Hồi 37: Cùng cười ha hả một trang, cuối đường yêu hận rõ ràng là không
Hư Trúc kinh hãi la lên: “Ôi chao! Không xong rồi! Y… Y…” Đồng Mỗ quát lên: “Sao ngươi nhát gan đến thế?” Hư Trúc hạ giọng đáp: “Y… y tìm đến đây rồi!” Đồng Mỗ nói: “Hắn chưa biết chắc ta vào hoàng cung, cũng không biết nấp ở đâu. Trong hoàng cung có cả trăm cả ngàn phòng, hắn mà kiếm từng phòng thì mười ngày nửa tháng chưa chắc đã tìm thấy.” Hư Trúc hơi yên tâm, thở ra một hơi rồi nói: “Chỉ cần đến giờ ngọ ngày mai là chúng ta không sợ y nữa.” Quả nhiên thanh âm Lý Thu Thủy lại xa dần, rồi không nghe thấy nữa.
Chừng nửa giờ sau, Hư Trúc lại nghe thấy tiếng vo ve: “Hảo tỉ tỉ! Sư tỉ còn nhớ Vô Nhai Tử sư huynh không? Hiện y đang ở trong cung tiểu muội, muốn gặp sư tỉ để nói mấy câu.”
Hư Trúc khẽ nói: “Ăn nói hồ đồ! Vô Nhai Tử tiên sinh đã quy tiên lâu rồi. Tiền bối… đừng trúng kế của y.” Đồng Mỗ nói: “Chúng ta ở trong này, có gào thét lên hắn cũng không nghe thấy. Hiện hắn đang ở rất xa, cố vận Truyền Âm Siêu Hồn Đại Pháp để ép ta ra mặt. Hắn đề cập đến Vô Nhai Tử gì gì đó chẳng qua là cốt làm cho ta rối trí, khi nào ta lại mắc vào cạm bẫy của hắn?”.
Lý Thu Thủy vẫn tiếp tục nói không biết mệt hết giờ này sang giờ khác, kể lể những chuyện cùng học võ ngày xưa. Lúc thì mụ nhắc tới những lời Vô Nhai Tử cùng mụ thề thốt yêu đương, lúc lại ngoác miệng ra mà thóa mạ Đồng Mỗ là con quỷ ác độc, con tiện nhân tàn ác vô liêm sỉ nhất thiên hạ.
Hư Trúc ráng lấy hai tay bịt tai lại mà thanh âm kia vẫn chui vào nghe rất khó chịu. Y tức tối vô cùng, la lên: “Nói láo! Nói láo! Ta không tin!”, rồi xẻ vạt áo cuộn nhỏ lại nút kín lỗ tai. Đồng Mỗ khuyên y: “Con tiện nhân kia vận nội lực cao thâm để phát ra thanh âm, ngươi không ngăn trở cho khỏi lọt vào tai được đâu. Chúng ta đang ở dưới tầng hầm thứ ba này, thanh âm bị ngăn trở rất nhiều mà còn lọt vào được, thế thì nút giẻ có ăn thua gì? Ngươi cứ bình tâm tĩnh trí đừng thèm để ý, coi lời nói của con tiện nhân như tiếng chó sủa bò rống là không sao hết.” Hư Trúc vâng lời, lẩm nhẩm: “Nhìn không vào mắt, nghe chẳng vào tai”. Nhưng công phu Thiếu Lâm của y đã mất hết, định lực của y giảm sút rất nhiều. Lát sau y nghe Lý Thu Thủy kể tội Đồng Mỗ thì không thể làm ngơ được, rồi trong lòng y sinh ra bán tín bán nghi không hiểu những chuyện mụ nói là thật hay giả.
Một lúc sau, đột nhiên Hư Trúc nghĩ ra một chuyện, liền nói: “Tiền bối! Giờ luyện công sắp đến rồi, lần này là thần công viên mãn. Thế là mụ kia đã chọn đúng lúc để quấy nhiễu, làm cho tiền bối phải phân tán tâm trí, cuộc luyện công hôm nay nguy hiểm vô cùng.” Đồng Mỗ nhăn nhó cười đáp: “Bây giờ ngươi mới biết ư? Con tiện nhân đó biết rằng thần công ta luyện xong thì hắn không địch nổi, nên lúc này y dùng hết sức lực để ngăn trở.” Hư Trúc hỏi: “Vậy có nên tạm gác việc luyện công lại chăng? Tiền bối luyện công vào lúc bị ngoại ma quấy nhiễu thì có thể… xảy ra nguy hiểm.” Đồng Mỗ nói: “Ngươi thà chết chứ không chịu giúp ta đối phó với con tiện nhân này kia mà? Sao ngươi vẫn quan tâm đến sự an nguy của ta làm gì?” Hư Trúc ngẩn ra đáp: “Vãn bối không thể giúp tiền bối hại người, nhưng cũng không thể để kẻ khác gia hại tiền bối.”
