưng tới Giang Tây thì gặp chuyện đại bất bình, hai huynh đệ ta buộc phải ra tay, thành ra chậm mất mấy ngày, dù cứu được mười mấy người vô tội; khi đến Lâm An thì vụ huyết án ở tiêu cục Long Môn xảy ra mất rồi. Lẽ ra, nếu chỉ vì việc của hai vợ chồng ngũ đệ thì cũng chỉ xảy ra tranh chấp giữa phái Võ Đang và phái Côn Luân với Thiên Ưng giáo mà thôi. Nhưng Thiên Ưng giáo vì muốn đoạt lại thanh đao Đồ Long mà trước sau không nhắc gì đến Tạ Tốn, thành thử các môn phái, bang hội, như Cự Kình, Hải Sa, Thần Quyền… đều đổ riệt món nợ máu bang chủ, chưởng môn cho Thiên Ưng giáo. Thiên Ưng giáo do đó trở thành đích nhắm của các giới giang hồ.
Trương Thúy Sơn thở dài:
– Chẳng hiểu thanh đao Đồ Long kia có cái gì ghê gớm mà nhạc phụ của tiểu đệ phải gánh thay người khác cái họa này?
Du Liên Châu nói:
– Ta chưa từng gặp lệnh nhạc, nhưng cái việc ông ta thống lãnh Thiên Ưng giáo đơn độc chống lại quần hùng, khí phách đó khiến ngay cả địch thủ của ông ta cũng phải thán phục.
Trương Thúy Sơn nói:
– Các phái Thiếu Lâm, Nga Mi, Không Động, hoàn toàn không tham dự đại hội Vương Bàn sơn đảo, vì lẽ gì cũng kết oán cừu với Thiên Ưng giáo?
Du Liên Châu nói:
– Chuyện đó thì là do nghĩa huynh Tạ Tốn của đệ mà ra. Thiên Ưng giáo muốn đoạt lại thanh đao Đồ Long, nhiều phen liên tiếp cho hải thuyền ra các hải đảo tìm kiếm Tạ Tốn. Nên biết cái kim giấu trong bọc mãi cũng có ngày lòi ra. Bạch Quy Thọ giữ mồm giữ miệng đến mấy, cái tin kia cũng lộ ra ngoài. Nghĩa huynh của đệ trước đây mạo danh Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn, gây ra hơn ba chục vụ đại án khắp Giang Nam, Giang Bắc; giết hại vô số nhân vật thành danh của các môn phái, việc đó ngũ đệ biết chứ?
Trương Thúy Sơn gật đầu, hạ giọng, nói:
– Mọi người rốt cuộc đã biết Tạ Tốn là hung thủ.
Du Liên Châu nói:
– Khi gây án, Tạ Tốn đều viết trên tường hàng chữ lớn “Người ra tay là Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn”. Hồi ấy mấy sư huynh đệ chúng ta theo lệnh sư phụ, từng xuống núi tra xét, quả thật bấy giờ chẳng biết hung thủ là ai, mà Thành Côn trước sau vẫn không lộ diện. Khi cái tin Thiên Ưng giáo đi tìm tung tích Tạ Tốn bị lộ, các mưu sĩ của các môn phái mới nghĩ ra rằng Tạ Tốn vốn là đệ tử truyền nhân duy nhất của Thành Côn, sau không rõ vì cớ gì mà sư đồ bất hòa, trở mặt thành kẻ thù, vậy thì kẻ mạo danh Thành Côn giết người kia chỉ có thể là Tạ Tốn. Ngũ đệ thử xem Tạ Tốn giết hại bao nhiêu người, sự vụ lan rộng biết chừng nào? Chỉ riêng cái việc Không Kiến đại sư của phái Thiếu Lâm bị y đấm chết, cũng đã có bao nhiêu người muốn giết y cho hả giận.
Trương Thúy Sơn trông vẻ mặt thật khổ sở, nói:
– Nghĩa huynh của tiểu đệ tuy sửa lỗi hướng thiện, nhưng hai tay nhuốm quá nhiều máu, ôi… nhị ca, lòng đệ rối như tơ vò, chả biết phải làm sao bây giờ.
Du Liên Châu nói:
– Sư huynh sư đệ chúng ta đã vì ngũ đệ mà đến hỏi tội Thiên Ưng giáo. Phái Côn Luân vì Cao, Tưởng hai gã mà đến hỏi tội Thiên Ưng giáo. Bang Cự Kình vì bang chủ chết thảm mà đến hỏi tội Thiên Ưng giáo. Ngoài phái Thiếu Lâm còn bao nhiêu nhân vật bạch đạo hắc đạo vì muốn biết tung tích Tạ Tốn mà đến hỏi tội Thiên Ưng giáo. Mười năm qua, song phương đại chiến đã năm trận, tiểu chiến không sao đếm xuể. Tuy mỗi lần đại chiến Thiên Ưng giáo đều thua, nhưng nhạc phụ của ngũ đệ bị quần hùng vây đánh như thế mà vẫn đứng vững, quả là một nhân vật kiệt xuất! Đương nhiên, các danh môn chính phái như Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi thấy sự việc chưa minh bạch, có quá nhiều uẩn khúc, xem chừng Thiên Ưng giáo hoàn toàn không phải là thủ phạm chính nên mỗi lần ra tay đều có phần nương nhẹ, các môn phái còn lại thì nhất quyết sống còn. Lần này chúng ta nghe tin Thiên Thị đường Lý đường chủ của Thiên Ưng giáo đưa thuyền ra biển tìm Tạ Tốn, bèn bí mật bám theo, mong lần ra chút manh mối nào chăng. Ai ngờ Lý đường chủ thấy tình hình bất ổn, không chịu để chúng ta bám đuôi, thế là phái Côn Luân động thủ với họ. Nếu phu phụ ngũ đệ không đi bè tới nơi, hai bên chắc còn mất thêm không ít hảo thủ.
Trương Thúy Sơn lặng lẽ nhìn kỹ sư ca, thấy Du Liên Châu hai bên tóc mai đã nhuốm bạc, trán có nhiều nếp nhăn, nói:
– Nhị ca, mười năm qua nhị ca vất vả quá nhiều. Tiểu đệ may mắn sống sót trở về, được gặp lại nhị ca, tiểu đệ… tiểu đệ…
Du Liên Châu thấy sư đệ nước mắt lưng tròng, nói:
– Võ Đang thất hiệp lại quây quần bên nhau, quả là đại hỉ sự. Từ khi tam đệ trọng thương, ngũ đệ mất tích, giang hồ đã đổi tên huynh đệ ta thành Võ Đang ngũ hiệp, ha ha, hôm nay thất hiệp sẽ trùng chấn thanh uy…
Chợt nhớ Du Đại Nham tàn phế nằm một chỗ, tuy bảy người còn đủ, nhưng đâu còn có thể cùng nhau sánh vai hành hiệp giang hồ như ngày nào, thì lòng chàng không khỏi tê tái bùi ngùi.
Thuyền đi về phương nam mười mấy ngày thì đến cửa sông Trường Giang, cả bọn đổi sang giang thuyền mà đi về phía thượng lưu.
Vợ chồng Trương Thúy Sơn thay bộ y phục lam lũ bằng da thú, trông hai người thật là một cặp đẹp đôi, phong tư chẳng khác ngày xưa là mấy. Vô Kỵ mặc bộ cánh mới, tóc tết thành hai cái bím buộc dải lụa đỏ, trông thật hoạt bát dễ thương.
Du Liên Châu chuyên tâm học võ, không vợ con gì nên đối với Vô Kỵ hết sức yêu thương, có điều là tính nết nghiêm nghị, trầm mặc ít nói, sắc diện lạnh lùng. Vô Kỵ cảm nhận rằng vị sư bá mặt lạnh như tiền này thật ra rất cưng nó, nên mỗi lúc thư nhàn nó lại sà vào hỏi sư bá đủ thứ. Thằng bé sinh ra nơi hoang đảo, mọi thứ trên đất liền chưa thấy bao giờ, nên đối với nó cái gì cũng mới lạ. Du Liên Châu chẳng khó chịu về việc đó, thường ôm nó ngồi ở mũi thuyền ngắm phong cảnh đôi bờ. Vô Kỵ hỏi mươi câu, chàng trả lời vắn tắt một câu.
Hôm ấy đến chân núi Đồng Quan, huyện Đồng Lăng, tỉnh An Huy, trời đã xế chiều, chiếc thuyền đậu lại cạnh một thị trấn nhỏ. Nhà thuyền lên bờ mua rượu thịt. Phu phụ Trương Thúy Sơn và Du Liên Châu ở dưới thuyền pha trà nhàn đàm.
Vô Kỵ chơi đùa quanh quẩn ở mũi thuyền, thấy trên bến có một lão hành khất đang ngồi đùa giỡn với rắn, trên cổ lão quấn một con rắn xanh, còn trên tay là một con rắn lớn mình đen chấm trắng. Con rắn đen ấy cứ luồn qua chui lại, vừa cuộn khoanh trên đầu, thoắt một cái đã trườn xuống lưng, vô cùng sinh động. Vô Kỵ ở Băng Hỏa đảo chưa nhìn thấy rắn lần nào, giờ xem cảnh kia thấy quá thích thú. Lão hành khất nhìn thằng bé, cười cười với nó, búng tay một cái, con rắn đen liền nhảy lên, lộn một vòng trên không, lúc rơi xuống quấn luôn quanh ngực lão hành khất mấy vòng. Vô Kỵ thấy lạ quá, cứ nhìn không chớp mắt. Lão hành khất vẫy vẫy thằng bé, đưa tay làm hiệu rủ nó lên bờ, sẽ cho xem nhiều trò khác hấp dẫn nữa.
Vô Kỵ tức thời theo ván cầu đi lên. Lão hành khất lấy từ lưng ra một cái túi vải, mở miệng túi, cười:
– Trong này có mấy đồ chơi hay lắm, bé lại mà xem.
Vô Kỵ hỏi:
– Đồ chơi gì thế?
Lão hành khất nói:
– Thích lắm, cứ nhìn vào khắc biết.
Vô Kỵ thò đầu vào túi vải để nhìn, chỉ thấy tối mò mò, nào có thấy gì. Nó xích lại gần hơn, hi vọng nhìn cho rõ, lão hành khất đột nhiên lật tay một cái, chụp cái túi vải vào đầu nó. Vô Kỵ mới kêu “Ối” một tiếng, miệng đã bị lão hành khất bịt lại, rồi cả thân hình nó bị nhấc bổng lên.
Tiếng kêu của thằng bé từ trong túi vải vọng ra tuy nhỏ, nhưng Du Liên Châu và Trương Thúy Sơn cũng nghe thấy. Hai người tuy ở trong khoang thuyền, cách khá xa, song cảm thấy tiếng kêu có gì không ổn, vội cùng chạy ra mũi thuyền đã thấy Vô Kỵ bị lão hành khất bắt giữ.
Hai người toan phi thân lên bờ, nhưng lão hành khất kia gằn giọng quát:
– Muốn thằng bé sống, hãy đứng yên đó!
Nói xong lão ta xé rách áo trên lưng Vô Kỵ, đặt miệng con rắn đen chĩa ngay vào da thịt ở hậu tâm thằng bé.
Lúc này Ân Tố Tố cũng đã chạy ra mũi thuyền, thấy ái nhi bị bắt thì cả giận toan phóng ngân châm. Du Liên Châu đưa cả hai tay ngăn lại:
– Không được đâu!
Chàng đã nhận ra con rắn đen kia tên là Tất Hắc Tinh, một loài độc xà nổi tiếng, thân càng đen, độc tính càng mạnh. Con rắn này mình đen bóng, các chấm trắng trên mình nó cũng phát quang lấp lánh. Nó há rộng miệng, lộ ra bốn cái răng nhọn, nhắm thẳng da thịt trắng mềm trên lưng Vô Kỵ. Nó chỉ cần mổ một cái, Vô Kỵ sẽ mất mạng tức thời, dẫu có đập chết lão hành khất, lấy được thuốc giải cũng chẳng tài nào cứu kịp. Du Liên Châu thản nhiên hỏi:
– Tôn giá làm khó với đứa bé là muốn gì?
Lão hành khất nói:
– Du nhị hiệp hãy sai người nhổ neo, đưa thuyền ra cách bờ năm sáu trượng, bấy giờ ta sẽ nói.
Du Liên Châu biết lão ta sợ mình đột nhiên nhảy lên bờ, chàng cũng thừa biết thuyền càng xa bờ thì càng khó cứu Vô Kỵ, nhưng thằng bé đang bị lão ta uy hiếp thế kia, đành phải làm theo lời lão, rồi tính sau. Du Liên Châu cầm dây neo giật nhẹ một cái, cái neo sắt nặng năm sáu chục cân từ dưới nước bay lên.
Lão hành khất thấy cánh tay Du Liên Châu chỉ hất chếch một cái nhẹ thì chiếc neo đã bay lên, công lực mạnh hiếm có, bất giác mặt hơi biến sắc. Trương Thúy Sơn cầm cây sào dài đẩy một cái vào bờ, con thuyền từ từ lùi ra giữa sông. Lão hành khất nói:
– Xa thêm chút nữa!
Trương Thúy Sơn tức giận nói:
– Thế này còn chưa đủ năm, sáu trượng hay sao?
Lão hành khất mỉm cười:
– Du nhị hiệp võ công lợi hại như thế, dù cách xa năm sáu trượng, tại hạ vẫn chưa yên tâm đâu.
Trương Thúy Sơn đành phải cho thuyền ra xa hơn một trượng nữa.
Du Liên Châu ôm quyền hỏi:
– Thỉnh giáo quý tính đại danh.
Lão hành khất nói:
– Tại hạ là kẻ vô danh tiểu tốt trong Cái Bang, tiện danh nói ra chỉ làm bẩn tai Du nhị hiệp.
Du Liên Châu thấy lão ta đeo sau lưng năm sáu cái túi vải, nghĩ thầm đây là đệ tử sáu túi của Cái Bang, thân phận không thấp, sao lại hành động ti tiện như thế? Huống hồ Cái Bang xưa nay hành sự nhân nghĩa, bang chủ của họ là Sử Hỏa Long là một đại hán oai hùng, lừng danh trên giang hồ, việc này thật kỳ quái.
Ân Tố Tố bỗng quát lên:
– Vu Sơn bang ở Đông Xuyên đã gia nhập Cái Bang rồi sao? Ta xem trong Cái Bang làm gì có tự hiệu của các hạ?
Lão hành khất “ồ” một tiếng, chưa trả lời đã nghe Ân Tố Tố nói tiếp:
– Hạ Lão Tam, ngươi giở trò quỷ gì thế? Ngươi mà đụng đến một sợi tóc của con ta thì ta sẽ chặt Mai Thạch Kiên nhà các ngươi thành vài chục mảnh!
Lão hành khất giật mình, nói:
– Ân cô nương quả nhiên tinh mắt thật, nhận ngay ra Hạ Lão Tam này. Tại hạ chính nhận lệnh Mai bang chủ đến đây nghênh đón công tử.
Ân Tố Tố giận dữ nói:
– Mau bỏ con rắn kia ra! Cái bang hội Vu Sơn nhỏ bé của ngươi thật to gan, dám gây sự với Thiên Ưng giáo!
Hạ Lão Tam nói:
– Chỉ xin Ân cô nương nói ra một câu, Hạ Lão Tam sẽ lập tức trả lại công tử, Mai bang chủ sẽ thân chinh đến tận nơi tạ tội.
Ân Tố Tố hỏi:
– Muốn ta nói câu gì?
Hạ Lão Tam nói:
– Công tử độc nhất của Mai bang chủ chết dưới tay Tạ Tốn, Ân cô nương chắc đã nghe rồi. Mai bang chủ cầu khẩn Trương ngũ hiệp và Ân cô nương, à không, tiểu nhân lỡ lời, phải gọi là Trương phu nhân mới đúng, cho biết chỗ ở của ác tặc Tạ Tốn, toàn thể tệ bang từ trên xuống dưới sẽ đa tạ đại đức đó.
Ân Tố Tố nhướn mày, nói:
– Bọn ta không biết.
Hạ Lão Tam nói:
– Vậy thì nhờ hai vị dò hỏi nghe ngóng giùm. Chúng tôi sẽ hầu hạ công tử chu đáo, khi nào hai vị dò hỏi được chỗ ở của Tạ Tốn báo cho hay, Mai bang chủ sẽ đích thân đem trả công tử.
Ân Tố Tố thấy mấy cái răng con rắn độc cách da thịt con mình chỉ vài tấc, trong bụng lo sợ, đã toan nói phắt ra chuyện ở Băng Hỏa đảo, nhưng quay sang nhìn trượng phu, thấy mặt chàng rất kiên nghị. Nàng làm vợ Trương Thúy Sơn mười năm, biết chàng là người rất trọng nghĩa khí, nếu vì ái tử mà tiết lộ chỗ ở của Tạ Tốn, khiến nghĩa huynh phải bỏ mạng bởi tay người, chỉ e tình nghĩa phu thê khó mà bảo toàn, nên nàng cố nhịn không nói ra.
– Được, ngươi đem con ta đi đâu thì đem. Đại trượng phu lẽ nào bán rẻ bằng hữu? Ngươi coi thường Võ Đang thất hiệp quá đó!
Hạ Lão Tam sững người, lão cứ tưởng bắt giữ được Vô Kỵ thì phu phụ Trương Thúy Sơn không thể không tiết lộ chỗ ở của Tạ Tốn, nào ngờ Trương Thúy Sơn cuối cùng lại trả lời kiên quyết như thế, nhất thời lão chưa biết tính sao, bèn nói:
– Du nhị hiệp, Tạ Tốn tội cao như núi, phái Võ Đang chủ trì công đạo, người trong võ lâm vẫn kính trọng, xin nhị hiệp khuyên hai vị ấy một lời.
Du Liên Châu nói:
– Việc này xử lý thế nào, sư huynh đệ tại hạ chính đang trên đường về núi Võ Đang bẩm với ân sư, để lão nhân gia chỉ giáo. Đại hội anh hùng ở lầu Hoàng Hạc tại Võ Xương, xin mời quý bang Mai bang chủ và các hạ cùng tới dự, lúc đó đúng sai phải trái thế nào, mọi người sẽ rõ. Mong các hạ trước hết hãy thả thằng bé ra.
Du Liên Châu ở cách bờ sông sáu bảy trượng, nói mấy câu đó tuyệt nhiên không đề khí, vậy mà Hạ Lão Tam nghe rõ từng câu từng chữ như thể hai người đang ngồi bên nhau nói chuyện, thì thán phục nghĩ thầm: “Võ Đang thất hiệp uy chấn thiên hạ, quả nhiên danh bất hư truyền. Lần này bang Vu Sơn mình làm chuyện này thật mạo hiểm, chọi sao nổi với phái Võ Đang và Thiên Ưng giáo?! Nhưng mối thù giết con trai Mai bang chủ lẽ nào không báo”, bèn khom lưng nói:
– Đã vậy, tiểu nhân đành đắc tội, đành đưa Trương công tử đi Đông Xuyên.
Đột nhiên Ân Tố Tố đưa tay đẩy vào lưng một thủy thủ đang ngồi trên mạn thuyền, rồi giơ chân đá một thủy thủ khác. Hai thuyền phu kêu oai oái, lăn tòm xuống sông, nước bắn lên tung tóe. Ân Tố Tố lại kêu to:
– Ối chao, ối chao, ngũ ca, sao lại đánh thiếp?
Đoạn nàng cứ vừa kêu la vừa nhảy ở mũi thuyền. Du Liên Châu và Trương Thúy Sơn kinh ngạc, chưa biết tại sao nàng làm thế. Hạ Lão Tam thì trố mắt nhìn chuyện đột biến, càng ngơ ngác hơn.
