Hồi 74: Không quy đầu làm môn hạ phái Thiếu Lâm
Lệnh Hồ Xung hôn mê không biết qua bao nhiêu ngày, có lúc hơi tỉnh lại, thân người như bay bổng trên tầng mây, không bao lâu lại ngất đi, chập chờn lúc mê lúc tỉnh, có lúc chàng mơ hồ cảm thấy dường như có người đút nước cho mình, có lúc lại cảm thấy có người lấy lửa sưởi khắp thân mình. Tay chân chàng không cách nào cử động được, mí mắt cũng không mở ra nổi.
Hôm ấy thần trí hơi tỉnh táo, chàng cảm thấy huyệt Mạch môn hai cổ tay bị ai nắm chặt, một luồng khí nóng từ hai tay truyền vào, xung đột với những luồng chân khí trong nội thể.
Toàn thân Lệnh Hồ Xung khó chịu vô cùng. Chàng chỉ muốn há miệng la lên nhưng la không ra tiếng, thật giống như bị cả ngàn ngọn đao chém chặt, vạn nhục hình tàn khốc.
Lệnh Hồ Xung mê man như vậy không biết qua bao nhiêu ngày, chỉ cảm thấy mỗi lần chân khí truyền vào thì bớt đau đớn hơn một chút. Lòng hơi hiểu ra, chàng biết có một người nội công cao thâm đang trị thương cho mình. Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng: Chẳng lẽ là sư phụ sư nương mời tiền bối cao nhân đến cứu tính mạng ta? Doanh Doanh đi đâu? Sư phụ sư nương đâu? Sao ta không thấy tiểu sư muội?
Lệnh Hồ Xung vừa nghĩ đến Nhạc Linh San thì khí huyết trong ngực lại nhộn nhạo lên, liền mê man không biết gì nữa.
Cứ như vậy, ngày ngày có người đến truyền nội lực cho Lệnh Hồ Xung. Hôm ấy, sau khi được truyền chân khí, thần trí Lệnh Hồ Xung tỉnh táo hơn trước. Chàng nói:
– Đa… đa tạ tiền bối, tại hạ… tại hạ đang ở đâu?
Nói xong, từ từ mở mắt ra, nhìn thấy một gương mặt đầy nếp nhăn đang lộ ra nụ cười hiền từ.
Lệnh Hồ Xung cảm thấy gương mặt này rất quen thuộc. Chàng mơ màng nhìn lão một lúc, thấy người này đầu không có tóc, trên đầu có chín đốt tàn nhang, là một hòa thượng. Chàng loáng thoáng nhớ ra, nói:
– Đại sư… đại sư là Phương… Phương… đại sư…
Lão hòa thượng vẻ mặt vui mừng, mỉm cười nói:
– Hay lắm, hay lắm! Thiếu hiệp nhận ra lão nạp rồi. Lão nạp là Phương Sinh.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Phải, phải. Tiền bối là Phương Sinh đại sư.
Lúc này Lệnh Hồ Xung phát giác mình đang nằm trên chiếc chõng tre trong một gian nhà nhỏ, mình đắp chăn, trên bàn đặt một ngọn đèn như hạt đậu phát ra ánh sáng vàng nhạt.
Từ đó về sau cứ sáng chiều, Phương Sinh đến gian nhà nhỏ dùng nội lực trị thương cho Lệnh Hồ Xung. Qua hơn mười ngày, Lệnh Hồ Xung đã có thể ngồi dậy, tự ăn cơm được. Nhưng mỗi lần chàng hỏi Doanh Doanh đâu, tại sao mình có thể đến được đây thì Phương Sinh chỉ mỉm cười chứ không đáp.
Hôm nay, Phương Sinh lại truyền chân khí cho Lệnh Hồ Xung, rồi nói:
– Lệnh Hồ thiếu hiệp, bây giờ tính mạng của thiếu hiệp đã có thể tạm thời bảo toàn rồi. Nhưng công phu của lão nạp chỉ có hạn, vẫn không cách nào hóa giải mấy luồng chân khí dị chủng trong cơ thể thiếu hiệp được. Trước mắt chỉ có thể kéo dài ngày nào hay ngày đó, e rằng không qua một năm thì nội thương của thiếu hiệp tái phát như cũ. Lúc đó dù có Đại La kim tiên cũng khó cứu được tính mạng của thiếu hiệp.