Đồng Mỗ nói: “Tâm địa ngươi rất tốt! Ta đã nghĩ kỹ lắm rồi, con tiện nhân kia vừa dùng Truyền Âm Siêu Hồn Đại Pháp nhiễu loạn tâm thần ta, vừa xua chó ngao đi tìm kiếm. Chắc chắn hắn đã bố trí bốn mặt hoàng cung này nghiêm mật như tường đồng vách sắt, không tài nào trốn ra được, mà ẩn núp thêm một ngày là nguy hiểm thêm một ngày. Hừ! May mà chúng ta vào sâu hiểm địa ngay trong nhà hắn, không thì e rằng hắn đã phát giác ra từ hai tháng trước rồi, ngày ấy công lực ta còn thấp kém, không kháng cự được chút nào. Giả tỉ vì Truyền Âm Siêu Hồn Đại Pháp của hắn mà chúng ta hốt hoảng chạy đi thì khác nào giơ tay chịu trói. Gã ngốc kia! Đến giờ ngọ rồi, mỗ mỗ bắt đầu luyện công đây!” Đồng Mỗ nói xong, cắn cổ con bạch hạc cuối cùng để hút máu tươi rồi ngồi xếp bằng vận khí luyện công.
Hư Trúc nghe tiếng Lý Thu Thủy kêu gào mỗi lúc một thêm rùng rợn, thì biết đây là lúc quyết định chuyện sinh tử tồn vong của hai vị sư tỉ sư muội này. Đột nhiên Lý Thu Thủy biến đổi giọng nói thành ôn nhu ấm áp: “Hảo sư ca! Ôm chặt lấy muội đi! Ôi… ôi…! Siết muội chặt thêm chút nữa đi!” Hư Trúc ngơ ngẩn tự hỏi: “Sao mụ lại nói như vậy?”
Bỗng y nghe Đồng Mỗ “hừ” một tiếng rồi mắng: “Đồ tiện nhân!” Hư Trúc giật mình kinh hãi, giờ phút này Đồng Mỗ đang luyện công tới lúc quan hệ vô cùng, giả tỉ mụ xúc động hay căm phẫn thì nguy hiểm không sao nói hết, chỉ sai một ly là có thể mất mạng hay tàn phế. Tiếng Lý Thu Thủy vẫn ngọt ngào quyến rũ, thốt ra toàn những câu ân ái nồng nàn với Vô Nhai Tử. Ngay Hư Trúc cũng không nhịn được, bất giác nhớ lại tình trạng mê ly hoan lạc cùng thiếu nữ kia, lửa dục bốc lên ngùn ngụt, huyết mạch chạy rần rần cả thân thể làm nóng bỏng cả da thịt.
Đồng Mỗ vừa thở hổn hển vừa mắng nhiếc: “Con tiện nhân vô sỉ kia! Sư đệ có thật sự thích mi đâu? Mi cứ mặt dày mà khêu gợi quyến rũ y, thật là khốn kiếp!” Hư Trúc kinh hãi nói: “Tiền bối! Mụ… mụ cố ý chọc giận, tiền bối đừng cho đó là chuyện thực.”
Đồng Mỗ vẫn thóa mạ: “Con tiện nhân vô sỉ! Nếu y thực lòng với mi thì sao đến lúc sắp chết còn lần mò lên núi Phiêu Diểu, đem cái nhẫn thất bảo của bản môn truyền lại cho ta? Sư đệ còn đưa cho ta coi tấm hình do chính tay y vẽ ta hồi mười tám tuổi, còn nói rằng hơn sáu mươi năm nay y bầu bạn với tấm hình đó suốt ngày đêm, một bước không rời. Hừ! Mi nghe thế có khó chịu không…”.
Đồng Mỗ huyên thuyên không ngớt, Hư Trúc cứ thộn mặt ra mà nghe. Không biết mụ nói những chuyện đó để làm gì? Hay là bà bị tẩu hỏa nhập ma, thần trí mê loạn mất rồi?
Bỗng nghe đánh “sầm” một tiếng, cửa lớn của hầm nước đá đã bị đẩy ra. Sau đó là tiếng của ngách mở kèn kẹt, rồi cửa lớn cửa ngách đều đóng sập lại. Tiếng quát tháo của Lý Thu Thủy vang lên: “Mi nói láo! Mi nói láo! Sư ca chỉ yêu một mình ta thôi. Y vẽ hình con quỷ lùn để làm cái quái gì? Con tiện nhân kia! Mi chỉ quen đặt điều bịa chuyện!…”
Sau đó, trên tầng thứ nhất hầm nước đá có mười mấy tiếng ầm ầm vang lên như sấm nổ, Hư Trúc kinh hãi vô cùng. Đồng Mỗ lại cười ha hả, la lên: “Con tiện nhân kia! Mi tưởng sư đệ chỉ yêu mình mi thì thật là ngu muội. Tuy ta thấp bé thật, nhưng khuôn mặt ta mỹ lệ, dáng dấp ta yểu điệu. Mấy chục năm trước đây sư đệ đã biết hết rồi, mi là một đứa dâm đãng, thích dẫn dụ bọn thiếu niên anh tuấn về bày chuyện trăng hoa…” Thanh âm của mụ đang ở tầng thứ nhất nhà hầm, Hư Trúc cũng không biết Đồng Mỗ đã từ tầng thứ ba lên tới đó từ lúc nào. Đồng Mỗ lại cười, nói tiếp: “Tỉ muội ta mấy chục năm không gặp nhau, bây giờ phải thân mật với nhau một lúc. Ta đóng cửa hầm lại để người khác khỏi vào quấy nhiễu. Ha ha! Giả tỉ mi muốn kêu bọn thị vệ đến đây, ỷ đông người để thủ thắng, thì mau ra mở cửa ra cho họ vào. Tuy mi hiện ở trong này, nhưng có thể truyền âm ra ngoài được đó.”