Du Liên Châu chỉ chớp mắt đã hiểu liền, chàng thấy Hạ Lão Tam trố mắt há mồm thì tức thời chàng rút trường kiếm, vận kình ném đi. Chỉ nghe “xoẹt” một tiếng, thanh kiếm bay vút đi, chém đứt phăng đầu con Tất Hắc Tinh, cắt ngọt luôn bốn ngón tay của Hạ Lão Tam đang cầm con rắn đó. Lúc trường kiếm của Du Liên Châu được rút khỏi bao, Trương Thúy Sơn đã chộp một sợi dây cột buồm đang lơ lửng, hai chân đạp xuống sàn thuyền một cái, giật dây bay vèo lên bờ. Chàng chỉ chậm hơn thanh kiếm của Du Liên Châu chút xíu, chân chưa chạm đất đã nhoài người tới, tay phải ôm lấy Vô Kỵ, tay trái tung một chưởng đánh cho Hạ Lão Tam lăn đi mấy vòng.
Hạ Lão Tam nằm giãy giụa dưới đất, không đứng dậy nổi.
Hai thuyền phu bơi vào bờ, không hiểu tại sao Ân Tố Tố bỗng nhiên nổi giận nên chưa dám trở lại thuyền. Ân Tố Tố cười khúc khích, nói:
– Mời hai vị đại ca lên thuyền, vừa rồi ta đắc tội, xin tặng mỗi vị hai lượng bạc để mua rượu uống.
Chiếc thuyền ngược dòng mà đi, lại ngược gió, nên tiến rất chậm. Trương Thúy Sơn xa sư phụ và sư huynh sư đệ đã mười năm, nóng lòng gặp lại, nên khi tới An Khánh, chàng muốn bỏ thuyền đi ngựa. Du Liên Châu nói:
– Ngũ đệ, chúng ta đi thuyền tốt hơn, tuy chậm vài ngày, nhưng đáp thuyền ít gặp rắc rối. Hiện nay trên giang hồ không biết có bao nhiêu người muốn tra vấn chỗ ở của nghĩa huynh hiền đệ đấy.
Ân Tố Tố nói:
– Vợ chồng muội cùng đi với nhị sư bá, chẳng lẽ còn có kẻ dám cản trở đại giá của Du nhị hiệp?
Du Liên Châu nói:
– Võ Đang thất hiệp liên thủ đúng là không một ai dám ngăn cản, nhưng chỉ có ngu huynh với ngũ đệ, thì làm sao địch nổi bao nhiêu là cao thủ cùng kéo đến? Huống hồ chuyện này mình chỉ mong mọi người bãi chiến, chả nên kết thêm oán cừu.
Trương Thúy Sơn gật đầu:
– Nhị ca nói chí phải.
Thuyền đi mấy ngày nữa thì đến Võ Huyệt là địa giới tỉnh Hồ Bắc. Tối hôm đó tới cửa Phú Trì, thuyền đậu lại chuẩn bị nghỉ đêm. Du Liên Châu bỗng nghe có tiếng ngựa hí trên bờ, ngó ra ngoài khoang, thấy có hai con ngựa vừa quay đầu phi về hướng thị trấn. Tuy chỉ nhìn thấy lưng người cưỡi ngựa, nhưng thân pháp nhanh nhẹn, hiển nhiên là người biết võ nghệ.
Liền quay sang nói với Trương Thúy Sơn:
– Ở lại đây e rằng lại gặp chuyện rắc rối, chúng ta đi luôn là hơn.
Trương Thúy Sơn nói:
– Vâng.
Trong lòng chàng hơi xao xuyến. Võ Đang thất hiệp từ khi xuống núi hành hiệp, võ nghệ cao cường, hành sự ngay thẳng, chỉ có người ngoài nghe tiếng phải tránh né, chứ chưa từng phải né tránh ai bao giờ. Mấy năm qua uy danh của Du Liên Châu lừng lẫy hơn cả mấy vị chưởng môn phái lớn như phái Côn Luân, phái Không Động. Vậy mà bây giờ thấy dáng sau lưng của hai kỵ sĩ vô danh tiểu tốt thì đã không muốn nghỉ lại ở cửa Phú Trì, chỉ vì nhị ca lo lắng cho ba người trong gia đình sư đệ. Du Liên Châu gọi nhà thuyền, thưởng cho họ ba lượng bạc, bảo họ cho thuyền đi suốt đêm. Nhà thuyền tuy mệt nhưng ba lượng bạc bằng số tiền hỏa thực cả mấy tháng nên rất vui mừng nhổ neo đi ngay.
Tối hôm đó trăng thanh gió mát, Vô Kỵ đã ngủ, Du Liên Châu cùng hai vợ chồng Trương Thúy Sơn ngồi ở mũi thuyền uống rượu ngắm trăng, nhìn mặt sông mênh mông, lòng vô cùng khoan khoái.
Trương Thúy Sơn nói:
– Thấm thoắt sắp tới đại thọ trăm tuổi của ân sư, tiểu đệ may mắn được về dự một thịnh sự hiếm có trong võ lâm, ông Trời đãi tiểu đệ không đến nỗi nào.
Ân Tố Tố nói:
– Tiếc rằng vội quá, chúng mình không tìm được lễ vật vừa ý để kính tặng lão nhân gia.
Du Liên Châu nói:
– Đệ muội, muội có biết ân sư của ta yêu ai nhất trong bảy đệ tử hay không?
Ân Tố Tố nói:
– Đệ tử đắc ý nhất của lão nhân gia dĩ nhiên phải là nhị bá rồi.
Du Liên Châu cười:
– Lời nói của muội chưa thật lòng, bụng thừa biết một đằng, miệng lại nói một nẻo. Trong bảy sư huynh sư đệ chúng ta, người được sư phụ đêm ngày mong nhớ chính là đức phu quân anh tuấn của muội đó.
Ân Tố Tố trong lòng rất mừng, nhưng vẫn lắc đầu:
– Muội không tin.
Du Liên Châu nói:
– Bảy người chúng ta, ai cũng có sở trường. Đại sư ca tinh thông Dịch lý, giản dị thanh cao. Tam sư đệ tinh minh mạnh mẽ, sư phụ giao việc gì cũng không để lỡ. Tứ sư đệ cơ trí hơn người. Lục sư đệ kiếm thuật tinh thông. Thất sư đệ mấy năm qua chuyên luyện võ công ngoại môn, sau này sẽ nội ngoại kiêm tu, cương nhu hợp nhất. Không phải ngũ đệ thì còn ai vào đấy…
Ân Tố Tố nói:
– Còn bản thân nhị bá thì sao?
Du Liên Châu nói:
– Ta tư chất ngu muội và thô lỗ, không có sở trường nào cả, miễn cưỡng mà nói, ta là kẻ phải khổ công nhiều nhất luyện tập võ công bản môn do sư phụ truyền thụ.
Ân Tố Tố vỗ tay cười:
– Nhị bá là người võ công giỏi nhất trong Võ Đang thất hiệp, nhưng khiêm tốn chẳng chịu nói ra.
Trương Thúy Sơn nói:
– Trong bảy huynh đệ chúng ta, nhị ca luôn là người võ công cao nhất. Mười năm xa cách, tiểu đệ bây giờ càng không thể theo kịp. Than ôi, không được ân sư dạy dỗ mười năm, tiểu đệ chắc phải đứng chót trong bảy người rồi.
Lời chàng không khỏi có ý buồn rầu.
Du Liên Châu nói:
– Thế nhưng trong bảy huynh đệ, văn võ toàn tài chỉ có một mình ngũ đệ. Này đệ muội, ta nói cho muội biết một bí mật nghe, năm năm trước, trong bữa tiệc mừng thọ ân sư chín mươi lăm tuổi, khi bọn ta chúc thọ ân sư, bỗng dưng Người tỏ vẻ không vui, nói: “Trong bảy đệ tử của ta, ngộ tính cao nhất, văn võ song toàn, duy có Thúy Sơn. Ta vẫn dự định sẽ cho y kế thừa y bát[42] của ta, ôi, tiếc rằng y phúc mỏng, năm năm rồi chưa biết sống chết thế nào, chỉ e dữ nhiều lành ít”. Muội bảo có phải sư phụ yêu quý nhất ngũ đệ hay không?
Ân Tố Tố cười tươi như hoa, lòng vui sướng khôn cùng. Trương Thúy Sơn thì hết sức cảm kích, nước mắt rưng rưng.
Du Liên Châu nói:
– Nay ngũ đệ bình yên trở về, chính là món lễ vật chúc thọ quý giá nhất đối với ân sư đó.
Vừa nói tới đây, bỗng trên bờ vọng lại tiếng vó ngựa dồn dập từ đông sang tây, trong đêm vắng nghe rõ ràng có bốn con ngựa. Ba người nhìn nhau, nghĩ thầm mấy con ngựa kia đang đêm phi vội như thế, hẳn có liên quan tới mình. Ba người tuy không muốn chuyện rắc rối, nhưng họ đâu phải kẻ nhát gan? Cả ba coi như không có gì đáng chú ý.
Du Liên Châu nói:
– Lần này khi ta xuống núi, sư phụ chính đang bế quan tĩnh tu. Mong rằng lúc chúng ta về đến nơi thì lão nhân gia đã khai quan.
Ân Tố Tố nói:
– Phụ thân muội ngày trước nói với muội, rằng cả đời chỉ khâm phục có hai người, một là Dương giáo chủ của Minh giáo, vị này đã tạ thế, người thứ hai là tôn sư Trương chân nhân. Ngay cả bốn đại cao tăng “Kiến Văn Trí Tính” của phái Thiếu Lâm, phụ thân muội cũng không phục lắm. Trương chân nhân năm nay tròn trăm tuổi, tu trì cao siêu, đời nay không ai sánh kịp. Bây giờ lại còn bế quan, chắc để tu luyện thuật trường sinh bất lão chăng?
Du Liên Châu nói:
– Không phải đâu. Là ân sư muốn suy tư về võ công.
Ân Tố Tố hơi ngạc nhiên:
– Võ công của lão nhân gia đã cao siêu khôn lường, còn nghiên cứu thêm gì nữa? Chẳng lẽ thế gian này còn có người địch nổi lão nhân gia ư?
Du Liên Châu nói:
– Từ năm chín mươi lăm tuổi trở đi, mỗi năm ân sư bế quan chín tháng. Lão nhân gia nói rằng võ công của phái Võ Đang ta chủ yếu bắt nguồn từ bộ “Cửu dương chân kinh” Thế nhưng năm xưa khi ân sư được Giác Viễn tổ sư truyền thụ thì tuổi còn quá trẻ, lại chưa biết chút võ công nào. Giác Viễn tổ sư cũng không có ý truyền thụ, chỉ nhiệm ý đọc cho ân sư nghe, thành thử võ công bản môn vẫn còn thiếu sót. Bộ “Cửu dương chân kinh” ấy, theo lời Giác Viễn tổ sư, là do Đạt Ma tổ sư truyền lại; nhưng ân sư bảo rằng người càng nghĩ càng thấy không phải như vậy. Một là những điều bí ẩn nói trong bộ “Cửu dương chân kinh” khác hẳn với võ công phái Thiếu Lâm, ngược lại, gần với võ học của Đạo gia chúng ta ở Trung nguyên. Hai là bộ “Cửu dương chân kinh” không phải bằng tiếng Phạn, mà viết bằng văn tự Hán, viết xen kẽ giữa các hàng chữ Phạn trong bộ kinh Lăng Già. Thiết nghĩ Đạt Ma tổ sư tuy diệu ngộ Thiền lý, võ học uyên thâm, song Người từ Thiên Trúc sang, chưa hẳn đã tinh thông văn tự Hán ngữ. Một bộ võ kinh quan trọng như thế sao không viết riêng một quyển, lại đi viết xen giữa hai hàng chữ của bộ kinh khác?
Trương Thúy Sơn gật đầu, hỏi:
– Vậy ân sư đã đoán ra đạo lý trong đó chưa?
Du Liên Châu nói:
– Ân sư cũng nghĩ chưa ra, Người cho rằng có lẽ “Cửu dương chân kinh” do một vị cao tăng Thiếu Lâm tự đời sau sáng tác, mượn tên Đạt Ma tổ sư. Ân sư nghĩ rằng một khi bộ “Cửu dương chân kinh” kia không đầy đủ, vậy tại sao mình không tự sáng chế thêm? Mỗi năm sư phụ bế quan suy tư là để mở ra một phái võ học hoàn toàn mới, khác hẳn võ công của các môn phái hiện truyền.
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố nghe xong, cùng tấm tắc tán thưởng. Du Liên Châu nói:
– Năm xưa, khi Giác Viễn tổ sư truyền thụ “Cửu dương chân kinh” đã có ba người cùng nghe. Một là ân sư, hai là Vô Sắc đại sư của phái Thiếu Lâm, người thứ ba là một thiếu nữ, sau chính là tổ sư sáng lập phái Nga Mi – Quách Tương Quách nữ hiệp.
Ân Tố Tố nói:
– Muội từng nghe phụ thân nói Quách nữ hiệp là người có gia thế lừng lẫy tiếng tăm, có phụ thân là Quách Tĩnh Quách đại hiệp; mẫu thân là Hoàng Dung, Hoàng bang chủ Cái Bang, khi thành Tương Dương thất thủ, Quách đại hiệp cùng với phu nhân tuẫn nạn.
Du Liên Châu nói:
– Đúng thế. Ân sư ta trước kia từng có duyên gặp được phu phụ Quách đại hiệp trên đỉnh Hoa Sơn. Mỗi lần nhắc đến tấm lòng vì nước vì dân, nhân nghĩa hành hiệp của hai vị đó, sư phụ thường khuyên huynh đệ chúng ta học võ phải noi gương Quách đại hiệp và phu nhân.
Chàng lặng người hồi lâu, rồi nói tiếp:
– Ba vị năm xưa được truyền thụ “Cửu dương chân kinh”, mỗi người ngộ tính khác nhau, căn bản lại càng cách biệt. Nói về võ công thì Vô Sắc đại sư cao hơn cả; Quách nữ hiệp là nữ nhi của Quách đại hiệp và Hoàng bang chủ, sở học uyên bác nhất; còn ân sư ta lúc đó không có căn cơ gì về võ công, song chính nhờ thế mà sở học lại tinh thuần hơn cả. Ba phái Thiếu Lâm, Nga Mi, Võ Đang, thì một phái được chữ “Cao”, một phái được chữ “Bác”, một phái được chữ “Thuần”. Mỗi phái đều có sở trường, song phải nói là cũng có sở đoản.
Ân Tố Tố nói:
– Thế thì vị Giác Viễn tổ sư ấy võ công cao siêu lắm, bao đời mới có một người phải không?
Du Liên Châu lắc đầu:
– Không phải, Giác Viễn tổ sư không biết võ, chỉ lo việc giám quản kinh sách trong Tàng Kinh các của Thiếu Lâm tự. Vị tổ sư này mê sách, quyển kinh nào cũng đọc tới mức thuộc lòng. Giác Viễn tổ sư vô tình đọc “Cửu dương chân kinh”, nhớ thuộc lòng kinh đó cũng chẳng khác gì kinh Kim Cương hay kinh Pháp Hoa vậy thôi. Còn về võ học bác đại tinh thâm nói trong bộ kinh ấy, thì tuy có lãnh ngộ, song Giác Viễn tổ sư chỉ luyện nội công, chứ hoàn toàn không biết gì về võ thuật cả.
Rồi Du Liên Châu đem chuyện “Cửu dương chân kinh” bị thất lạc ra sao, cùng những điều ít ai biết tới kể hết cho Ân Tố Tố nghe.
Chuyện đó Trương Thúy Sơn đã nghe sư phụ kể, riêng Ân Tố Tố giờ mới được nghe lần đầu nên cảm thấy rất thú vị, hỏi:
– Thì ra cội nguồn của hai phái Võ Đang và Nga Mi là như thế. Vì sao Quách Tương Quách nữ hiệp không kết duyên với Trương chân nhân?
Trương Thúy Sơn mỉm cười ngắt lời vợ:
– Nàng lại nói vớ vẩn rồi.
Du Liên Châu nói:
– Sau khi ân sư chia tay với Quách nữ hiệp dưới chân núi Thiếu Thất, hai người không gặp lại nhau nữa. Ân sư bảo rằng Quách nữ hiệp trong lòng in sâu hình bóng một người, chính là Thần điêu đại hiệp Dương Quá, người đã dùng đá ném chết đại hãn Mông Cổ ở ngoài thành Tương Dương. Quách nữ hiệp đi khắp thiên hạ tìm Dương đại hiệp, nhưng tìm không ra, đến năm bốn mươi tuổi đột nhiên đại triệt đại ngộ, liền xuất gia làm ni cô, sau đó khai sáng phái Nga Mi.
Ân Tố Tố kêu “ôi” một tiếng, bất giác thương thầm cho Quách Tương, quay sang nhìn Trương Thúy Sơn. Trương Thúy Sơn lúc ấy cũng nhìn Ân Tố Tố. Bốn mắt gặp nhau, hai người đều nghĩ thầm: “Hai ta trên trời dưới đất vĩnh viễn bên nhau, so với vị Quách nữ hiệp khai sáng phái Nga Mi kia, thật may mắn hơn nhiều”.
Du Liên Châu vốn trầm mặc ít nói, có khi mấy ngày chẳng thốt một câu; nhưng từ hôm gặp lại Trương Thúy Sơn sau mười năm xa cách, chàng trở nên vui vẻ khác thường, nói nhiều hẳn lên. Hơn mười ngày ở bên cạnh Ân Tố Tố, chàng cảm thấy Tố Tố bản tính thực ra không phải kẻ xấu, chẳng qua “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”, từ thuở ấu thơ đã tai nghe mắt thấy toàn những sự tà ác, nên mới không phân biệt thiện ác, nhiễm phải tính thích giết người; nhưng mười năm nay làm vợ Trương Thúy Sơn, tính khí đã thay đổi hẳn. Ác cảm của chàng đối với Tố Tố khi mới gặp đã dần dần mất đi, chàng cảm thấy Tố Tố còn thẳng thắn trung thực hơn khối kẻ danh môn chính phái tự cao tự đại và gàn dở.
Chợt nghe có tiếng vó ngựa, lại từ phía đông vọng tới, lát sau chạy ngang qua về phía tây. Trương Thúy Sơn làm như không nghe thấy, nói:
– Nhị ca, nếu sư phụ mời các cao thủ của hai phái Thiếu Lâm, Nga Mi cùng nghiên cứu, lấy sở trường bù sở đoản cho nhau, thì võ công của cả ba phái sẽ đại tiến.
Du Liên Châu vỗ đùi, nói:
– Đúng lắm, sư phụ bảo về sau ngũ đệ sẽ là người thừa thụ y bát môn hộ, quả không lầm chút nào.
Trương Thúy Sơn nói:
– Chỉ vì tiểu đệ không có bên cạnh, nên ân sư lúc nào cũng mong nhớ. Đối với từ mẫu, thì đứa con phiêu dạt tha hương bao giờ cũng được quý hơn hiếu tử ở liền bên cạnh mà. Thực ra lúc này tài năng của tiểu đệ so với đại ca, nhị ca, tứ ca dĩ nhiên thua xa đã đành, mà so với lục đệ, thất đệ chắc cũng không bằng.
Du Liên Châu nói:
– Không hẳn thế. Hiện tại, luận về võ công, dĩ nhiên ngũ đệ không bằng ta, nhưng truyền nhân y bát của ân sư là người phải gánh vác trọng nhiệm làm sáng danh võ học bản môn. Ân sư vẫn thường bảo, thiên hạ rộng lớn thế này, sự vinh hay nhục của một môn phái Võ Đang đâu có gì đáng kể? Nhưng nếu có thể nghiên cứu sự bí ẩn huyền diệu của võ học, lựa chọn truyền nhân thật kỹ càng, trước là để bọn tiểu nhân tà ác không theo kịp võ công của bậc chính nhân quân tử, kế đó kết hợp nghĩa sĩ trong thiên hạ cùng đánh đuổi bọn Thát Lỗ, lấy lại giang sơn ta, thế mới là làm tròn bổn phận của kẻ học võ thuộc thế hệ chúng ta. Vì vậy truyền nhân y bát của ân sư trước hết trọng tâm thuật, thứ đến là ngộ tính. Nói về tâm thuật, huynh đệ bảy người chúng ta không khác nhau bao nhiêu, nhưng nói về ngộ tính lại chỉ có ngũ đệ là cao nhất.
