Hồi 38: Chén chú chén anh, đồng bệnh si tình thành huynh đệ

Hồi 38: Chén chú chén anh, đồng bệnh si tình thành huynh đệ

Hư Trúc nhìn xuống vực sâu, thấy không có cách nào trèo xuống được. Y nhìn bọn nữ nhân đang lo lắng, nghĩ thầm:“Bọn họ gọi ta là chủ nhân, mà gặp chuyện khó giải quyết ta lại không có kế sách gì, thì nói chuyện sao được? Kinh Phật có dạy: lục độ của Bồ Tát thì bố thí là đầu, ta còn sợ cái gì mà không xả thân giúp người?” Y bèn cởi áo bào của Phù Mẫn Nghi vừa may tặng, cất tiếng gọi:“Thạch tẩu! Cho ta mượn binh khí.” Thạch tẩu “Vâng” một tiếng, trở chuôi kính cẩn trao thanh Liễu diệp đao sang.

Hư Trúc đón lấy, vận Bắc Minh chân khí truyền vào thanh Liễu diệp đao, rung cổ tay một cái. Một tiếng “chát” vang lên, đầu xích sắt gắn vào vách núi phía bên này đã bị chặt đứt. Liễu diệp đao vừa mỏng vừa nhỏ, tuy sắc bén nhưng không phải là một thanh bảo đao, thế mà Hư Trúc vận chân khí vào lại chặt xích sắt dễ như chặt tre. Hư Trúc trả đao cho Thạch tẩu, rồi cầm lấy đoạn xích sắt đề khí nhảy vọt ra vực thẳm.

Quần nữ cất tiếng la hoảng. Dư bà, Thạch tẩu, Phù Mẫn Nghi cùng kêu lên: “Chủ nhân! Đừng mạo hiểm!” Tiếng hô chưa dứt thì Hư Trúc đã nhảy đến giữa khe núi, vận động chân khí trong người, đang lơ lửng trên không chợt lộn người một cái, bay qua gần đến bờ bên kia. Thân thể y hạ thấp xuống, xem ra không khỏi rơi xuống vực nát xương. Nhưng trong lúc đang hạ xuống, Hư Trúc liền vung đoạn dây sắt ra chiêu Tần Liễu Xuân Yến, quấn được vào nửa đoạn dây xích đang treo ở vách núi bên kia, rồi y mượn đà vọt người lên một vòng, đứng vững bên kia bờ vực thẳm, Hư Trúc quay lại nói: “Mọi người đợi ở đây, để ta đi xem tình hình ra sao đã.”

Bọn Dư bà vừa sợ hãi vừa kính phục, đồng thanh đáp: “Xin chủ nhân cẩn thận.”

Hư Trúc chạy ra sau núi, tìm chỗ vừa có tiếng rú. Y chạy đến một quãng đường hẹp thì thấy xác hai nữ nhân nằm lăn ra đất, đầu lìa khỏi cổ, máu tươi vẫn còn đang chảy. Hư Trúc chắp tay nói: “A di đà Phật! Tội nghiệp! Tội nghiệp!”, rồi quì bên hai xác chết niệm một bài Vãng Sinh Chú, sau đó mới theo đường mòn chạy lên đỉnh núi. Càng lên cao sương trắng càng dày đặc che khuất cả lối đi, nhưng y chạy rất nhanh, không đầy nửa giờ đã đến đỉnh núi Phiêu Diểu. Hư Trúc cố nhìn xuyên qua đám mây mù, chỉ thấy những cây tùng to lớn, tuyệt không một tiếng người. Y ngẩn ra tự hỏi: “Quần nữ bộ Quân Thiên bị giết sạch rồi ư? Thật là oan nghiệt!” Y liền hái mấy trái tùng nhét vào trong bọc, nghĩ thầm: “Trái tùng ném ra cũng có thể chết người. Ta phải hết sức nhẹ tay, cốt để địch nhân hoảng sợ mà chạy trốn, nhất định không vô ý giết ai.”

Đường ở chỗ này lót đá xanh thật là ngay ngắn, phiến nào cũng dài tám thước, rộng ba thước. Đây là vùng núi đá, dĩ nhiên thừa thãi vật liệu, nhưng đẽo gọt cho thành một đại lộ nhẵn nhụi thì thật là công trình vĩ đại, xem chừng không phải do quần nữ thuộc hạ Đồng Mỗ làm ra. Con đường lớn lát đá xanh này dài chừng hai dặm, cuối đường có một tòa lâu đài to lớn xây bằng đá. Hai cánh cổng có khắc hai con chim thứu cao đến ba trượng, mỏ nhọn vuốt sắc trông oai phong lẫm liệt. Cánh cổng chỉ khép hờ, vẫn không thấy một bóng người.

Hư Trúc từ từ tiến vào, vượt qua hai gian đình viện, bỗng nghe tiếng người quát hỏi: “Con giặc cái cất giấu bảo vật ở đâu? Bọn mi có chịu cung khai không?” Một thanh âm phụ nữ mắng lại: “Quân cẩu tặc! Việc đã đến thế này, chúng ta còn ham sống nữa ư? Bọn mi chỉ nằm mơ thôi.” Lại có tiếng nam nhân nói: “Vân đảo chúa! Chúng ta cứ ôn tồn nói chuyện, không phải nóng nảy làm gì? Vân đảo chúa đối xử với nữ nhân như vậy, không khỏi có điều thái quá.”

Hư Trúc nhận ra lời khuyên giải đó là thanh âm của Đoàn công tử nước Đại Lý. Lúc Ô Lão Đại toan loạn đao phân thây Đồng Mỗ, cũng chỉ có vị Đoàn công tử này dùng lời chính trực khuyên can. Hư Trúc nghĩ thầm: “Vị công tử này dường như không biết võ công, song khí phách anh hùng, đầy lòng nghĩa hiệp, hơn những tay cao thủ võ học nhiều. Thật khiến cho người ta phải bội phục.”

Vân đảo chúa lại nói: “Chà chà! Bọn nha đầu quỷ sứ này muốn chết thì dễ lắm, nhưng trong thiên hạ đâu có chuyện chết dễ dàng thế được? Đảo Bích Thạch của ta có mười bảy thứ hình phạt kỳ dị, để ta cho bọn mi nếm từng thứ một. Nghe nói động Hắc Thạch đảo Phục Sa cũng có nhiều hình phạt lạ lùng, còn lợi hại hơn đảo Bích Thạch của ta. Quý động cũng nên biểu diễn cho anh em được mở rộng tầm mắt.” Cả bọn hoan hô rầm trời, có người lại đề nghị: “Bây giờ chúng ta mở cuộc thi, xem đảo nào, động nào có những hình phạt hiệu nghiệm nhất.”

Chỉ nghe tiếng náo động cũng đủ biết bọn này đông đến mấy trăm người, tiếng la ó reo hò muốn chọc thủng cả màng nhĩ. Hư Trúc muốn tìm khe hở để nhìn vào, nhưng tòa đại sảnh này xây dày khít bằng những tảng đá lớn, không một kẽ hở. Y ngẫm nghĩ một lát, rồi bốc đất bùn trát lên mặt, ngang nhiên tiến vào sảnh đường.

Hết thảy bàn ghế trong đại sảnh đều có người ngồi la liệt, còn đến quá nửa không có chỗ phải ngồi dưới đất, lại còn nhiều người đi qua đi lại, cười cười nói nói. Giữa sảnh đường có hơn hai chục nữ nhân áo vàng ngồi dưới đất không nhúc nhích, rõ ràng đã bị điểm huyệt. Quá nửa bọn nữ nhân mình đầy vết máu, bị thương rất nặng, chắc chắn là thuộc hạ bộ Quân Thiên. Trong sảnh đang nhốn nháo, lúc Hư Trúc bước vào cũng có mấy người đưa mắt nhìn y, nhưng thấy y không phải đàn bà thì biết ngay không phải là nhân vật cung Linh Thứu. Ai cũng tưởng y là đệ tử của động chúa hay đảo chúa nào đó, chẳng thèm để ý.

Hư Trúc ngồi xuống ngưỡng cửa, nhìn bốn phía thì thấy Ô Lão Đại đang ngồi trên cái ghế lớn nhất ở hướng Tây, vẻ mặt tiều tụy nhưng cặp mắt vẫn lộ hung quang. Một hán tử to lớn cầm roi da đứng bên bọn nữ nhân, không ngớt quát mắng để bức bách bọn này cung khai nơi cất giấu bảo vật của Đồng Mỗ, nhưng quần nữ thà chết không chịu nói.

Ô Lão Đại lên tiếng: “Bọn nha đầu này đã chết đến gáy mà còn lì lợm. Ta nói cho mà biết, Đồng Mỗ đã bị sư muội hắn là Lý Thu Thủy giết chết rồi, chính mắt ta trông thấy. Bọn mi sớm ngoan ngoãn đầu hàng là hơn, chúng ta không giết làm gì.”

Một nữ nhân áo vàng đứng tuổi thét lên: “Chỉ ăn nói hồ đồ! Giáo chủ ta võ công tuyệt thế, đã luyện thành Kim Cương Bất Hoại, còn ai làm hại lão nhân gia được nữa? Bọn mi muốn tìm bí quyết hóa giải Sinh Tử Phù, e rằng chỉ là chuyện nằm mơ. Chắc hẳn giáo chủ vẫn bình yên vô sự, trong chốc lát sẽ quay về trừng trị bọn phản nghịch. Giả tỉ người đã qui tiên, thì bọn mi cũng không cách nào hóa giải Sinh Tử Phù, trong vòng một năm sẽ đau khổ rên la cho đến chết.”

Ô Lão Đại lạnh lùng đáp: “Được lắm! Mi chưa tin, để ta cho mi xem một vật.” Hắn lấy một cái bọc nhỏ, mở ra, bên trong rõ ràng là một cái chân người. Cả Hư Trúc lẫn bọn nữ nhân cùng nhận ra cái chân và chiếc giày của Đồng Mỗ, bất giác la lên một tiếng. Ô Lão Đại nói: “Lý Thu Thủy đem Đồng Mỗ chặt làm tám khúc, quăng tứ tung dưới khe núi. Ô mỗ tiện tay lượm một khúc chân đem về chơi. Bọn người nhìn kỹ xem, có phải hàng giả không?”

Quần nữ bộ Quân Thiên sớm tối không rời Đồng Mỗ, dĩ nhiên nhận được đó là chân trái của bà. Họ biết Ô Lão Đại không nói dối, bất giác đều khóc rống lên.

Bọn động chúa, đảo chúa sung sướng nhảy lên reo hò: “Con giặc già đó chết rồi, thật là tuyệt diệu!” “Từ nay trời cao trong sáng, bốn bể yên vui, chúng ta được sống tự do nhàn hạ.” “Ô Lão Đại! Ngươi thật là láo lếu, chuyện hay như thế mà không cho chúng ta biết. Nhất định phải phạt ngươi ba bát rượu lớn!” Bỗng có người la lên đầy vẻ thê lương: “Mụ chết rồi ư? Hỡi ôi! Thế thì Sinh Tử Phù trong người chúng ta không ai phá giải được nữa.”

Đột nhiên trong đám đông có tiếng thét cực kỳ khủng khiếp, vừa giống hổ gầm vừa giống sói tru, mọi người đều cả kinh im bặt. Trong đại sảnh, trừ tiếng kêu gào của mãnh thú bị thương, tuyệt không có tiếng động nào khác. Một người béo tròn béo trục đang lăn lộn dưới đất, hết cào lên mặt lại xé áo để hở đám lông ngực đen sì, hai tay cào cấu tựa hồ muốn móc ruột gan ra. Tay gã, mặt gã, ngực gã đều chảy máu đỏ lòm, mà mỗi lúc lại cào mạnh hơn, tiếng gào thét càng về sau càng thêm ghê rợn, tưởng chừng như đang bị ma quỉ đòi mạng. Có người khẽ nói: “Sinh Tử Phù sắp lấy mạng y rồi!”

Hư Trúc từng trúng tới chín cái Sinh Tử Phù, nhưng chẳng bao lâu đã được Đồng Mỗ truyền phép hóa giải, nên chưa đau khổ mấy. Bây giờ y thấy gã béo mập muốn tự moi gan ruột ra, không khỏi kinh tâm động phách. Bọn động chúa đảo chúa bị Đồng Mỗ gieo Sinh Tử Phù vào người, khiếp hãi đến thế cũng là dễ hiểu.

Trong khoảnh khắc, quần áo gã béo ỵ đã rách mướp, da thịt chỗ nào cũng có dấu móng tay cho tới chảy máu đầm đìa. Trong đám đông bỗng có tiếng nói: “Ca ca! Ráng bình tĩnh lại một chút.” Một người vừa chạy ra vừa nói tiếp: “Để tiểu đệ điểm huyệt đã, rồi sẽ tìm phương điều trị.” Tướng mạo gã này tương tự như gã béo, nhưng nhỏ tuổi hơn, người cũng không mập bằng, chỉ nhìn cũng biết là anh em ruột. Mặt đầy vẻ sợ hãi, gã thận trọng đến gần gã béo, còn cách chừng ba thước thì đột nhiên phóng chỉ điểm vào huyệt Kiên Tỉnh. Gã béo né người đi tránh được, lại xoay tay lại ôm chặt lấy gã kia, há miệng ra cắn vào mặt. Gã kia la lên ầm ĩ: “Ca ca! Buông tay ra! Đệ đây mà!” Nhưng gã béo đã mê man, cắn loạn lên như người điên. Gã kia cố giãy giụa mà không thoát nổi, đã bị ca ca cắn đứt mấy miếng thịt trên mặt, máu chảy đầm đìa, kêu gào thảm thiết.