Trong giây lát, Hư Trúc nghĩ tới rất nhiều điều. Đồng Mỗ chọc được Lý Thu Thủy giận nhảy vào hầm, rồi liệng những khối nước đá lớn chặn cửa lại, quyết một trận tử sinh. Như vậy tuy thế lực của Lý Thu Thủy ở hoàng cung Tây Hạ rất lớn, nhưng cũng không thể gọi thị vệ vào tiếp tay được. Nhưng tại sao Lý Thu Thủy không phá cửa thoát ra lại? Tại sao không kêu người đến tiếp tay như Đồng Mỗ vừa nói? Chắc là vì mụ muốn phá cửa hay dùng phép truyền âm cũng phải vận nội lực, sợ Đồng Mỗ mai phục ngay bên cạnh, chờ sơ hở là đánh một đòn chí mạng. Nếu không đúng thế, thì Lý Thu Thủy kiêu ngạo không thèm mượn sức người ngoài, muốn đích thân thanh toán tình địch. Hư Trúc lại nghĩ:”Những ngày trước, lúc Đồng Mỗ luyện công thì không nói năng mà cũng không nhúc nhích, tựa như không biết chút nào những việc bên ngoài. Hôm nay bà tức không chịu nổi, phải lên tiếng cãi nhau với Lý Thu Thủy, việc luyện công chậm lại một ngày, không biết có hại gì không? Trận chiến hôm nay cũng chưa rõ ai thắng ai thua, nhưng nếu Đồng Mỗ thắng mà thoát khỏi hoàng cung, ngày mai sẽ luyện bù thì có được không?”.
Hư Trúc đang nghĩ ngợi, bỗng nghe những tiếng ầm ầm như sấm nổ, chắc là Đồng Mỗ cùng Lý Thu Thủy đang dùng nội lực ném những khối nước đá vào nhau. Hư Trúc đã ở với Đồng Mỗ ba tháng, tuy bà ta vui giận bất thường, hành động độc đoán khiến y đau khổ không ít, nhưng hôm sớm có nhau cũng nảy tình thân cận. Lúc này y chỉ sợ Đồng Mỗ bị độc thủ của Lý Thu Thủy, bất giác bước lên trên.
Y vừa lên tới tầng thứ hai đã nghe Lý Thu Thủy quát: “Ai đó?”, những tiếng ầm ầm cũng ngừng lại. Hư Trúc nín thở không dám lên tiếng. Đồng Mỗ bỗng nói: “Y là một thiếu niên phong lưu lãng tử nhất trong võ lâm Trung Nguyên, có ngoại hiệu là Phấn Diện Lang Quân Võ Phan An. Mi có muốn thấy mặt y không?” Hư Trúc nghĩ bụng: “Kẻ xấu xí như mình thì làm gì có ngoại hiệu Phấn Diện Lang Quân Võ Phan An? Hỡi ơi! Tiền bối lại đem mình ra làm trò cười!”
Lý Thu Thủy đáp: “Mi đừng nói hồ đồ. Ta đã thành bà lão mấy chục năm nay, còn muốn coi mặt bọn thiếu niên làm gì? Cái tên Phấn Diện La Sát Võ Phan An gì gì đó, nhiều phần chắc là tên tiểu hòa thượng hình dung cổ quái cõng mi chạy trốn tới trốn lui.” Rồi mụ lớn tiếng gọi: “Tiểu hòa thượng! Có phải ngươi đó không?” Hư Trúc trống ngực đánh ầm ầm, chẳng biết nên thừa nhận hay không. Đồng Mỗ lên tiếng: “Mộng Lang! ngươi là tiểu hòa thượng ư? Ha ha! Người ta kêu chàng thiếu niên anh tuấn như ngươi là tiểu hòa thượng, thật buồn cười đến chết được!”
Hai tiếng Mộng Lang vừa lọt vào tai, Hư Trúc hổ thẹn vô cùng, đỏ mặt lên nghĩ thầm: “Hỏng bét! Hỏng bét! Sao Đồng Mỗ lại biết vị cô nương kia gọi ta như thế? Những chuyện này đâu thể để cho người khác biết được? Trời ơi! Ta tâm tình với cô nương kia, chắc là… chắc là… Đồng Mỗ nghe rõ hết rồi.”