Trương Thúy Sơn xua tay:
– Đấy là do ân sư thương nhớ tiểu đệ, nhất thời hứng lên nói thế. Mà dù ân sư có ý định đó chăng nữa tiểu đệ cũng không mảy may dám nhận.
Du Liên Châu mỉm cười, nói:
– Đệ muội, hãy vào bảo hộ bé Vô Kỵ để nó khỏi giật mình, việc ngoài này đã có ta và ngũ đệ lo liệu.
Ân Tố Tố đưa mắt nhìn quanh, chẳng thấy động tĩnh gì, đang định hỏi thì Du Liên Châu nói:
– Trong đám lau sậy ven bờ thoáng có ánh đao, có kẻ mai phục. Trong đám lau sậy phía trước, ắt có thuyền địch.
Ân Tố Tố căng mắt nhìn bốn phía một lần nữa, tất cả tĩnh mịch, tuyệt nhiên không thấy gì khác lạ, nghĩ thầm chẳng biết nhị ca có hoa mắt hay không?
Bỗng nghe Du Liên Châu lớn tiếng nói:
– Du nhị và Trương ngũ núi Võ Đang đi ngang qua quý địa, mong được lượng thứ về tội lễ tiết thiếu chu toàn. Vị bằng hữu nào đó nếu có hứng, mời xuống thuyền uống vài chén rượu được chăng?
Lời Du Liên Châu vừa dứt, bỗng trong đám lau sậy có tiếng mái chèo khuấy động, rồi sáu chiếc thuyền nhỏ lao ra dàn hàng chắn ngang mặt sông. Từ một chiếc thuyền có một mũi tên báo hiệu bắn ra, tiếng rít của nó nghe chói tai, lập tức từ các bụi cây thấp phía bờ nam xuất hiện mười mấy hán tử y phục màu đen, nai nịt gọn gàng, tay lăm lăm binh khí, mặt trùm khăn đen, chỉ để hở đôi mắt.
Ân Tố Tố lòng thầm thán phục: “Nhị bá quả nhiên danh bất hư truyền, tài tình thật!” Thấy kẻ địch quá đông, nàng vội vào trong khoang thì Vô Kỵ đã giật mình tỉnh dậy. Nàng mặc quần áo cho nó, thấp giọng nói:
– Hài nhi của mẹ, đừng sợ.
Du Liên Châu lại nói:
– Trước mặt là vị bằng hữu nào đó, Du nhị, Trương ngũ phái Võ Đang có lời chào đây.
Thế nhưng sáu chiếc thuyền chỉ có người chèo phía đuôi, chứ không thấy ai khác, cũng không một ai trả lời.
Du Liên Châu chợt hiểu, kêu lên:
– Chẳng lành rồi!
Đoạn chàng lao ngay xuống sông. Từ nhỏ chàng đã sống ở vùng sông nước Giang Nam, bơi lội cực giỏi. Chàng vừa lặn xuống đã thấy bốn hán tử cầm dùi nhọn đang bơi ngầm bên dưới tới gần, rõ ràng toan đục đáy thuyền để bắt sống người ở trên thuyền.
Chàng nép vào mạn thuyền đợi bốn kẻ kia bơi tới gần, liền dùng hai tay điểm trúng huyệt của hai tên, dùng một chân đá vào bên hông tên thứ ba, điểm trúng huyệt “Chí thất” của hắn. Tên thứ tư hoảng sợ định chuồn, Du Liên Châu dùng tay trái tóm lấy cổ chân hắn, ném mạnh lên thuyền. Ba tên kia đã bị điểm huyệt, không cứu ngay ắt sẽ chết đuối, bởi vậy chàng lần lượt quẳng từng tên lên thuyền, rồi mới leo lên sau cùng.
Tên thứ tư bị ném lên thuyền trước tiên, lăn một vòng, bật dậy đâm dùi vào ngực Trương Thúy Sơn. Trương Thúy Sơn thấy võ công của hắn tầm thường, chẳng buồn né tránh, dùng tay trái chộp lấy cổ tay đối phương, tiếp đó thúc cùi chỏ ra, trúng huyệt giữa ngực. Hắn kêu hự một tiếng, ngã gục xuống.
Du Liên Châu nói:
– Trên bờ hình như có mấy hảo thủ, mình coi như lễ tiết đủ rồi, thây kệ bọn chúng, cứ đi thôi!
Trương Thúy Sơn gật đầu, dặn nhà thuyền cứ cho thuyền tiến lên. Tới gần sáu chiếc thuyền nhỏ, Du Liên Châu nhấc bốn tên kia lên, giải khai huyệt đạo cho chúng, rồi ném từng tên sang đó. Kể cũng lạ, người bên sáu chiếc thuyền kia chẳng ai lên tiếng, mười mấy hán tử trên bờ cũng lặng thinh, tựa hồ cả bọn đều câm. Bốn tên đục thuyền không thấy xuất hiện nữa.
Thuyền đi song song với sáu chiếc nhỏ, khi sắp vượt qua chúng thì một gã đang chèo thuyền nhỏ bỗng vung tay hai cái, nghe “đoàng, đoàng” hai tiếng nổ, ván gỗ bay tung tóe, tay lái chiếc thuyền lớn của họ đã gãy nát, thuyền lập tức quay ngang. Thì ra tên lái đò kia vừa ném sang hai quả ngư pháo dùng để đánh cá, nhưng hai quả pháo này thật to, được nhồi rất nhiều hỏa dược, nên có sức công phá khá mạnh.
Du Liên Châu thản nhiên, nhẹ nhàng nhảy sang chiếc thuyền nhỏ của đối phương. Chàng tài đã cao mà gan lại lớn, vẫn chưa dùng tới binh khí.
Tên đang chèo thuyền cứ tiếp tục chèo, chẳng lý gì đến người vừa nhảy sang. Du Liên Châu bèn quát to:
– Kẻ nào vừa ném ngư pháo?
Gã kia vẫn lặng thinh. Du Liên Châu liền tiến vào trong khoang thuyền, thấy có hai hán tử ngồi đối diện nhau, chàng tiến vào mà họ thản nhiên, chẳng hề có ý nghênh địch. Chàng túm gáy một gã, nhấc lên, quát:
– Các ngươi là bù nhìn hả?
Gã kia nhắm mắt, lặng thinh. Du Liên Châu thuộc hàng đệ nhất cao thủ võ lâm, không muốn dùng vũ lực truy bức, nên chàng trở ra thấy Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố đã ôm Vô Kỵ nhảy sang chiếc thuyền nhỏ.
Du Liên Châu giật lấy mái chèo, chèo ngược dòng, mới được vài cái, nghe Ân Tố Tố kêu lên:
– Bọn giặc cỏ này tháo nước vào rồi!
Chỉ thấy nước tuôn ào ào trong khoang, thì ra bọn kia đã tháo nút ở đáy thuyền cho nước tràn vào. Du Liên Châu nhảy sang chiếc thuyền nhỏ thứ hai, thấy nó cũng đã ngập nước một nửa, bèn quay đầu, nói:
– Ngũ đệ, thế này đành phải lên bờ thôi!
Sáu chiếc thuyền nhỏ rõ ràng sắp đặt sẵn, giống như tạo thành một cây cầu để khách lên bờ. Ba người cùng Vô Kỵ nhảy lên bờ.
Mười mấy hán tử che mặt ở trên bờ xếp thành hình vòng cung chờ sẵn, vây bốn người vào bên trong. Những người ấy đa số cầm trường kiếm, có người cầm song đao hoặc nhuyễn tiên, không ai sử dụng binh khí nặng.
Du Liên Châu đứng khoanh tay, nhìn khắp lượt từ trái sang phải, sắc mặt thản nhiên, không nói gì.
Một hán tử đứng giữa phẩy tay một cái, vòng người liền tách ra hai bên, người nào người nấy hơi khom mình, binh khí trong tay chĩa xuống đất, ôm quyền hành lễ, tỏ ý nhường đường. Du Liên Châu đáp lễ, rồi hiên ngang đi qua. Đợi chàng bước qua rồi, bọn người kia liền khép cái vòng lại, chặn đường gia đình Trương Thúy Sơn ba người, các binh khí nhất tề chĩa lên, thanh quang lấp lóe.
Trương Thúy Sơn cười ha hả, nói:
– Hóa ra các vị muốn giữ Trương mỗ lại, nên bày thành trận thế long trọng thế này, thật là coi trọng kẻ hèn này quá.
Hán tử đứng giữa trù trừ giây lát, rồi chĩa mũi kiếm xuống đất, mở đường cho qua. Trương Thúy Sơn nói:
– Tố Tố, nàng đi trước đi.
Ân Tố Tố ôm Vô Kỵ định bước qua, bỗng nghe tiếng gió năm thanh trường kiếm nhất tề chĩa thẳng tới Vô Kỵ. Ân Tố Tố giật mình, vội lùi lại. Năm hán tử kia lập tức tiến tới, mũi kiếm không ngừng rung động, thủy chung vẫn cách thân hình Vô Kỵ chừng một thước.
Du Liên Châu nhún chân một cái, từ bên ngoài vọt vào trong vòng, hai tay vỗ liền bốn cái, mỗi cái vỗ đều trúng vào cổ tay cầm kiếm của một hắc y hán tử, bốn thanh kiếm đang chĩa về phía Vô Kỵ liền bay lên trời. Bốn cái vỗ ấy xuất thủ quá nhanh, bốn thanh kiếm gần như cùng lúc bay lên tay trái chàng tức thời lật lại, nắm lấy cổ tay người thứ năm, ngón trỏ thuận thế điểm luôn vào huyệt cổ tay người đó, nhưng cảm thấy tay y mềm mại, nhẵn nhụi, hình như là tay thiếu nữ nên chàng vội buông ra. Người đó cổ tay tê chồn, nghe “keng” một tiếng, thanh kiếm rơi xuống đất.
Năm người bị rơi kiếm vội lùi lại. Lại lấp loáng hai đạo thanh quang dưới ánh trăng, có hai thanh kiếm khác đâm tới, là kiểu đâm ngang, lưỡi kiếm quay sang hai bên tả hữu, hai kiếm sĩ cùng sử chiêu “Đại mạc bình sa”, kiếm thế không dụng kình, tựa hồ không có ý đả thương người khác.
Du Liên Châu nghĩ thầm: “Côn Luân kiếm pháp! Thì ra họ thuộc phái Côn Luân!” Chờ kiếm tới cách ngực mình ba tấc, chàng đột nhiên hóp ngực lại, hai tay huơ một vòng, hai ngón tay trỏ đồng thời búng vào hai lưỡi kiếm.
Cú búng này Du Liên Châu sử dụng Võ Đang tâm pháp, lẽ ra trường kiếm của đối phương phải tuột khỏi tay họ mới đúng, nào ngờ khi ngón tay đụng vào thanh kiếm liền cảm thấy từ thanh kiếm có một luồng nhu kình truyền ra hóa giải một nửa lực đạo của chàng nên kiếm không bị rơi. Song hai kiếm sĩ cũng không chịu nổi phải bật lùi ba bước. Một người loạng choạng rồi ngã phịch xuống đất, người kia kêu “Ối chao”, ộc ra một ngụm máu tươi.
Từ lúc họ đem sáu chiếc thuyền ra chắn ngang sông, họ không thốt ra một lời, bây giờ hai tiếng kêu “Ối chao” nghe trong trẻo thanh thoát, đúng là giọng nữ nhân.
Hắc y hán tử đứng giữa giơ tay trái phẩy một cái, cả bọn quay mình bỏ chạy, trong giây lát đã lẩn vào các bụi cây thấp xung quanh. Phần lớn những người ấy thân hình mảnh mai uyển chuyển, rõ là nữ cải nam trang. Du Liên Châu lớn tiếng nói:
– Du nhị, Trương ngũ gửi lời chào Thiết Cầm tiên sinh, mong lượng thứ tội vô lễ.
Các hắc y kia không trả lời, nghe văng vẳng có tiếng cười khúc khích, rõ là tiếng thiếu nữ.
Ân Tố Tố đặt Vô Kỵ xuống đất, nắm tay con, nói:
– Những người kia phần lớn là nữ nhân. Nhị bá, bọn họ là phái Côn Luân đấy ư?
Du Liên Châu nói:
– Không phải, phái Nga Mi đấy.
Trương Thúy Sơn ngạc nhiên:
– Phái Nga Mi ư? Sao nhị ca lại bảo “gửi lời chào Thiết Cầm tiên sinh”?
Du Liên Châu thở dài:
– Bọn họ thủy chung không nói một lời, lại che mặt bằng vải đen, chính là không muốn cho người khác biết chân diện mục của họ. Năm mũi kiếm chĩa vào Vô Kỵ, là “Hàn Mai kiếm trận” của phái Côn Luân. Hai người dùng kiếm đâm ngang vào ta, cũng là chiêu “Đại mạc bình sa” của phái Côn Luân. Họ đã mạo danh phái Côn Luân, thì mình cũng giả vờ không biết, nên mới gửi lời chào chưởng môn phái Côn Luân là Thiết Cầm tiên sinh Hà Thái Xung.
Ân Tố Tố hỏi:
– Vì sao nhị bá biết họ là người của phái Nga Mi? Nhị bá nhận ra người nào chăng?
Du Liên Châu nói:
– Không đâu. Mấy người đó công lực đều không lấy gì làm thâm hậu, chắc chỉ là loại đồ tôn của chưởng môn phái Nga Mi Diệt Tuyệt sư thái, hoặc chỉ là các tiểu đệ tử của bà ta, làm sao ta nhận biết. Thế nhưng nhu kình của họ hóa giải chỉ lực của ta khi búng vào lưỡi kiếm thì chính là tâm pháp của phái Nga Mi. Học vài chiêu trận thức của môn phái khác không khó, song một khi sử dụng nội kình, tất không thể nào che giấu được chân tướng.
Trương Thúy Sơn gật đầu:
– Nhị ca dùng chỉ búng kiếm, nếu họ buông rơi kiếm thì không sao, có bị thương cũng nhẹ. Nội công của phái Nga Mi rất hay, có điều công lực chưa đủ vận kình, gặp phải cao thủ thì khó tránh khỏi nguy hại. Giả sử nhị ca coi hai người ấy là địch thủ, hẳn cả hai đã bỏ mạng rồi. Chẳng là phái Nga Mi đối với chúng ta xưa nay vẫn nể nang.
Du Liên Châu nói:
– Ân sư hồi trẻ từng được tổ sư phái Nga Mi là Quách Tương nữ hiệp đối đãi tử tế, thành thử lão nhân gia vẫn thường căn dặn nhất thiết không được đắc tội với đệ tử phái Nga Mi để bảo lưu cái tình hương hỏa khi xưa. Ta búng kiếm, thấy nội kình của đối phương có điều không ổn, thu về không kịp nữa rồi, thành ra làm cho hai người bị thương. Tuy không cố ý, song như vậy là đã vi phạm lời dặn dò của ân sư.
Ân Tố Tố cười, nói:
– Cũng may là sau cùng nhị bá nói là gửi lời chào Thiết Cầm tiên sinh, coi như không đắc tội với phái Nga Mi.
Lúc đó chiếc thuyền của họ đã trôi về phía hạ lưu mất tăm. Sáu chiếc thuyền nhỏ cũng đã chìm cả, những người chèo thuyền đều ướt như chuột lột, đang lóp ngóp leo lên bờ. Ân Tố Tố nói:
– Bọn này cũng thuộc phái Nga Mi ư?
Du Liên Châu hạ giọng nói nhỏ:
– Phần lớn là bang Lương Thuyền ở Sào Hồ.
Ân Tố Tố nhìn năm thanh kiếm lấp loáng ánh trăng rơi dưới đất, cúi xuống toan nhặt lên xem, thì Du Liên Châu nói:
– Đừng đụng tới binh khí của họ, lỡ trên kiếm có khắc tên người, sau này ta chẳng thể giả bộ không biết. Thôi chúng ta đi!
Ân Tố Tố lúc này hết sức kính phục vị nhị bá này, nàng đáp:
– Vâng.
Rồi dắt Vô Kỵ đi lên con đường lớn trên bờ sông.
Qua một bụi cây thấp, thấy dưới gốc cây liễu lớn ở phía trước có buộc ba con ngựa cao to. Vô Kỵ mừng rỡ reo lên:
– Có ngựa, có ngựa!
Ở Băng Hỏa đảo, thằng bé chưa thấy ngựa bao giờ, về đến Trung thổ, nó rất muốn cưỡi ngựa, nhưng toàn đáp thuyền, nên chưa có dịp nào.
Bốn người tới gần cây liễu, thấy trên thân cây có gài một mảnh giấy. Trương Thúy Sơn gỡ xuống xem, thấy viết: “Kính tặng ba con ngựa để tạ tội làm hỏng thuyền”. Hàng chữ viết bằng than, viết vội nên hơi tháu, nét chữ mềm mại rõ là của nữ nhân. Ân Tố Tố mỉm cười, nói:
– Các cô nương phái Nga Mi dùng bút than vẽ lông mày để viết thư cho hai đại hiệp phái Võ Đang.
Du Liên Châu nói:
– Các cô nàng khách sáo quá.
Ba người cởi dây, chia nhau cưỡi. Vô Kỵ ngồi trong lòng mẹ, vô cùng thích thú.
Trương Thúy Sơn nói:
– Hình tích của chúng ta lộ rồi, đáp thuyền hay đi ngựa cũng vậy thôi.
Du Liên Châu nói:
– Đúng thế. Chặng đường phía trước hẳn còn gặp cản trở, nếu bất đắc dĩ phải động thủ thì chúng ta nhất thiết chớ có mạnh tay.
Du Liên Châu mới vô tình đả thương hai đệ tử phái Nga Mi, trong lòng vẫn áy náy không yên. Ân Tố Tố thì hối hận, nghĩ thầm: “Nhị bá chỉ mới xuất thủ hơi nặng một chút, chủ ý không định đả thương, chỉ muốn bức đối phương buông kiếm, họ cưỡng lại nên bị thương. Còn mình năm xưa cố ý giết nhiều đệ tử phái Thiếu Lâm, không cần biết nặng nhẹ là gì, thật là mình quá tệ. Mình phạm tội, mình phải gánh chịu, từ nay không thể để nhị bá bị phiền phức”, bèn nói:
– Nhị bá, những người kia chỉ tới hỏi tội vợ chồng muội, chứ họ hết sức cung kính đối với huynh. Sắp tới nếu có ai cản đường, xin cứ để cho đệ muội lo liệu, nếu không xong mới dám phiền nhị bá trợ giúp một tay.
Du Liên Châu nói:
– Nói thế khác gì người ngoài. Huynh đệ chúng ta sống chết có nhau, đâu còn phân biệt chuyện của riêng ai kia chứ.
Ân Tố Tố không tiện nói thêm, hỏi:
– Họ biết rõ nhị bá đi cùng với phu phụ muội, sao lại chỉ phái mấy đệ tử trẻ tuổi chặn đường?
Du Liên Châu nói:
– Có lẽ do gấp quá, không kịp điều động cao thủ.
Trương Thúy Sơn đoán rằng mấy nữ nhân phái Nga Mi vừa rồi muốn biết tung tích của Tạ Tốn, bèn nói:
– Thì ra nghĩa huynh cũng gây thù chuốc oán với cả phái Nga Mi, sao ở Băng Hỏa đảo không nghe nghĩa huynh nói qua.
Du Liên Châu thở dài:
– Phái Nga Mi môn quy rất nghiêm, trong môn phái đa số là nữ đệ tử. Diệt Tuyệt sư thái trước nay không cho phép các nữ đệ tử hành tẩu giang hồ. Lần này phái Nga Mi lại gây sự với Thiên Ưng giáo, bọn ta thoạt đầu cũng lấy làm lạ, mãi gần đây mới hiểu nguyên do. Thì ra “Kim qua chùy” Phương Bình Phương lão anh hùng ở Khai Phong, Hà Nam một hôm đột nhiên bị sát hại, trên tường có hàng chữ viết bằng máu “Giết người này là Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn”.
Ân Tố Tố hỏi:
– Phương Bình là người của phái Nga Mi ư?