Lệnh Hồ Xung gật đầu nói:
– Ngày trước, Bình Nhất Chỉ Bình đại phu cũng nói với vãn bối như vậy. Đại sư tận tâm tận lực cứu chữa cho vãn bối, vãn bối cảm kích vô cùng. Một người sống lâu hay mau đều do thiên mệnh, công lực đại sư có cao hơn nữa cũng không thể hành sự trái với mệnh trời.
Phương Sinh lắc đầu nói:
– Nhà Phật không tin thiên mệnh, lão nạp chỉ nói về duyên pháp. Ngày trước lão nạp đã từng nói với thiếu hiệp rằng trụ trì của bổn tự là Phương Chứng sư huynh nội công uyên thâm, nếu thiếu hiệp có duyên với người thì có thể người sẽ truyền bí thuật Dịch cân kinh cho thiếu hiệp. Gân cốt cũng có thể chuyển dời huống chi hóa giải mấy luồng nội tức dị khí này? Bây giờ lão nạp dẫn thiếu hiệp đi bái kiến phương trượng, mong thiếu hiệp ứng đáp cho khéo.
Lệnh Hồ Xung từng nghe thanh danh của phương trượng Phương Chứng đại sư chùa Thiếu Lâm, lòng rất vui mừng, đáp:
– Phiền đại sư dẫn kiến phương trượng. Dù vãn bối không có duyên, không được phương trượng đại sư rủ lòng thương nhưng được bái kiến vị cao tăng đương thời là cơ hội ngàn năm một thuở.
Lệnh Hồ Xung từ từ đứng lên choàng áo khoác vào, theo Phương Sinh đại sư ra khỏi phòng.
Vừa ra ngoài phòng, ánh nắng rực rỡ khiến Lệnh Hồ Xung lóa mắt, giống như đi vào một cảnh giới khác. Tinh thần hắn rất sảng khoái.
Lệnh Hồ Xung đi rất khó khăn vì hai chân mềm nhũn. Hắn phải bước từ từ, đưa mắt nhìn các tòa điện đường có lối kiến trúc hùng vĩ. Trên đường đi, chàng gặp rất nhiều tăng nhân. Từ xa họ đều nép sang một bên, hướng về Phương Sinh cúi đầu thủ lễ rất cung kính. Đi qua ba dãy hành lang dài, đến ngoài một gian thạch thất, Phương Sinh gọi một chú tiểu lại nói:
– Phương Sinh có chuyện muốn cầu kiến phương trượng sư huynh.
Chú tiểu đi vào bẩm báo rồi liền quay lại chấp tay nói:
– Phương trượng mời vào.
Lệnh Hồ Xung theo sau Phương Sinh, đi vào trong thất, thấy một lão tăng thân người nhỏ thó ngồi trên bồ đoàn. Phương Sinh cúi người hành lễ nói:
– Phương Sinh bái kiến phương trượng sư huynh. Xin dẫn kiến Lệnh Hồ Xung, Lệnh Hồ thiếu hiệp, đồ đệ phái Hoa Sơn.
Lệnh Hồ Xung bèn quỳ xuống khấu đầu hành lễ. Phương trượng Phương Chứng hơi nghiêng người, đưa tay phải ra nói:
– Thiếu hiệp, miễn lễ, mời ngồi.
Lệnh Hồ Xung bái xong rồi ngồi xuống bồ đoàn phía dưới Phương Sinh, thấy Phương Chứng đại sư dáng người tiều tụy, thần sắc hiền hòa, cũng không đoán được là bao nhiêu tuổi. Lòng chàng ngấm ngầm sửng sốt: Không ngờ vị cao tăng danh chấn đương thời tướng mạo lại hiền hòa như vậy. Nếu không biết trước thì không ai ngờ được lão là chưởng môn một môn phái lớn nhất trong võ lâm.