Đồng Mỗ lại giục: “Mộng Lang, ngươi có phải là tiểu hòa thượng không? Mau mau trả lời đi.” Hư Trúc đáp: “Không phải.” Tuy nhà sư chỉ nói lí nhí, nhưng Đồng Mỗ và Lý Thu Thủy cùng nghe rõ.
Đồng Mỗ lại cười khanh khách: “Mộng Lang! Ngươi không việc gì phải nóng nảy, chẳng mấy chốc sẽ được cùng Mộng Cô tương kiến. Mấy bữa nay nàng tương tư ngươi đến phát điên, ăn không ngon ngủ không yên. Ngươi nói thật đi, ngươi có nhớ nàng không?”
Hư Trúc đã yêu thương thiếu nữ kia thật lòng. Mấy ngày nay tuy y phải chú tâm vào luyện cách phát xạ và hóa giải Sinh Tử Phù, nhưng lúc nào cũng nhớ nàng đến điên đảo thần hồn. Bây giờ nghe Đồng Mỗ đột ngột hỏi, y bất giác đáp luôn: “Có nhớ!”
Lý Thu Thủy chậm rãi nói: “Mộng Lang, Mộng Lang! Thì ra ngươi quả là một thiếu niên đa tình. Lại đây, để ta xem vị thiếu niên phong lưu lãng tử nhất trong võ lâm Trung Nguyên là nhân vật thế nào?”
Lý Thu Thủy tuy trẻ hơn Đồng Mỗ và Vô Nhai Tử, nhưng cũng đã đến bảy tám chục tuổi. Thế mà mụ nói câu này cực kỳ ôn nhu uyển chuyển, khiến cho trống ngực Hư Trúc đánh thình thịch, tưởng chừng trong chớp nhoáng đã biến thành tay phong lưu lãng tử đệ nhất Trung Nguyên thật. Nhưng y lập tức lại nghĩ đến chân tướng mình: “Ta thật là xấu xí, thô bỉ, vụng về, mà bảo là một chàng phong lưu lãng tử thì thật buồn cười đến chết người.” Y lại tự hỏi: “Đồng Mỗ đang có đại địch trước mắt, sao lại đem mình ra nói giỡn chơi? Chắc hẳn bà có thâm ý gì đây. À phải rồi, ngày trước Vô Nhai Tử tiền bối tìm người để truyền ngôi chưởng môn phái Tiêu Dao, đã mấy lần chê ta tướng mạo xấu xí. Sau Tô Tinh Hà tiền bối lại nói: muốn khắc chế được Đinh Xuân Thu phải tìm cho được một thiếu niên phong tư anh tuấn, ngộ tính cao. Khi đó ta không hiểu tại sao, bây giờ xem ra thì việc chọn người này tất có liên quan đến Lý Thu Thủy. Vô Nhai Tử tiền bối bảo ta đi tìm một người để xin chỉ điểm võ công, là tìm bà ta hay sao? Tô Tinh Hà tiền bối cũng từng nói là người này rất thích những thiếu niên anh tuấn.”
Y còn đang ngẫm nghĩ thì đột nhiên thấy hào quang lấp lánh, trên tầng hầm thứ nhất lóe lên một tia sáng như sao sa, tiếp theo là những tiếng vù vù ghê rợn. Hư Trúc bước lên bậc đá thì nhìn thấy một chấm trắng và một chấm đen bay lượn rất nhanh, lúc nhập lại lúc tách ra, lại nghe những tiếng lách tách như pháo liên châu. Hiển nhiên Đồng Mỗ cùng Lý Thu Thủy đang chiến đấu kịch liệt. Trên những khối băng có một bó đuốc nhỏ, chiếu sáng yếu ớt. Hư Trúc chỉ thấy hai bóng người quay cuồng quanh nhau, nhanh không thể tưởng tượng được, không phân biệt nổi đâu là Đồng Mỗ, đâu là Lý Thu Thủy.
Bó đuốc nhỏ xíu, trong chốc lát đã cháy hết, nghe một tiếng “xèo” rồi trong hầm nước đá lại tối đen như mực, chỉ còn nghe tiếng chưởng phong veo véo rít lên không ngớt. Hư Trúc xao xuyến nghĩ thầm: “Đồng Mỗ đã cụt một chân, đánh lâu tất là bất lợi, ta nên tìm cách giúp bà một tay. Nhưng Đồng Mỗ là người tàn nhẫn, nếu chiếm được thượng phong thì Lý Thu Thủy tất không toàn tính mạng, ta cũng không muốn thế. Mà hai người này võ công tuyệt cao, ta nhúng tay vào thế nào được?”
Hư Trúc bỗng nghe một tiếng “chát” rồi Đồng Mỗ kêu to lên một tiếng “úi chao!”, rõ ràng đã bị thương rồi. Lý Thu Thủy cười ha hả: “Sư tỉ! Chiêu đó của tiểu muội hay dở thế nào, xin sư tỉ chỉ điểm cho.” Đột nhiên mụ quát lên: “Đừng hòng chạy thoát!”