Du Liên Châu đáp:
– Không phải. Diệt Tuyệt sư thái lúc chưa xuất gia vốn họ Phương. Phương lão anh hùng là thân ca ca[43] của Diệt Tuyệt sư thái.
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố cùng “ồ” lên một tiếng.
Vô Kỵ bỗng hỏi:
– Nhị bá, thế Phương lão anh hùng là người tốt hay là kẻ xấu?
Du Liên Châu nói:
– Nghe bảo Phương lão anh hùng chỉ làm ruộng, đọc sách, không giao thiệp với ai, dĩ nhiên không phải kẻ xấu.
Vô Kỵ nói:
– Ồ, nghĩa phụ giết người bừa bãi như thế, thật không đúng chút nào.
Du Liên Châu cả mừng, vươn cánh tay dài như tay vượn, nhấc thằng bé từ trong lòng mẹ nó sang, xoa đầu nó, nói:
– Hài tử, cháu biết không nên giết người bừa bãi, nhị bá rất vui lòng. Người chết rồi không sống lại được, ngay đối với những kẻ cực kỳ hung ác, phạm nhiều tội lỗi, cũng không thể tùy tiện giết đi, mà cần chừa cho họ một con đường hối cải.
Vô Kỵ nói:
– Nhị bá, con xin nhị bá một điều.
Du Liên Châu hỏi:
– Điều gì?
Vô Kỵ nói:
– Nếu người ta tìm thấy nghĩa phụ của con, nhị bá hãy bảo họ đừng giết nghĩa phụ. Bởi vì nghĩa phụ mù lòa, không đánh lại họ đâu.
Du Liên Châu trầm ngâm hồi lâu, nói:
– Việc đó nhị bá không nói với họ được. Có điều là nhị bá sẽ không giết nghĩa phụ của cháu.
Vô Kỵ thừ người không nói, nước mắt rươm rướm.
*
* *
Trời sáng, bốn người tới một thị trấn, vào khách điếm ngủ nửa ngày, buổi chiều lại lên đường. Có lúc phu phụ Trương Thúy Sơn cưỡi chung một con ngựa, để Vô Kỵ một mình cầm cương cho thích. Vô Kỵ dẫu sao chỉ là một đứa trẻ, cưỡi ngựa một hồi là quên cái việc lo lắng cho Tạ Tốn.
Hôm sau tới Hán Khẩu. Trưa hôm đó, lúc gần đến An Lục, bỗng thấy trên đường có mười mấy khách thương tất tả chạy ngược lại, xua tay rối rít nói với nhóm Du Liên Châu bốn người:
– Quay lại đi, quay lại đi, đằng trước có binh lính Thát Đát giết người cướp của đấy.
Một người nói với Ân Tố Tố:
– Đàn bà con gái đừng có to gan, gặp bọn Thát Đát không phải chuyện đùa đâu.
Du Liên Châu hỏi:
– Chúng có bao nhiêu đứa?
Một người nói:
– Một chục tên, có vẻ hung ác lắm.
Nói xong vội chạy về phía đông.
Võ Đang thất hiệp lâu nay căm ghét thậm tệ quân Nguyên tàn sát lương dân. Trương Tam Phong giáo huấn đệ tử rất nghiêm, không cho phép tùy tiện động thủ với người khác, nhưng nếu gặp quan quân làm điều tàn ác thì được thẳng tay trừng trị. Thành thử Võ Đang thất hiệp nếu gặp đại đội quân Nguyên mới đành né tránh, còn gặp một toán nhỏ quân Nguyên hành hung là lập tức ra tay trừ khử. Du, Trương hai người nghe nói chỉ có mươi tên địch, nghĩ thầm chính là dịp trừ hại cho dân, bèn phóng ngựa về phía trước.
Đi chừng ba dặm, quả nhiên nghe phía trước có tiếng kêu thảm thiết. Trương Thúy Sơn giục ngựa vọt lên, thấy hơn mười tên giặc cầm cương đao, trường mâu đang lùa mấy chục người dân lại để tàn sát, máu tươi loang lổ mặt đất, có bảy tám cái xác đầu một nơi, thân một nẻo. Một tên lính Nguyên cầm một đứa bé ba bốn tuổi, giơ chân đá mạnh khiến đứa bé bay lên cao, làm cho nó khóc thét, lúc rơi xuống lại bị một tên lính khác đá lên như chuyền bóng qua lại. Qua vài lần đá, đứa bé không còn kêu khóc gì nữa, chắc đã chết rồi. Trương Thúy Sơn cả giận, từ lưng ngựa nhảy xuống, chân chưa chạm đất đã giáng một quyền trúng ngực tên lính vừa đá đứa trẻ, tên đó không kêu được một tiếng liền đổ gục ngay xuống. Một tên khác giơ cây dáo dài đâm vào lưng Trương Thúy Sơn.
Vô Kỵ sợ hãi kêu lên:
– Gia gia hãy coi chừng!
Trương Thúy Sơn ngoảnh lại, cười nói:
– Con hãy xem gia gia đánh bọn Thát tử.
Thấy trường mâu còn cách mình ngót nửa thước, tay trái chàng xoay ra sau, chộp lấy cán mâu, giúi mạnh về phía trước, trúng ngực tên lính đó. Hắn rú lên một tiếng, ngã ngửa ra, có vẻ chết tươi.
Quân Nguyên thấy Trương Thúy Sơn dũng mãnh như thế, bèn hô hoán bao vây chàng. Ân Tố Tố nhảy xuống ngựa, cướp một thanh đao dài, chém chết liền hai tên. Bọn địch thấy tình hình bất lợi, bỏ chạy tán loạn. Nhưng bọn này hung ác thành tính, trong lúc chạy trốn vẫn còn vung đao tàn sát người dân. Du Liên Châu cả giận, quát to:
– Đừng để chúng đào thoát!
Nói xong liền phóng về phía tây, chặn đường bốn tên lính Nguyên. Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố cũng chia nhau chặn những tên còn lại. Ba người biết bọn lính này tuy hung ác nhưng võ công tầm thường, Vô Kỵ còn giỏi hơn bọn chúng nên khỏi cần lo cho nó.
Vô Kỵ cũng nhảy xuống ngựa, thấy nhị bá và phụ mẫu tả xung hữu đột thì thích thú reo lên:
– Hay, hay quá!
Đột nhiên, tên lính bị Trương Thúy Sơn thúc cán mâu ngã ra bất tỉnh ban nãy bất ngờ nhỏm dậy, chộp lấy Vô Kỵ, nhảy lên lưng ngựa, phóng ngay đi.
Du Liên Châu và vợ chồng Trương Thúy Sơn cả kinh, cùng kêu lên và đuổi bộ theo. Du Liên Châu sau hai bước nhảy đã tới sau lưng ngựa, tay trái phóng ra một chưởng, nhắm vào lưng tên lính kia, thân hình chồm theo. Hắn không ngoái đầu lại, đánh ngược lại một chưởng. “Bộp” một tiếng, hai chưởng đụng nhau, Du Liên Châu cảm thấy chưởng lực của đối phương như bài sơn đảo hải, một luồng nội lực cực kỳ âm hàn truyền thẳng qua, khiến toàn thân chàng lạnh thấu xương, loạng choạng lùi về phía sau. Con ngựa tên kia cưỡi cũng không chịu nổi chấn lực một chưởng của Du Liên Châu, hai vó trước của nó đột nhiên khuỵu xuống. Tên lính kia ôm Vô Kỵ thuận đà phóng luôn về phía trước, thi triển thuật khinh công trong chớp mắt đã chạy xa hơn mười trượng.
Trương Thúy Sơn đuổi tới, thấy nhị ca mặt trắng bệch, bị thương không phải nhẹ liền vội đỡ dậy.
Ân Tố Tố lo cho con, cắm đầu đuổi theo. Nhưng tên lính kia khinh công quá cao, càng đuổi càng xa, về sau chỉ còn thấy một chấm đen trên đường, rồi tới một khúc rẽ thì chẳng còn nhìn thấy đâu nữa. Ân Tố Tố vẫn không nản chí, cứ cắm đầu cắm cổ đuổi theo. Nàng quên rằng tên lính ấy một chưởng đả thương Du Liên Châu, dẫu nàng có đuổi kịp, cũng chẳng địch nổi hắn; nàng chỉ nghĩ: “Dù thế nào cũng phải cướp lại Vô Kỵ”.
Du Liên Châu thều thào nói:
– Mau gọi đệ muội quay lại, để rồi… để rồi tính sau.
Trương Thúy Sơn dùng cây trường mâu đâm chết hai tên lính ở trước mặt, hỏi:
– Sư ca bị thương thế nào?
Du Liên Châu nói:
– Không sao đâu. Ngũ đệ hãy gọi… đệ muội trở lại ngay.
Trương Thúy Sơn sợ mấy tên lính còn lại còn có hảo thủ trong đó, chàng vừa đi khỏi là hắn sẽ tới hạ sát Du Liên Châu, nên chàng đuổi theo tứ phía, từng đứa một giết hết, mới lấy một con ngựa phóng về phía tây.
Đuổi chừng vài dặm thì thấy Ân Tố Tố đang chạy như điên, nhưng bước chân có vẻ loạng choạng, hiển nhiên đã quá mệt. Chàng cúi xuống kéo nàng lên yên. Nàng chỉ tay về phía trước, mếu máo nói:
– Không thấy nữa, đuổi không kịp, đuổi không kịp!
Nói rồi hai mắt trợn ngược, ngất đi.
Trương Thúy Sơn lo cho Du Liên Châu, nghĩ thầm: “Phải lo cho nhị ca trước đã, chuyện Vô Kỵ tính sau”. Chàng liền quay ngựa chạy về, thấy Du Liên Châu ngồi nhắm mắt điều hòa hơi thở.
Một lát sau, Ân Tố Tố tỉnh lại, kêu lên:
– Vô Kỵ, Vô Kỵ!
Sắc mặt trắng bệch của Du Liên Châu cũng đã hồng lại dần, mở mắt ra, nói nhỏ:
– Chưởng lực lợi hại thật!
Trương Thúy Sơn thấy giọng nói của sư huynh không bị đứt quãng, nghĩ rằng tính mệnh không nguy kịch khi đó mới yên tâm, song chưa dám nói chuyện vội. Du Liên Châu từ từ đứng lên, hỏi nhỏ:
– Không thấy tung tích gì sao?
Ân Tố Tố khóc, nói:
– Nhị bá, làm… thế nào bây giờ?
Du Liên Châu nói:
– Đệ muội cứ yên tâm, Vô Kỵ không sao đâu. Người ấy võ công cao ghê gớm, chắc chắn không khi nào hãm hại một đứa bé.
Ân Tố Tố nói:
– Nhưng… nhưng hắn bắt Vô Kỵ mang đi… mất rồi.
Du Liên Châu gật đầu, đưa tay trái vịn vai Trương Thúy Sơn, nhắm mắt suy nghĩ, lát sau mở mắt ra, nói:
– Ta chưa nghĩ ra hắn thuộc môn phái nào, phải về hỏi sư phụ thôi.
Ân Tố Tố nôn nóng, nói:
– Nhị bá, mình phải tìm cách đoạt lại Vô Kỵ trước đã chứ. Tên lính ấy thuộc môn phái nào, để sau hỏi cũng được.
Du Liên Châu lắc đầu.
Trương Thúy Sơn nói:
– Tố Tố, hiện tại nhị ca đang bị trọng thương, kẻ kia võ công cao cường như thế, mình có tìm thấy hắn, cũng chẳng địch nổi đâu.
Ân Tố Tố lo lắng nói:
– Không lẽ… không lẽ bỏ con sao?
Trương Thúy Sơn nói:
– Mình không cần tìm hắn, hắn sẽ tự tìm đến mình.
Ân Tố Tố vốn rất thông minh, chỉ vì ái tử bị bắt đi nên hoảng hốt, nhất trời đầu óc bối rối, lúc này đã trở lại tỉnh táo. Tên lính ấy võ công như thế, ngay Du Liên Châu còn bị chấn thương nặng vì một chưởng của hắn, tất nhiên hắn là kẻ giả trang. Hắn đả thương Du Liên Châu rồi, nếu muốn lấy mạng hai vợ chồng nàng chẳng phải chuyện khó. Nhưng hắn chỉ bắt Vô Kỵ mang đi, hẳn là nhằm tra hỏi chỗ ở của Tạ Tốn. Lúc Trương Thúy Sơn thuận tay thúc một cán mâu vào ngực hắn, hắn giả bộ ngã ra bất tỉnh, lúc đó cả ba người không ai chú ý tới tướng mạo của hắn; bây giờ nhớ lại, tên đó dường như để râu xồm, trông không khác gì một tên lính Thát Đát tầm thường.
Trương Thúy Sơn đặt sư huynh lên lưng ngựa, chàng tự tay cầm cương, ba con ngựa thong thả đi. Đến An Lục, họ vào một tiểu khách điếm nghỉ ngơi. Trương Thúy Sơn bảo điếm chủ mang thức ăn tới rồi chàng đóng cửa lại không ra, e gặp quân Nguyên thêm rắc rối.
Ba người mới giết hơn chục tên lính Nguyên trên đường, chắc rằng vài hôm sau quân Nguyên sẽ kéo đến tàn sát cướp bóc trả thù, bách tính vùng này sẽ phải chịu không biết bao nhiêu tai ương. Thế nhưng mỗi khi gặp chuyện bất bình, lại không thể khoanh tay bỏ qua. Quả đã là bị cái nhục vong quốc thì khắp cõi Thần Châu này người người đều gặp kiếp nạn.
Du Liên Châu ngầm vận nội lực dẫn đi các huyệt đạo toàn thân để trị thương. Trương Thúy Sơn ngồi bên canh chừng. Ân Tố Tố ngồi trên ghế tựa, không dám ngủ. Đến nửa đêm, Du Liên Châu đứng dậy, đi chầm chậm ba vòng trong phòng cho giãn gân cốt, nói:
– Ngũ đệ, trong đời ta, ngoài ân sư ra, ta chưa gặp một cao thủ nào mạnh như thế.
Ân Tố Tố vẫn khắc khoải nhớ con, nói:
– Hắn bắt Vô Kỵ đi chắc để tra hỏi chỗ ở của nghĩa huynh, không biết Vô Kỵ có chịu nói hay không?
Trương Thúy Sơn hiên ngang nói:
– Nếu Vô Kỵ nói ra, nó đâu có đáng là con chúng ta?
Ân Tố Tố nói:
– Đúng, nhất định nó sẽ không nói đâu!
Đột nhiên nàng khóc nấc lên. Trương Thúy Sơn vội hỏi:
– Sao vậy?
Ân Tố Tố nghẹn ngào nói:
– Vô Kỵ không nói, thì tên ác tặc… tên ác tặc ấy sẽ đánh nó, không chừng còn dùng cực hình…
Du Liên Châu thở dài. Trương Thúy Sơn nói:
– Ngọc không mài giũa, chẳng thành bảo vật. Để cho thằng bé chịu đựng một chút gian khổ, không phải là không có cái hay.
Miệng tuy nói vậy, nhưng nghĩ cái cảnh lúc này thằng bé khó tránh bị người ta hành hạ, Trương Thúy Sơn vừa đau lòng vừa tức giận. Chàng tự hỏi, hay là lúc này nó đang bình an nằm ngủ? Nếu nói ra chỗ ở của Tạ Tốn, nó sẽ thành kẻ vong ân bội nghĩa, còn tệ hại hơn nhiều so với với bị cực hình. Chàng nghĩ thầm: “Thà rằng nó chết ngay, còn hơn làm kẻ tiểu nhân bất nghĩa”. Chàng nhìn vợ, thấy thần sắc nàng sầu khổ đáng thương, chợt giật mình: “Lỡ tên ác tặc kia dẫn Vô Kỵ tới đây, dùng tính mạng thằng bé để uy hiếp thì Tố Tố không chừng sẽ bị khuất phục”. Bèn hỏi:
– Nhị ca đã đỡ chưa?
Sư huynh sư đệ họ từ nhỏ đồng môn học nghệ, chỉ một ánh mắt, một lời nói là đủ hiểu ý nhau, Du Liên Châu nhìn thần sắc hai vợ chồng sư đệ, đã hiểu dụng ý của Trương Thúy Sơn, nên nói:
– Đỡ rồi, chúng ta đi ngay trong đêm nay thôi.
Ba người chọn những con đường nhỏ, vắng, lợi dụng đêm tối mà đi. Ba người không sợ tên kia truy sát mà chỉ sợ hắn dùng cực hình hành hạ Vô Kỵ ngay trước mắt họ.
Cứ thế ngày nghỉ đêm đi, dọc đường rất may bình yên vô sự. Thế nhưng Ân Tố Tố khắc khoải lo cho con, lại đi ban đêm chốn núi non, bị nhiễm phong sương, bỗng nhiên ngã bệnh. Trương Thúy Sơn thuê hai cỗ xe lừa, để Du Liên Châu và Ân Tố Tố mỗi người ngồi một xe, chàng cưỡi ngựa đi bên hộ tống. Hôm đó đi qua Tương Dương, đến nghỉ tại một khách điếm ở trấn Thái Bình Điếm.
Trương Thúy Sơn sắp xếp xong cho sư huynh, đang định về phòng mình nghỉ, bỗng nhiên có một hán tử vén rèm cửa, xộc vào phòng. Tên này mặc áo chẽn màu xanh, tay cầm roi ngựa, trông như một phu xe. Hắn nhìn Du, Trương hai người, cười khẩy một tiếng, quay lưng đi ra. Trương Thúy Sơn biết hắn không có thiện ý, giận hắn vô lễ, tiện thấy cái then cửa ở trước mắt, chàng bèn nhặt lấy vận kình ném theo, “bộp” một tiếng, trúng lưng hắn. Tên kia loạng choạng ngã chúi về phía trước, lồm cồm bò dậy, nói:
– Tiểu tặc phái Võ Đang, chết đến nơi rồi còn giở thói hung hăng!
Miệng lầu bầu, chân không dám dừng, hắn bỏ chạy ra ngoài, nhưng trông dáng đi rõ ràng đã bị thương không nhẹ vì trúng cái then cửa vừa rồi.
Du Liên Châu thấy sự việc xảy ra, không nói một lời. Gần tối, Trương Thúy Sơn nói:
– Nhị ca, mình lên đường thôi!
Du Liên Châu nói:
– Không, đêm nay ở lại, sáng mai hãy đi.
Trương Thúy Sơn nghĩ giây lát, hiểu ra ý định của sư huynh, hào khí trỗi dậy, nói:
– Đúng, chốn này cách núi Võ Đang chỉ hai ngày đường, huynh đệ ta còn dè dặt, chẳng hóa ra giảm mất uy phong của sư môn hay sao? Ngay dưới chân bản sơn mà phải ngày nghỉ đêm đi để tránh người, còn ra thể thống gì nữa?
Du Liên Châu mỉm cười, nói:
– Vả lại hành tàng đã lộ, để xem đệ tử phái Võ Đang “chết đến nơi rồi” như tên kia nói ra sao?
Hai người đi sang phòng Trương Thúy Sơn, kề vai ngồi trên giường lò, nhắm mắt ngồi tọa công. Đêm hôm ấy, ngoài song, trên mái, có bảy tám kẻ cứ đi qua đi lại, nhòm trộm, nhưng không dám vào phòng gây sự. Ân Tố Tố mơ mơ màng màng ngủ thiếp đi. Huynh đệ Du, Trương chẳng buồn để ý tới bọn địch bên ngoài.
Sáng hôm sau, họ dùng điểm tâm xong mới lên đường. Du Liên Châu ngồi trong xe lừa, bảo phu xe vén hết rèm che bốn bên để chàng tiện quan sát.
Rời khỏi trấn Thái Bình Điếm được vài dặm, có ba kẻ cưỡi ngựa từ phía đông đuổi tới, bám theo sau xe lừa, cách hơn mười trượng, không lại gần thêm mà cũng không tụt lại xa hơn. Đi vài dặm nữa, thấy có bốn người cưỡi ngựa chờ sẵn bên đường, đợi bọn Du Liên Châu đi qua liền bám theo. Vài dặm sau, lại thêm bốn kỵ sĩ nữa gia nhập, tổng cộng có mười một kẻ bám theo.