Đoàn Dự quay lại nói với Vương Ngữ Yên: “Vương cô nương! Phải nghĩ cách cứu họ đi chứ?” Vương Ngữ Yên nhíu cặp mày thanh tú, đáp: “Người đó phát điên rồi, sức mạnh vô cùng, lại không theo lề lối võ công chi hết, ta không có cách nào.” Đoàn Dự quay sang năn nỉ Mộ Dung Phục: “Mộ Dung huynh! Nhà Mộ Dung có thần kỹ Gậy ông đập lưng ông, có thể dùng cái bệnh của y để chữa cho y được không?” Mộ Dung Phục không đáp, mặt đầy vẻ vô tình. Bao Bất Đồng hung hăng lên tiếng: “Ngươi dám kêu công tử ta học cái chiêu Cẩu Xực Xí Quách mà tới cắn hắn một miếng ư?” Đoàn Dự băn khoăn đáp: “Đúng là đệ ăn nói bừa bãi, xin Bao huynh đừng trách”. Chàng đến gần gã béo, lên tiếng nói: “Tôn huynh! Người này là em ruột tôn huynh, mau buông ra đi!” Gã béo lại càng ghì chặt, hai anh em cùng gầm rú như đôi mãnh thú.

Vân đảo chúa túm lấy một cô gái áo vàng, hỏi: “Quá nửa số người trong đại sảnh đã trúng Sinh Tử Phù của mụ quỉ lùn, chẳng mấy chốc ai nấy đều nổi cơn điên, mấy trăm cái miệng sẽ cắn bọn mi nát ra. Mi có sợ không?” Cô gái liếc nhìn gã béo, vẻ mặt cực kỳ sợ hãi. Vân đảo chúa lại nói: “Bây giờ Đồng Mỗ đã chết rồi, mi hãy cho bọn ta biết chỗ cất giấu bí lục để cứu chữa cho mọi người. Dĩ nhiên ai cũng da tạ, không làm khó dễ bọn mi nữa.” Cô gái đáp: “Không phải là ta không chịu nói, thực tình… thực tình chẳng ai được biết. Giáo chủ hành sự không bao giờ để bọn nô tỳ chúng ta trông thấy.”

Sở dĩ Mộ Dung Phục theo bọn Ô Lão Đại lên núi, giúp họ một tay là vì muốn thu phục bọn kỳ nhân dị sĩ này, ngày sau có chỗ dùng. Y thấy Đồng Mỗ chết rồi, Sinh Tử Phù trong người bọn này không giải trừ được, lại tưởng Sinh Tử Phù là một loại kịch độc không thể dùng võ công để hóa tán, giả tỉ bọn chúng chết sạch thì cuộc mưu đồ đại sự lần này sẽ biến thành một giấc mơ xuân. Y cùng Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn nhìn nhau lắc đầu, vô kế khả thi.

Vân đảo chúa biết cô gái áo vàng nói thực, lại bắt đầu cảm thấy huyệt đạo trong người ngấm ngầm tê nhức, tựa như triệu chứng Sinh Tử Phù sắp phát tác. Gã giận dữ quát lên: “Hay lắm, quả nhiên mi không nói. Ta đập chết con nha đầu này rồi sẽ tính tiếp.” Gã vung cây roi dài lên veo véo, quật xuống đầu thiếu nữ. Chiêu này lực đạo cực kỳ mãnh liệt, nếu đập trúng thì dĩ nhiên đầu óc cô gái kia nát bét.

Bỗng nghe “vù” một tiếng, một vật gì đó từ ngoài cửa bắn vào bức tường đá đối diện, đập vào tường rồi văng ngược lại trúng vào lưng thiếu nữ, đẩy cô ta văng ra hơn một trượng. Cây roi dài của gã họ Vân đập xuống phiến đá xanh đánh “sầm” một tiếng, vụn đá bay tứ tung. Biến cố này chỉ trong chớp mắt, chẳng ai nhìn rõ người nào phóng ám khí, chỉ thấy dưới đất có một vật tròn tròn sắc vàng đang lăn long lóc, nhìn kỹ thì ra một trái tùng. Ai nấy cả sợ kêu lên: “Dùng một trái tùng nhỏ xíu mà đẩy được cô gái ra xa hơn trượng, nội lực thật là ghê gớm, không hiểu là ai?”.

Ô Lão Đại bỗng nghĩ ra một chuyện, la hoảng: “Đồng Mỗ! Chính là Đồng Mỗ!”.

Lúc Lý Thu Thủy chém đứt chân trái Đồng Mỗ, Ô Lão Đại nấp ở sau tảng đá lớn, chính mắt trông thấy Hư Trúc cùng mụ bị đánh rớt xuống vực thẳm trăm trượng, Ô Lão Đại liền nhặt khúc chân của Đồng Mỗ gói vào tấm vải dầu dem về, đoán là Đồng Mỗ chết rồi, nhưng không tận mắt trông thấy mụ chết ra sao nên vẫn còn băn khoăn. Hôm đó Hư Trúc dùng thủ pháp của Đồng Mỗ ném trái tùng trúng bụng y, Ô Lão Đại đã bị nếm mùi đau khổ. Bây giờ hắn thấy trái tùng trong nhà đại sảnh, cứ tưởng Đồng Mỗ chưa chết trở về, hồn vía lên mây.

Mọi người nghe Ô Lão Đại la “Đồng Mỗ” đều quay ra ngoài nhìn, trong đại sảnh vang lên những tiếng “sột soạt”, “choang choảng”, “leng keng”. Mấy trăm món binh khí đồng thời rút ra, âm thanh thật là ghê rợn. Tuy ai cũng cảm binh khí trong tay, nhưng đều lùi lại.

Mộ Dung Phục lại hiên ngang tiến lên hai bước ra gần cửa để xem Đồng Mỗ là nhân vật thế nào. Thực ra hôm trước Hư Trúc cõng Đồng Mỗ rơi từ đỉnh núi xuống, y đã dùng công phu Đẩu Chuyển Tinh Di hóa giải lực rơi, từng thấy mặt mụ rồi. Nhưng y không ngờ được cô gái thân hình bé nhỏ, khuôn mặt độ mười tám mười chín tuổi, đẹp tựa hoa xuân đó chính là Thiên Sơn Đồng Mỗ mà bọn ma đầu nghĩ tới phải khiếp vía kinh hồn.

Đoàn Dự lạng người ra đứng chắn trước mặt Vương Ngữ Yên, chỉ sợ nàng bị người ta đánh nhầm. Còn Vương Ngữ Yên lại kêu: “Biểu huynh! Cẩn thận!”

Mọi người chăm chăm nhìn mãi ra ngoài cửa, hồi lâu vẫn chẳng thấy động tĩnh gì. Bao Bất Đồng hô lớn: “Đồng Mỗ! Nếu mụ chê bọn khách chúng ta là bất lịch sự thì hãy xuất hiện đánh đi.” Ngoài cửa vẫn im lặng, không có tiếng đáp. Phong Ba Ác cũng nói: “Phải lắm! Để Phong mỗ lĩnh giáo Đồng Mỗ chiêu tuyệt học đầu tiên. Biết đánh không lại cũng phải đánh chơi, Phong mỗ hiếu chiến đã quen, chết cũng không chịu bỏ.” Gã nói xong bèn múa tít đơn đao che trước mặt, rồi lạng người xông ra cửa. Phong Ba Ác tuy tính tình hiếu chiến, kinh nghiệm rất nhiều, nhưng bản lĩnh chưa vào hạng nhất. Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Đồng coi gã như ruột thịt, biết gã không phải là đối thủ của Đồng Mỗ, cũng nhất tề xông ra tiếp tay.

Bọn động chúa đảo chúa có kẻ khen bốn gã kiêu dũng hơn người, có kẻ lại cười thầm: “Bọn ngươi chưa biết Đồng Mỗ lợi hại thế nào nên mới ngông cuồng như vậy, lát nữa được nếm mùi thì hối hận cũng muộn rồi.” Phong Ba Ác và Bao Bất Đồng đứng ngoài cửa, một gã giọng lanh lảnh, một gã giọng ồm ồm cứ kêu réo Đồng Mỗ khiêu chiến, nhưng trước sau vẫn không có ai đáp lại.

Người vừa ném trái tùng cứu thiếu nữ áo vàng chính là Hư Trúc. Bản tính y vốn trung thực, thấy mọi người sợ hãi hoảng loạn liền lên tiếng: “Không phải đâu, là ta đây. Đồng Mỗ đã qua đời thật rồi, các vị không cần phải nghi ngờ mà kinh hãi.” Hư Trúc thấy gã béo vẫn đang cắn xé em trai bèn chạy đến, giơ tay ra vỗ vào lưng gã. Cái vỗ này chính là một chiêu Thiên Sơn Lục Dương Chưởng, một luồng khí ấm áp ôn hòa thấm vào trong người gã béo, lập tức Sinh Tử Phù trong người gã tiêu tan.

Gã béo há miệng, buông tay, ngồi dậy thở hổn hển, vẻ mặt buồn rầu nói: “Hiền đệ làm sao vậy? Ai đả thương hiền đệ tàn nhẫn đến thế? Mau mau nói đi, ca ca quyết báo thù rửa hận cho hiền đệ.” Gã kia thấy anh tỉnh táo thì cả mừng, quên hết đau đớn, lớn tiếng reo: “Ca ca khỏi rồi! Ca ca khỏi rồi!”

Hư Trúc lại đưa tay vỗ vào vai bọn nữ nhân áo vàng, hỏi: “Phải chăng các vị ở bộ Quân Thiên? Các tỉ muội bộ Dương Thiên, Chu Thiên, Hiệu Thiên,.. đã về tới, chỉ vì xích sắt bị đứt nên nhất thời chưa đến đây được. Các vị mau mau đi tìm xích sắt hay dây lớn cũng được, chúng ta ra đó làm cầu đón họ về đã.” Bắc Minh chân khí đầy dẫy trong bàn tay Hư Trúc, bất luận bọn nữ nhân bộ Quân Thiên bị phong tỏa huyệt đạo nào, y cũng vỗ một cái là giải khai được hết.

Quần nữ vừa ngạc nhiên vừa hoan hỉ, lục tục đứng dậy nói: “Đa tạ tôn giá cứu mạng, chưa dám thỉnh giáo quý tính đại danh.” Mấy cô còn trẻ tính tình nóng nảy, chạy ra cửa hô to: “Chúng ta mau mau đi tiếp ứng cho các vị tỉ muội, rồi sẽ quay về quyết tử chiến cùng bọn phản tặc này.” Họ vừa hô vừa quay lại vẫy tay tạ ơn Hư Trúc.

Hư Trúc chắp tay nói: “Không dám! Không dám! Tại hạ chẳng có tài đức gì, không dám nghe các vị tạ ơn. Người đáng tạ ơn là một vị cao nhân khác, lão nhân gia chỉ mượn tay tại hạ mà thôi.” Ý Hư Trúc muốn nói nội lực cùng võ công của y đã được ba vị sư trưởng truyền thụ, chính là Đồng Mỗ đã cứu bọn này.

Quần nào thấy y chỉ giơ tay một cái là giải huyệt cho quần nữ xong xuôi, thật là thủ pháp kỳ diệu chưa được mắt thấy tai nghe bao giờ. Chúng nhìn Hư Trúc thấy tướng mạo tầm thường mà tuổi lại còn trẻ, nhất định không thể có công lực cao thâm đến thế. Chúng nghe nói là có cao nhân khác mượn tay để cứu bọn kia, tin chắc là Đồng Mỗ đã về tới cung Linh Thứu.

Ô Lão Đại đã ở cùng Hư Trúc mấy ngày trên đỉnh núi tuyết, bây giờ tuy nhà sư đã để tóc dài, phục sức kiểu khác, nhưng vừa mở miệng nói là hắn nhận ra ngay. Hắn nhảy xổ đến cạnh Hư Trúc, nắm lấy mạch môn bên tay phải, quát hỏi: “Tiểu hòa thượng! Đồng… Đồng Mỗ đã về tới đây rồi ư?”.

Hư Trúc đáp: “Ô tiên sinh! Bụng tiên sinh bị thương đã khỏi chưa? Tại hạ… tại hạ không phải là đệ tử nhà Phật nữa. Hỡi ơi! Những chuyện đã qua… nghĩ lại thật là xấu hổ.” Hư Trúc nói đến đây bất giác thẹn đỏ mặt lên, may mà y đã trát bùn lem luốc nên người ngoài không trông thấy.

Ô Lão Đại đã nắm được mạch môn Hư Trúc, nghĩ rằng y không có cách nào phản kháng, liền vận thêm hai thành nội lực. Hắn vừa muốn giữ Hư Trúc làm con tin vừa muốn buộc Hư Trúc mở miệng van xin, hy vọng rằng Đồng Mỗ quí trọng gã tiểu hòa thượng này, nếu muốn giết mình thì cũng phải ném chuột sợ vỡ đồ. Ngờ đâu Hư Trúc vẫn thản nhiên như không, nội lực của hắn phóng ra mất hút như hòn đá ném xuống biển. Ô Lão Đại hoảng sợ bèn không dám thúc đẩy nội lực nữa, nhưng vẫn chưa chịu buông tay.

Quần hào thấy Ô Lão Đại kiềm chế được mạch môn đối phương, đều cho rằng dù bản lĩnh Hư Trúc cao hơn Ô Lão Đại nhiều thì cũng không tài nào kháng cự được nữa. Họ lại nghĩ: “Nếu tiểu tử này đúng là cao thủ thì nhất quyết không để bị kiềm chế dễ dàng như thế.” Cả đám nhốn nháo bâu vào hỏi: “Thằng lỏi kia! Mi là ai? Ở đâu đến đấy?” “Tên họ mi là gì? Sư trưởng mi là ai?” “Ai phái mi đến đây? Có phải Đồng Mỗ không? Mụ ta còn sống hay chết rồi

Hư Trúc trả lời từng câu một, vẻ mặt rất khiêm cung: “Tại hạ đạo hiệu là Hư Trúc Tử. Đồng Mỗ đã qua đời rồi. Di thể lão nhân gia đã đem về bên kia Tiếp Thiên Kiều. Tại hạ vốn ở phái… Hỡi ôi!…. Nói ra xấu hổ, tại hạ đã lầm lỡ mất rồi, không tiện trình bày. Giả tỉ các vị không tin, thì xin  chờ lát nữa sẽ cùng hành lễ trước di hài của Đồng Mỗ lão nhân gia, tại hạ đến đây là để tham gia an táng. Phần lớn các vị vốn là thuộc hạ của lão nhân gia, tại hạ chỉ mong các vị quên đi chuyện cũ, phục lạy trước linh vị người để xóa bỏ những thù hận xưa kia thì thật là hay lắm.” Giọng điệu của y lúc thì hổ thẹn, lúc thì thương cảm, câu nọ chẳng dính với câu kia, sau cùng là mấy câu năn nỉ.