Hư Trúc thấy một luồng gió lạnh lướt qua mình, Đồng Mỗ vừa chạy vừa khẽ bảo: “Chiêu thứ hai, phóng chưởng.” Hư Trúc không hiểu, vừa toan hỏi lại thì thấy một luồng chưởng lực âm hàn tạt tới mặt. Y không kịp nghĩ gì nữa, liền thi triển thủ pháp thứ hai để phá giải Sinh Tử Phù mà Đồng Mỗ đã truyền cho. Trong bóng tối, chưởng lực chạm nhau, Hư Trúc run người lên, khí huyết nhộn nhạo rất là khó chịu, liền dùng thủ pháp thứ bảy để giải khai.
Lý Thu Thủy “Hừ” một tiếng rồi quát hỏi: “Ngươi là ai? Sao lại biết Thiên Sơn Lục Dương Chưởng? Ai dạy cho ngươi?” Hư Trúc ngạc nhiên hỏi lại: “Thiên Sơn Lục Dương Chưởng là cái gì?” Lý Thu Thủy đáp: “Ngươi không chịu nhận ư? Chiêu thứ hai Dương Xuân Bạch Tuyết và chiêu thứ bảy Dương Quan Tam Điệp là những tuyệt chiêu bí truyền của bản môn, sao ngươi lại học được?” Hư Trúc lại càng ngơ ngác, hỏi lại: “Dương Xuân Bạch Tuyết với Dương Quan Tam Điệp là cái gì?” Y chẳng hiểu gì, mơ hồ nhận ra mình đã mắc mẹo Đồng Mỗ gì đó.
Đồng Mỗ đứng sau lưng Hư Trúc, cười khẩy nói: “Vị Mộng Lang này đã nổi tiếng là tay phong lưu lãng tử nhất trong võ lâm Trung Nguyên, dĩ nhiên các môn cầm kỳ thi họa, y bốc tinh tướng, môn gì y cũng hiểu đến chỗ tinh vi. Vì thế y mới lọt vào mắt xanh của Vô Nhai Tử sư đệ, được thu làm đệ tử truyền nhân, giao cho trọng trách tiêu diệt tên phản đồ Đinh Xuân Thu để thanh lý môn hộ.”
Lý Thu Thủy dịu dàng hỏi lại: “Mộng Lang! Có đúng thế không?” Hư Trúc nghe hai người cùng kêu mình bằng Mộng Lang, thẹn mặt đỏ ra đến mang tai. Câu Đồng Mỗ vừa nói thì đoạn trên là giả, đoạn dưới lại là thực, nên Hư Trúc không thể nói “đúng”, mà cũng không thể nói “sai” được. Nhưng mấy chiêu vừa rồi, rõ ràng là thủ pháp Đồng Mỗ truyền thụ cho y để giải trừ Sinh Tử Phù, thế mà Lý Thu Thủy lại bảo là Thiên Sơn Lục Dương Chưởng. Hư Trúc nhớ lại Đồng Mỗ từng yêu cầu mình học Thiên Sơn Lục Dương Chưởng để đối phó với Lý Thu Thủy mà không được, liền tự hỏi: “Chẳng lẽ mấy thủ pháp này chính là Thiên Sơn Lục Dương Chưởng ư?”.
Lý Thu Thủy nghiêm giọng hỏi: “Sao sư thúc hỏi mà ngươi lại làm thinh?” Rồi mụ đột nhiên đưa tay ra chụp xuống vai y. Nhưng Hư Trúc đã được Đồng Mỗ dạy cho cách hóa giải, dù ở trong bóng tối cũng có thể nghe tiếng gió để phân biệt phương hướng mà đối phó. Y cảm thấy Lý Thu Thủy giơ tay lên toan chụp xuống với mình, liền hạ thấp vai, xoay người chéo đi để tránh, rồi xoay tay lại bắt cổ tay đối phương. Lý Thu Thủy vội rụt tay về cất tiếng khen: “Giỏi lắm! Chiêu Dương Ca Điếu Thiên này nội lực thâm hậu, sử kình thuần thục. Có phải Vô Nhai Tử sư huynh đã đem hết công phu truyền cho ngươi rồi không?” Hư Trúc ngập ngừng đáp: “Quả Vô Nhai Tử… tiền bối đã… đem truyền hết công lực cho tại hạ.”
Chính ra thì Vô Nhai Tử đem hết công lực của lão truyền cho Hư Trúc chứ không phải công phu. Công lực với công phu chỉ khác nhau một chữ mà nghĩa lại sai biệt rất nhiều, nhưng Lý Thu Thủy đang xúc động nên không phát hiện ra chỗ sai biệt đó. Mụ lại hỏi: “Sư huynh ta đã thu ngươi làm đệ tử, sao ngươi không kêu ta bằng sư thúc?” Hư Trúc liền gọi: “Sư bá! Sư thúc! Hai vị đã là người một nhà, sao lại không cởi mối oan cừu, cứ tranh đấu mãi? Mọi việc đã qua hãy bỏ hết đi là hơn.”