Người phu xe lừa hoảng sợ nói với Trương Thúy Sơn:
– Quan khách, bọn kia là hạng bất chính, chắc là lũ cướp đường, phải cẩn thận đề phòng.
Trương Thúy Sơn gật đầu.
Đến trưa lại thêm sáu tên nữa. Họ trang phục không giống nhau, có người diêm dúa sang trọng, có kẻ như phu xe, sai dịch, nhưng người nào cũng mang binh khí. Bọn họ không ai nói một tiếng, không rõ người vùng nào, đa số vóc dáng thấp nhỏ, nước da đen vì rám nắng, xem chừng là người phương nam. Đến quá trưa thì đã tăng lên thành hai mươi mốt người, có vài kẻ bạo gan giục ngựa chạy tới gần, chỉ cách xe lừa hai, ba trượng mới ghìm ngựa lại. Du Liên Châu ngồi trong xe lừa, nhắm mắt dưỡng thần, không thèm đưa mắt nhìn bọn kia.
Chiều tối, phía trước có hai kỵ sĩ phóng tới. Đi đầu là một lão niên râu dài, không mang vũ khí. Người thứ hai là một thiếu phụ phục sức sang trọng, tay trái cầm đôi song đao. Hai người cho ngựa đứng chắn giữa đường, không cho xe lừa đi qua.
Trương Thúy Sơn cố nén giận, vẫn ngồi trên ngựa, ôm quyền thi lễ:
– Du nhị, Trương ngũ phái Võ Đang chào hai vị, xin hỏi quý tính đại danh của lão gia tử?
Lão già lạnh lùng hỏi:
– Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn ở đâu? Chỉ cần ngươi nói ra, bọn ta sẽ không làm khó dễ với đệ tử phái Võ Đang.
Trương Thúy Sơn nói:
– Việc này tại hạ không tự quyết định được, phải về bẩm báo với tôn sư đã.
Lão già nói:
– Du nhị bị thương, Trương ngũ đơn độc, một mình ngươi làm sao địch nổi bọn ta ngần này người.
Nói đoạn lão ta rút từ thắt lưng ra một đôi phán quan bút, đầu bút đúc hình đầu rắn.
Trương Thúy Sơn có ngoại hiệu Ngân Câu Thiết Hoạch, tay phải sử dụng phán quan bút, nên các danh gia trong võ lâm sử dụng phán quan bút để điểm huyệt, chàng đều biết, giờ nhìn thấy cặp phán quan bút hình đầu rắn này thì giật mình. Trước đây chàng từng nghe sư phụ nói rằng nước Cao Ly có một phái sử dụng phán quan bút, đầu bút đúc hình đầu rắn, chiêu số và thủ pháp điểm huyệt khác hẳn ở Trung nguyên, đại để là theo cách âm nhu hiểm độc của loài rắn, gọi là phái Thanh Long. Cao thủ lừng danh của phái này họ Tuyền, còn tên là gì thì chính sư phụ cũng không biết. Chàng ôm quyền nói:
– Tiền bối có phải thuộc phái Thanh Long ở Cao Ly chăng? Tại hạ chưa biết phải xưng hô thế nào với Tuyền lão gia tử?
Lão già hơi ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Ngươi trạc tam tuần mà sao kiến thức rộng thế, biết được cả lai lịch của ta”. Lão già chính là chưởng môn phái Thanh Long bên nước Cao Ly, tên gọi Tuyền Kiến Nam, được bang chủ bang Tam Giang ở Lĩnh Nam đem lễ vật hậu hĩnh mời sang. Lão tới Trung nguyên chưa lâu, chưa hề ra tay vậy mà không ngờ vừa lộ diện đã bị Trương Thúy Sơn nhận ra. Lão già khua cặp bút một cái, nói:
– Lão phu chính là Tuyền Kiến Nam đây.
Trương Thúy Sơn nói:
– Phái Thanh Long bên Cao Ly xưa nay không qua lại gì với võ lâm Trung nguyên, chẳng biết phái Võ Đang đắc tội gì với Tuyền lão anh hùng, xin hãy cho biết?
Tuyền Kiến Nam nhếch mép, nói:
– Lão phu với các hạ không oán không thù, người Cao Ly chúng tôi cũng biết Trung nguyên có phái Võ Đang, Võ Đang thất hiệp là các hảo nam tử hành hiệp trượng nghĩa. Lão phu chỉ xin hỏi các hạ một câu: Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn hiện trốn ở đâu?
Câu nói đó tuy không phải là vô lễ, nhưng cách nói hiển nhiên lộ vẻ uy hiếp, lão ta lại dùng phán quan bút ra hiệu cho bọn người phía sau xe ùa tới vây quanh xe, rõ ràng có ý nói nếu không cho biết chỗ ở của Tạ Tốn, bọn họ sẽ ra tay động võ.
Trương Thúy Sơn nói:
– Nếu tại hạ không thích nói thì sao?
Tuyền Kiến Nam đáp:
– Trương ngũ hiệp võ nghệ cao cường, bọn ta tuy đông nhưng cũng chưa chắc cầm chân được các hạ. Song Du nhị hiệp bị thương, Trương phu nhân lại đang bệnh, bọn ta gặp cơ may, lợi dụng lúc người nguy khốn, quyết giữ hai người kia lại. Vậy Trương ngũ hiệp cứ việc đi cho.
Tuyền Kiến Nam nói tiếng Hán không chuẩn, giọng lại the thé, nghe rất chướng tai. Trương Thúy Sơn thấy lão ta tự miệng nói ra mấy chữ vô liêm sỉ “lợi dụng lúc người nguy khốn”, bèn nói:
– Được, vậy tại hạ xin lĩnh giáo cao chiêu của võ học Cao Ly. Nếu Tuyền lão anh hùng nhường tại hạ một chiêu nửa thức thì sao đây?
Tuyền Kiến Nam cười, nói:
– Nếu ta thua, thì tất cả những người kia nhất tề xông lên, chứ bọn ta không theo cách thức một chọi một. Nếu phái Võ Đang đông hơn, các vị cứ việc lấy thịt đè người. Hồi xưa, Tùy Dạng Đế, Đường Thái Tông, Đường Cao Tông bên Trung Hoa các vị sang xâm lấn nước Cao Ly của lão phu, lần nào cũng đem mấy chục vạn quân đánh vài vạn quân Cao Ly đó sao? Xưa nay đánh nhau, bên nào đông người là thắng.
Trương Thúy Sơn biết rằng việc hôm nay nói lắm vô ích, chỉ có cách bắt lão ta làm con tin mới buộc thủ hạ của lão ta không dám xâm phạm nhị ca và Ân Tố Tố; nghĩ thế chàng nhẹ nhàng nhảy xuống ngựa, chân trái vừa chạm đất, tay trái đã cầm lạn ngân hổ đầu câu, tay phải cầm tân thiết phán quan bút, nói:
– Các hạ là khách, mời ra chiêu trước!
Phán quan bút của chàng mười năm trước đã rơi xuống biển, binh khí hiện cầm trong tay mới được mua chưa lâu, kích thước không hoàn toàn vừa tay, đành dùng tạm vậy.
Tuyền Kiến Nam cũng xuống ngựa, gõ hai cây bút vào nhau nghe “keng” một tiếng, cây bút bên phải điểm hờ một cái, cây bút bên trái vẫn giữ thế, thân hình đã di chuyển sang bên hông Trương Thúy Sơn. Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: “Hôm nay ta đấu vì nghĩa huynh đây! Tố Tố là thê tử ta, nàng với ta là một, nàng cũng kết nghĩa kim lan với Tạ Tốn, nếu có vì nghĩa huynh mà mất mạng, thì cũng không sao. Nhị ca không quen biết Tạ Tốn, nếu vì Tạ Tốn mà bị nhục, thật không đáng chút nào”. Thấy phán quan bút hình đầu rắn của Tuyền Kiến Nam điểm tới, Trương Thúy Sơn dùng ngân câu gạt ra, tay chỉ sử hai thành công lực. Câu và bút va nhau, thân hình chàng hơi lảo đảo.
Tuyền Kiến Nam cả mừng, nghĩ thầm: “Bọn người ở bang Tam Giang ca ngợi Võ Đang thất hiệp lên tận mây xanh, hóa ra chỉ có thế này thôi! Chắc là võ lâm Trung nguyên muốn giữ thể diện, nên mới thổi phồng tài năng của nhân sĩ nước họ lên gấp mấy lần”. Cây phán quan bút ở tay trái lão ta phóng ra liên tiếp ba chiêu. Trương Thúy Sơn né trái lách phải, gắng gượng chống đỡ, dùng một câu một bút trả đòn, nhưng kình lực yếu ớt. Tuyền Kiến Nam tin chắc hôm nay sẽ đánh bại Trương ngũ hiệp của phái Võ Đang, có thể nói lão ta tới Trung nguyên đánh một trận đã nổi danh, thế là hai cây bút cứ múa như bay, chiêu nào cũng nhằm các điểm yếu hại trên người Trương Thúy Sơn mà đánh tới.
Trương Thúy Sơn giữ môn hộ thật kín, ngưng thần quan sát chiêu thức của đối phương. Chàng thấy chiêu số của Tuyền Kiến Nam nhẹ nhàng linh hoạt, bút có kình lực, các huyệt bị lão ta điểm tới thiên về hạ tam lộ và sau lưng, quả nhiên khác hẳn thủ pháp điểm huyệt của các danh thủ Trung nguyên. Đấu thêm mươi hiệp, chàng thấy phán quan bút bên tay trái của lão ta toàn nhắm các huyệt sau lưng, từ huyệt Linh Đài trở xuống: các huyệt Chí Dương, Cân Xúc, Trung Khu, Tích Trung, Huyền Khu, Mệnh Môn, Dương Quan, Yêu Du, đến huyệt Trường Cường ở đốt xương cùng; còn phán quan bút bên tay phải thì toàn nhắm các huyệt ở hông và đùi, từ Ngũ Khu, Duy Đạo, Hoàn Khiêu, Phong Thị, Trung Độc, đến huyệt Dương Lăng ở bắp chân. Trương Thúy Sơn đã hiểu phán quan bút bên tay trái của lão ta toàn nhắm các huyệt trên mạch Đốc[44], còn phán quan bút bên tay phải lại toàn nhắm các huyệt thuộc “Túc Thiếu Dương đởm kinh”, trông có vẻ rắc rối nhưng thực ra chỉ có bấy nhiêu. Chàng nghĩ thầm: “Năm xưa sư phụ nói rằng công phu điểm huyệt của phái Thanh Long bên Cao Ly chuyên thiên về một bên người, tuy hiểm độc, nhưng không đáng sợ. Hôm nay ta thấy đúng như vậy”.
Chàng đã tìm ra chiêu thức của đối phương rồi, ngân câu thiết bút múa may gạt trên đỡ dưới cũng chỉ là giả bộ; thực ra chỉ cốt bảo vệ các huyệt thuộc mạch Đốc và “Túc Thiếu Dương đởm kinh”, còn các huyệt khác trên cơ thể chẳng cần để ý.
Tuyền Kiến Nam càng đấu càng hăng, miệng la hét, uy phong lẫm lẫm. Trương Thúy Sơn nghĩ bụng: “Chỉ có chút võ công thế này mà cũng đòi tới chân núi Võ Đang gây sự ư?” Đột nhiên ngân câu bên tay trái của chàng sử nét móc trong tự quyết chữ “Long”, phập một tiếng, đã móc trúng huyệt Phong Thị trên đùi phải của Tuyền Kiến Nam. Lão ta kêu “ối” một tiếng, chân phải khuỵu xuống. Cây phán quan bút bên tay phải của Trương Thúy Sơn liên tiếp điểm ra như lửa xẹt, từ huyệt Linh Đài của lão ta đổ xuống, sử nét cuối cùng trong tự quyết chữ “Phong” điểm vào các huyệt Chí Dương, Cân Xúc, Trung Khu, Tích Trung, Huyền Khu, Mệnh Môn, Dương Quan, Yêu Du, đến huyệt Trường Cường ở đốt xương cùng thuộc mạch Đốc.
Thủ pháp điểm huyệt của chàng tựa như thư pháp, các nét bút nhanh như lưu tinh, khí nuốt ngưu đẩu, Tuyền Kiến Nam làm sao còn nhúc nhích gì được? Nét bút ấy điểm vào các huyệt mà chính lão ta nghiên cứu cả đời, lão ta nghĩ thầm: “Thôi rồi, thôi rồi! Đối phương quá tài, ta chẳng thể nào điểm liền một hơi mười mấy huyệt như thế. Ta chỉ đáng làm đệ tử của hắn thôi”.
Trương Thúy Sơn dùng mũi ngân câu chĩa vào yết hầu Tuyền Kiến Nam, quát:
– Các vị mau lùi ra! Tại hạ mời Tuyền lão anh hùng cùng tới chân núi Võ Đang, tới đó sẽ giải khai huyệt đạo thả về.
Chàng tưởng bọn kia đều là thuộc hạ của Tuyền Kiến Nam thì sẽ run sợ mà tránh ra.
Nào ngờ thiếu phụ trang phục sang trọng lại giơ song đao, hô to:
– Tất cả kề vai tiến lên vây xe lừa lại!
Trương Thúy Sơn quát:
– Kẻ nào tiến lên, ta sẽ giết lão này trước!
Thiếu phụ cười khẩy, hô:
– Tất cả tiến lên!
Đoạn y thị nhảy xuống ngựa, múa đao xông tới, bất chấp tính mạng Tuyền Kiến Nam. Thì ra thiếu phụ là một đà chủ của bang Tam Giang, lần này bang đó tung lực lượng mạnh ra là cốt bắt giữ Du Liên Châu và Ân Tố Tố, bức vấn chỗ ở của Tạ Tốn. Tuyền Kiến Nam chỉ là khách thuê của bang hội, đã không hoàn tất công việc thì dù lão ta bị chết bởi tay địch cũng chẳng sao.
Trương Thúy Sơn hoảng sợ, xem ra có giết Tuyền Kiến Nam cũng vô ích, thấy sáu bảy hán tử xông đến trước xe của Ân Tố Tố, ngần ấy tên xông đến xe của Du Liên Châu, chỉ có vài tên cùng thiếu phụ bao vây chàng; chàng đang chưa biết tính sao, bỗng nghe Du Liên Châu nói to:
– Lục đệ, hãy ra tay trừng trị bọn này đi!
Trương Thúy Sơn kinh ngạc nghĩ thầm: “Nhị ca định dùng kế bỏ ngỏ thành chăng?” Chỉ nghe vang lên một tiếng hú, rồi có tiếng người nói:
– Tuân lệnh! Chào Ngũ ca, ngũ ca có nhớ tiểu đệ hay không?
Từ trên một cây đại thụ ở xa mấy trượng có một người nhảy xuống, chĩa kiếm tiến về phía trước, chính là lục hiệp Ân Lê Đình. Trương Thúy Sơn mừng không để đâu cho hết, gọi to:
– Lục đệ, chào lục đệ!
Bang Tam Giang cử mấy người ra ngăn cản, chỉ nghe “ối cha ối cha” kèm theo tiếng kiếm rơi, mấy tên kia liên tiếp bị đâm trúng huyệt Thần Môn, huyệt này ở ngay giữa xương cổ tay, bị đánh trúng vào đó thì tay không còn chút lực nào nữa. Ân Lê Đình ung dung tiến tới, gặp kẻ nào ngăn trở, kiếm của chàng chỉ rung động một cái là binh khí rơi khỏi tay đối phương. Thiếu phụ ngoảnh đầu vừa quát:
– Ngươi là Võ Đang…
Lời chưa dứt, thì keng keng hai tiếng, song đao trong hai tay y thị đã cùng rơi xuống đất.
Trương Thúy Sơn cả mừng, reo lên:
– “Thần Môn thập tam kiếm” của sư phụ đã sáng chế thành công rồi.
“Thần Môn thập tam kiếm” bao gồm mười ba chiêu thức, các chiêu thức khác nhau, nhưng đều cùng nhằm đánh vào huyệt Thần Môn ở cổ tay đối phương. Mười năm trước, khi Trương Thúy Sơn rời núi Võ Đang, Trương Tam Phong từng có ý này, đã bàn với các đệ tử mấy lần, song còn một số cái khó chưa vượt qua được. Vừa rồi Ân Lê Đình đem ra sử dụng, các hảo thủ của bang Tam Giang không ai đỡ nổi một chiêu. Trương Thúy Sơn rất cao hứng, thấy mỗi chiêu Ân Lê Đình tung ra đều tinh diệu tuyệt luân, chỉ mới sử dụng năm sáu chiêu, chưa đi hết một nửa “Thần Môn thập tam kiếm”, mà mười mấy bang chúng Tam Giang đã bị trúng kiếm, đánh rớt mất binh khí rồi.
Thiếu phụ kêu to:
– Tát nước, tát nước! Mạnh ai nấy đi!
Bọn kia kẻ nhảy ngựa đào tẩu, kẻ không kịp lên ngựa liền quay mình bỏ chạy. Trương Thúy Sơn giải huyệt cho Tuyền Kiến Nam, nhặt đôi phán quan bút cài vào lưng đối phương. Lão ta đỏ mặt, cắm đầu đi thẳng, nhưng không cùng phía với bang Tam Giang.
Ân Lê Đình tra kiếm vào vỏ, nắm chặt hai tay Trương Thúy Sơn, vui mừng nói:
– Ngũ ca, tiểu đệ nhớ ngũ ca quá chừng!
Trương Thúy Sơn mỉm cười:
– Lục đệ, lục đệ cao lớn hẳn lên.
Hai người khi chia tay, Ân Lê Đình mới mười tám tuổi, là một thiếu niên gầy gò, nay đã trở thành một thanh niên vạm vỡ. Trương Thúy Sơn cầm tay Ân Lê Đình kéo tới giới thiệu với Ân Tố Tố.
Ân Tố Tố bệnh nặng, gật đầu mỉm cười, nói nhỏ:
– Lục đệ!
Ân Lê Đình cười vui:
– Ngũ tẩu cũng họ Ân, thật là hay lắm, vừa là tẩu tẩu, vừa là tỷ tỷ của đệ.
Trương Thúy Sơn nói:
– Nhị ca tài thật, lục đệ nấp ở trên cây, mình không biết gì cả, nhị ca đã trông thấy rồi.
Ân Lê Đình bèn kể nguyên do vì sao đến ứng viện.
Thì ra tứ hiệp Trương Tòng Khê xuống núi mua sắm vật dụng, chuẩn bị cho tiệc mừng thọ sư phụ bách tuế, thấy có hai nhân vật giang hồ lén lén lút lút, bèn sinh nghi: “Phái Võ Đang ta uy chấn thiên hạ, không lẽ có kẻ to gan dám đến chân núi vuốt râu hùm?” Trương Tòng Khê ngầm theo dõi, nghe hai tên kia nói chuyện với nhau, rằng Trương Thúy Sơn từ hải ngoại đã về, gặp nhị ca Du Liên Châu, hiện bang Tam Giang và Ngũ Phụng đao cùng muốn chặn đường truy vấn nơi ở của Tạ Tốn. Trương Tòng Khê mừng quá liền vội về núi, lúc đó trên núi chỉ có Ân Lê Đình, hai người lập tức chia nhau đi ứng viện, họ cùng nghĩ rằng Du nhị và Trương ngũ đã đi với nhau thì hai cái bang hội nhỏ bé kia chẳng làm gì nổi, động đến huynh đệ ta chỉ chuốc nhục mà thôi. Song cả hai cùng nóng lòng gặp Trương Thúy Sơn, sớm chừng nào hay chừng ấy nên chia nhau đi đón. Việc Du Liên Châu bị thương, hai gã giang hồ kia không nhắc đến nên Trương Tòng Khê và Ân Lê Đình không hay biết. Trương Tòng Khê đi đánh đuổi hai hảo thủ do phái Ngũ Phụng đao sai tới, còn bọn bang Tam Giang thì Ân Lê Đình lo liệu.
Du Liên Châu thở dài:
– Nếu không có tứ đệ cơ trí sắp đặt, không chừng hôm nay phái Võ Đang ta bị mất thể diện rồi.