Phương Sinh đại sư nói:
– Lệnh Hồ thiếu hiệp đã trải qua hơn ba tháng điều dưỡng, đã đỡ nhiều rồi.
Lệnh Hồ Xung giật mình: Thì ra, ta hôn mê bất tỉnh đã hơn ba tháng rồi, ta cứ tưởng chỉ mới hai mươi mấy ngày.
Phương Chứng nói:
– Hay lắm!
Lão quay qua nói với Lệnh Hồ Xung:
– Thiếu hiệp, tôn sư Nhạc tiên sinh chấp chưởng phái Hoa Sơn là người nghiêm chính ngay thẳng, thanh danh lừng lẫy giang hồ, xưa nay lão nạp vô cùng kính phục.
Lệnh Hồ Xung đứng dậy nói:
– Không dám. Vãn bối thân bị trọng thương, hôn mê không biết gì, may nhờ Phương Sinh đại sư cứu chữa, thì ra đã hơn ba tháng. Sư phụ và sư nương của vãn bối chắc cũng bình an?
Đáng lẽ sư phụ, sư nương Lệnh Hồ Xung có bình an hay không thì hắn không nên hỏi người ngoài nhưng bởi vì lòng hắn lúc nào cũng nhớ họ nên buột miệng hỏi ra như vậy.
Phương Chứng nói:
– Nghe nói Nhạc tiên sinh, Nhạc phu nhân và bọn đệ tử phái Hoa Sơn bây giờ đang ở Phúc Kiến.
Lệnh Hồ Xung an tâm nói:
– Đa tạ phương trượng đại sư cho biết.
Lệnh Hồ Xung không nén được chua xót: Sư phụ và sư nương rốt cuộc đã dẫn tiểu sư muội đến nhà Lâm sư đệ rồi.
Phương Chứng nói:
– Mời thiếu hiệp ngồi. Nghe Phương Sinh sư đệ nói, kiếm thuật của thiếu hiệp rất tinh thâm, đã được chân truyền của tiền bối Phong lão tiên sinh phái Hoa Sơn, thật là đáng mừng.
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Vãn bối không dám.
Phương Chứng nói:
– Phong lão tiên sinh quy ẩn đã lâu, lão nạp tưởng rằng Phong lão tiên sinh đã tạ thế, nhưng lão vẫn còn trên thế gian khiến người nghe vui mừng khôn xiết.
Lệnh Hồ Xung dạ. Phương Chứng từ từ nói:
– Sau khi thiếu hiệp bị thương, vì người ta nhầm lẫn, đưa nhiều loại chân khí truyền vào nội thể thiếu hiệp nên khó mà hóa giải được. Phương Sinh sư đệ đã nói rõ cho lão nạp biết. Lão nạp tham tường tỉ mỉ, chỉ còn cách luyện tập Dịch cân kinh, nội công bí yếu của tệ phái, mới có thể dùng nội công bản thân mà trục hóa dần. Nếu dùng ngoại lực miễn cưỡng điều trị cho thiếu hiệp thì có thể kéo dài mạng sống một thời gian mà thật ra chẳng khác gì lấy nước muối uống cho đỡ khát, khiến cho mối họa càng sâu dày hơn. Trong ba tháng nay, Phương Sinh sư đệ đã dùng nội lực để kéo dài mạng sống cho thiếu hiệp, khiến trong thân thể của thiếu hiệp lại có thêm một luồng chân khí nữa. Thiếu hiệp thử vận khí thì sẽ biết.
Lệnh Hồ Xung hơi vận khí, quả thấy nội tức trong huyệt Đan điền cuồn cuộn lên, khó mà ức chế được. Chàng đau đến thấu tim, thân người lảo đảo, trán toát mồ hôi lạnh ngắt.
Phương Sinh chấp tay nói:
– Phương Sinh bất tài khiến cho thiếu hiệp thêm đau khổ.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Sao đại sư lại nói như vậy? Đại sư vì vãn bối mà tận tâm tận lực, hao tổn nhiều công lực thanh tu. Vãn bối như người được sống lại, thật muốn bái lạy đại sư đã ra ân tái tạo.