Quần hào thấy Hư Trúc nói lung tung, tựa như tâm trí không tỉnh táo, nên bớt sợ hãi, tính cuồng ngạo lại nổi lên. Chúng ngoác miệng ra mà thóa mạ: “Thằng lỏi con! Mi là cái thá gì mà dám bảo bọn ta cúi đầu lạy trước linh vị con quỷ lùn?” “Mẹ kiếp! Mụ ác tặc đó chết như thế nào? Cái chân chó này có phải của hắn không?”

Hư Trúc đáp: “Các vị vốn có thâm cừu với Đồng Mỗ, nhưng lão nhân gia đã tạ thế rồi, xin đừng ôm hận làm chi, cũng đừng thóa mạ người quá cố. Ô tiên sinh nói đúng, Đồng Mỗ đã chết dưới tay sư muội là Lý Thu Thủy. Khúc chân này đúng là di thể lão nhân gia. Hỡi ôi! Đời người như giấc mộng phải có lúc tỉnh, như hạt sương mai có lúc bay hơi. Lão nhân gia dù bản lĩnh nghiêng trời, rốt cuộc cũng công tán khí tuyệt, hóa thành bụi đất. Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô Quan Thế Âm bồ tát, Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát, xin tiếp dẫn Đồng Mỗ sớm trở về thế giới Tây phương cực lạc!”

Quần hào nghe Hư Trúc ăn nói trôi chảy, biết rằng Đồng Mỗ đã chết thật rồi. Bỗng có người hỏi: “Lúc Đồng Mỗ lâm tử, mi có ở bên cạnh mụ không?” Hư Trúc đáp: “Có. Tại hạ phục dịch bên mình lão nhân gia đã mấy tháng nay.” Quần hào đưa mắt nhìn nhau, cùng nghĩ một điều: “Dứt khoát bí quyết phá giải Sinh Tử Phù phải ở trong mình thằng lỏi này.”

Bóng xanh thấp thoáng, một người vọt đến cạnh Hư Trúc, túm lấy mạch môn ở tay trái y. Ô Lão Đại cũng thấy sau gáy mát rượi, đã bị kiếm kề vào cổ. Có người lên giọng dõng dạc nói: “Ô Lão Đại! Thả y ra ngay!”

Lúc Ô Lão Đại thấy có người nắm tay trái Hư Trúc, lão tưởng rằng bằng hữu đến giúp mình. Đến khi hắn phát giác ra có người uy hiếp mình, toan phóng chưởng chống đỡ thì đã chậm mất rồi, kiếm đã kề cổ, hắn chỉ còn chờ chết. Người đứng phía sau gằn giọng nói: “Ngươi không thả y ra, thì lập tức ta cắt cái đầu ngươi xuống.” Ô Lão Đại hốt hoảng buông tay Hư Trúc ra, nhảy vọt tới mấy bước rồi mới quay lại nói: “Châu Nhai Song Quái! Ô mỗ không quên chuyện này đâu!” .

Hán tử cầm kiếm uy hiếp y nhe răng cười nói: “Ô Lão Đại! Bất luận ngươi muốn sao cũng được, Châu Nhai Song Nghĩa xin đón tiếp.” Giang hồ đặt ngoại hiệu cho hai gã này là Châu Nhai Song Quái, nhưng chúng lại tự xưng là Châu Nhai Song Nghĩa. Đại quái nắm mạch môn Hư Trúc, còn nhị quái thọc tay vào túi áo y. Hư Trúc nghĩ thầm: “Chẳng hiểu các ngươi tìm cái chi, trong người ta chẳng có gì đáng giá hết.” Nhị quái lôi ra vật đầu tiên là bức họa của Vô Nhai Tử, liền mở ra coi.

Cả mấy trăm con mắt trong đại sảnh đều đổ dồn vào nhìn! Bức họa tuy đã bị Đông Mỗ đạp lên, lại bị ướt ở trong hầm nước đã song mỹ nữ trong tranh vẫn tươi đẹp linh động khác thường, tựa như sắp từ trong bức họa bước ra. Nét đan thanh thật đã đến mức xuất thần nhập hóa. Mọi người vừa nhìn vào bức họa, lập tức lại ngó, sang Vương Ngữ Yên. Những tiếng nói: “Ồ!”, “Ái chà!”, “Hừ!” vang lên không ngớt, người thì ngạc nhiên, người thì khinh miệt.

Quần hào cứ tưởng đây là một tranh sơn thủy, hoặc bản đồ chỉ đường đi tìm bí quyết hay linh dược phá giải Sinh Tử, ngờ đâu chỉ là chân dung Vương Ngữ Yên, tất cả đều thất vọng. Vương Ngữ Yên, Đoàn Dự cùng Mộ Dung Phục cũng “Ái chà!”, nhưng cảm tưởng lại khác nhau. Vương Ngữ Yên thấy Hư Trúc cất trong người bức chân dung của mình thì vừa kinh ngạc vừa thẹn thùng, mặt đỏ đến tận mang tai. Nàng tự hỏi: “Chẳng lẽ… chẳng lẽ… người này mới gặp ta một lần ở kỳ hội mà cũng để ý ghi nhớ vào tâm khảm, giống như Đoàn công tử? Nếu không thì sao y lại vẽ hình mình mà giấu trong người?” Đoàn Dự nghĩ: “Vương cô nương là tiên nữ hóa thân, dung mạo tuyệt thế. Vị tiểu sư phụ này điên đảo thần hồn cũng chẳng có chi là lạ. Hỡi ôi! Đáng tiếc là mình không có nét bút linh hoạt như y, nếu không thì cũng vẽ một bức chân dung Vương cô nương, để sau khi chia tay được sớm hôm chiêm ngưỡng, mối tương tư giảm bớt phần nào.” Mộ Dung Phục lại nghĩ: “Té ra tên tiểu hòa thượng này cũng là một con cóc ghẻ muốn sánh cùng thiên nga.”

Nhị quái liệng bức họa xuống đất rồi lại lục lọi trong người Hư Trúc. Chúng lôi ra được tờ điệp văn của chùa Thiếu Lâm cấp cho y trong lễ thế phát, một ít bạc vụn, mấy nắm lương khô, một đôi tất vải, chẳng có gì dính líu đến Sinh Tử Phù cả.

Quần hào đều sợ hai gã tìm được bí quyết hoặc linh đan sẽ chiếm làm của riêng, nên ai cũng chằm chằm nhìn chúng. Giả tỉ họ thấy hai người tìm được vật gì khác lạ là lập tức nhảy xổ lại cướp giật, chắc chắn xảy ra hỗn chiến.

Châu Nhai Đại Quái thóa mạ: “Thằng giặc thối tha này! Lúc con mụ ác tặc kia sắp chết đã nói với mi những gì?” Hư Trúc đáp: “Tiên sinh hỏi Đồng Mỗ lúc sắp chết đã nói gì với tại hạ ư? Hừ! Lão nhân gia chỉ nói: “Không phải hắn! Không phải hắn? Ha ha!”, sau đó cười ba tiếng rồi tắt thở.” Quần nào chẳng hiểu “Không phải hắn! Ha ha” là nghĩa làm sao, mấy người nóng tính mắng nhiếc om sòm.

Đại quái nói: “Con mẹ nó! Không phải hắn là sao? Mụ ác tặc còn nói gì nữa không?” Hư Trúc đáp: “Tiên sinh khi nhắc tới Đồng Mỗ lão nhân gia thì nên kính cẩn một chút, đừng thóa mạ người quá cố như vậy?” Đại quái nổi giận đùng đùng, vừa giơ tay trái lên đập xuống đỉnh đầu y vừa quát mắng: “Thằng giặc thối tha này! Ta thích thóa mạ mụ ác tặc thì đã làm sao?”

Ánh hàn quang lấp loáng, một thanh trường kiếm bỗng chĩa ngang ra trên đỉnh đầu Hư Trúc, lưỡi kiếm quay ngược lên. Giả tỉ Châu Nhai Đại Quái tiếp tục tập xuống thì bàn tay hắn phải đứt lìa chứ không trúng vào đầu HưTrúc, hắn kinh hãi vội thu chưởng về. Đà thu vội quá, người hắn bật ngửa ra sau, buông cổ tay Hư Trúc, lùi lại luôn ba bước. Nhưng hắn vẫn thấy lòng bàn tay trái hơi rát, giơ lên coi thì thấy một vệt rướm máu, nếu rút tay về chỉ chậm nửa cái nháy mắt là đứt mất bàn tay rồi! Hắn vừa kinh hãi vừa tức giận, trừng mắt nhìn xem ai phóng kiếm ra, thì thấy một lão già tuổi trạc ngũ tuần, mình mặc áo xanh, râu dài phất phơ, mặt mũi thanh tú, chính là Kiếm thần Trác Bất Phàm. Chiêu kiếm vừa rồi mau lẹ phi thường lại đúng phương vị, đủ biết kiếm thuật lão đã đến mức siêu quần. Châu Nhai Đại Quái nhớ lại hôm trước, Khu đảo chúa đảo Kiếm Ngư toan chạy trốn, chỉ trong khoảnh khắc đã bị lão Kiếm Thần này chặt đầu, nên tuy hắn nóng nảy mà không dám gây chuyện với vị cao thủ này. Hắn hỏi: “Các hạ ra tay đả thương tại hạ là có ý gì?”

Trác Bất Phàm mỉm cười đáp: “Mọi người chỉ trông vào gã nói ra cách hóa giải Sinh Tử Phù. Lão huynh nóng tính đem giết gã đi, khi Sinh Tử Phù trong mình các huynh đệ phát tác thì sao?” Châu Nhai Đại Quái cứng lưỡi, chỉ ấp úng: “Cái đó… Cái đó,.” Lúc Kiếm Thần bức bách Đại Quái lùi lại, khuỷu tay cũng không biết vô tình hay hữu ý đã thúc vào bả vai Nhị Quái. Nhị Quái đứng không vững, loạng choạng lùi lại bốn bước, trong người khí huyết nhộn nhạo cả lên. Gã gượng đứng vững lại được, nhưng cũng không dám lên tiếng gây gổ.

Trác Bất Phàm nhìn Hư Trúc ôn tồn hỏi: “Tiểu huynh đệ! Lúc Đồng Mỗ lâm tử, ngoài câu “Không phải hắn! Ha ha!”, còn nói gì nữa không?”

Hư Trúc đột nhiên đỏ mặt lên, hổ thẹn cúi đầu xuống, vẻ mặt sượng sùng như đang ăn vụng bị bắt quả tang. Thì ra y nghĩ tới câu nói của Đồng Mỗ: “Ngươi lấy bức họa ra để ta xé đi, khi đó ta không còn lo gì nữa, có thể chỉ cho ngươi đi tìm vị cô nương trong mộng.” Không ngờ khi Đồng Mỗ nhìn kỹ, phát giác ra mỹ nhân trong tranh không phải là Lý Thu Thủy, bà vừa sung sướng lại vừa đau khổ,rồi nhắm mắt lại không nói nữa. Hư Trúc nghĩ rằng: “Đồng Mỗ qua đời đột ngột, khắp thiên hạ chẳng còn ai biết tông tích và cô nương trong mộng kia, kiếp này ta không thể gặp lại nàng.” Y nghĩ tới đó, không khỏi ngẩn ngơ như mất cả hồn vía.

Trác Bất Phàm thấy Hư Trúc có vẻ khác lạ, đoán rằng y đang cố giữ bí mật gì đó, liền dịu giọng nói: “Tiểu huynh đệ! Đồng Mỗ đã nói điều chi, cứ nói ra cho anh em biết. Trác mỗ không làm khó dễ gì, lại tìm cách giúp tiểu huynh đệ giải quyết khó khăn.” Hư Trúc đỏ mặt lên, lắc đầu nói: “Chuyện này tại hạ không thể… không thể nói ra.” Trác Bất Phàm lại hỏi: “Sao tiểu huynh đệ không nói được? Hư Trúc đáp: “Việc này nói ra… Ôi chao! Tại hạ không nói được, dù tiên sinh có giết cũng chịu, nhất định không thể nói.” Trác Bất Phàm, cố gắng: “Tiểu huynh đệ không nói thật ư?” Hư Trúc đáp gọn: “Không nói!”

Trác Bất Phàm chăm chú nhìn Hư Trúc, thấy vẻ mặt y rất cương quyết. Soạt một tiếng, trường kiếm ra khỏi vỏ, hào quang lấp loáng, kiếm phong veo véo, chặt chiếc bàn bát tiên thành chín mảnh theo hình chữ Tỉnh. Vạch chữ Tỉnh thì chẳng có gì khó, chỉ lạ ở chỗ cái bàn bị chặt thành chín miếng vuông vắn bằng nhau không lớn không nhỏ, tựa như đã lấy thước đo rồi mới cắt. Trong đại sảnh vang lên tiếng hoan hô như sấm động.

Vương Ngữ Yên nhẹ nhàng nói: “Tuyệt kỹ Chu Công Kiếm này là của Nhất Tư Tuệ Kiếm Môn ở Kiến Dương tỉnh Phúc Kiến. Lão tiền bối họ Trác, ngoại hiệu Kiếm Thần, thì chắc đại danh là Trác Bất Phàm, chưởng môn phái Nhất Tự Tuệ Kiếm.” Nàng nói rất rành mạch, quần hào đang reo hò mà cũng nghe rõ, liền quay lại chăm chú nhìn Kiếm Thần. Trong đại sảnh lại yên lặng như tờ.