Trương Thúy Sơn hổ thẹn nói:
– Một mình tiểu đệ không bảo hộ nổi nhị ca, than ôi, xa sư phụ mười năm, tiểu đệ đã thua kém huynh đệ đồng môn quá xa.
Ân Lê Đình cười:
– Ngũ ca nói gì vậy? Tiểu đệ không ra tay, thì mấy tên bang Tam Giang kia, ngũ ca đánh tan dễ như trở bàn tay thôi. Chẳng qua ngũ ca phải chiếu cố nhị ca, lại e ngũ tẩu kinh sợ. Chứ công phu mà ngũ ca đánh bại lão già Cao Ly thì sư phụ chưa truyền cho người thứ hai. Lần này ngũ ca trở về, sư phụ mừng lắm, sẽ truyền thụ cho ngũ ca không biết bao nhiêu công phu tinh diệu, chỉ e ngũ ca học không kịp thôi. Chiêu thuật “Thần Môn thập tam kiếm” thì để tiểu đệ nói cho ngũ ca nghe.
Hai người xa nhau quá lâu, nay được trùng phùng, Ân Lê Đình chỉ hận không thể đem công phu sở học suốt mười năm nói hết một lúc cho Trương Thúy Sơn nghe. Hai người sóng vai nhau đi, Ân Lê Đình cứ vừa kể vừa làm điệu bộ.
Đêm ấy bốn người nghỉ chân trong khách điếm bến Tiên Nhân, Ân Lê Đình muốn nằm chung giường với Trương Thúy Sơn. Trương Thúy Sơn cũng rất quý mến vị tiểu sư đệ này. Lục đệ tuy đã cao lớn, song vẫn quấn quýt Trương Thúy Sơn như ngày xưa. Trong Võ Đang thất hiệp, Mạc Thanh Cốc tuy ít tuổi hơn cả, nhưng từ nhỏ tính nết đã như người lớn, Ân Lê Đình so với sư đệ còn có phần trẻ con hơn. Trương Thúy Sơn chỉ hơn Ân Lê Đình hai tuổi, từ trước vốn đã thân với lục đệ hơn cả.
Du Liên Châu cười:
– Ngũ đệ nay có thê tử rồi, lục đệ tưởng vẫn như mười năm trước ư? Ngũ đệ, ngũ đệ về lần này thật đúng lúc, chúng ta sau khi uống thọ tửu mừng sư phụ, sẽ được uống hỉ tửu mừng lục đệ đó.
Trương Thúy Sơn cả mừng, vỗ tay cười:
– Hay quá! Hay quá! Tân nương là ai vậy?
Ân Lê Đình đỏ mặt, e thẹn không nói.
Du Liên Châu nói:
– Là hòn ngọc quý của Kim Tiên Kỷ lão anh hùng ở Hán Dương đó.
Trương Thúy Sơn lè lưỡi, nói đùa:
– Lục đệ mà ương ngạnh, roi vàng đét đít thì không phải chuyện đùa đâu.
Du Liên Châu mỉm cười, nói:
– Kỷ cô nương sử kiếm. Mong rằng trong số các cô nương che mặt hôm nọ bên sông, không có Kỷ cô nương.
Trương Thúy Sơn kinh ngạc, hỏi:
– Kỷ cô nương là môn hạ phái Nga Mi ư?
Du Liên Châu gật đầu, nói:
– Các cô nương phái Nga Mi ta gặp ở bờ sông hôm ấy võ công bình thường, chắc không có Kỷ cô nương ở đó. Nếu không, chỉ vì ngũ đệ muội, ta lại đắc tội với lục đệ muội, có người sẽ bảo ta thiên vị. Kỷ cô nương nhân phẩm cao quý, võ công cao cường, đệ tử danh môn tất nhiên bất phàm, với lục đệ quả là đẹp đôi…
Du Liên Châu nói tới đây chợt nhớ Ân Tố Tố là con gái của giáo chủ tà giáo, mình khen ngợi Kỷ cô nương như thế, chỉ e Trương Thúy Sơn chạnh lòng, đang định nói chữa vài lời bỗng có người đến cửa phòng nói vọng vào:
– Du gia, có mấy người đến bái phỏng lão nhân gia, nói là bằng hữu của lão nhân gia.
Đó là giọng nói của điếm tiểu nhị.
Du Liên Châu hỏi:
– Là những ai?
Điếm tiểu nhị nói:
– Tất cả có sáu người, họ nói là môn hạ của Ngũ Phụng đao.
Ba huynh đệ Du Liên Châu đều giật mình, nghĩ thầm Trương Tòng Khê một mình đi đánh đuổi bọn Ngũ Phụng đao, tại sao chúng lại tìm tới đây, không lẽ Trương Tòng Khê làm sao rồi? Trương Thúy Sơn bèn nói:
– Để đệ ra coi.
Chàng sợ nhị ca bị thương chưa khỏi, lỡ phải động thủ với kẻ địch, e gặp chuyện chẳng lành. Du Liên Châu nói:
– Cứ mời họ vào đây.
Một lát sau tiến vào năm hán tử và một thiếu phụ dung mạo xinh đẹp. Trương Thúy Sơn và Ân Lê Đình đứng hai bên Du Liên Châu phòng bị. Chỉ thấy sáu người kia cúi đầu, mặt mày ủ rũ, có dáng hổ thẹn, trên người không mang binh khí, chẳng có vẻ gì là đến gây sự cả. Người đi đầu tóc đã điểm bạc, trạc tứ tuần, cung kính ôm quyền hành lễ, nói:
– Ba vị có phải là Du nhị hiệp, Trương ngũ hiệp, Ân lục hiệp chăng? Tại hạ là môn hạ Ngũ Phụng đao Mạnh Chính Hồng, xin vấn an ba vị.
Ba huynh đệ Du Liên Châu vòng tay đáp lễ, thầm lấy làm lạ. Du Liên Châu nói:
– Mạnh lão sư khỏe chứ? Mời các vị ngồi.
Mạnh Chính Hồng không dám ngồi, nói:
– Tệ môn ở Hà Đông, Sơn Tây, môn phái nhỏ bé, từ lâu đã ngưỡng mộ uy danh Trương chân nhân và quý vị thất hiệp như sấm nổ bên tai, chỉ có điều vô duyên chưa được dịp bái kiến. Hôm nay đến chân núi Võ Đang, đáng lẽ phải lên núi khấu kiến Trương chân nhân, nhưng nghe Trương chân nhân tuổi hạc tròn trăm, thanh cư tĩnh tu, chúng tôi là lũ võ biền thô lỗ nên không dám mạo muội đến quấy nhiễu sự thanh tĩnh của lão nhân gia. Ba vị về núi, xin cho chúng tôi gửi lời vấn an, rằng đệ tử môn hạ Ngũ Phụng đao ở Sơn Tây kính chúc lão nhân gia thiên thu khang ninh, phúc thọ vô cương.
Du Liên Châu bị thương chưa khỏi, ngồi trên giường lò, nghe Mạnh Chính Hồng nhắc đến sư phụ thì vội vịn vai Ân Lê Đình mà cung kính đứng dậy, nói:
– Không dám, không dám, tại hạ xin đa tạ!
Mạnh Chính Hồng lại nói:
– Chúng tôi ở đất Sơn Tây quê mùa, quả như ếch ngồi đáy giếng, kiến thức nông cạn, không biết trời cao đất dày, dám lớn mật làm càn, mò tới quý địa. May nhờ Võ Đang chư hiệp khoan dung đại lượng, giải nguy cho chúng tôi, tại hạ cảm kích vô cùng. Hôm nay chúng tôi tới đây, trước là tạ ơn, sau là chịu tội, mong ba vị đại nhân không thèm chấp lỗi lầm của bọn tiểu nhân.
Nói đoạn cúi lạy. Trương Thúy Sơn đỡ dậy, nói:
– Mạnh lão sư khỏi cần đa lễ.
Mạnh Chính Hồng cứ ấp a ấp úng, nửa muốn nói, nửa không dám nói. Du Liên Châu bèn nói:
– Mạnh lão sư có gì phân phó, xin cứ cho biết.
Mạnh Chính Hồng nói:
– Tại hạ xin Du nhị gia ban cho một câu, rằng phái Võ Đang sẽ không trách cứ, để chúng tôi về bẩm với sư phụ.
Du Liên Châu mỉm cười, nói:
– Các vị từ Sơn Tây xa xôi tới đây, chắc muốn hỏi chỗ ở của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, không biết Kim Mao Sư Vương có chuyện gì với quý phái?
Mạnh Chính Hồng nói:
– Gia huynh Mạnh Chính Bằng bị thảm tử bởi chưởng của Tạ Tốn.
Du Liên Châu trong lòng rung động, nói:
– Chúng tôi quả có nỗi khổ tâm, không thể nói ra nơi ở của Tạ Tốn, mong Mạnh lão sư và quý vị lượng thứ. Còn về việc trách cứ, thì không cần nhắc tới nữa, khi về gặp tôn sư Ô lão gia tử xin chuyển lời Du nhị, Trương ngũ, Ân lục vấn an.
Mạnh Chính Hồng nói:
– Vậy chúng tôi xin cáo từ. Sau này phái Võ Đang có gì sai khiến, cứ báo tin đến, môn hạ Ngũ Phụng đao tuy năng lực nhỏ bé nhưng quyết không dám từ nan.
Nói đoạn cùng năm người kia ôm quyền hành lễ, quay người đi ra.
Thiếu phụ nọ đột nhiên quay lại, quỳ xuống đất, nói nhỏ:
– Tiểu phụ nhân được bảo toàn danh tiết, hoàn toàn nhờ Võ Đang chư hiệp. Tiểu phụ nhân còn sống ngày nào, không dám quên đại ân đại đức của chư hiệp.
Huynh đệ Du Liên Châu không biết nguyên do, nhưng nghe thiếu phụ nói đến danh tiết thì cũng không tiện hỏi, chỉ ừ ào vài lời khiêm tốn. Thiếu phụ lạy mấy cái rồi mới đi ra.
Sáu người Ngũ Phụng đao vừa đi khỏi, mành cửa được vén ra, một người vụt chạy vào ôm chầm lấy Trương Thúy Sơn.
Trương Thúy Sơn mừng rỡ reo lên:
– Tứ ca!
Người chạy vào chính là Trương Tòng Khê. Sư huynh sư đệ gặp lại nhau đều hết sức vui mừng. Trương Thúy Sơn nói:
– Tứ ca, tứ ca túc trí đa mưu, đã làm cho môn hạ Ngũ Phụng đao hóa thù thành bạn, thật không phải dễ.
Trương Tòng Khê nói:
– Chẳng qua là chuyện tình cờ, chứ tứ ca không có công lao gì đâu.
Đoạn Trương Tòng Khê kể lại đầu đuôi câu chuyện cho mọi người cùng nghe.
Nguyên thiếu phụ xinh đẹp nọ họ Ô, là thứ nữ của chưởng môn Ngũ Phụng đao, là thê tử của Mạnh Chính Hồng. Lần này sáu người họ xuống Hồ Bắc dò tìm nơi ở của Tạ Tốn, dọc đường có gặp đà chủ bang Tam Giang, nghe nói Trương Thúy Sơn phái Võ Đang biết nơi ở của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn. Ô thị từ nhỏ quen được nuông chiều, chủ trương lập kế bắt Trương Thúy Sơn để tra hỏi. Mạnh Chính Hồng lâu nay sợ thê tử như sợ cọp, nhưng lần này nhất quyết không nghe lời, nói rằng đệ tử phái Võ Đang rất cao cường, chỉ nên dùng lễ mà cầu, nếu đối phương không ưng thuận, hãy tính cách khác. Ô thị nói:
– Chàng sao nhát gan quá vậy? Đây là nhằm trả thù cho huynh trưởng của chàng, chứ đâu phải cho huynh trưởng của thiếp. Hừ, nam tử hán đại trượng phu mà gặp việc cứ rụt rụt rè rè; Trương Thúy Sơn cho biết chỗ ở của Tạ Tốn, chắc chàng cũng chẳng dám đi tìm hắn. Thiếp lấy phải một người như chàng thật phí một đời.
Mạnh Chính Hồng đã quen nhịn thê tử, không cãi lại, nhưng cũng nhất quyết không làm theo kế của y thị là ngầm bỏ thuốc mê phu phụ Trương Thúy Sơn ở khách điếm dọc đường. Ô thị giận dữ, nửa đêm nhân lúc chồng ngủ say lén trở dậy bỏ đi.
Ô thị định một mình ra tay, biết được tung tích Tạ Tốn rồi sẽ trêu chọc trượng phu một chuyến, nào ngờ mọi chuyện đều bị tên đà chủ bang Tam Giang nhìn thấy cả. Hắn thấy Ô thị xinh đẹp liền nổi lòng tà dâm, bí mật bám theo. Ô thị bỏ thuốc mê, không ngờ chính y lại uống phải thuốc mê của hắn. Bọ ngựa bắt ve, không dè chim sẻ rình phía sau. Trương Tòng Khê theo dõi sáu người Ngũ Phụng đao, mọi việc biết cả. Chờ lúc Ô thị lâm vào tình thế nguy cấp, bèn ra tay cứu giúp, trừng trị tên đà chủ bang Tam Giang một trận đích đáng. Trương Tòng Khê không nói tính danh, chỉ bảo mình là đệ tử phái Võ Đang. Ô thị vừa sợ vừa thẹn, quay về gặp phu quân, kể rõ sự việc. Người của phái Võ Đang trở thành đại ân nhân, nên cả bọn sáu người kia mới đến gặp huynh đệ Du Liên Châu để cảm tạ. Trương Tòng Khê chờ bọn họ đi rồi mới xuất hiện, để Ô thị khỏi xấu hổ.
Trương Thúy Sơn nghe xong, thở dài:
– Trừng trị hành vi bất lương của môn hạ bang Tam Giang tuy không khó, nhưng tứ ca xử sự lưu tình, biến thù thành bạn, thật là hợp tâm ý sư phụ.
Trương Tòng Khê cười:
– Mười năm xa nhau, vừa gặp ngũ đệ đã cho tứ ca lên mây xanh.
Đêm đó, bốn sư huynh sư đệ nằm cạnh nhau trò chuyện thâu đêm. Trương Tòng Khê tuy thông minh đa trí, song cũng không đoán nổi cao thủ giả trang quân Nguyên, đánh Du Liên Châu bị thương, bắt Vô Kỵ mang đi là ai.
Sáng hôm sau, Trương Tòng Khê gặp Ân Tố Tố. Năm người thong thả đi mất một ngày đêm nữa mới về đến núi Võ Đang.
Trương Thúy Sơn mười năm mới trở lại nơi chàng sống từ nhỏ, muốn chạy ngay lên bái kiến sư phụ, hội kiến với đại sư ca, tam sư ca, thất sư đệ; tuy thê tử bệnh, hài nhi mất tích, song niềm vui vẫn lớn hơn nỗi sầu.
Lên đến trên núi, thấy ngoài cổng buộc tám con ngựa, yên cương rất mới, không phải của bổn phái. Trương Tòng Khê nói:
– Đạo quán đang có khách, chúng ta nên vào đằng cửa hông thì hơn.
Trương Thúy Sơn liền dìu thê tử theo cửa hông vào đạo quán. Các đạo nhân và thị dịch trong đạo quán thấy Trương Thúy Sơn lành lặn trở về, ai nấy hết sức vui mừng. Trương Thúy Sơn rất muốn vào bái kiến sư phụ, nhưng đạo đồng hầu hạ Trương Tam Phong nói rằng Người chưa khai quan, chàng đành khấu đầu bên ngoài chỗ tọa quan của sư phụ, rồi đi gặp Du Đại Nham.
Đạo đồng hầu cận Du Đại Nham nói nhỏ:
– Tam sư bá đang ngủ, sư thúc có muốn đánh thức sư bá dậy hay không?
Trương Thúy Sơn xua xua tay, rón rén bước vào phòng. Thấy Du Đại Nham đang nhắm mắt ngủ say, sắc diện nhợt nhạt, hai má hóp sâu, người anh hùng như rồng như hổ mười năm trước nay là một bệnh nhân thoi thóp nằm đó. Trương Thúy Sơn nhìn sư huynh một hồi, không ngăn nổi hai dòng lệ ứa ra.
Chàng đứng bên giường hồi lâu, rồi gạt lệ, bước ra hỏi đạo đồng:
– Đại sư bá và thất sư thúc đang ở đâu?
Đạo đồng nói:
– Thưa, đang tiếp khách ở đại sảnh.
Trương Thúy Sơn vào hậu đường chờ đại sư ca và thất sư đệ, chờ mãi mà khách vẫn chưa ra về. Trương Thúy Sơn hỏi đạo nhân bưng trà:
– Khách là ai thế?
Đạo nhân đáp:
– Hình như là bảo tiêu.
Ân Lê Đình đối với vị ngũ ca lâu ngày gặp lại rất quyến luyến, rời chàng một lát lại quay về bên cạnh, nghe hỏi, bèn trả lời:
– Đó là ba vị tổng tiêu đầu, tổng tiêu đầu của tiêu cục Hổ Cứ ở Kim Lăng, là Kỳ Thiên Bưu; tổng tiêu đầu của tiêu cục Tấn Dương ở Thái Nguyên là Vân Hạc; còn vị thứ ba là Cung Cửu Giai tổng tiêu đầu của tiêu cục Yến Vân ở kinh sư.
Trương Thúy Sơn hơi lạ, hỏi:
– Cả ba vị tổng tiêu đầu cùng đến ư? Mười năm trước, trong tất cả các tiêu cục khắp thiên hạ, ba vị này có võ công hơn cả, danh tiếng rất cao, hiện giờ có còn được như vậy chăng? Cả ba cùng tới đây là vì sao?
Ân Lê Đình cười đáp:
– Chắc có món hàng quý bị mất, kẻ cướp lại có thế lực lớn, ba vị tổng tiêu đầu không địch nổi, đành phải cầu cứu đại sư huynh. Ngũ ca, mấy năm nay đại ca ngày càng được tín nhiệm, chốn giang hồ gặp đại sự nghi nan là người ta đều đến nhờ đại ca xuất diện.
Trương Thúy Sơn mỉm cười:
– Đại ca Phật diện từ tâm, ai cầu cũng được giúp. Mười năm không gặp, chẳng biết đại ca có già chút nào chưa?
Nói tới đây, chàng càng nóng lòng gặp mặt đại sư ca, bèn nói:
– Lục đệ, ta phải ra sau bình phong ngó xem đại ca và thất đệ thế nào mới được.
Chàng tới sau bình phong, ghé mắt nhìn ra thấy Tống Viễn Kiều và Mạc Thanh Cốc ngồi tiếp khách. Tống Viễn Kiều y phục như đạo nhân, vẻ mặt điềm đạm, tướng mạo so với mười năm trước chẳng khác là bao, chỉ có tóc mai điểm bạc, người mập mạp hẳn ra, gọi là trung niên phát phúc. Tống Viễn Kiều hoàn toàn không xuất gia, nhưng vì sư phụ là đạo sĩ, lại sống trong đạo quán, thành thử khi ở trên núi Võ Đang, Tống Viễn Kiều quen ăn mặc theo kiểu Đạo gia, chỉ khi xuống núi mới đổi sang trang phục thông thường.
Mạc Thanh Cốc lại càng cao lớn vạm vỡ, tuy mới hai mươi tuổi nhưng để râu quai nón, trông bề ngoài còn già hơn cả Trương Thúy Sơn.
Chỉ nghe Mạc Thanh Cốc cao giọng nói:
– Đại sư ca chúng tôi nói một là một, hai là hai, ba chữ “Tống Viễn Kiều” còn chưa đủ khiến các vị tin hay sao?
Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: “Cái tính thô hào của thất đệ vẫn y xưa. Không biết vì chuyện gì mà lại đấu khẩu với người ta thế kia?” Nhìn sang phía khách, thấy cả ba tuổi trạc ngũ tuần, một vị khí độ uy mãnh, một vị cao cao gầy gầy, mặt mày xương xẩu, còn vị thứ ba trông như bệnh nhân gầy ốm hom hem. Phía sau ba vị khách có năm người thõng tay đứng hầu, chắc là đệ tử của ba vị đó. Vị cao gầy nói:
– Tống đại hiệp đã nói vậy, chúng tôi đâu dám không tin? Chỉ có điều không biết khi nào Trương ngũ hiệp về tới, có thể cho chúng tôi biết đích xác được chăng?