Phương Sinh nói:
– Không dám. Năm xưa Phong lão tiên sinh có đại ân đại đức với lão nạp, chuyện này chẳng qua lão nạp cũng chỉ báo đáp một phần ân đức của Phong lão tiên sinh mà thôi.
Phương Chứng ngẩng đầu lên nói:
– Đệ tử Phật môn lấy từ bi làm gốc, đã biết thiếu hiệp bị nội thương như vậy thì lão nạp đương nhiên phải tận tâm cứu giải. Thần công Dịch cân kinh đó do Thiền tông sơ tổ Đạt Ma lão tổ ở Đông Thổ sáng chế ra. Thiền tông nhị tổ Huệ Khả đại sư được lão tổ truyền lại. Huệ Khả đại sư vốn có pháp danh là Thần Quang, là người ở Lạc Dương, từ nhỏ đã thông suốt Khổng học và Lão học, tinh thâm huyền lí. Lúc Đạt Ma lão tổ trụ trì bổn tự, Thần Quang đại sư lên chùa xin thụ giáo thêm. Đạt Ma lão tổ thấy sở học của Thần Quang đại sư phức tạp, kiến thức hơn người, rất thâm sâu nên tự cho mình thông minh, khó lĩnh ngộ được nguyên lý Thiền, liền cự tuyệt không thu nạp. Thần Quang đại sư khổ cầu rất lâu, vẫn không được nhập môn liền cầm trường kiếm lên chém đứt cánh tay trái của mình.
Lệnh Hồ Xung ồ lên một tiếng, thầm nghĩ: Vị Thần Quang đại sư này tha thiết với việc học đạo mà kiên nghị đến vậy.
Phương Chứng nói:
– Đạt Ma lão tổ thấy Thần Quang đại sư thành tâm như vậy mới thu nhận làm đệ tử, đổi tên là Huệ Khả, về sau được Đạt Ma lão tổ truyền y bát và truyền Thiền tông pháp thống. Sở học của Đạt Ma lão tổ và nhị tổ là đạo lớn của Phật pháp, dựa theo kinh Lăng già mà minh tâm kiến tánh. Danh tiếng võ công của tông phái lão nạp tuy được lưu truyền trong thiên hạ, nếu thực ra chỉ học sau này thì không thể đủ được. Năm xưa, Đạt Ma lão tổ chỉ truyền thụ cho bọn đệ tử một ít pháp môn để rèn luyện thân thể, thân thể khỏe mạnh thì tâm mới sáng suốt, tâm sáng suốt thì mới dễ lĩnh ngộ. Nhưng đệ tử môn hạ đời sau thường mê học võ, lấy ngọn mà bỏ gốc, không theo tông chỉ võ công mà năm xưa lão tổ truyền thụ. Thật đáng buồn!
Phương trượng nói vậy rồi lắc đầu mấy cái. Một lúc sau Phương Chứng lại nói:
– Sau khi lão tổ viên tịch, nhị tổ tìm thấy một quyển kinh văn ở bên bồ đoàn của lão tổ, đó chính là Dịch cân kinh. Quyển kinh văn này nghĩa lý thâm ảo, nhị tổ gắng sức nghiên cứu nhưng không giải được, lòng nghĩ Đạt Ma lão tổ diện bích chín năm, để lại quyển kinh này bên bức tường, tuy ngôn từ sơ sài nhưng nhất định không phải tầm thường. Ngài đi khắp nơi tìm gặp cao tăng để cầu giải diệu đế. Nhưng thời đó nhị tổ đã là cao nhân đắc đạo, nhị tổ lão nhân gia đã khổ tâm suy nghĩ mà không giải được nên chuyện muốn cầu một bậc trí tuệ uyên thâm hơn nhị tổ trên đời này thì thật là khó. Cho nên suốt hơn hai mươi năm, mật nghĩa của kinh văn vẫn chưa có thể giải được. Một ngày nọ, nhị tổ gặp tuyệt đại pháp duyên, được cùng nhà sư ở Thiên Trúc pháp hiệu là Ban Thích Mật Đế tại núi Nga Mi tỉnh Tứ Xuyên đàm luận Phật học, ý hợp tâm đầu. Nhị tổ lấy quyển Dịch cân kinh ra cùng với Ban Thích Mật Đế nghiên cứu. Hai vị cao tăng ở trên đỉnh Nga Mi cùng nhau lý giải, trải qua bốn mươi chín ngày, cuối cùng cũng không hiểu hết.