Trác Bất Phàm cười ha hả nói: “Nhãn lực cô nương thật là ghê gớm, chẳng những biết rõ môn phái mà còn gọi ra được kiêm chiêu cùng danh tự của lão phu.” Quần hào nghĩ thầm: “Trước nay chưa nghe nói đến phái Nhất Tự Tuệ Kiếm ở Phúc Kiến. Lão này kiếm thuật tinh diệu, lẽ ra môn phái lão tiếng tăm lừng lẫy mới phải, thế mà sao không ai biết?” Bỗng Trác Bất Phàm thở dài nói: “Môn phái của lão phu chỉ có chưởng môn chứ không có đệ tử! Cả ba đời phái Nhất Tự Tuệ Kiếm tổng cộng được sáu mươi hai người, ba mươi ba năm trước đã bị Thiên Sơn Đồng Mỗ giết sạch.” Mọi người đều kinh hãi nghĩ thầm: “Té ra lão này đến cung Linh Thứu để báo đại thù của sư môn.”

Bỗng Trác Bất Phàm rung thanh trường kiếm, nhìn Hư Trúc nói: “Tiểu huynh đệ! Mấy chiêu kiếm pháp này ta muốn truyền cho tiểu huynh đệ. Tiểu huynh đệ tính sao?”

Hắn vừa nói xong, quần hùng đều lộ vẻ kinh ngạc. Người học võ nếu gặp cơ duyên, được cao nhân thương yêu truyền cho một vài tuyệt chiêu thì có thể suốt đời tiếng tăm lừng lẫy, tính mạng được bảo đảm. Nhưng trên giang hồ, những kẻ hiểm độc, lừa thầy phản bạn cũng không phải là ít, nên tìm được người dạy võ công chẳng phải dễ dàng. Ai ai cũng thấy kiếm thuật Trác Bất Phàm đã đến chỗ xuất quỷ nhập thần, thế mà lão chịu truyền thụ cho Hư Trúc, chắc cũng vì lời di ngôn của Đồng Mỗ có liên quan đến Sinh Tử Phù.

Hư Trúc chưa kịp trả lời, đột nhiên có thanh âm lạnh lùng hỏi: “Trác tiên sinh! Tiên sinh cũng bị trúng Sinh Tử Phù chăng?” Trác Bất Phàm quay nhìn, thì ra là một đạo cô trung niên, liền hỏi lại: “Sao tiên cô lại hỏi vậy?”

Đoàn Dự nhận ra vị đạo cô này chính là động chủ Tân Song Thanh của Vô Lượng Động, vốn là chưởng môn Tây Tông của Vô Lượng Kiếm, từng bị thuộc hạ của Đồng Mỗ thu phục, đổi cả danh hiệu. Chàng nhớ lại những chuyện cũ, không dám giáp mặt Tân Song Thanh cùng thuộc hạ của bà là lão Tả Tử Mục, chỉ sợ họ lôi nợ cũ ra tính sổ, bèn vội vã nấp sau lưng Bao Bất Đồng.

Tân Song Thanh đáp: “Trác tiên sinh không trúng Sinh Tử Phù thì phải dùng thiên phương bách kế để tìm cách phá giải thứ bùa đó làm gì? Giả tỉ Trác tiên sinh lại muốn kiềm chế chúng ta thì các huynh đệ ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo vừa thoát khỏi hang sư tử lại chui vào hang cọp, e rằng chẳng ai chịu cam tâm. Trác tiên sinh tuy kiếm pháp thông thần, nhưng nếu muốn dồn chúng ta vào thế cùng, thì hết thảy chúng ta phải quyết một trận sinh tử với tiên sinh!” Lời lẽ của đạo cô tuy không cao ngạo nhưng cũng chẳng thấp hèn, nói huỵch toẹt ra dụng ý của Trác Bất Phàm, thật là sắc bén vô cùng.

Trong quần hào lập tức có mấy chục người lên tiếng: “Tân động chúa nói đúng lắm.” “Tiểu tử! Đồng Mỗ có di ngôn gì ngươi hãy nói mau, không thì lập tức bị bọn ta loạn đao phân thây!” Trác Bất Phàm vung trường kiếm lên veo véo rồi nói: “Tiểu huynh đệ bất tất phải sợ. Ngươi cứ ở cạnh lão phu, xem có ai động đến được lông chân của ngươi không? Di ngôn của Đồng Mỗ, tiểu huynh đệ chỉ được nói với một mình lão phu, nếu người thứ ba nghe được thì lão phu không truyền kiếm pháp cho tiểu huynh đệ nữa.”

Hư Trúc lắc đầu đáp: “Di ngôn của Đồng Mỗ chỉ liên quan đến một mình tại hạ, các vị có biết cũng chẳng ích gì. Hơn nữa, dù sao tại hạ cũng không thể nói ra. Kiếm pháp của các hạ tuyệt diệu đến đâu, tại hạ cũng không muốn học.”

Quần hào hoan hô vang dội: “Hay lắm! Hay lắm! Hảo tiểu tử, ngươi thật là có cốt khí. Ngươi học kiếm pháp của lão để làm gì?” “Kiếm pháp của lão chẳng có chi kỳ dị, một tiểu cô nương xinh đẹp tha thướt cũng nói huỵch toẹt ra được!”. Lại có người nói: “Cô nương kia đã biết lai lịch kiếm pháp, chắc cũng có cách phá giải. Tiểu huynh đệ đã cất kỹ hình ảnh của cô nương trong người, ha ha, phải bái cô nương đó làm sư phụ mới đúng.”

Lúc Trác Bất Phàm nghe Vương Ngữ Yên nói toạc môn phái của mình đã lấy làm căm giận, bây giờ nghe bọn này gièm pha thì không chịu được nữa. Lão liếc nhìn Vương Ngữ Yên, chỉ thấy nàng nhìn Mộ Dung Phục đến xuất thần, chẳng thèm để ý đến ai. Lão bèn nghĩ: “Người ta bảo nàng biết cách phá giải kiếm pháp của mình, nàng không lập tức phủ nhận ngay, thế thì tự coi là biết phá giải thật.” Kỳ thực Vương Ngữ Yên đang để hết tâm hồn vào Mộ Dung Phục. Thấy chàng có vẻ thẫn thờ, nàng tự hỏi: “Sao biểu huynh lại buồn phiền? Chàng bực bội vì ta chăng? Ta đắc tội với chàng chỗ nào? Không lẽ… không lẽ vì vị tiểu sư phụ kia đã vẽ chân dung ta cất giấu trong mình, nên chàng lấy làm tức giận?”. Mọi người bàn tán lao xao, nàng tuy có nghe nhưng không hiểu chi hết.

Trác Bất Phàm thấy Vương Ngữ Yên không nói gì, căm tức đến cực điểm. Đột nhiên lão nhìn đến bức họa, nghĩ thầm: “Thằng hỏi này vẽ chân dung con ranh kia cất giấu trong người, dĩ nhiên có tình ý tha thiết với thị. Ta muốn bắt gã nói ra di ngôn của Đồng Mỗ, phải bắt lấy con nhãi kia để uy hiếp mới xong.” Lão cuộn tấm đồ hình nhét trả vào bọc Hư Trúc, cười ha hả: “Tiểu huynh đệ! Tâm sự của tiểu huynh đệ lão phu đã biết cả rồi. Ha ha! Trai tài gái sắc, ông trời đã ghép sẵn thành đôi! Nhưng có người phá đám, tiểu huynh đệ muốn được như nguyện cũng không phải chuyện dễ. Thôi thôi, bây giờ lão phu nhất quyết đứng ra tác thành hảo sự, để cô nương kia kết duyên cùng tiểu huynh đệ, lập tức bái thiên địa rồi động phòng tại cung Linh Thứu này ngay đêm nay, Tiểu huynh đệ tính sao?” Lão vừa nói vừa cười ha hả, trỏ vào Vương Ngữ Yên.

Khi phái Nhất Tự Tuệ Kiếm bị Đồng Mỗ giết sạch, Trác Bất Phàm không ở Phúc Kiến nên mới thoát nạn. Lão trốn lên vùng núi Trường Bạch hoang vu lạnh lẽo để nghiên cứu kiếm pháp, một hôm vô tình tìm được một bộ kiếm phổ của cao thủ đời trước để lại. Lão luyện tập ba mươi năm mới thành tựu, đã tự tin kiếm pháp mình thiên hạ vô địch. Kỳ này lão vừa xuống núi đã giết được mấy tay cao thủ hắc đạo lừng lẫy tiếng tăm ở Hà Bắc, liền sinh cuồng vọng làm bá chủ võ lâm. Lão tưởng rằng kiếm pháp của mình đủ khuất phục tất cả anh hùng thiên hạ, nói ra một câu là ai cũng phải theo.

Hư Trúc thẹn đỏ mặt lên, vội đáp: “Không, không! Tiên sinh hiểu lầm rồi!” Trác Bất Phàm nói: “Trai lớn lấy vợ, gái lớn gả chồng là chuyện thường tình, sao tiểu huynh đệ lại hổ thẹn?” Hư Trúc lại càng ngượng ngùng, ấp úng đáp: “Cái đó… cái đó… không phải…”

Trác Bất Phàm lại rung trường kiếm, xuất một lúc hai chiêu Thiên Như Cùng Lư và Bạch Vu Mang Mang, toan vây Vương Ngữ Yên vào trong vòng kiếm quang, bắt nàng để uy hiếp, buộc Hư Trúc phải lộ bí mật.

Vương Ngữ Yên vừa thấy Trác Bất Phàm thi triển hai chiêu kiếm liền nghĩ: “Thiên Như Cùng Lư phối hợp với Bạch Vu Mang Mang thì đến chín phần hư, chỉ có một phần thực. Chỉ cần xông thẳng vào lão là lão phải hoang mang thu chiêu về lập tức, không phải đánh cũng phá được thế kiếm.” Nhưng nàng chỉ biết lý thuyết về kiếm pháp, không rèn luyện thân pháp thủ pháp để thực hành, thấy kiếm quang lấp loáng chụp xuống đầu chỉ biết kinh hoàng la lên một tiếng.

Mộ Dung Phục nhận ra hai chiêu kiếm của Trác Bất Phàm không có ý đả thương Vương Ngữ Yên thì nghĩ thầm: “Ta đừng vội xuất thủ, thử xem lão mũi trâu này định giở trò gì. Không chừng thằng trọc con kia vì say mê biểu muội ta mà phải khai ra bí mật.”

Nhưng Đoàn Dự thấy Trác Bất Phàm xuất chiêu tấn công Vương Ngữ Yên liền cả kinh, hoảng hốt thi triển Lăng Ba Vi Bộ xông tới chặn trước mặt Vương Ngữ Yên, lấy thân che chở cho nàng. Kiếm chiêu của Trác Bất Phàm tuy mau lẹ, nhưng bộ pháp của Đoàn Dự cực kỳ tinh diệu, còn nhanh hơn một chút. Không hiểu Trác Bất Phàm không muốn hay không kịp thu chiêu về, chỉ thấy kiếm quang lóe lên, kiếm phong rít lên một tiếng, từ cổ đến bụng Đoàn Dự đã bị rạch một đường dài hơn một thước không những rách áo mà còn trầy da nữa. May mà Trác Bất Phàm chỉ muốn bức bách Hư Trúc khai ra bí mật, không có ý giết người gây oán, nên chiêu kiếm này lão phóng nhẹ tay. Mũi kiếm chỉ sượt vào da Đoàn Dự chừng một hai ly, vết thương tuy dài nhưng không nguy hiểm chút nào. Thế mà Đoàn Dự kinh hãi ngẩn người ra, rồi cúi xuống nhìn ngực mình thì thấy máu chảy đầm đìa. Chàng tưởng mũi kiếm đã rạch vào đến ruột, sắp chết đến nơi, bèn vội la lên: “Vương cô nương! Cô nương… lánh mau đi để tại hạ cố ngăn trở y.”

Trác Bất Phàm lạnh lẽo cười: “Mạng ngươi còn chưa tự giữ được, thế mà còn đòi bảo vệ cho người khác, thật là không biết lượng sức mình.” Lão quay nhìn Hư Trúc nói: “Tiểu huynh đệ! Xem chừng cô nương này có nhiều người theo đuổi. Để lão phu hạ thủ giết bớt một tên tình địch cho tiểu huynh đệ.” Trường kiếm trong tay lão chỉ cách ngực Đoàn Dự chừng một tấc, mũi kiếm rung lên không ngớt, chỉ cần phóng thêm một chút nữa là đâm thủng trái tim.

Hư Trúc cả kinh la lớn: “Không được! Nhất định không được!” Y sợ Trác Bất Phàm giết Đoàn Dự, liền vươn tay ra dùng ngón tay út điểm nhẹ vào huyệt Thái Uyên ở cổ tay phải Trác Bất Phàm. Lão liền thấy cổ tay tê buốt, năm ngón tay nắm chuôi kiếm không chặt phải buông ra, Hư Trúc tiện tay liền đoạt lấy kiếm. Đây là một chiêu thức tuyệt cao trong Thiên Sơn Chiết Mai Thủ, trông thì tầm thường chẳng có chi kỳ dị, thực ra ngón tay út đã vận Tiểu Vô Tướng Công phóng ra cực kỳ mãnh liệt. Trác Bất Phàm đã có ba bốn chục năm công lực mà vẫn bị đoạt kiếm dễ dàng mau lẹ không ngờ. Hư Trúc nói: “Trác tiên sinh! Đoàn công tử là người tốt, đừng hại mạng chàng.” Rồi y nhét lại trường kiếm vào tay Trác Bất Phàm, cúi xuống xem vết thương Đoàn Dự.

Đoàn Dự thở dài nói: “Vương cô nương! Tại hạ sắp chết rồi, chỉ còn mong cô nương cùng Mộ Dung huynh cử án tề mi, bách niên giai lão. Gia gia, má má ơi! Con…” Thực ra vết thương chàng chẳng có chi trầm trọng, nhưng chàng cứ nghĩ mình đã lòi ruột, không sống được nữa, bèn thở hắt ra, ngã ngửa về phía sau.

Vương Ngữ Yên vội đỡ lấy chàng, sa lệ nói: “Đoàn công tử! Huynh chỉ vì ta mà…” Hư Trúc đã được Lung Á lão nhân Tô Tinh Hà dạy phép trị thương, tuy y xuất thủ không thuần thục bằng Tiết Thần Y, nhưng chớp nhoáng đã điểm vào huyệt đạo phía trái vết thương của Đoàn Dự. Y ngó lại vết thương rồi yên tâm cười nói: “Đoàn công tử! Vết kiếm thương không nặng, chỉ ba bốn ngày là khỏi.”