Trương Thúy Sơn hơi giật mình: “Thì ra ba vị kia đến đây tìm ta, hẳn là để hỏi tung tích của nghĩa huynh đây mà”. Chỉ nghe Mạc Thanh Cốc nói:
– Sư huynh sư đệ bảy người chúng tôi, tuy bản lĩnh không đáng kể, nhưng việc hành hiệp trượng nghĩa thì bấy nay không chịu kém ai, được bằng hữu chốn giang hồ ban thưởng cho ngoại hiệu “Võ Đang thất hiệp”. Bốn chữ ấy, nói ra thật xấu hổ, chúng tôi vốn không dám nhận…
Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: “Mười năm không gặp, ai ngờ thất đệ bây giờ nói năng lưu loát đến thế. Ngày trước ai hỏi câu gì, thất đệ đỏ mặt hồi lâu mới ấp úng trả lời. Mười năm qua, trừ mình và tam ca ra, các huynh đệ ai cũng tiến rất xa”.
Lại nghe Mạc Thanh Cốc nói tiếp:
– Thế nhưng vì đã được tặng bốn chữ ấy, trên có ân sư nghiêm huấn, chúng tôi hành sự vô cùng thận trọng, chẳng dám sai một li. Trương ngũ ca là một trong Võ Đang thất hiệp, tính tình nho nhã hòa thuận, bụng dạ tốt nhất trong bảy huynh đệ chúng tôi đó. Các vị cứ vu cho Trương ngũ ca sát hại toàn bộ tiêu cục Long Môn, thực là nói năng hồ đồ bá đạo.
Trương Thúy Sơn chột dạ, nghĩ thầm: “Thì ra là chuyện tiêu cục Long Môn của Đô Đại Cẩm. Nghe đâu ở phía nam Trường Giang thì tiêu cục Hổ Cứ ở Kim Lăng làm đầu trò, biết tin mình từ hải ngoại trở về, liền ước hẹn với hai tổng tiêu đầu của tiêu cục Tấn Dương và tiêu cục Yến Vân tới đây hỏi tội ta”.
Vị có khí độ uy mãnh nói:
– Võ Đang thất hiệp danh tiếng lẫy lừng, trong võ lâm ai chẳng ngưỡng mộ. Mạc thất hiệp khỏi cần khoe, chúng tôi đã được nghe đại danh từ lâu, chẳng khác gì sấm nổ bên tai.
Mạc Thanh Cốc thấy người kia có vẻ nhạo báng, mặt liền biến sắc, nói:
– Kỳ tổng tiêu đầu rốt cuộc muốn gì, cứ nói rõ ra.
Đại hán có khí độ uy mãnh ấy là Kỳ Thiên Bưu, tổng tiêu đầu tiêu cục Hổ Cứ ở Kim Lăng, nói lớn tiếng:
– Võ Đang thất hiệp nói một là một, nói hai là hai; không lẽ các cao tăng phái Thiếu Lâm nói láo cả ư? Các tăng nhân Thiếu Lâm chính mắt mục kích, toàn bộ già trẻ lớn bé ở tiêu cục Long Môn phủ Lâm An đều bị Trương Thúy Sơn Trương ngũ h…i…ệ…p hạ sát.
Lão ta kéo dài chữ “hiệp”, hiển nhiên ngụ ý mỉa mai.
Ân Lê Đình nghe vậy liền nổi giận, lão kia dám nhạo báng ngũ ca, còn nặng hơn cả đánh chàng ba cái tát, đang định bước ra tranh cãi thì Trương Thúy Sơn vội níu lại, xua xua tay. Ân Lê Đình thấy vẻ mặt ngũ ca đầy đau khổ, hình như có điều khó nói, chàng không hiểu nguyên do tại sao, chỉ nghĩ thầm: “Công phu hàm dưỡng của ngũ ca ngày càng cao, thảo nào sư phụ vẫn thường khen ngợi ngũ ca”.
Mạc Thanh Cốc đứng dậy, nói to:
– Hiện thời ngũ ca của Mạc mỗ chưa về đến nơi, mà dù có về rồi thì cũng thế thôi. Mạc mỗ với Trương Thúy Sơn sống chết có nhau, việc của Trương Thúy Sơn cũng là việc của Mạc mỗ. Ba vị bất phân phải trái đúng sai, cứ một mực vu cho ngũ ca ta sát hại tiêu cục Long Môn. Được, mọi việc cứ coi như Mạc mỗ đã làm. Ba vị muốn báo thù cho tiêu cục Long Môn thì cứ việc lấy mạng Mạc mỗ đi coi. Ngũ ca ta không có ở đây, Mạc Thanh Cốc cũng là Trương Thúy Sơn, Trương Thúy Sơn cũng là Mạc Thanh Cốc. Nói thực với các vị nhé, Mạc mỗ võ công mưu trí thua xa ngũ ca, các vị tìm đến ta là may cho các vị lắm đó.
Kỳ Thiên Bưu cả giận, đứng bật dậy quát:
– Kỳ mỗ hôm nay đến núi Võ Đang tính chuyện, các nhân sĩ võ học trong thiên hạ ai ai cũng bảo rằng chúng tôi đánh trống qua cửa nhà sấm, không biết tự lượng sức mình. Thế nhưng cả gia đình Đô Đại Cẩm Đô huynh đệ bị sát hại đã mười năm, mối oan ấy đến nay chưa rửa, Kỳ mỗ không còn nhịn được nữa rồi. Phái Võ Đang giết hơn bảy chục nhân mạng ở tiêu cục Long Môn, nay giết thêm Kỳ mỗ thì đã thấm vào đâu? Tiện thể có giết luôn hơn chín chục mạng người của tiêu cục Hổ Cứ ở Kim Lăng thì giết! Hôm nay máu của Kỳ mỗ có chảy trên núi Võ Đang, hẳn cũng được tiếng là chết đúng chỗ đấy. Khi chúng tôi lên núi, vì tôn kính Trương chân nhân đức cao vọng trọng, chúng tôi không mang theo vũ khí, vậy Kỳ mỗ xin chịu chết dưới quyền cước của Mạc thất hiệp.
Nói đoạn lão ta hùng dũng bước ra giữa sảnh.
Tống Viễn Kiều từ đầu im lặng, nay thấy hai người sắp động thủ, bèn giơ tay ngăn Mạc Thanh Cốc, mỉm cười, nói:
– Ba vị đến tệ xứ, lời qua tiếng lại cứ khăng khăng cho rằng tệ ngũ sư đệ sát hại toàn thể tiêu cục Long Môn ở phủ Lâm An. Cũng may là tệ ngũ sư đệ không bao lâu nữa sẽ về đây, ba vị tạm nhịn một chút, đợi gặp mặt tệ ngũ sư đệ rồi ta phân biệt phải trái được chăng?
Vị khách thân hình hom hem như bệnh nhân là Cung Cửu Giai, tổng tiêu đầu tiêu cục Yến Vân, nói:
– Mời Kỳ tổng tiêu đầu cứ ngồi xuống đã nào. Trương ngũ hiệp chưa về đến đây, vụ này rốt cuộc không dễ đoán định. Chi bằng chúng ta bái kiến Trương chân nhân, xin lão nhân gia kim khẩu minh thị, ban cho một lời xem nào! Trương chân nhân là ngôi sao Bắc đẩu trong võ lâm, anh hùng hảo hán trong thiên hạ ai chẳng ngưỡng mộ, không lẽ lão nhân gia không biết phân biệt thị phi, bao che cho đệ tử hay sao?
Câu nói của lão này nghe có vẻ lễ phép, nhưng hàm ý rất lợi hại. Mạc Thanh Cốc làm gì chẳng nhận ra, liền chặn luôn:
– Gia sư bế quan tĩnh tu, hiện chưa khai quan. Hơn nữa, những năm gần đây, mọi việc trong phái Võ Đang chúng tôi đều do đại sư ca chúng tôi xử lý. Ngoại trừ các cao nhân có danh vọng thật lớn trong võ lâm, gia sư ít tiếp ai.
Ý chàng muốn nói cho bọn kia hiểu rằng thân phận các ngươi chưa đủ để gặp sư phụ ta.
Vị khách cao gầy là Vân Hạc, tổng tiêu đầu tiêu cục Tấn Dương, cười khẩy nói:
– Thiên hạ sao lại có việc xảo hợp đến thế, chúng tôi vừa lên núi thì tôn sư Trương chân nhân bế quan. Nhưng nhân mạng của hơn bảy chục người ở tiêu cục Long Môn thì không phải cứ bế quan là trốn tránh được đâu.
Cung Cửu Giai nghe câu đó nói quá nặng, vội đưa mắt ngăn lại. Mạc Thanh Cốc hết nhịn nổi, quát to:
– Ngươi bảo sư phụ ta vì sợ việc mà bế quan ư?
Vân Hạc cười nhạt, không đáp.
Tống Viễn Kiều tuy hàm dưỡng rất cao, nhưng nghe Vân Hạc làm nhục ân sư thì cũng không thể không tức giận. Trước mắt Võ Đang thất hiệp, mười năm nay chưa hề có kẻ nào dám nói điều bất kính về Trương Tam Phong. Tống Viễn Kiều chậm rãi nói:
– Ba vị ở xa đến là khách, chúng tôi không dám đắc tội, hãy tiễn khách!
Nói đoạn phất tay áo một cái, một luồng kình phong theo đó tràn nhanh ra cuốn ba chén trà trước mặt Cung Cửu Giai, Kỳ Thiên Bưu và Vân Hạc đưa về đặt xuống chiếc kỷ của mình. Ba chén trà được gió nhấc lên, chuyển chỗ, đặt xuống một cách nhẹ nhàng, chỉ nghe khẽ cạch cạch ba tiếng, không để sóng sánh ra ngoài một giọt nước.
Khi tay áo của Tống Viễn Kiều phất ra, bọn Kỳ Thiên Bưu bị một luồng gió tưởng nhu hòa mà cực nặng ép vào ngực không thở được, cả ba vội vận nội công chống đỡ. Nhưng luồng kình phong kia chợt đến chợt đi, cả ba vừa hết tức ngực, ợ mấy tiếng thật to, thở hắt ra một cái. Cả ba cả sợ, biết rằng nếu Tống Viễn Kiều phất tay áo bên trái ra thì luồng kình phong thứ hai ép tới, hơi thở họ đang vận lên sẽ bị ép đi ngược xuống, nếu họ không chết ngay tại chỗ thì cũng trọng thương, mất quá nửa nội công. Lúc này ba vị tổng tiêu đầu mới biết vị Tống đại hiệp nho nhã khiêm nhường kia có tuyệt nghệ cao thâm khôn lường.
Trương Thúy Sơn ở sau tấm bình phong, nghĩ đến việc Ân Tố Tố sát hại toàn gia ở tiêu cục Long Môn liền cảm thấy lo lắng không yên. Lúc thấy Tống Viễn Kiều phất tay áo hiển lộ nội công thâm hậu, chàng cảm phục bội phần, nghĩ thầm: “Nội công của phái Võ Đang ta luyện càng lâu, tiến cảnh càng nhanh. Khi ta ở trên Vương Bàn sơn đảo, nội lực thua nghĩa huynh một trời một vực, nhưng khi chia tay tại Băng Hỏa đảo, xem ra chênh lệch không đáng là bao. Năm xưa ở Lạc Dương, khi nghĩa huynh định giết đại sư ca, đại sư ca dĩ nhiên không chống nổi. Vậy mà giờ này nghĩa huynh dù hai mắt còn sáng, võ công cũng chưa chắc hơn được đại sư ca. Thêm mươi năm nữa, đại sư ca, nhị sư ca nhất định sẽ không thua kém nghĩa huynh”.
Chỉ thấy Kỳ Thiên Bưu ôm quyền, nói:
– Đa tạ Tống đại hiệp xuống tay lưu tình, cáo biệt!
Tống Viễn Kiều và Mạc Thanh Cốc tiễn khách ra ngoài thềm. Kỳ Thiên Bưu quay lại nói:
– Xin hai vị dừng bước, không cần tiễn xa.
Tống Viễn Kiều nói:
– Chẳng mấy khi được ba vị tổng tiêu đầu quang giáng tệ sơn, không tiễn sao tiện? Khi nào có dịp tới kinh sư, Thái Nguyên, Kim Lăng, tại hạ thể nào cũng tới quý tiêu cục đáp lễ.
Kỳ Thiên Bưu nói:
– Chúng tôi không dám!
Vừa rồi lĩnh giáo võ công của Tống Viễn Kiều, Kỳ Thiên Bưu cảm thấy vị đại hiệp này tuy có võ công tuyệt thế, song cử chỉ lời lẽ tuyệt nhiên không chút kiêu ngạo nên lão ta trong lòng đã thầm thán phục, cái chủ đích lên núi hỏi tội, xả thân báo cừu ban đầu giờ đây hầu như tiêu tan.
Trong lúc đôi bên còn qua lại mấy lời xã giao, Kỳ Thiên Bưu bỗng thấy từ ngoài đi vào một trung niên hán tử, thân hình thấp nhỏ nhưng rắn rỏi, tinh anh. Tống Viễn Kiều nói:
– Tứ đệ, hãy lại đây gặp ba vị bằng hữu.
Đoạn giới thiệu Trương Tòng Khê với bọn Kỳ Thiên Bưu. Trương Tòng Khê cười nói:
– Ba vị tới thật đúng lúc, tại hạ có vài thứ muốn trao tặng các vị.
Đoạn chàng đưa cho mỗi người kia một cái gói nhỏ. Kỳ Thiên Bưu hỏi:
– Cái gì vậy?
Trương Tòng Khê nói:
– Cái này mở xem ở đây không tiện, các vị xuống núi rồi hãy mở ra coi.
Ba sư huynh đệ tiễn khách ra tận cổng đạo quán mới từ biệt với ba vị tổng tiêu đầu.
Mạc Thanh Cốc chờ họ đi xa, vội hỏi:
– Tứ ca, ngũ ca đã về núi chưa?
Trương Tòng Khê cười, nói:
– Thất đệ vào trong kia gặp ngũ đệ đi. Còn ta và đại ca ngồi trong sảnh chờ ba vị tổng tiêu đầu quay lại đã.
Mạc Thanh Cốc hỏi:
– Ngũ ca ở đâu kia? Ba lão kia quay lại làm gì?
Chàng mong chờ Trương Thúy Sơn đã lâu, không đợi Trương Tòng Khê nói rõ đã chạy luôn vào nội đường.
Mạc Thanh Cốc đi rồi, quả nhiên bọn Kỳ Thiên Bưu lật đật quay trở lại, rập đầu lạy Tống Viễn Kiều và Trương Tòng Khê. Hai người vội trả lễ. Vân Hạc nói:
– Đại ân đại đức của Võ Đang chư hiệp, bây giờ Vân mỗ mới biết. Vừa nãy Vân mỗ nói năng mạo phạm Trương chân nhân, quả thật không bằng loài cẩu trệ.
Đoạn lão ta giơ hai tay tự vả bôm bốp vào mặt mình hàng chục cái, vả thật mạnh, khiến hai má sưng lên vẫn chưa thôi. Tống Viễn Kiều ngạc nhiên chưa hiểu, vội ngăn lại.
Trương Tòng Khê nói:
– Vân tổng tiêu đầu là một nam tử có chí khí, có tâm nguyện đánh đuổi Thát Lỗ, lấy lại giang sơn, phàm hảo hán Trung Hoa ai cũng có lòng như thế. Chút khó nhọc của tại hạ đâu có đáng gì để Vân tổng tiêu đầu phải tự sỉ vả như vậy?
Vân Hạc nói:
– Tính mạng cả gia đình Vân mỗ đều do chư hiệp ban cho. Vân mỗ năm năm qua như kẻ ngủ mê. Vừa nãy nói năng xấc xược, hai vị không đánh cho một trận thì Vân mỗ quả thật chưa an lòng.
Trương Tòng Khê mỉm cười:
– Chuyện cũ thôi ta bỏ qua, không nhắc đến nữa. Mấy lời Vân tổng tiêu đầu nói ban nãy, dù chính tai gia sư nghe thấy cũng sẽ không để bụng khi biết việc lớn mà Vân tổng tiêu đầu định làm.
Vân Hạc vẫn băn khoăn không yên nên cứ tự trách mình mãi.
Tống Viễn Kiều không rõ nguồn cơn, chỉ nói vài lời khiêm tốn, thấy Kỳ Thiên Bưu và Cung Cửu Giai cũng luôn miệng đa tạ, song xem ra Trương Tòng Khê không coi trọng hai người đó bằng Vân Hạc. Ba vị tổng tiêu đầu khẩn khoản xin đến bên ngoài phòng Trương Tam Phong đang tọa quan để lạy vài lạy, sau đó sẽ gặp Mạc Thanh Cốc tạ lỗi, nhưng Trương Tòng Khê nhất nhất chối từ.
Ba người ấy đi rồi, Trương Tòng Khê thở dài, nói:
– Ba người kia tuy biết ơn chúng ta, nhưng án mạng ở tiêu cục Long Môn, họ vẫn không quên. Xem ra biết ơn là một chuyện, tai họa rình rập lại là chuyện khác.
Tống Viễn Kiều định hỏi nguyên do, bỗng thấy Trương Thúy Sơn từ trong nội đường chạy ra, phục xuống lạy, thốt lên:
– Đại ca, đại ca có nhớ tiểu đệ chăng?
Tống Viễn Kiều là người khiêm cung lễ độ, tuy là đối với sư đệ đồng môn, lại cửu biệt trùng phùng, tâm tình xúc động, song vẫn giữ đúng phép tắc, vội vàng quỳ xuống cung kính đáp lễ, nói:
– Ngũ đệ, cuối cùng ngũ đệ đã về.
Trương Thúy Sơn thuật sơ qua vì sao thất lạc. Mạc Thanh Cốc nóng ruột, hỏi:
– Ngũ ca, ba lão tiêu khách vô lễ, cứ vu cho ngũ ca giết toàn bộ mọi người ở tiêu cục Long Môn phủ Lâm An, vậy mà ngũ ca không bước ra giáo huấn cho bọn chúng một phen?
Trương Thúy Sơn buồn bã thở dài, nói:
– Bao nhiêu uẩn khúc trong vụ đó, không thể nói vài lời là xong. Để Trương Thúy Sơn kể lại tường tận, rồi nhờ các huynh đệ tìm ra đối sách hay nhất.
Ân Lê Đình nói:
– Ngũ ca khỏi lo, tiêu cục Long Môn hộ tống tam ca không xong, làm cho tam ca tàn phế suốt đời. Dù ngũ ca quả thật có giết toàn bộ tiêu cục Long Môn chăng nữa, cũng chỉ là vì tình nghĩa huynh đệ sâu xa, do bị kích động nhất thời…
Du Liên Châu quát lên:
– Lục đệ nói năng hồ đồ, sư phụ mà nghe thấy câu ấy tất sẽ nhốt lục đệ vào phòng tối một tháng là ít. Giết sạch già trẻ lớn bé, diệt tuyệt môn hộ không đời nào chúng ta được phép làm!
Mọi người nhìn Trương Thúy Sơn chờ đợi, chỉ thấy chàng thần sắc hết sức thê lương, một lúc sau mới nói:
– Toàn gia tiêu cục Long Môn, đệ không giết một ai cả. Đệ không khi nào quên lời giáo huấn của sư phụ, làm liên lụy đầu tư thịnh đức của huynh đệ đồng môn.
Mọi người nghe vậy cả mừng, thở phào nhẹ nhõm. Cả bọn tuy không tin Trương Thúy Sơn gây ra vụ án mạng tàn khốc như thế, nhưng các cao tăng phái Thiếu Lâm cứ nhất quyết đổ riệt cho chàng, còn nói là chính họ mục kích; rồi khi ba vị tổng tiêu đầu lên núi hỏi tội, Trương Thúy Sơn lại không ra phủ nhận, thành thử mọi người không tránh khỏi có chút nghi ngờ. Bây giờ nghe Trương Thúy Sơn nói vậy, họ như trút được gánh nặng, nghĩ thầm: “Vụ này hẳn có nhiều uẩn khúc khó nói, nhưng chỉ cần Trương Thúy Sơn không giết người, thì cuối cùng cũng sẽ làm sáng tỏ được mọi việc”.