Phương Sinh chấp tay niệm:
– A Di Đà Phật. Thiện tai, thiện tai!
Phương Chứng phương trượng nói tiếp:
– Nhưng Ban Thích Mật Đế đại sư là một vị cao tăng về Thiền tông Phật học. Cho đến hai mươi năm sau, trên đường đi Trường An, nhị tổ gặp một vị thanh niên tinh thông võ nghệ, nhị tổ cùng người này đàm luận ba ngày ba đêm mới lĩnh ngộ hết bí ảo võ học trong Dịch cân kinh.
Phương trượng ngừng một lúc rồi nói tiếp:
– Vị thanh niên này là khai quốc đại công thần của Đường triều, về sau phò tá Thái Tông bình định rợ Đột Quyết, ra biên cương là tướng võ, vào triều đình làm quan văn, được phong tước Lý Vệ Công bình định. Sở dĩ Lý Vệ Công lập được kỳ công tuyệt thế như vậy, xem ra cũng nhờ vào Dịch cân kinh không ít.
Lệnh Hồ Xung ồ một tiếng thầm nghĩ: Thì ra Dịch cân kinh có nhiều lai lịch như vậy.
Phương Chứng lại nói:
– Công phu của Dịch cân kinh bao quát các mạch của con người, liên hệ đến tinh thần ngũ tạng; tròn trịa mà không tan, đi mà không dứt, khí từ trong phát sinh, huyết từ ngoài truyền vào. Sau khi luyện thành kinh này thì động lực phát, vừa tích tụ vừa phóng ra, tự nhiên mà thi triển, xuất ra ở thời điểm mà nó tự xuất, như nước triều dâng, như tiếng sấm dậy. Thiếu hiệp, luyện Dịch cân kinh này chẳng khác nào con thuyền nhỏ đương đầu trên làn sóng dữ, đợt sóng dâng lên hạ xuống thì con thuyền nhỏ cũng cao lên hạ xuống, đâu cần phải dùng lực? Nếu muốn dùng lực thì cũng đâu có lực mà dùng? Có lực cũng không biết dùng vào đâu.
Lệnh Hồ Xung liên tục gật đầu, cảm thấy đạo lý này thật uyên bác tinh thâm, cùng với đạo lý về kiếm thuật mà Phong Thanh Dương dạy có nhiều điều tương đồng.
Phương Chứng lại nói:
– Chỉ vì uy lực của Dịch cân kinh này như vậy nên mấy trăm năm nay không phải kỳ nhân thì không truyền, không có duyên cũng không truyền, dù là đệ tử xuất chúng của bổn phái, nếu không có phúc duyên cũng không được truyền. Như Phương Sinh sư đệ, võ công rất cao, trì giới cũng rất tinh nghiêm, là nhân vật kiệt xuất của bổn tự mà không được sư phụ đời trước truyền thụ kinh này.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Dạ. Vãn bối không có phúc duyên này, không dám vọng tự can cầu.
Phương Chứng lắc đầu nói:
Lệnh Hồ Xung vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, trái tim đập thình thịch, không ngờ bí mật tuyệt kỹ hàng đầu của Thiếu Lâm, ngay cả Phương Sinh đại sư là vị cao tăng của Thiếu Lâm cũng không được truyền thụ mà mình lại có duyên.
Phương Chứng từ từ nói:
– Phật môn quảng đại, chỉ độ cho người có duyên. Thiếu hiệp là truyền nhân của Phong lão tiên sinh, đây là duyên thứ nhất; thiếu hiệp đến Thiếu Lâm tự của lão nạp là duyên thứ hai. Nếu thiếu hiệp không luyện Dịch cân kinh thì phải mất mạng, riêng Phương Sinh đại sư nếu luyện tập dĩ nhiên sẽ có ích, nhưng không luyện cũng không hại gì, chỗ phân biệt này lại là duyên thứ ba.