Đoàn Dự được Vương Ngữ Yên nâng đỡ, lại thấy nàng khóc vì mình, bất giác thần hồn bay mất, sung sướng tột cùng, lên tiếng nói: “Vương cô nương! Cô nương… khóc vì tại hạ ư?” Vương Ngữ Yên gật đầu, nước mắt lại lăn từng giọt xuống đôi má ngọc. Đoàn Dự nói: “Đoàn mỗ có được ngày nay, thì dù bị chém mấy chục nhát kiến, chết đến mấy trăm lần cũng thấy vui lòng.” Hư Trúc nói gì, chàng hoàn toàn không nghe thấy. Vương Ngữ Yên trong lòng vô cùng cảm kích, khó mà tự chủ. Còn Đoàn Dự thấy ý trung nhân sa lệ vì mình, thì chàng chẳng coi cái chết của mình vào đâu nữa.

Hư Trúc đoạt kiếm rồi trả kiếm chỉ trong nháy mắt. Trừ Mộ Dung Phục trông thấy rõ ràng, và chính Trác Bất Phàm tự biết, còn ai nấy đều cho là Trác Bất Phàm hạ thủ lưu tình không giết Đoàn Dự. Trác Bất Phàm vừa kinh hãi vừa căm hận không thể hình dung nổi. Lão nghĩ thầm: “Mình may mắn nhặt được kiếm kinh của cao thủ tiền bối ở núi Trường Bạch, khổ công luyện tập ba chục năm trời, cứ tưởng trên đời không ai địch nổi, ngờ đâu sơ ý để thằng lỏi này điểm trúng huyệt Thái Uyên. Hay đó chỉ là chuyện ngẫu nhiên? Giả tỉ gã cố ý đoạt kiếm của mình thì sao phải trả lại? Thằng lỏi này mới sống mấy năm, bản lĩnh bao nhiêu mà đoạt được trường kiếm trong tay Trác mỗ?” Lão nghĩ tới đây, hào khí lại phát sinh, bèn nói: “Tiểu tử! Ngươi thật là lắm chuyện!” Rồi lão đưa mũi kiếm kề vào sau lưng áo Hư Trúc, định đâm rách áo và ấn sâu thêm một chút vào lớp da y, giống như đâm Đoàn Dự.

Ngờ đâu Bắc Minh chân khí đang chuyển vận trong người Hư Trúc, mũi kiếm của Trác Bất Phàm vừa đâm tới liền bị chân khí đẩy lại làm quằn cả mũi kiếm, trượt qua bên mình y. Trác Bất Phàm giật mình, biến chiêu cực kỳ mau lẹ, lập tức thu kiếm về quét ngang ra, chém vào sườn Hư Trúc. Đây là chiêu Ngọc Đới Vi Yêu, tấn công chí mạng vào ba phía trước, sau và bên phải. Lão đã biết Hư Trúc võ công cao cường ngoài dự liệu, không dùng toàn lực tấn công thì không được.

Hư Trúc “Ái chà” một tiếng, lạng người né tránh, không hiểu tại sao Trác Bất Phàm vừa ăn nói ngọt ngào lại đột nhiên dùng sát thủ? “Soạt” một tiếng, mũi kiếm sượt qua dưới nách Hư Trúc, đâm rách cái áo mới một miếng to. Trác Bất Phàm xuất chiêu thứ hai vẫn không trúng, thì năm phần kinh ngạc, năm phần sợ sệt. Lão bèn đảo người đi nửa vòng, dựng thanh kiếm lên, đột nhiên mũi kiếm lóe ra ánh sáng xanh lè. Trong quần hào có mấy chục người kinh hãi la lên: “Kiếm Mang! Kiếm Mang!” Thanh kiếm lúc này rất giống một con rắn dài duỗi ra co lại. Trác Bất Phàm cười một cách hung dữ, hít một hơi chân khí vào đan điền, vận toàn lực vào thanh kiếm. Kiếm quang xanh lè lại càng chiếu sáng hơn, mũi kiếm nhằm thẳng ngực Hư Trúc đâm vào.

Hư Trúc chưa thấy ai vận nội lực vào binh khí để phát thanh quang, lại nghe quần hào la hoảng, thì biết ngay đây là một môn võ công rất lợi hại. Y sợ mình không đối phó nổi, liền thi triển bộ pháp né tránh. Trác Bất Phàm đã dùng toàn lực phóng chiêu này, không thể biến thế nửa chừng được. Nghe một tiếng “chát”, mũi kiếm đã đâm vào cột đá, cây cột này làm bằng đá hoa cương rất cứng rắn, thế mà thanh trường kiếm mềm mại kia đâm sâu vào được đến một thước, đủ biết Trác Bất Phàm đã vận nội lực vào lưỡi kiếm đến mức phi thường. Quần hào lại không nhịn được, bật lên tiếng reo hò.

Trác Bất Phàm vận kình lực vào tay để giật kiếm ra, lại vung kiếm lên đuổi theo Hư Trúc, quát hỏi: “Tiểu huynh đệ! Ngươi chạy đi đâu?” Hư Trúc trong lòng kinh hãi, chỉ còn biết né tránh.

Đột nhiên bên trái có tiếng người cười khanh khách rồi nói: “Tiểu hòa thượng, nằm xuống đi!” Thanh âm này là của nữ nhân. Sau đó hai luồng bạch quang lấp loáng, hai mũi phi đao bay vèo tới Hư Trúc, Hư Trúc đã được Đồng Mỗ truyền dạy khinh công, bây giờ nội lực trong mình y có thể nói là đệ nhất thiên hạ, dĩ nhiên khinh công nhanh nhẹn khôn lường. Phi đao lao đến rất nhanh mà Hư Trúc vẫn né được nhẹ nhàng. Lúc đó y mới thấy một thiếu phụ xinh đẹp mặc áo hồng nhạt, hai tay điều khiển hai lưỡi phi đao. Lòng bàn tay thiếu phụ dường như có sức hút, phi đao đã phóng ra cũng có thể hút trở về.

Trác Bất Phàm khen ngợi: “Thần kỹ phóng phi đao của Phù Dung Tiên Tử thật khiến cho Trác mỗ được mở rộng tầm mắt.”

Hư Trúc chợt nhớ lại cái hôm bọn này bàn chuyện tấn công núi Phiêu Diểu, Kiếm Thần và Phù Dung Tiên Tử cùng đi với Bất Bình đạo nhân. Y đã lấy trái tùng ném chết Bất Bình đạo nhân trên đỉnh núi tuyết, nghĩ bụng lúc này Phù Dung Tiên Tử đến đây là để giết mình, báo thù cho đồng bọn. Hư Trúc liền hối hận, dừng chân quay lại, chắp tay xá Phù Dung Tiên Tử rồi nói: “Tại hạ đã phạm lỗi rất lớn, thật là đáng chết. Lúc đó tại hạ vô tình chứ không cố ý, hỡi ơi, dù sao cũng không còn cách nào cứu vãn được nữa. Bây giờ hai vị muốn đánh muốn mắng thế nào, tại hạ… tại hạ cũng không dám trốn tránh.”

Trác Bất Phàm cùng Phù Dung Tiên Tử Thôi Lộc Hoa đưa mắt nhìn nhau nghĩ thầm: “Thằng lỏi này sợ rồi!” Thực ra hai người này không biết Bất Bình đạo nhân đã chết về tay Hư Trúc, mà dù có biết thì cũng không phải đến đây để giết y báo thù. Hai người tiến lại gần Hư Trúc, mỗi người nắm lấy một bên cổ tay y.

Hư Trúc nghĩ tới Bất Bình đạo nhân chết thảm, trong lòng hối hận vô cùng, không ngớt năn nỉ: “Tại hạ đã phạm lỗi, hết sức ăn năn. Xin hai vị cứ trách phạt nặng nề, tại hạ cam tâm chịu tội, dù có bị giết để đền mạng thì cũng không dám trái ý.”

Trác Bất Phàm nói: “Ngươi muốn ta không giết cùng chẳng khó gì, chỉ cần thuật lại di ngôn của Đồng Mỗ lúc lâm tử, ta sẽ tha cho.” Phù Dung Tiên Tử Thôi Lộc Hoa mỉm cười hỏi: “Trác tiên sinh! Tiểu muội có thể nghe được không?” Trác Bất Phàm đáp: “Chúng ta chỉ cần tìm được cách hóa giải Sinh Tử Phù là mọi bằng hữu ở đây đều được hưởng lợi, không phải một mình tại hạ.” Hắn không nói rõ là cho Thôi Lộc Hoa cùng nghe hay không, nhưng hiển nhiên có ẩn ý độc chiếm thành quả.

Phù Dung Tiên Tử Thôi Lộc Hoa mỉm cười nói: “Tiểu muội không tốt bụng như thế đâu. Thằng lỏi này coi chẳng thuận mắt chút nào.” Tay trái mụ xiết chặt cổ Hư Trúc, tay phải vung lên toan đâm hai ngọn phi đao vào trước ngực y.

Đồng Mỗ đã chết rồi, Trác Bất Phàm coi như đã báo thù xong, chỉ còn âm mưu lấy được bí quyết phá giải Sinh Tử Phù, để khống chế quần hào làm oai làm phước. Còn dụng ý của Thôi Lộc Hoa thì lại khác hẳn. Huynh trưởng nàng bị ba tên động chúa liên thủ hạ sát, nàng quyết báo thù, chỉ mong bọn động chúa này vĩnh viễn không bao giờ hóa giải được Sinh Tử Phù. Muốn vậy cần phải giết chết Hư Trúc để chẳng còn ai nghe được di ngôn của Đồng Mỗ nữa, vì thế nàng đột ngột hạ độc thủ. Thôi Lộc Hoa xuất thủ cực kỳ mau lẹ trong lúc Trác Bất Phàm đã tra kiếm vào vỏ rồi, lão rút kiếm ra thì đã chậm mất một giây.

Hư Trúc kinh hãi không nghĩ gì nhiều, theo phản xạ vung cả hai tay lên. Nội lực y đẩy Trác Bất Phàm cùng Thôi Lộc Hoa ra mấy bước.

Thôi Lộc Hoa quát lên một tiếng, phi đao đã phóng ra. Mụ đã phải lùi mấy bước, nhưng tuyệt kỹ phóng ám khí chẳng ảnh hưởng gì. Trác Bất Phàm sợ Hư Trúc chết, liền vung kiếm lên gạt phi đao đỡ cho Hư Trúc, nhưng Thôi Lộc Hoa đã dự định trước rồi. Mụ vừa phóng ra hai ngọn phi đao, lại phóng thêm mười ngọn nữa, trong đó có ba ngọn phóng vào Trác Bất Phàm để bắt lão tự cứu mình, còn bảy ngọn kia thì nhắm vào Hư Trúc. Trước mặt, yết hầu, ngực bụng Hư Trúc đều bị phi đao vây phủ.

Hư Trúc vung hai tay loạn lên, thi triển tuyệt kỹ Thiên Sơn Chiết Mai Thủ để bắt phi đao. Mụ ném đến đâu y bắt đến đó, ném xuống đất vang lên những tiếng leng keng. Chốc lát đã có mười ba món binh khí rơi dưới chân Hư Trúc, gồm mười hai ngọn phi đao của Thôi Lộc Hoa và một thanh trường kiếm của Trác Bất Phàm. Hư Trúc chẳng cần biết đối thủ là ai, cứ thấy binh khí tới gần là thi triển Chiết Mai Thủ bắt lấy, thuận tay đoạt luôn cả trường kiếm của Trác Bất Phàm.

Y đoạt hết mười ba món binh khí mới quay ra nhìn thì thấy Trác Bất Phàm sắc mặt nhợt nhạt. Y lại ngoảnh đầu nhìn Thôi Lộc Hoa thì thấy mụ cũng hoảng sợ đến mất cả hồn vía. Y nghĩ thầm: “Hỏng bét! Hỏng bét! Mình lại phạm lỗi với họ rồi!” Y liền xin lỗi: “Xin hai vị miễn thứ, tại hạ hành động thật là lỗ mãng.” Hư Trúc nói xong, ôm cả mười ba món khí giới đưa đến trước mặt Thôi, Trác hai người. Thôi Lộc Hoa tưởng Hư Trúc chế giễu mình, bèn vận nội lực lên song chưởng đánh vào ngực Hư Trúc. Hai tiếng chát chát nổi lên, phản lực cực kỳ mãnh liệt hất Thôi Lộc Hoa văng ra sau, đập lưng vào tường đánh huych một tiếng. Mụ la lên một tiếng rồi thổ ra hai búng máu tươi.

Ba người Trác Bất Phàm, Bất Bình đạo nhân, Thôi Lộc Hoa thường ấn chứng võ công với nhau, nội lực Trác Bất Phàm chỉ hơn hai người kia một chút. Lúc này lão thấy Hư Trúc hai tay đang ôm binh khí, mà nội lực tự nhiên phản kích hất Thôi Lộc Hoa văng ra trọng thương, thì biết mình còn kém y xa lắm, nhất định không phải là đối thủ. Lão bèn tìm cách lấy lòng, chắp tay nói: “Bội phục, bội phục! Sau này mong ngày tái hội.”

Hư Trúc đáp: “Tiền bối nhận lại kiếm đi. Tại hạ chỉ vô ý mạo phạm, xin tiền bối đừng để bụng. Tiền bối muốn rửa hận cho Bất Bình đạo trưởng thì cứ việc, đánh mắng thế nào tại hạ cũng quyết không phản kháng.”