Lý Thu Thủy nói: “Mộng Lang! Ngươi còn nhỏ tuổi, không hiểu được dụng tâm của mụ già này hiểm ác vô cùng! Ngươi tránh ra một bên…” Mụ chưa dứt lời, đột nhiên la lên một tiếng “Úi chao!”, thì ra Đồng Mỗ nấp sau lưng Hư Trúc đột nhiên ám toán. Bà vận kình lực âm nhu, phát chưởng không một tiếng động. Hai người đứng gần nhau quá, Lý Thu Thủy phát giác ra, chưa kịp phản kích thì chưởng lực Đồng Mỗ đã đập trúng ngực. Mụ vội lùi lại phía sau nhưng cũng đã chậm rồi, ngực đau đến nghẹn thở, tựa như kinh mạch đã bị tổn thương. Đồng Mỗ cười cười hỏi lại: “Sư muội! Chiêu đó của tỉ tỉ hay dở thế nào, xin sư muội chỉ điểm cho!” Lý Thu Thủy lo vận khí ngăn ngừa thương thế, không dám mở miệng trả lời.
Đồng Mỗ đánh lén thành công, dĩ nhiên không để đối phương hồi phục. Cái chân còn lại của mụ nhảy tung lên, phóng chưởng đánh tới veo véo. Hư Trúc la lên: “Tiền bối! Đừng hạ độc thủ!” Rồi y dùng thủ pháp của Đồng Mỗ đã truyền thụ, hóa giải ba phát chưởng của mụ đánh tới Lý Thu Thủy. Đồng Mỗ cả giận quát mắng: “Quân tiểu tặc! Mi dùng công phu đó để đánh ta ư?” Thì ra trước kia Hư Trúc nhất quyết không chịu luyện môn Thiên Sơn Lục Dương Chưởng, nhưng Đồng Mỗ biết mai sau còn nhiều đại nạn, cần có trợ thủ đắc lực. Mụ bèn gieo Sinh Tử Phù vào người Hư Trúc rồi dạy y phép hóa giải, kỳ thực đó chính là Thiên Sơn Lục Dương Chưởng. Mụ lại cùng Hư Trúc chiết giải nhiều lần để đem những chỗ biến hóa tinh diệu truyền thụ cho kỳ hết. Lúc này Đồng Mỗ chiếm được thượng phong, làm sao mụ ngờ nổi Hư Trúc áp dụng võ công của mình để chống đỡ cho Lý Thu Thủy? Hư Trúc nói: “Tiền bối! Vãn bối khuyên tiền bối niệm tình đồng môn mà hạ thủ nhẹ tay một chút.” Đồng Mỗ lại thét lên: “Cút đi! Cút đi!”
Lý Thu Thủy được Hư Trúc xuất thủ đỡ giúp ba chiêu của Đồng Mỗ, rảnh tay điều hòa hơi thở được một lát. Mụ nói: “Mộng Lang! Ta không sao đâu, ngươi tránh ra đi!”. Tả chưởng mụ đánh ra, hữu chưởng phòng hờ để dẫn kình lực bên tay trái vòng qua người Hư Trúc, nhằm đánh Đồng Mỗ. Đồng Mỗ ngấm ngầm kinh hãi nghĩ thầm: “Con tiện nhân này đã luyện được Bạch Hồng Chưởng Lực, đánh thẳng hay đánh cong tùy ý, thật là ghê gớm!” Rồi bà liền vung chưởng ra nghinh địch.
Hư Trúc biết rằng bản lĩnh mình còn kém, không đủ sức để can ngăn hai bà, liền thở dài một tiếng rồi lùi ra xa.
Hai người chiến đấu hồi lâu, những luồng kinh phong sắc bén tạt vào mặt Hư Trúc rát như dao cắt. Y thấy đứng đó không yên, toan lùi về tầng hầm thứ ba. Bỗng nghe đánh “sầm” một tiếng, rồi Đồng Mỗ rú lên, đã bị Lý Thu Thủy phóng chưởng đánh văng vào một khối nước đá cứng rắn. Hư Trúc la lên: “Dừng tay! Dừng tay!”, rồi lập tức phóng ra hai chiêu “Lục Dương Chưởng” để hóa giải mấy chiêu đánh bồi của Lý Thu Thủy, Đồng Mỗ nhân cơ hội nhảy xuống tầng hầm thứ ba, đột nhiên rú lên một tiếng thê thảm, rồi lăn long lóc xuống bậc đá.
Hư Trúc hỏi dồn: “Tiền bối! Tiền bối! Làm sao thế?” Y vội chạy tới nơi, đưa tay toan nâng bà ta dậy, thì cảm thấy thân thể bà đã lạnh như băng, lại sờ lên mũi thì không thấy hơi thở nữa. Hư Trúc vừa kinh hãi vừa đau thương, la to: “Sư thúc! Sư thúc đánh chết sư bá rồi! Sư thúc tàn ác quá!” Rồi y không nhịn được, khóc òa lên.