Phương Sinh chấp tay nói:
– Lệnh Hồ thiếu hiệp phúc duyên thâm hậu, Phương Sinh cũng được an ủi.
Phương Chứng nói:
– Sư đệ, tính sư đệ vốn cố chấp, cái chí lý của môn giải thoát “vô tướng, vô tác” này, sư đệ vẫn chưa thấu triệt, vấn đề sinh tử cũng chưa thấu đáo. Có điều ta không truyền Dịch cân kinh cho sư đệ thật sự là sợ sau khi đệ nghiên cứu luyện tập môn võ học thượng thừa này thì chìm đắm vào nó, không tránh khỏi hoang phế chính nghiệp tham thiền.
Vẻ mặt Phương Sinh lo sợ. Lão đứng lên cung kính nói:
– Sư huynh giáo hối phải lắm.
Phương Chứng gật nhẹ, biểu thị ý khích lệ. Một lúc sau thấy vẻ mặt Phương Sinh lộ vẻ tươi cười, lão mới vui mừng lại gật đầu. Lão quay qua Lệnh Hồ Xung nói:
– Bên trong chuyện này vốn có một trở ngại lớn, bây giờ cũng vượt qua được. Từ Đạt Ma tổ sư đến nay, Dịch cân kinh này chỉ truyền cho đệ tử bổn tự, không truyền cho người ngoài. Cho nên thiếu hiệp phải quy đầu làm môn hạ Thiếu Lâm tự, làm đệ tử tục gia của phái Thiếu Lâm.
Lão ngừng một lúc lại nói tiếp:
– Nếu thiếu hiệp không tỵ hiềm, chịu làm môn hạ của lão nạp là đệ tử thuộc hàng chữ Quốc, thì tên sẽ đổi thành Lệnh Hồ Quốc Xung.
Phương Sinh vui mừng nói:
– Chúc mừng thiếu hiệp. Bình sanh phương trượng sư huynh của lão nạp chỉ thu nhận hai người đệ tử, đó là chuyện ba mươi năm về trước. Thiếu hiệp làm đệ tử chân truyền của phương trượng sư huynh lão nạp, không những được truyền thụ võ học cao thâm của Dịch cân kinh mà mười hai môn tuyệt nghệ Thiếu Lâm phương trượng sư huynh của lão nạp tinh thông cũng có thể lượng tài của thiếu hiệp mà truyền thụ cho. Lúc đó nhất định thiếu hiệp có thể làm rạng danh môn phái của lão nạp, trong võ lâm lại xuất hiện một kỳ nhân.
Lệnh Hồ Xung đứng lên nói:
– Đa tạ ý tốt của phương trượng đại sư, vãn bối cảm kích vô cùng, nhưng vãn bối là đệ tử môn hạ phái Hoa Sơn, không thể cải đầu minh sư khác được.
Phương Chứng mỉm cười nói:
– Lão nạp nói trở ngại thì cũng chỉ nói để cho có nói thôi. Thiếu hiệp, bây giờ thiếu hiệp đã không còn là đệ tử phái Hoa Sơn rồi, chỉ e thiếu hiệp chưa biết.
Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi, run run nói:
– Vãn bối… vãn bối… tại sao không còn là môn hạ phái Hoa Sơn?
Phương Chứng lấy một phong thư từ trong tay áo ra nói:
– Mời thiếu hiệp xem qua.
Lão khẽ phóng bàn tay một cái, phong thư bay thẳng đến trước mặt Lệnh Hồ Xung.
Lệnh Hồ Xung đưa hai tay đón lấy, cảm thấy toàn thân chấn động, không kìm được ngạc nhiên: Vị phương trượng đại sư này quả nhiên nội công cao thâm khôn lường, chỉ một phong thư mỏng như vậy mà có thể truyền được nội lực thâm hậu vào để phóng qua.