Mấy câu thành thực của Hư Trúc lọt vào tai Trác Bất Phàm lại biến thành những lời mai mỉa. Mặt lão cắt không còn giọt máu, rảo bước đi khỏi sảnh đường. Bỗng có thanh âm phụ nữ lạnh lùng nói: “Đứng lại! Cung Linh Thứu không phải là nơi muốn vào thì vào muốn ra thì ra thoải mái như vậy.” Trác Bất Phàm giật mình, đưa tay toan rút kiếm nhưng không thấy, lúc đó mới nhớ ra thanh kiếm của mình đã bị Hư Trúc đoạt mất. Lão quay lại xem ai nói, nhưng chẳng thấy người nào, chỉ thấy cửa lớn đã bị chắn bằng một tảng đá hoa cương rất lớn, cao hai trượng rộng một trượng. Không hiểu phiến đá này đã ở đó từ lúc nào mà không phát ra một tiếng động.

Quần hào thấy vậy, biết ngay mình đã bị hãm vào tuyệt địa trong cung Linh Thứu. Lúc chúng tấn công, hễ thấy nữ nhân áo vàng là giết hoặc bắt hết, khi tiến vào đại sảnh cũng đã để ý quan sát, tuyệt không thấy quân mai phục. Nhưng sau đó có người bị Sinh Tử Phù phát tác, ai nấy đều mất vía, rồi lại bao nhiêu biến cố tiếp diễn, chẳng còn ai nghĩ đến việc mình đang ở nơi nguy hiểm. Bây giờ thấy cửa lớn đã bị tảng đá bít chặt, ai cũng kinh hãi nghĩ thầm: “Hôm nay sống sót ra khỏi cung Linh Thứu, thật không phải là việc dễ.”

Trên trời lại có thanh âm nữ nhân: “Bốn nữ tì hầu cận Đồng Mỗ xin tham kiến Hư Trúc tiên sinh.” Hư Trúc ngẩng đầu nhìn lên, thấy gần nóc đại sảnh có chín tảng đá lồi ra, tựa như chín cái bình đài nhỏ, trên bốn tảng đá có bốn thiếu nữ mười tám mười chín tuổi đang thi lễ với mình. Mấy cái bình đài đó cao đến bốn trượng, thế mà bốn thiếu nữ nhảy xuống, tay cầm trường kiếm lướt đi trông như tiên nữ giáng trần. Mọi người nhìn thân pháp bốn thiếu nữ đã đến mực phi thường, ai nấy không khỏi ngấm ngầm kinh hãi. Bốn thiếu nữ này, một áo hồng, một áo trắng, một áo xanh và một áo vàng, đồng thời hạ xuống đất, chạy tới quì trước mặt Hư Trúc nói: “Nô tỳ nghênh giá chậm trễ, xin chủ nhân thứ tội.” Hư Trúc trả lễ, đáp: “Bốn vị tỉ tỉ bất tất phải đa lễ.”

Bốn thiếu nữ ngửng đầu lên, mọi người lại một phen kinh ngạc, dáng vóc cùng tướng mạo cả bốn đều giống hệt nhau. Cô nào cũng mặt trái xoan, mắt đen láy, dung nhan thanh tú, chỉ khác nhau màu áo. Thiếu nữ áo hồng đáp: “Bốn nô tì là tỉ muội sinh tư. Đồng Mỗ đặt tên cho tiểu tì là Mai Kiếm, còn ba muội tử là Lan Kiếm, Trúc Kiếm và Cúc Kiếm. Vừa rồi bọn nô tì đã gặp các tỉ muội ở bộ Hiệu Thiên, Chu Thiên, đã biết mọi việc. Bây giờ bọn nô tì đã đóng cổng đại sảnh lại rồi, chúng ta nên xử lý bọn nô tài kia ra sao, xin chủ nhân phát lạc.”

Quần hào biết bốn cô này là tỉ muội sinh tư, mới hiểu tại sao cả bốn tướng mạo tầm vóc giống nhau. Mấy cô này dung nhan mỹ lệ, giọng nói thanh tao khiến ai cũng có cảm tình, nhưng Mai Kiếm hỏi Hư Trúc nên xử lý bọn nô tài kia ra sao thì thật là khinh người thái quá. Hai hán tử sấn lại, một người sử đơn đao, một người sử phán quan bút, đồng thanh quát lên: “Mấy con nhãi ranh chưa ráo máu đầu mà đã…”

Thanh quang lấp lánh, Lan Kiếm và Trúc Kiếm đã vung trường kiếm lên. Nghe “phập phập” hai tiếng, cổ tay hai hán tử bị chặt đứt, cả bàn tay lẫn binh khí đều rớt xuống đất. Kiếm pháp của hai nàng mau lẹ tuyệt luân, hai hán tử không phản ứng kịp vẫn mắng tiếp: “… ngang ngược! Trời ơi!” Lúc đó chúng mới nhảy lùi lại, máu đã đầy mặt đất.

Hai cô gái vừa xuất thủ đã chặt đứt hai cái cổ tay. Trong đại sảnh dĩ nhiên có nhiều người võ công cao hơn hai hán tử kia, nhưng không ai dám thử. Huống chi bốn vách đại sảnh này đều bằng đá hoa cương kiên cố, không chừng còn ẩn chứa những cơ quan lợi hại, nên mọi người ngơ ngác nhìn nhau, không ai lên tiếng.

Tình hình đang khẩn trương, đột nhiên trong đám đông lại có tiếng gầm rú khủng khiếp. Sinh Tử Phù lại phát tác đòi mạng một người.

Quần hào thất sắc, thấy một đại hán nhảy ra, hai mắt đỏ ngầu, xé ngực áo rách tứ tung. Mấy người hốt hoảng la lên: “Cát Đại Bá, đảo chúa đảo Thiết Ngao.” Cát Đại Bá gầm thét như mãnh hổ bị thương, vung cánh tay cứng như côn sắt đập xuống đánh “sầm” một tiếng, một chiếc kỷ trà lập tức vỡ tan. Y lại nhảy xổ vào Cúc Kiếm.

Cô nàng thấy hắn trông như thú dữ bất giác khiếp đảm, quên cả kiếm pháp mình cao cường, rú lên một tiếng rồi rúc ngay vào lòng Hư Trúc. Cát Đại Bá lại giơ bàn tay to như chiếc quạt, chụp tới Mai Kiếm. Bốn cô gái sinh tư này tâm ý tương thông, Cúc Kiếm run sợ thì Mai Kiếm cũng sợ run. Nàng thấy Cát Đại Bá nhảy xổ đến, liền la lên một tiếng kinh hoàng rồi chui ra trốn sau lưng Hư Trúc.

Cát Đại Bá chụp không trúng ai, liền xoay lại tự móc mắt mình. Quần hào đều kinh hồn, biết hắn cực kỳ đau đớn không chịu được nữa, sinh ra mê loạn. Hư Trúc la lên: “Đừng làm vậy!” Rồi y phất tay áo một cái, Cát Đại Bá thõng ngay tay xuống. Hư Trúc lại nói: “Sinh Tử Phù trong thân thể huynh đài đang phát tác, để tại hạ phá giải giúp cho.” Y bèn ra chiêu Dương Ca Thiên Điếu trong Thiên Sơn Lục Dương Chưởng vỗ vào huyệt Linh Đài ở sau lưng, Cát Đại Bá run lên một cái, nhũn người ra ngồi phệt xuống đất.

Thanh quang lấp loáng, Lan Kiếm, Trúc Kiếm cùng phóng trường kiếm đâm tới Cát Đại Bá. Hư Trúc la lên: “Không được!”, rồi vươn tay ra đoạt lấy song kiếm. Miệng y lẩm bẩm: “Hỏng bét, hỏng bét! Không hiểu y trúng Sinh Tử Phù ở chỗ nào?” Hư Trúc tuy biết phép phá giải, song kiến thức hãy còn nông cạn nên nhìn không ra Sinh Tử Phù đã cấy vào chỗ nào trong mình Cát Đại Bá. Chiêu Dương Ca Thiên Điểu vừa rồi y phóng ra quá mạnh, Cát Đại Bá tuy tỉnh lại nhưng không tự chủ được phải ngã lăn xuống đất.

Cát Đại Bá vội đáp: “Trúng… trúng ở huyệt Huyền Khu, Khí… Hải,… Hư Không Trúc…” Hư Trúc ca mừng nói: “Huynh đài biết vị trí Sinh Tử Phù thì hay lắm.” Y vận chân khí thuần dương, chiếu theo phép phá giải của Đồng Mỗ đã truyền thụ, dùng Thiên Sơn Lục Dương Chưởng vỗ vào ba huyệt Huyền Khu, Khí Hải và Hư Không Trúc. Ba đạo Sinh Tử Phù lạnh như băng trong người Cát Đại Bá liền tiêu tan trong chớp mắt.

Cát Đại Bá đứng dậy múa may, mừng rỡ đến phát cuồng, đột nhiên phục xuống đất dập đầu lạy Hư Trúc, nói: “Ân công! Tính mạng Cát Đại Bá này là do lão nhân gia đã ban cho. Từ đây về sau, ân công có điều gì sai khiến, Cát Đại Bá có phải nhảy vào đống lửa cũng không ngần ngừ một chút.” Hư Trúc bản tính khiêm cung, thấy Cát Đại Bá hành đại lễ, cũng vội vàng dập đầu lạy trả rồi nói: “Tại hạ không dám nhận trọng lễ, huynh đài còn lạy nữa thì tại hạ cũng còn phải khấu đầu.” Cát Đại Bá lớn tiếng nói: “Ân công mau mau đứng lên, nếu làm như vậy thì tiểu nhân phải tổn thọ.” Y cảm kích quá, lại dập đầu thêm mấy cái nữa, Hư Trúc cũng dập đầu đáp lễ.

Hai người phục dưới đất lạy nhau mãi chưa thôi. Đột nhiên mấy trăm người la lên: “Giải Sinh Tử Phù cho ta.” Quần hào trúng Sinh Tử Phù đổ xô lại như ong vỡ tổ, vây lấy hai người. Một lão già túm lấy vai Cát Đại Bá nói: “Thôi đừng dập đầu nữa, để bọn ta xin ân công giải độc cứu mạng.”

Hư Trúc thấy Cát Đại Bá ngừng lạy, mới dám đứng lên nói: “Các vị đừng nóng nảy, để tại hạ nói một câu.” Lập tức đại sảnh yên lặng như tờ. Hư Trúc nói: “Muốn phá giải Sinh Tử Phù cần phải biết chính xác vị trí. Vậy các vị có biết không?”

Mọi người lại náo loạn cả lên. Người nói: “Tại hạ biết.” Có người nói: “Tại hạ trúng ở huyệt Ủy Trung và huyệt Nội Đình.” Lại có người nói: “Tại hạ bị đau mỗi tháng một chỗ khác, dường như Sinh Tử Phù chạy loạn khắp trong cơ thể.”

Đột nhiên có người lớn tiếng quát lên: “Mọi người phải yên lặng. Ai cũng la hét thì Hư Trúc Tử tiên sinh còn nghe được cái gì?” Người quát lên chính là thủ lãnh quần hào Ô Lão Đại. Mọi người đều bình tĩnh trở lại.

Hư Trúc nói: “Tại hạ đã được Đồng Mỗ dạy cho phép phá giải Sinh Tử Phù…” Bảy tám người nghe tới đó không nhịn được lại reo lên: “Tuyệt diệu! Tuyệt diệu!” “Vậy là ta thoát chết rồi.” Hư Trúc lại tiếp: “.. nhưng hãy còn nông cạn, chưa nhận xét được Sinh Tử Phù đã gieo vào bộ vị nào. Nếu vị nào không biết rõ thì chúng ta sẽ cố gắng tìm kiếm. Trong quý vị nếu có vị nào tinh thông về y thuật, hãy hợp sức cùng tại hạ nghiên cứu, nhất định phải chữa cho bằng được.”

Quần hào lại nổi lên tiếng hoan hô, vang rền cả đại sảnh. Sau một lúc lâu tiếng hoan hô mới dần dần nhỏ đi rồi tất cả rơi vào im lặng.

Mai Kiếm đột nhiên cất tiếng lạnh lẽo nói: “Chủ nhân ta từ bi quảng đại, ưng thuận phá giải Sinh Tử Phù cho các ngươi. Nhưng bọn mi dám cả gan làm phản, buộc Đồng Mỗ rời cung xuống núi, đến phải quy tiên. Bọn mi lại tiến đánh núi Phiêu Diểu, sát hại vô số tỉ muội bộ Quân Thiên. Bọn mi định trả món nợ đó như thế nào?”

Nàng dứt lời, quần hào ngơ ngác nhìn nhau, trong lòng sợ hãi vô cùng. Rõ ràng Mai Kiếm nói đúng sự thực, Hư Trúc là truyền nhân của Đồng Mỗ thì dĩ nhiên y không thể bỏ qua những trọng tội của họ. Có người muốn khẩn cầu, nhưng nghĩ kỹ lại tội bắt Đồng Mỗ rời cung mà chết, và tội làm phản kéo nhau đến đánh cung Linh Thứu đều cực kỳ thâm trọng, lẽ nào chỉ nói mấy cầu năn nỉ mà xong? Vì thế chẳng ai dám lên tiếng.

Ô Lão Đại nói: “Cô nương trách thật là chí lý. Bọn tại hạ đã phạm trong tội, cam chịu để Hư Trúc Tử tiên sinh định đoạt.” Hắn biết Hư Trúc là người trung hậu lại không tàn ác như Đồng Mỗ. Nếu để Mai Lan Cúc Trúc tứ kiếm phán xử thì hậu quả không thể lường được. Hắn bèn quay sang Hư Trúc khẩn cầu.

Quần hào nghe Ô Lão Đại nói, lại nhao nhao lên: “Không sai! Bọn ta đã gây tội nghiệt, Hư Trúc Tử tiên sinh trách phạt thế nào cũng xin cam chịu.” Có nhiều người chứng kiến Sinh Tử Phù đòi mạng cực kỳ ghê gớm, sợ đến mất cả chủ ý, không biết làm gì liền quỳ gối xuống lạy như tế sao.

Hư Trúc cũng chẳng biết phải làm gì, quay sang hỏi Mai Kiếm: “Mai Kiếm tỉ tỉ, bây giờ phải xử thế nào?” Mai Kiếm đáp: “Bọn này không phải người tốt, đã tàn hại rất nhiều tỉ muội ở bộ Quân Thiên, không bắt chúng đền mạng không được.”