Lý Thu Thủy nói: “Không chừng có chuyện gian trá. Một chưởng đó làm sao đánh chết hắn được?” Hư Trúc vừa khóc vừa nói: “Còn nói là chưa chết ư? Sư bá đã tắt thở rồi, tiền bối lại còn… Sư bá ơi! Tiểu điệt đã khuyên sư bá đừng mãi thù hận…” Lý Thu Thủy lấy trong bọc ra một cây nến nhỏ, thắp lên soi thì thấy dưới thềm đầy máu tươi. Đồng Mỗ nằm sóng sượt trên bậc đá, trước ngực vấy máu.
Mỗi khi luyện môn Bát Hoang Lục Hạp Duy Ngã Độc Tôn, Đồng Mỗ đều phải uống máu tươi. Mụ chỉ cần thổ huyết ra một chút cũng đủ chết. Lúc này trên thềm nhà và bực đá lại đầy những máu, ít ra cũng đến mấy bát lớn, Lý Thu Thủy biết rằng mối thù mấy chục năm nay đã trả xong, thế mà không thấy vui mừng, lại không khỏi bâng khuâng tịch mịch.
Hồi lâu, Lý Thu Thủy cầm cây nến trong tay, vừa đi xuống bậc đá vừa buồn bã hỏi: “Sư tỉ! Sư tỉ chết thật rồi ư? Tiểu muội chưa yên tâm đâu!” Mụ đi tới còn cách Đồng Mỗ năm thước, ánh nến thấp thoáng chiếu tới bộ mặt nhăn nheo của Đồng Mỗ, soi rõ những vết nhăn ở khóe miệng đều đọng máu tươi, trông rất ghê sợ. Lý Thu Thủy dịu dàng nói: “Sư tỉ! Một đời tiểu muội bị khổ về tay sư tỉ đã nhiều. Sư tỉ đừng giả vờ chết để lừa gạt tiểu muội.” Mụ nói xong, nhẹ nhàng vung tay trái lên nhằm đánh vào trước ngực Đồng Mỗ. Nghe mấy tiếng “rắc rắc”, dường như Đồng Mỗ gãy thêm mấy cái xương sườn.
Hư Trúc cả giận quát hỏi: “Sư bá đã chết về tay sư thúc rồi, sao còn nhẫn tâm tàn hại di thể của người?” Y thấy Lý Thu Thủy lại toan đánh tiếp, liền vung chưởng ra ngăn lại. Lý Thu Thủy liếc mắt nhìn Hư Trúc thì thấy con người được Đồng Mỗ gọi là “Trung Nguyên võ lâm đệ nhất phong lưu lãng tử” mắt to, mũi hếch, tai lớn, mồm rộng, mày rậm, nói chung tướng mạo thật là quê mùa xấu xí, biết ngay mình đã mắc lừa Đồng Mỗ. Mụ liền đưa tay phải ra nắm lấy vai Hư Trúc. Y nghiêng mình né tránh, nói: “Tiểu điệt không đánh nhau với sư thúc đâu, chỉ khuyên sư thúc đừng động đến di thể sư bá nữa.”
Lý Thu Thủy xuất bốn chiêu liền, không ngờ Hư Trúc dùng Thiên Sơn Lục Dương Chưởng đỡ gạt hết, bên trong lại ngấm ngầm có uy lực phản công. Lý Thu Thủy trỏ phía sau lưng Hư Trúc hỏi: “Hừ! Ai đứng sau lưng ngươi đó?” Hư Trúc không có kinh nghiệm chiến đấu, giật mình quay đầu lại thì tức thì trước ngực đau nhói lên, đã bị Lý Thu Thủy điểm trúng huyệt đạo, rồi lại bị điểm tiếp những huyệt đạo ở vai và chân, lập tức người nhũn ra, ngã lăn xuống phía dưới chân Đồng Mỗ. Hư Trúc vừa kinh hãi vừa tức giận la lên: “Sư thúc là bậc tiền bối, sao lại gạt người?”
Lý Thu Thủy cười khanh khách nói: “Binh bất yếm trá. Hôm nay ta dạy cho ngươi một bài học.” Mụ chỉ mặt Hư Trúc, vừa cười vừa hỏi lại: “Một tên tiểu hòa thượng xấu xí như ngươi mà cũng tự xưng là Trung Nguyên võ lâm đệ nhất phong lưu lãng tử gì gì đấy thôi.”
Đột nhiên nghe một tiếng “ầm”, Lý Thu Thủy chưa kịp la lên đã thấy huyệt Chí Dương sau lưng trúng một chưởng trầm trọng, chính là Đồng Mỗ tập kích. Rồi huyệt Đản Trung trước ngực mụ cũng trúng một quyền. Một chưởng, một quyền phóng ra quá bất ngờ, đừng nói Lý Thu Thủy không kịp chống đỡ hay né tránh, ngay cả vận khí để chịu đựng cũng không kịp. Người mụ bị phát quyền đánh văng lên nằm trên bậc đá, cây đuốc trong tay cũng văng đi.