Lệnh Hồ Xung thấy trên phong thư có đóng ấn đỏ “Chưởng môn phái Hoa Sơn”, phong thư đề:“Cẩn trình chưởng môn đại sư phái Thiếu Lâm”, chín chữ này viết ngay ngắn, nét bút nghiêm trang, đúng là đích thân sư phụ Nhạc Bất Quần chấp bút. Lệnh Hồ Xung linh tính có chuyện chẳng lành, hai tay run run rút bức thư ra, xem một lượt. Chàng thật không thể tin nổi trên đời này lại có chuyện này, lại xem một lượt nữa, liền cảm thấy trời đất quay cuồng, ú ớ mấy tiếng rồi ngã lăn xuống đất.
Lúc tỉnh dậy, Lệnh Hồ Xung thấy mình đang ở trong lòng Phương Sinh đại sư. Chàng chống tay đứng dậy, không kìm được khóc òa lên. Phương Sinh hỏi:
– Vì sao thiếu hiệp đau lòng đến vậy? Chẳng lẽ tôn sư có điều chi bất trắc?
Lệnh Hồ Xung đưa trả bức thư lại cho Phương Sinh nghẹn ngào nói:
– Xin đại sư coi đi.
Phương Sinh cầm bức thư, thấy bức thư viết: “Nhạc Bất Quần chưởng môn phái Hoa Sơn dập đầu sát đất, trình thư lên chưởng môn đại sư phái Thiếu Lâm: Kẻ hèn này bất đức, chấp chưởng môn hộ phái Hoa Sơn, đã lâu không vấn an đại sư, thật là khiếm khuyết. Nay nghịch đồ tệ phái là Lệnh Hồ Xung tính khí ương ngạnh, nhiều lần vi phạm môn quy, gần đây còn kết giao với yêu nghiệt, hòa mình cùng bọn thổ phỉ. Bất Quần bất tài, tuy đã nghiêm huấn trừng trị vẫn không hiệu quả. Để duy trì chính khí võ lâm, bảo toàn danh dự chính phái, bổn phái đã trục xuất nghịch đồ Lệnh Hồ Xung ra khỏi môn hộ. Từ nay về sau, tên nghịch đồ này không còn là đệ tử của tệ phái, nếu hắn cấu kết với dâm tà, gây họa cho giang hồ thì Nhạc Bất Quần mong các bằng hữu chính phái tru diệt hắn đi. Thư bẩm lên rất hoảng sợ, nói không hết ý, mong đại sư lượng thứ”.
Phương Sinh xem xong cũng rất đỗi ngạc nhiên, nghĩ không ra lời gì để an ủi Lệnh Hồ Xung. Lão liền đưa bức thư lại cho Phương Chứng, thấy Lệnh Hồ Xung nước mắt đầm đìa, lão thở dài nói:
– Thiếu hiệp, thiếu hiệp giao du với người trên Hắc Mộc Nhai thì không nên.
Phương Chứng nói:
– Các chưởng môn nhân chính phái chắc đều đã nhận được thư của tôn sư và truyền xuống môn hạ. Dù thiếu hiệp không bị thương thì chỉ cần ra khỏi cửa bổn tự cũng gặp lắm chông gai trên giang hồ vì các đệ tử môn hạ chính phái đều coi thiếu hiệp là thù địch.
Lệnh Hồ Xung ngẩn người ra, nhớ lúc ở bên khe suối, Doanh Doanh cũng nói như vậy. Bây giờ không những những kẻ bàng môn tả đạo muốn giết mình mà môn hạ của chính phái ai ai cũng coi mình là địch. Thật là trời đất bao la nhưng không còn chỗ dung. Lệnh Hồ Xung lại nghĩ đến thâm ân nghĩa trọng của sư môn, sư phụ và sư nương đối với mình xưa nay như phụ mẫu, không những đã có ân đức truyền nghệ mà còn có ân đức dưỡng dục. Không ngờ tính ta ngông cuồng nên bị trục xuất khỏi sư môn. Chàng cho rằng lúc sư phụ viết bức thư này chắc còn đau lòng hơn nữa. Nhất thời chàng vừa đau lòng vừa hổ thẹn, hận không đập đầu tự tử đi cho rồi. Trong làn nước mắt mờ mờ, Lệnh Hồ Xung thấy Phương Chứng và Phương Sinh hai vị đại sư đều lộ vẻ thương xót. Bỗng nhiên chàng lại nhớ đến chuyện Lưu Chính Phong muốn rửa tay gác kiếm thối xuất võ lâm, chỉ vì kết giao với Khúc Dương trưởng lão Ma giáo mà bị mất mạng dưới tay phái Tung Sơn. Có thể thấy chính tà không đội trời chung, ngay cả Lưu Chính Phong là người nghệ cao thế lớn như vậy cũng không tránh khỏi, huống chi chàng là thiếu niên đơn độc không người thân thuộc, hèn hạ không đáng nói. Lại nữa, còn tụ hội quần tà trên Ngũ Bá Cương, gây ra chuyện động trời như vậy?