Phó động chúa Vô Lượng Động là Tả Tử Mục xá Mai Kiếm một cái rồi nói: “Cô nương! Bọn tại hạ trúng Sinh Tử Phù, thảm khổ không biết đến đâu mà nói. Khi được tin Đồng Mỗ lão nhân gia không ở trên núi thì bọn tại hạ đều hoang mang, cũng vì sự sống mà gây nên tội lỗi, hối hận không kịp. Chỉ xin cô nương đại nhân đại nghĩa, xin giúp Hư Trúc Tử tiên sinh!”

Mai Kiếm nghĩ một chút rồi đáp: “Các ngươi phạm tội giết người, tự chặt cánh tay mặt là phạt nhẹ lắm rồi!” Nàng vừa nói ra, biết ngay mình ra lệnh là không đúng lễ, liền quay lại hỏi Hư Trúc: “Chủ nhân, như vậy được chăng?” Hư Trúc cảm thấy phạt như vậy là nặng quá, nhưng không muốn trái ý Mai Kiếm, nên ngập ngừng đáp: “Như thế… Như thế…”.

Bỗng có một người rẽ đám đông đi ra, chính là vương tử nước Đại Lý, tên gọi Đoàn Dự. Tính chàng ưa can thiệp việc người, thích bàn chuyện đúng sai, bây giờ nhìn Hư Trúc chắp tay cười nói: “Nhân huynh! Lúc các vị bằng hữu tiến đánh núi Phiêu Diểu, tiểu đệ đã không tán thành, nhưng nói rát cổ cũng chẳng ai nghe. Bây giờ họ gây đại họa, nhân huynh trách phạt là phải lắm. Xin nhân huynh giao cho tiểu đệ trách phạt chư vị bằng hữu được chăng?”

Hư Trúc cũng biết hôm trước quần hào toan giết Đồng Mỗ để uống máu ăn thề, Đoàn Dự đã hết sức ngăn cản. Y biết vị công tử này bác ái nghĩa hiệp, vẫn đem lòng kính trọng. Khi y cõng Đồng Mỗ bị Lý Thu Thủy đánh rớt từ núi cao ngàn trượng xuống mà sống sót được, một phần cũng nhờ công sức của chàng. Lúc này y đang lúng túng chưa biết phải xử lý ra sao, nghe chàng nói vậy liền chắp tay nói: “Tại hạ kiến thức hẹp hòi, không quen xử sự. Được Đoàn công tử đứng ra xử lý, tại hạ cảm kích vô cùng.”

Quần hào nghe Đoàn Dự kể tội, lại đòi trách phạt họ thì làm sao nhịn được? Có người nóng nảy đã toan cất tiếng thóa mạ. Nhưng lúc nghe Hư Trúc chấp thuận, họ vội rụt lưỡi lại không dám nói nữa.

Đoàn Dự đáp: “Vậy thì hay lắm!” Chàng quay người lại nhìn quần hào, lớn tiếng nói: “Các vị đã phạm lỗi lầm nghiêm trọng, dĩ nhiên không thể phạt nhẹ. Hư Trúc Tử tiên sinh đã giao cho tại hạ xử lý, các vị đều phải nghe theo, nếu ai phản kháng thì e rằng tiên sinh không giải Sinh Tử Phù nữa. Ha ha! Điều thứ nhất, các vị phải đến trước vong linh Đồng Mỗ kính cẩn dập đầu tám lạy, mặc niệm hối lỗi. Lúc hành lễ, ai ngấm ngầm mạo phạm Đồng Mỗ sẽ bị phạt nặng thêm một bậc.”

Hư Trúc cả mừng khen: “Phải lắm, phải lắm! Hình phạt trong điều thứ nhất rất tốt!”

Quần hào chưa hiểu tên đồ gàn này còn đưa ra những hình phạt cổ quái gì nữa, ai cũng chưa yên tâm. Nhưng họ nghe y bắt cúi đầu lạy trước vong linh Đồng Mỗ thì nghĩ thầm: “Người chết phải tôn trọng, dập đầu lạy trước linh vị có chi là lạ? Mà giả tỉ mình oán hận Đồng Mỗ, vừa lạy vừa âm thầm thóa mạ thì làm sao gã biết được?” Mọi người đồng thanh ưng thuận.

Đoàn Dự thấy mình tuyên bố điều thứ nhất mọi người đều đồng ý thì tinh thần phấn chấn, dõng dạc tuyên bố tiếp: “Điều thứ hai, Chư vị phải cúi đầu hành lễ trước những vị tỉ muội bộ Quân Thiên đã tử nạn. Vị nào đã giết người thì phải dập đầu lạy và mặc niệm sám hối, lúc hành lễ phải chít khăn trắng, mặc tang phục. Vị nào không giết người thì chỉ xá dài hành lễ là đủ, sau đó sẽ được Hư Trúc Tử nhân huynh giải độc cho.”

Phần lớn quần bào lên núi Phiêu Diểu không tự tay giết người, ưng thuận ngay lập tức. Còn những người đã hạ sát thủ thấy việc phải đội khăn tang dập đầu hành lễ còn nhẹ gấp trăm lần so với hình phạt chặt tay của Mai Kiếm, dĩ nhiên cũng không phản đối.

Đoàn Dự lại tuyên bố: “Điều thứ ba, các vị phải vĩnh viễn phục tùng Linh Thứu cung, không được phản trắc. Hư Trúc Tử tiên sinh đã ra lệnh thì ai nấy đều phải tuân theo. Chẳng những phải cung kính Hư Trúc Tử tiên sinh, còn phải kính nể các vị tỉ muội Mai Lan Cúc Trúc, đổi thù ra bạn, không được động đao thương. Còn vị nào không phục thì cứ bước ra tỉ đấu với Hư Trúc Tử tiên sinh ba chiêu hai thức, xem thử ai hơn ai kém.”

Quần hào nghe Đoàn Dự nói xong đều hoan hô rầm rộ: “Phải lắm! Phải lắm!” Có người cẩn thận hỏi lại: “Công tử phạt nhẹ như vậy, không hiểu còn có điều chi dạy bảo nữa không?”

Đoàn Dự xoa tay đáp: “Chỉ có thế!” Rồi chàng quay lại hỏi Hư Trúc: “Tiểu đệ quy định ba điều như vậy đã được chưa?” Hư Trúc chắp tay đáp: “Đa tạ! Đa tạ! Thế là được lắm rồi.” Rồi y lại quay sang nhìn bọn Mai Kiếm, nét mặt ra vẻ băn khoăn. Lan Kiếm đáp: “Chủ nhân là chúa tể cung Linh Thứu, bất luận chủ nhân nói gì bọn nô tì đều phải vâng theo. Chủ nhân khoan hồng đại lượng tha thứ cho bọn phản loạn, bất tất phải băn khoăn làm chi.” Hư Trúc cười nói: “Không dám! Ồ! Còn việc này… tại hạ muốn nói… chẳng biết… chẳng biết có nên không?”.

Ô Lão Đại lên tiếng: “Ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo đều là thuộc hạ núi Phiêu Diểu. Giáo chủ dạy bảo điều gì cũng không ai dám kháng cự. Nếu ba điều hình phạt của Đoàn công tử là quá khoan hồng, giáo chủ muốn bổ sung thì bọn thuộc hạ cũng cam tâm lãnh chịu.”

Hư Trúc nói: “Tại hạ nhỏ tuổi ít học, bất quá được Đồng Mỗ chỉ điểm cho mấy môn võ công, nghe gọi là giáo chủ gì gì đó, thực lấy làm hổ thẹn, xin các vị tiền bối nghĩ lại. Tại hạ còn hai điều muốn nói, không biết có nên… có nên…” Hư Trúc từ nhỏ đến lớn chỉ quen nghe sai khiến, chưa bao giờ phải tự mình quyết định chủ ý. Bây giờ đứng trước đông người y không khỏi lúng túng, giọng nói vừa ấp úng vừa khiêm tốn quá mức. Bốn cô Mai Lan Cúc Trúc nghĩ thầm: “Không hiểu sao chủ nhân đối với bọn nô tài kia lại khách khí như vậy.”

Ô Lão Đại đáp: “Giáo chủ đại lượng khiêm hòa như vậy, bọn thuộc hạ có phải gan óc lầy đất cũng không đủ báo đền trong muôn một. Giáo chủ có mệnh lệnh gì xin cứ ban ra!”

Hư Trúc nói: “Phải, phải! Tại hạ nói xong xin các vị đừng cười, chỉ muốn xin hai việc. Việc thứ nhất có vẻ tư tâm. Tại hạ… tại hạ xuất thân là một tiểu hòa thượng chùa Thiếu Lâm, xin từ đây khi các vị bôn tẩu giang hồ đừng làm khó dễ đệ tử phái Thiếu Lâm, bất luận là tăng hay tục. Đây chỉ là ý muốn của tại hạ, không dám nói là mệnh lệnh.”

Ô Lão Đại lớn tiếng hô: “Giáo chủ có lệnh, từ đây trở đi, các huynh đệ đi lại giang hồ nếu gặp đại sư, hòa thượng hay bằng hữu tục gia thuộc phái Thiếu Lâm đều phải cung kính, nếu thất lễ sẽ bị nghiêm trị.” Quần hào đồng thanh đáp: “Tuân lệnh!”

Hư Trúc thấy mọi người đều ưng thuận, y mạnh dạn hơn, chắp tay nói: “Đa tạ, đa tạ! Việc thứ hai là xin các vị vì lòng hiếu sinh của trời đất mà đừng giết người bừa bãi. Tốt nhất là đừng giết mọi sinh vật, dù nhỏ như ong kiến. Các vị cũng không nên ăn những đồ huyết thực, nhưng… nhưng chuyện đó khó quá, vì chính tại hạ cũng đã ăn mặn mất rồi. Mà tại hạ khuyên các vị đừng giết người cũng thấy tự xấu hổ, vì tại hạ cũng đã… đã… giết người. Nhưng… nhưng… các vị cũng cố tránh giết… giết…”

Ô Lão Đại lớn tiếng hô: “Giáo chủ có lệnh, các huynh đệ dưới trướng cung Linh Thứu từ nay không được giết người vô tội, không được sát sinh một cách bừa bãi, nếu bất tuân sẽ bị nghiêm trị.” Quần hào lại đồng thanh đáp: “Tuân lệnh!”

Hư Trúc xoa tay nói: “Tại hạ… tại hạ được nghe như vậy, thật thấy an ủi vô cùng. Từ nay các vị bỏ ác làm thiện, thật là công đức vô lượng.” Rồi y quay sang Ô Lão Đại cười nói: “Ô tiên sinh! Tiên sinh tuyên bố thật là rõ ràng, tại hạ thực không thể sánh bằng. Tiên sinh… trúng Sinh Tử Phù ở chỗ nào, để tại hạ giải trừ cho.”

Sở dĩ Ô Lão Đại mạo hiểm cầm đầu mưu phản cũng chỉ vì mối lo canh cánh Sinh Tử Phù ở trong người. Bây giờ lão nghe Hư Trúc chịu phá giải, vừa mừng rỡ vừa cực kỳ cảm kích, quì mọi ngay xuống để lạy tạ. Hư Trúc cũng quì xuống trả lễ, rồi hỏi: “Ô tiên sinh, tiên sinh bị trái tùng đả thương ở bụng đã khỏi chưa? Tiên sinh lại đã uống Đoạn Trường Hủ Cốt Hoàn của Đồng Mỗ, từ từ chúng ta sẽ tìm cách hóa giải chất độc.”

Lúc này bốn chị em Mai Kiếm đã chuyển động cơ quan, mở cổng cho nữ nhân chín bộ tiến vào đại sảnh.

Phong Ba Ác, Bao Bất Đồng lớn tiếng hô hoán, cùng Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn cũng tiến vào đại sảnh. Lúc nãy bọn này chạy ra tìm Đồng Mỗ để tỉ đấu, nhưng gặp phải quần nữ tám bộ đưa di thể Đồng Mỗ về đến ngoài cung Linh Thứu. Bao Bất Đồng ăn nói lỗ mãng, còn Phong Ba Ác bản tính hiếu chiến, hai bên cãi nhau rồi động thủ, một lát sau Đặng Bách Xuyên và Công Dã Càn cũng đến giúp. Bản lãnh bốn người này cao cường, nhưng không thể chống nổi số đông, vừa đánh vừa chạy, bị thương khắp chỗ. Nếu cửa mở chậm một khắc, và Mai Lan Trúc Cúc không lên tiếng can ngăn, thì bốn gã này không mất mạng cũng bị bắt.

Mộ Dung Phục thấy mình vô duyên liền dẫn bọn Đặng Bách Xuyên cáo từ xuống núi. Trác Bất Phàm cùng Phù Dung Tiên Tử Thôi Lộc Hoa cũng không lời từ biệt bỏ đi.

Hư Trúc thấy bọn Mộ Dung Phục muốn đi bèn toan giữ lại. Mộ Dung Phục nói: “Tại hạ đã đắc tội với núi Phiêu Diểu, tự thấy bẽ bàng. May mà được huynh đài bỏ qua không trị tội, khi nào còn dám quấy rầy?” Hư Trúc đáp: “Không dám, không dám! Hai vị công tử văn võ kiêm toàn, anh hùng xuất chúng, tại hạ vô cùng ngưỡng mộ, muốn… được hai vị công tử chỉ giáo. Tại hạ… tại hạ thật tình, không biết phải nói sao?”

Bao Bất Đồng cùng quần nữ giao chiến đã bị thương mấy chỗ, đang bực bội trong người. Gã nghe Hư Trúc nói chuyện ấp úng thì nhớ đến trong người y có chân dung Vương Ngữ Yên, liền rủa thầm: “Thằng trọc này giả nhân giả nghĩa, đã là đệ tử nhà Phật mà còn sinh lòng ám muội với biểu muội của công tử. Hiển nhiên y là một gã dâm tăng, không giữ giới luật thanh tu.” Gã liền nói: “Tiểu sư phụ ngưỡng mộ anh hùng chỉ là giả, ngưỡng mộ mỹ nhân mới là thực. Sao không nói trắng ra là muốn lưu Vương cô nương ở lại núi Phiêu Diểu.”