Lúc này Mạc Thanh Cốc mới hỏi nguyên do vì sao ba vị tổng tiêu đầu đã xuống núi rồi còn trở lên, Trương Tòng Khê cười nói:
– Trong ba vị tổng tiêu đầu ấy, kẻ nói năng vô lễ là Vân Hạc, lại có nhân phẩm tốt hơn cả. Ở vùng Tấn – Thiểm, lão ta có danh vọng rất cao, bí mật liên lạc với các hào kiệt ở Sơn Tây, Thiểm Tây, cắt máu ăn thề, nổi dậy khởi nghĩa đánh đuổi bọn Thát tử Mông Cổ.
Cả bọn à lên khen ngợi.
Mạc Thanh Cốc nói:
– Ai ngờ lão ta lại có chí khí như thế, thật đáng kính phục. Tứ ca, đừng kể vội, chờ đệ trở lại đã nhé…
Nói đoạn phóng ra cổng.
Trương Tòng Khê quả nhiên ngừng lời, quay sang hỏi Trương Thúy Sơn về cảnh vật ở Băng Hỏa đảo. Lúc Trương Thúy Sơn kể tới đoạn ở đó mỗi năm sáu tháng trời liền là đêm, rồi sáu tháng sau là ngày, bốn người kia đều kinh ngạc. Trương Thúy Sơn nói:
– Ở đấy khó phân biệt đông tây nam bắc, nơi mặt trời mọc chưa hẳn là phương đông.
Rồi chàng kể cho mọi người nghe những thứ lạ lùng xoay quanh núi băng trôi giữa biển. Đang kể thì Mạc Thanh Cốc trở về, nói:
– Tiểu đệ đuổi theo Vân tổng tiêu đầu xin tha lỗi, khen lão ta là một nam tử chí khí hiên ngang.
Mọi người biết gã tiểu sư đệ tính tình bộc trực, vừa rồi không quản mệt nhọc chạy mấy dặm đường chỉ để nói vài lời như thế với Vân Hạc, xóa mối tị hiềm lúc trước, nếu không y sẽ mất ngủ vài đêm.
Ân Lê Đình nói:
– Thất đệ, chuyện của tứ ca còn đợi thất đệ về mới kể tiếp; nhưng ngũ ca kể chuyện lạ ở Băng Hỏa đảo còn hay hơn kia.
Mạc Thanh Cốc nhảy dựng lên, kêu:
– Ôi, tiếc quá!
Trương Tòng Khê nói:
– Lão Vân Hạc trù tính mọi sự…
Mạc Thanh Cốc xua tay:
– Tứ ca, hượm đã, xin tứ ca chờ một lát…
Trương Thúy Sơn mỉm cười, nói:
– Thất đệ chẳng bao giờ chịu thiệt.
Thế là chàng phải thuật lại một lần nữa các chuyện lạ ở Băng Hỏa đảo.
Mạc Thanh Cốc thốt lên:
– Kỳ quái, kỳ quái! Tứ ca, bây giờ tứ ca kể tiếp được rồi.
Trương Tòng Khê nói:
– Lão Vân Hạc kia trù tính mọi sự, chỉ đợi đến ngày là cả ba nơi Thái Nguyên, Đại Đồng, Phần Dương nhất tề nổi dậy khởi nghĩa. Nào ngờ trong số người cắt máu ăn thề lại có kẻ phản bội, ba ngày trước khi khởi sự, đánh cắp bản danh sách những người tham gia, lấy luôn bản trù hoạch khởi nghĩa do chính tay Vân Hạc soạn thảo, mang đi tố cáo với quân Mông Cổ.
Mạc Thanh Cốc vỗ đùi kêu lên:
– Ôi, thế thì nguy to!
Trương Tòng Khê nói:
– Cũng may, tình cờ hồi ấy đệ lại ở Thái Nguyên, có việc phải vào phủ đường, nửa đêm thấy tên tri phủ và kẻ phản bội kia đang bàn tính rằng một mặt mật báo triều đình, mặt khác điều binh khiển tướng để quăng lưới bắt trọn những người tham gia khởi nghĩa. Tiểu đệ liền nhảy vào, giết luôn tên tri phủ, kẻ phản bội, nhặt lấy bản danh sách, bản trù hoạch kia, trở về phương nam. Bọn Vân Hạc phát hiện mất bản danh sách, bản trù hoạch, thì đại sự không xong, nghĩa cử chẳng thành đã đành, mà tất cả những người có tên trong danh sách sẽ bị đại họa xử tử toàn gia, vội vàng đang đêm truyền tin cho nhau đi trốn cho xa nhưng lúc đó cổng thành đã đóng, muốn đưa tin cũng chẳng được. Sáng hôm sau, tin quan phủ bị giết lan ra, thành Thái Nguyên đóng lại để truy tìm thích khách.
Bọn Vân Hạc lòng như lửa đốt, cứ như kiến bò trong chảo nóng, lo sợ phen này cả gia đình bị chém đầu đã đành, mà biết bao nghĩa sĩ hai tỉnh Tấn – Thiểm cũng bị sát hại. Nào ngờ đợi mấy ngày sau vẫn an nhiên vô sự; về sau trong thành không tìm ra thích khách, việc tra xét lơi lỏng dần, cuối cùng đâu lại vào đấy. Bọn Vân Hạc thấy kẻ phản bội cũng đã chết trong phủ với tên tri phủ, biết là có người bí mật cứu giúp, song không thể biết việc ấy do tiểu đệ làm.
Ân Lê Đình nói:
– Vừa nãy chắc là tứ ca giao lại cho Vân Hạc bản danh sách và bản trù hoạch nọ phải không?
Trương Tòng Khê nói:
– Đúng thế.
Mạc Thanh Cốc hỏi:
– Còn Cung Cửu Giai, tứ ca giúp lão ta việc gì vậy?
Trương Tòng Khê nói:
– Cung Cửu Giai võ công cao cường, nhưng hành vi nhân phẩm thì không thể sánh bằng Vân Hạc. Sáu năm trước, y bảo tiêu đến Vân Nam, tại Côn Minh y có nhận lời gửi gắm của một đại thương gia chuyển một chuyến châu báu trị giá sáu mươi vạn lượng bạc tới Đại Đô. Thế nhưng khi tới Giang Tây thì bị cướp. Bên hồ Phàn Dương, Cung Cửu Giai bị ba tên trong “Phàn Dương tứ nghĩa” vây đánh, cướp mất chuyến hàng. Cung Cửu Giai có tan gia bại sản cũng không đền nổi số châu báu kia, hơn nữa tiêu cục Yến Vân lại đứng đầu các tổ chức ở phương bắc, nếu hạ bảng hiệu xuống rồi thì không còn làm ăn gì được nữa. Y nằm trong khách điếm suy đi tính lại, cuối cùng toan kết liễu cuộc đời.
“Phàn Dương tam nghĩa” vốn không phải hào kiệt lục lâm, tại sao lại đi cướp số châu báu kia? Thì ra lão đại trong “Phàn Dương tứ nghĩa” phạm tội, bị giam trong nhà lao phủ Nam Xương, nay mai sẽ bị xử chém. Ba người ở ngoài hai lần cướp ngục song vẫn chưa cứu được lão đại, mà quan phủ thì càng cho đề phòng nghiêm mật hơn. Tam nghĩa biết quan tham tiền, định đem số châu báu cướp được kia hối lộ để quan giảm nhẹ tội danh cho lão đại. Đệ thấy bốn huynh đệ gọi là “Phàn Dương tứ nghĩa” rất có nghĩa khí nên cứu lão đại ra khỏi ngục, bảo họ đem châu báu đã cướp trả lại cho Cung Cửu Giai. Lão Cung tổng tiêu đầu tuy diện mạo khả ố, nói năng vô duyên, nhưng bình sinh cũng chưa làm điều ác, ở Đại Đô y không câu kết với quan phủ hà hiếp người lương thiện, cứu sống y kể cũng đáng. Đệ bảo Phàn Dương tứ nghĩa không được nhắc đến cái tên “Trương Tòng Khê”, chỉ giữ lại một mảnh gấm bọc châu báu. Ban nãy đệ tặng nó cho Cung Cửu Giai, y giở ra sẽ biết ngay là chuyện gì.
Du Liên Châu gật đầu, nói:
– Tứ đệ làm việc đó hay lắm! Lão Cung Cửu Giai không nói làm chi, nhưng cứu Phàn Dương tứ nghĩa thì rất nên.
Mạc Thanh Cốc nói:
– Tứ ca, còn Kỳ Thiên Bưu thì tứ ca tặng cái gì?
Trương Tòng Khê nói:
– Là chín mũi “Đoạn hồn ngô công tiêu”.
Năm người nghe đều “ồ” lên một tiếng. “Đoạn hồn ngô công tiêu” nổi danh trên giang hồ, là ám khí thành danh của đại hào Ngô Nhất Manh đất Kinh Châu.
Trương Tòng Khê kể:
– Chuyện này đệ làm quả là to gan, bây giờ nghĩ lại, hôm đó quả thật nguy hiểm. Kỳ Thiên Bưu bảo tiêu đi qua Đồng Quan, vô tình đắc tội với đệ tử của Ngô Nhất Manh. Hai bên động thủ, Kỳ Thiên Bưu xuất chưởng đánh kẻ kia trọng thương. Kỳ Thiên Bưu biết mình gây ra đại họa, vội vã giao lại tiêu ngân, đang đêm trốn về Kim Lăng để tụ tập bằng hữu, hợp lực đối phó với Ngô Nhất Manh. Thế nhưng Kỳ Thiên Bưu về tới Lạc Dương thì Ngô Nhất Manh đuổi kịp, hẹn với y hôm sau sẽ tỷ thí ở bên ngoài cửa tây thành Lạc Dương.
Ân Lê Đình nói:
– Ngô Nhất Manh võ công cao cường, Kỳ Thiên Bưu làm sao địch nổi?
Trương Tòng Khê nói:
– Đúng thế. Kỳ Thiên Bưu tự biết tài nghệ của mình không đỡ nổi một mũi tiêu hình con rết của Ngô Nhất Manh, song chẳng còn cách nào khác, bèn đến gặp huynh đệ họ Kiều ở Lạc Dương nhờ giúp sức. Huynh đệ họ Kiều nhận lời, nói:
– Kỳ đại ca biết đó, võ công của huynh đệ chúng tôi chẳng thể địch lại Ngô Nhất Manh. Đại ca bảo chúng tôi trợ lực thì hai chúng tôi giỏi lắm cũng chỉ đứng ngoài la hét trợ uy thôi. Được rồi, giờ Ngọ ngày mai, ở bên ngoài cửa thành phía tây, hai chúng tôi nhất định sẽ có mặt.
Mạc Thanh Cốc nói:
– Huynh đệ họ Kiều cũng là hảo thủ sử dụng ám khí, có họ trợ giúp, Kỳ Thiên Bưu lấy ba chọi một, may ra cũng đối phó ngang ngửa với Ngô Nhất Manh. Không biết phía Ngô Nhất Manh có thêm ai chăng?
Trương Tòng Khê nói:
– Ngô Nhất Manh không có trợ thủ. Có điều là huynh đệ họ Kiều giở trò xấu. Sáng hôm sau, Kỳ Thiên Bưu tới nhà họ Kiều, toan cùng họ bàn cách nghênh địch thì người giữ cửa bảo: “Đại gia và nhị gia sớm nay có việc gấp phải đi Trịnh Châu, dặn Kỳ lão gia khỏi cần chờ”. Kỳ Thiên Bưu nghe vậy tức chết đi được. Mấy năm trước huynh đệ họ Kiều gặp họa ở Giang Nam, Kỳ Thiên Bưu từng giúp đỡ họ rất tận tình, không ngờ lúc nguy nan nhờ đến thì, họ miệng nói thật dễ nghe, song gót chân lại bôi mỡ chạy bay chạy biến. Kỳ Thiên Bưu biết Ngô Nhất Manh độc ác, cuộc hẹn trưa nay không sao tránh né được, bèn về khách điếm viết một lá thư để lại nói về hậu sự, giao cho người đưa tin, rồi đi ra cửa thành phía tây. Tất cả chuyện đó trước sau đều lọt vào mắt đệ. Bữa đó đệ giả trang làm một kẻ hành khất, nằm dưới gốc một cây cổ thụ ở ngoài cửa thành phía tây. Chẳng bao lâu, Ngô Nhất Manh và Kỳ Thiên Bưu lần lượt tới, bắt đầu động thủ với nhau. Đấu vài hiệp, Ngô Nhất Manh liền giở sát chiêu, phi ra một mũi “Đoạn hồn ngô công tiêu”. Kỳ Thiên Bưu thấy không cách gì chống đỡ nổi thì đành nhắm mắt chờ chết. Tiểu đệ bèn lướt ra, giơ tay chộp mũi tiêu. Ngô Nhất Manh vừa sợ vừa tức, quát hỏi tiểu đệ có phải là người của Cái Bang hay không? Tiểu đệ chỉ cười, không đáp. Ngô Nhất Manh phóng liền tám mũi “Đoạn hồn ngô công tiêu”, đều bị tiểu đệ tóm được hết. Ám khí thành danh của hắn quả không tầm thường, nếu tiểu đệ sử dụng võ công bản môn để chộp thật ra cũng chẳng khó, song sợ hắn nhận biết lai lịch, nên cố giả cách chân trái bị què, tay phải bị cụt mà, chỉ sử dụng một tay trái, lại dùng cách chộp phi tiêu của phái Thiếu Lâm, lòng bàn tay úp xuống, bắt được cả chín mũi tiêu, nhưng lòng bàn tay bị mũi tiêu độc thứ bảy cào xước, thật quá nguy hiểm. Ngô Nhất Manh quát hỏi tiểu đệ là đệ tử của vị cao tăng nào trong môn phái Thiếu Lâm, tiểu đệ cứ giả câm giả điếc ú ớ một hồi. Ngô Nhất Manh tự biết không địch nổi, xấu hổ và tức giận bỏ đi, về Kinh Châu đóng cửa không ra ngoài, mấy năm rồi không ai thấy hắn xuất hiện trên giang hồ nữa.
Mạc Thanh Cốc lắc đầu, nói:
– Tứ ca, Ngô Nhất Manh tuy không phải là người lương thiện, nhưng Kỳ Thiên Bưu cũng chẳng tử tế gì, nếu hôm đó tứ ca bị thương bởi “Đoạn hồn ngô công tiêu”, thì có khổ không? Tứ ca không đáng mạo hiểm như thế.
Trương Tòng Khê cười, đáp:
– Thì cũng vì ta nhất thời hiếu sự, trước đó đâu ngờ “Đoạn hồn ngô công tiêu” của hắn lợi hại đến thế.
Mạc Thanh Cốc tính nết hào sảng, bộc trực, làm sao hiểu ý định sâu xa của mấy việc Trương Tòng Khê đã làm kia, nhưng Trương Thúy Sơn hiểu ngay: tứ ca tận tâm kiệt lực là để giải trừ vụ đại cừu toàn gia tiêu cục Long Môn bị giết hại. Tứ ca biết tiêu cục Hổ Cứ đứng đầu các tiêu cục vùng Giang Nam, tiêu cục Yến Vân đứng đầu các tiêu cục một dải Lỗ – Dực, còn ở các tỉnh miền tây bắc thì tiêu cục Tấn Dương là nhất. Sau này, khi vụ án tiêu cục Long Môn bị khơi lại, cả ba tiêu cục kia chắc chắn sẽ đứng ra. Bởi vậy tứ ca phải làm cho họ bị khuất phục bằng đại ân. Ba sự việc trên nhìn qua tưởng là tình cờ, thực chất Trương Tòng Khê đã cất công tìm tòi, chờ đợi cơ hội, không biết tốn bao nhiêu thời gian và tâm huyết.
Trương Thúy Sơn nghẹn ngào nói:
– Tứ ca, huynh đệ chúng ta là một, tiểu đệ không dám dùng hai chữ “đa tạ”, tất cả chỉ là do cô em dâu của tứ ca ngày ấy sai trái đã gây ra mối đại họa này.
Rồi chàng kể lại đầu đuôi việc Ân Tố Tố cải trang, đang đêm lẻn vào giết toàn bộ gia quyến tiêu cục Long Môn ra sao, cuối cùng nói:
– Tứ ca, chuyện này phải làm thế nào, xin tứ ca tính cách giùm tiểu đệ với.
Trương Tòng Khê trầm ngâm hồi lâu, nói:
– Việc này phải xin sư phụ chỉ thị. Nhưng tứ ca thiết nghĩ, người chết rồi không sống lại được, đệ muội cũng đã bỏ ác làm lành, không còn là nữ nhân giết người không chớp mắt khi xưa. Biết tội chịu sửa, không gì tốt hơn, hai sư ca nghĩ có phải vậy không?
Tống Viễn Kiều đứng trước đại sự liên quan mấy chục mạng người, nhất thời còn trù trừ khó quyết. Du Liên Châu thì gật đầu ngay, nói:
– Đúng thế!
Ân Lê Đình sợ nhất là nhị ca, vốn biết đại sư ca tính ba phải, dễ bị thuyết phục; còn nhị ca là người căm thù cái ác, thiết diện vô tư, e sẽ làm khó cho ngũ tẩu, nên mấy hôm nay cứ lo canh cánh. Chàng không biết rằng Du Liên Châu đã biết chuyện này trước rồi và đã tha thứ cho Ân Tố Tố, giờ thấy nhị ca gật đầu thì trong lòng cả mừng, nói:
– Vậy thì ai hỏi tới, ngũ ca chỉ việc nói những người nọ không phải do mình giết là xong.
Tống Viễn Kiều lườm Ân Lê Đình, nói:
– Cứ chống chế mãi như thế, lòng ngũ đệ làm sao yên? Chúng ta mang danh hiệp nghĩa, có an tâm được không?
Ân Lê Đình liền hỏi:
– Vậy phải làm sao bây giờ?
Tống Viễn Kiều nói:
– Theo ý ta, đợi sau tiệc mừng thọ sư phụ, chúng ta trước hết đi tìm hài nhi của ngũ đệ, sau đó mở đại hội anh hùng tại lầu Hoàng Hạc, nói rõ vụ Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, rồi thì sáu huynh đệ chúng ta, thêm ngũ đệ muội là bảy người, cùng xuống Giang Nam. Trong vòng ba năm, mỗi người chúng ta phải làm cho được mười việc thiện.
Trương Tòng Khê vỗ tay reo lên:
– Đúng! Tiêu cục Long Môn chết uổng bảy chục người, mỗi chúng ta làm mười việc thiện, cố cứu sống một hai trăm người vô tội, xem ra có thể chuộc lại được.
Du Liên Châu nói:
– Đại ca tính thế cũng ổn thỏa, sư phụ chắc cũng cho phép. Còn nếu bắt ngũ đệ muội đền mạng cho bảy chục mạng người kia, thì lại chết thêm một người nữa, đâu ích lợi gì?
Trương Thúy Sơn bao lâu nay lo lắng sầu não, giờ nghe đại ca sắp đặt như vậy thì cả mừng, nói:
– Để tiểu đệ báo cho Tố Tố biết.
Chàng nhắc lại lời Tống Viễn Kiều vừa nói cho vợ nghe, lại báo tin sau tiệc mừng thọ sư phụ thì tất cả huynh đệ sẽ đi tìm Vô Kỵ.
Ân Tố Tố bị bệnh vốn không nặng, chỉ vì thương nhớ con là chính, nghe trượng phu nói vậy, nghĩ thầm dựa vào tài nghệ của Võ Đang lục hiệp, thể nào cũng mang được Vô Kỵ trở về, nàng liền cảm thấy yên tâm hẳn.
Trương Thúy Sơn trở lại thăm Du Đại Nham. Các sư huynh sư đệ gặp lại nhau, ai nấy mừng mừng tủi tủi.