Phương Chứng từ từ nói:
– Khổ hải vô biên, hồi đầu thị ngạn. Dù là gian nhân không từ thập ác, mà biết hồi tâm hối lỗi, Phật môn cũng mở rộng. Thiếu hiệp còn nhỏ tuổi, nhất thời sẩy chân, vô tình kết giao với bọn phỉ, chẳng lẽ không còn đường sám hối? Mối liên quan giữa thiếu hiệp và phái Hoa Sơn dù đã bị đứt đoạn, nhưng từ nay về sau làm môn hạ Thiếu Lâm của lão nạp, sửa đổi lỗi lầm, làm lại cuộc đời, thì trong võ lâm cũng chẳng có ai làm khó dễ gì thiếu hiệp nữa.
Phương Chứng nói mấy câu này rất dịu dàng, nhưng lại nghiêm nghị vô cùng.
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Bây giờ ta không còn đường nào để đi, nếu nương dựa vào môn hạ phái Thiếu Lâm, không những có thể học được nội công thần diệu, cứu được tính mệnh mà uy danh của phái Thiếu Lâm trên giang hồ khiến không ai dám sinh sự với đệ tử của Phương Chứng đại sư.
Nhưng lúc này, ngực chàng lại bùng lên chí khí quật cường. Lệnh Hồ Xung nghĩ: Bậc đại trượng phu không thể ngang nhiên tự lập giữa trời đất, phải chai mặt nương tựa vào phái khác để mà cầu an thì còn gì là anh hùng hảo hán? Trên giang hồ ngàn vạn người muốn giết ta, cứ để bọn họ giết cho rồi. Sư phụ không cần ta, trục xuất ta ra khỏi phái Hoa Sơn, thì ta độc lai, độc vãng cũng có sao đâu?
Lệnh Hồ Xung nghĩ đến đây, bất giác bầu nhiệt huyết bùng lên miệng khô khốc, chỉ muốn uống mấy chục bát rượu mạnh. Cái gì sinh tử môn phái, buồn phiền số mạng đều gạt ra ngoài hết. Ngày trước, lòng chàng lúc nào cũng canh cánh hình bóng của Nhạc Linh San, nhưng bây giờ cô cũng như người dưng nước lã thôi.
Lệnh Hồ Xung đứng dậy, quỳ xuống trước mặt Phương Chứng và Phương Sinh, cung kính khấu đầu mấy cái. Hai lão tăng cho rằng Lệnh Hồ Xung đã quyết ý quy đầu phái Thiếu Lâm, nét mặt lộ vẻ tươi cười.
Lệnh Hồ Xung đứng dậy lớn tiếng nói:
– Vãn bối đã không được sư môn dung tình, không còn mặt mũi nào cải đầu phái khác. Hai vị đại sư có lòng từ bi, vãn bối cảm kích vô cùng. Bây giờ xin bái biệt.
Phương Chứng ngạc nhiên, không ngờ thiếu niên này lại tuyệt không sợ chết như vậy.
Phương Sinh khuyên:
– Thiếu hiệp, chuyện này có liên quan đến sự sống chết của thiếu hiệp, không nên sinh cường hiếu thắng nhất thời.
Lệnh Hồ Xung cười hề hề, quay người đi ra. Lòng chất chứa bao nỗi bất bình, chân bước càng nhanh ra khỏi Thiếu Lâm tự.