Hư Trúc ngạc nhiên hỏi lại: “Tiên sinh… nói sao? Tại hạ muốn lưu mỹ nhân nào?” Bao Bất Đồng đáp: “Tiểu hòa thượng còn ráng giấu giếm, chẳng lẽ nhà Mộ Dung ở Cô Tô đều si ngốc cả ư? Thật là tức cười!” Hư Trúc đáp: “Tại hạ thật sự không hiểu tiên sinh muốn nói gì. Có chi tức cười đâu?”

Bao Bất Đồng đang ở chỗ đầm rồng hang cọp, nhưng khí tức đã nổi lên, chẳng coi sống chết vào đâu nữa, lớn tiếng nói: “Thằng trọc con kia! Mi là hòa thượng phái Thiếu Lâm lừng danh thiên hạ, sao còn gia nhập tà phái, cấu kết với bọn yêu ma quỷ quái? Mỗi lần ta nhìn thấy ngươi lại phải bực mình. Ngươi là hòa thượng, đã bức bách mấy trăm phụ nữ về làm vợ lớn vợ bé, còn chưa đủ hay sao mà lại để ý đến Vương cô nương nhà ta? Ta cho ngươi hay, Vương cô nương là người nhà Mộ Dung công tử, ngươi chỉ là con cóc ghẻ muốn sánh đôi với thiên nga, phải dẹp ngay ý nghĩ mờ ám đó càng sớm càng tốt!” Bao Bất Đồng lửa bốc đến đỉnh đầu, khoa chân múa tay, chỉ trỏ vào mặt Hư Trúc thóa mạ không tiếc lời.

Hư Trúc chẳng hiểu gì, cứ ấp úng: “Tại hạ… Tại hạ…” Bỗng hai tiếng veo véo rít lên, Ô Lão Đại vung thanh Lục Ba Hương Lộ quỉ đầu đao, còn Cát Đại Bá vung ngọn thiết chùy nặng hơn sáu mươi cân, hai người vừa quát lớn vừa nhảy xổ lại tấn công Bao Bất Đồng.

Mộ Dung Phục biết rằng Hư Trúc đã nhận lời giải Sinh Tử Phù, tất nhiên quần hào liều chết vì y, nếu hỗn chiến thì nguy hiểm vô cùng. Y vừa thấy Ổ Lão Đại cùng Cát Đại Bi nhảy tới, liền xông ra thi triển công phu Đẩu Chuyển Tinh Di cho quỷ đầu đạo chém tới Cát Đại Bá, thiết chùy đập sang Ô Lão Đại. Hai món binh khí chạm nhau đánh choang một tiếng, tóe lửa ra bốn phía. Mộ Dung Phục lại xoay, tay nắm lấy vai Bao Bất Đồng, kéo lùi ra xa hơn trượng rồi quay lại nhìn Hư Trúc chắp tay nói: “Xin thứ lỗi, tại hạ xin cáo biệt.”Y lạng người đi một cái, gấp rút vọt ra khỏi cửa đại sảnh, chỉ sợ quần nữ lại vận động cơ quan cho phiến đá lớn nổi lên cản đường.

Hư Trúc vội nói: “Công tử đừng chạy nữa. Tại hạ… không có ý gì… Tại hạ…” Mộ Dung Phục nhíu mày quay lại, lớn tiếng hỏi: “Phải chăng các hạ tự coi là thiên hạ vô địch, muốn chỉ giáo mấy chiêu?” Hư Trúc xua tay lia lịa nói: “Không… không dám…” Mộ Dung Phục hỏi: “Tại hạ vô cớ đến đây, các hạ nhất định muốn bắt lại để trị tội chăng?” Hư Trúc lắc đầu đáp: “Không… không phải… Ôi!”.

Mộ Dung Phục đứng ngay cửa, ngạo nghễ nhìn quần hào ba mươi sáu động bảy mươi hai đảo, lại nhìn sang Mai Lan Cúc Trúc tứ kiếm và quần nữ chín bộ Cửu Thiên. Mọi người thấy y oai phong lẫm liệt, không ai dám tiến lại. Mộ Dung Phục phất tay áo một cái, nói: “Đi thôi!” Rồi y ngang nhiên ra khỏi cửa lớn, Vương Ngữ Yên cùng bọn Đặng Bách Xuyên cũng đi ra.

Ô Lão Đại cả giận nói: “Giáo chủ! Nếu để gã sống sót mà xuống núi Phiêu Diểu thì bọn ta còn làm người thế nào được? Xin giáo chủ hạ lệnh bắt chúng lại.” Hư Trúc lắc đầu nói: “Thôi! Tại hạ… tại hạ không hiểu vì sao mà y nổi cơn thịnh nộ. Hỡi ôi! Thật là khó hiểu!…” Ô Lão Đại lại nói: “Xin để bọn thuộc hạ đi mời vị Vương cô nương kia trở lại.” Hư Trúc vội nói: “Không được, không được!” .

Vương Ngữ Yên thấy Đoàn Dự chưa ra khỏi tòa đại sảnh thì quay lại nói: “Đoàn công tử! Tái kiến” Đoàn Dự giật mình, trong lòng chua xót, miễn cưỡng đáp: “Vâng. Tái… tái kiến… Tại hạ không đi theo cô nương nữa.” Chàng đứng nhìn Vương Ngữ Yên đi mỗi lúc một xa, bên tai cứ văng vẳng câu nói của Bao Bất Đồng, nghĩ thầm: “Vương cô nương là người nhà Mộ Dung công tử, phen này thật sự lòng ta đã chết, mình chỉ như con cóc ghẻ đòi sánh cùng thiên nga. Mộ Dung công tử vừa đứng trước cửa đại sảnh, oai phong lẫm liệt, anh hùng khí khái, chỉ giơ tay một cái là đả bại hai cao thủ, bản lĩnh cao thâm không kể xiết. Sức lực ngươi không trói nổi con gà thì lọt vào mắt xanh của nàng thế nào được? Lúc này Vương cô nương nhìn biểu huynh nàng đầy tình tứ, vừa ngưỡng mộ vừa thương yêu. Đoàn Dự này quả nhiên chỉ là con cóc ghẻ mà thôi!”

Một lúc sau, trong đại sảnh chỉ còn lại hai chàng thanh niên. Hư Trúc thì bâng khuâng ngồi cúi đầu như ngây như dại, còn Đoàn Dự thì đau xót buồn rầu như kẻ mất hồn. Hai người ngơ ngẩn nhìn nhau như hai chàng ngốc.

Hồi lâu, Hư Trúc buông một tiếng thở dài. Đoàn Dự cũng thở dài theo, rồi nói: “Nhân huynh cùng tiểu đệ đồng bệnh tương lân, nỗi tương tư chôn tận đáy lòng, biết làm sao phai nhạt?”. Hư Trúc bất giác thẹn đỏ mặt, tưởng Đoàn Dự đã biết vị cô nương trong mộng của mình, ấp úng hỏi: “Đoàn… Đoàn công tử! Sao huynh lại biết?”

Đoàn Dự đáp: “Ai không thấy Tử Đô đẹp thì người đó không có mắt. Ai không thấy nàng đẹp thì không phải là con người nữa. Lòng yêu cái đẹp, ai ai cũng có. Nhân huynh cùng tiểu đệ cũng một loại người, không cần nói cũng hiểu nhau”. Rồi chàng lại buông tiếng thở dài. Thì ra Đoàn Dự thấy trong bọc Hư Trúc Có chân dung Vương Ngữ Yên nên tưởng y cũng yêu nàng như mình, mà vừa rồi y xích mích cùng Mộ Dung Phục dĩ nhiên cũng chỉ vì Vương Ngữ Yên mà ra. Đoàn Dự lại nói: “Nhân huynh võ công tuyệt đỉnh, nhưng cơ duyên không hợp thì bất luận làm sao cũng không được.”

Hư Trúc lẩm bẩm: “Phải lắm! Cơ duyên không hợp… Cơ duyên phải tự nhiên mà gặp… đâu phải cầu mà được? Phải lắm! Một khi từ biệt, trời đất mênh mông, biết đâu mà tìm nàng được?” Hư Trúc nói về cô nương trong mộng, nhưng Đoàn Dự tưởng y nói về Vương Ngữ Yên. Hai chàng ngốc nghếch, không hiểu việc đời, mỗi lúc càng ý hợp tâm đầu.

Quần nữ cung Linh Thứu đặt tiệc mừng, Hư Trúc cùng Đoàn Dự nắm tay nhau cùng ngồi. Bọn động chúa đảo chúa đều là thuộc hạ cung Linh Thứu, dĩ nhiên không ai dám ngồi cùng bàn với Hư Trúc. Hư Trúc không hiểu gì về việc tiếp khách, thấy ai cũng chẳng thèm chào hỏi, cứ mải chuyện trò với Đoàn Dự.

Đoàn Dự vì Vương Ngữ Yên mà điên đảo thần hồn, khen nàng không tiếc lời, nào là tính nết dịu dàng, nào là dung mạo thoát tục. Hư Trúc tưởng chàng khen cô nương trong mộng của mình, lại không dám hỏi sao chàng lại biết nàng, mà cũng không dám hỏi đến lai lịch của nàng. Trái tim y đập loạn lên, trong bụng nghĩ thầm: “Mình cứ tưởng Đồng Mỗ chết rồi, thiên hạ không còn ai biết Mộng Cô ở nơi đâu. Thế mà Đoàn công tử lại biết nàng, quả là ông trời có mắt. Khốn nỗi Đoàn công tử cũng đem lòng ái mộ nàng. Nếu mình kể lại đoạn ân tình dưới hầm nước đá, dĩ nhiên chàng nổi cơn thịnh nộ, bỏ tiệc ra đi thì mình không được nghe ai nói về nàng nữa.” Hư Trúc thấy Đoàn Dự trầm trồ khen ngợi cô nương đó, cũng phụ họa bằng cả tấm lòng thành thực.

Hai người cùng nói về tình nhân của mình mà chẳng ai nói rõ, thành ra hai vị tình lang cứ tưởng mình cùng yêu một vị cô nương. Hư Trúc nói: “Nhân huynh! Nhà Phật đã dạy mọi việc đều từ chữ “duyên” mà ra. Đạt Ma tổ sư có nói: “Chúng sinh vô ngã; Không tự biết mình; Đau khổ vui mừng; Đều do duyên kiếp”. Con người vui vẻ hay buồn phiền cũng là duyên nợ ở kiếp trước, khi duyên phận hết rồi thì vui vẻ hay buồn phiền cũng trở thành không, chẳng có gì đáng mừng hay đáng tủi.” Đoàn Dự đáp: “Phải lắm! Những chuyện được mất đều tùy ở cơ duyên, không nên vì được vì mất mà thay lòng đổi dạ.”

Phật học tại nước Đại Lý rất hưng thịnh, Đoàn Dự từ nhỏ đã đọc kinh Phật. Người này dẫn một câu trong kinh Kim Cương, người kia lại nêu một câu trong kinh Pháp Hoa, rồi cùng nhau than thở cho bớt nỗi tương tư. Bốn nàng Mai Lan Cúc Trúc rót rượu mời, Đoàn Dự uống một chén thì Hư Trúc cũng uống một chén, cứ thế đến nửa đêm. Quần hào đứng dậy cáo từ, được quần nữ cung Linh Thứu hướng dẫn đến một khu riêng biệt để ngủ. Hư Trúc cùng Đoàn Dự mười phần đã say đến chín, mà vẫn vừa uống vừa nói chuyện không chịu nghỉ.

Hôm trước Đoàn Dự đấu tửu với Tiêu Phong ngoài thành Vô Tích, đã vận nội công đẩy rượu ra đầu ngón tay nên chàng không say. Đêm nay chàng uống thực sự nên đã say khướt, bèn nói: “Nhân huynh! Tiểu đệ có một vị huynh trưởng kết nghĩa kim lan họ Kiều tên Phong, thật là đại anh hùng, đại hào kiệt. Võ công cũng như tửu lượng của y thật là có một không hai, nếu nhân huynh gặp y tất cũng đem lòng ái mộ. Giá mà y có ở đây, ba chúng ta kết nghĩa đệ huynh thì thật là thỏa chí bình sinh.”

Hư Trúc trước nay chưa từng uống rượu, nhưng nội công tinh thâm nên vẫn chưa say, tuy cũng thấy hơi mơ mơ hồ hồ, nói năng mạnh dạn hơn, không rụt rè cố chấp như lúc tỉnh. Y cảm thấy hào khí bồng bột liền đáp: “Đoàn công tử mà không… không chê tiểu đệ ngu ngốc thì hai ta kết nghĩa huynh đệ trước, sau này tìm được Kiều đại ca sẽ kết bái lần nữa là xong” Đoàn Dự cả mừng nói: “Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Huynh trưởng bao nhiêu tuổi?”

Hai người so tuổi, Hư Trúc lớn hơn ba tuổi, Đoàn Dự liền hô: “Nhị ca! Xin nhận của tiểu đệ một lạy!” Rồi chàng bước ra khỏi bàn, lạy phục xuống đất. Hư Trúc vội vàng đáp lễ nhưng chân mềm như bún, té bịch xuống đất.

Đoàn Dự thấy Hư Trúc ngã, vội vàng đưa tay đỡ dậy. Lúc này Đoàn Dự cũng đã say khướt, chân đứng không vững, đột nhiên hai người ôm chặt lấy nhau nằm lăn ra đất, cùng nổi lên một tràng cười, Đoàn Dự nói: “Nhị ca! Tiểu đệ chưa say đâu, hai ta lại ngồi uống thêm trăm chén nữa.” Hư Trúc đáp: “Tiểu huynh dĩ nhiên phải bồi tiếp tam đệ uống đến say mèm.” Đoàn Dự nói: “Nhân sinh đắc ý tu tận hoan, Mạc tử kim tôn không đối nguyệt (Lúc đắc ý phải say cho thỏa, Chén vàng chớ để rỗng dưới trăng). Ha ha! Chúng ta phải cạn thêm ba trăm chén nữa!” Hai người càng nói càng mơ hồ, rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết.

comments

THIÊN LONG BÁT BỘ