Đồng Mỗ chuẩn bị đã lâu, dồn sức đánh một đòn, nên uy thế mãnh liệt dị thường. Cây đuốc từ tầng hầm thứ ba, bay qua tầng hầm thứ hai, lên đến tầng hầm thứ nhất mới rớt xuống. Trong tầng hầm thứ ba tối đen như mực, chỉ còn nghe thấy tiếng cười khanh khách của Đồng Mỗ, Hư Trúc vừa sợ vừa mừng, vội hỏi: “Tiền bối! Tiền bối chưa chết ư? Thế thì hay lắm!”.
Thì ra Đồng Mỗ luyện thần công chưa xong, mà khi trên đỉnh núi tuyết đã bị Lý Thu Thủy chém đứt một chân, công lực tổn thất rất nhiều. Trận quyết đấu sinh tử hôm nay đã kéo dài đến hơn hai trăm chiêu, Đồng Mỗ tự biết mình phải bại chứ không thắng được, đến lúc bà trúng một chưởng của Lý Thu Thủy thì thế kém lại càng rõ rệt. Hư Trúc lại không chịu giúp đỡ, tuy y cũng cản trở Lý Thu Thủy không cho thừa thắng truy kích, nhưng không chịu thi hành ngụy kế của bà. Đồng Mỗ biết chỉ một lúc nữa là thảm bại, liền nghiến răng chịu đau cho Lý Thu Thủy đánh một chưởng, cứ nằm giả chết. Lúc nãy máu tươi trên bậc đá cùng trước ngực bà chính là máu hươu mà bà đã chuẩn bị từ trước để dụ địch. Không ngờ Lý Thu Thủy cũng cực kỳ lợi hại, thấy Đồng Mỗ tắt hơi rồi mà vẫn phóng thêm một chưởng vào trước ngực. Mụ đã cố một thì phải cố hai, nằm yên chịu gãy thêm mấy cái xương sườn. Nếu không có Hư Trúc ngăn trở thì không chừng Lý Thu Thủy đánh bà đến nát bét ra, dĩ nhiên không còn cách nào thực hiện âm mưu. May mà một là Hư Trúc vì lòng nhân hậu đã ra tay cản trở, hai là Lý Thu Thủy trông thấy chân tướng vị“Trung Nguyên võ lâm đệ nhất phong lưu lãng tử” đang mải cười mà mất cảnh giác, ba là tuy Lý Thu Thủy biết Đồng Mỗ giảo quyệt nham hiểm, nhưng không ngờ nổi mụ nhẫn nại được đến thế.
Lý Thu Thủy bị trọng thương cả trước ngực lẫn sau lưng, nội lực tiềm tàng mấy chục năm trời đột nhiên cuồn cuộn tuôn ra như nước vỡ bờ, không kìm hãm lại được. Nội lực của phái Tiêu Dao đứng vào bậc nhất trong thiên hạ, nhưng nếu không kiềm chế được thì nó chạy nhộn nhạo trong người rồi phát tiết ra ngoài, nỗi đau khổ không thể tưởng tượng được, chỉ có người trong cảnh ngộ mới biết. Chỉ trong khoảnh khắc, Lý Thu Thủy thấy huyệt đạo toàn thân tựa như có trăm ngàn con ong độc châm đốt. Mụ hiểu rằng mình không thể chịu nổi, bèn la gọi: “Mộng Lang! Ngươi có lòng tốt thì mau mau chóng chưởng đánh vào huyệt Bách Hội trên đầu ta.”
Lý Thu Thủy giật tấm khăn che mặt xuống, lấy móng tay cào mặt cho chảy máu đầm đìa, quả là đau đớn không chịu được nữa, lại kêu gào: “Mộng Lang!… Mau vung quyền đánh chết ta đi.” Đồng Mỗ cười nhạt nói: “Mi điểm huyệt y rồi, còn kêu y giúp đỡ làm sao được? Ha ha! Đúng là mình làm mình chịu.” Lý Thu Thủy cố gượng đứng lên để giải huyệt cho Hư Trúc, nhưng toàn thân bà tê nhức, nhúc nhích một ngón tay cũng không được, còn nói gì đến chuyện đứng lên.
Hư Trúc đưa mắt nhìn Lý Thu Thủy rồi lại nhìn Đồng Mỗ, thấy mụ cũng bị thương cực kỳ trầm trọng, nằm lăn trên bậc đá, bắt đầu không nhịn nổi phải kêu rên. Lúc này cảnh vật trong hầm nước đá mỗi lúc một rõ hơn, tựa hồ được chiếu sáng dần dần, Hư Trúc lấy làm lạ, quay đầu nhìn về phía phát ra ánh sáng, bỗng thấy trên tầng thứ nhất có ánh lửa. Y cả mừng reo lên: “May quá! Có người vào đây.”
Nhưng Đồng Mỗ thì kinh hãi nghĩ thầm: “Có người vào thì chắc chắn là thủ hạ của con tiện nhân kia.” Bà gượng hít một hơi chân khí, muốn đứng dậy nhưng không được, vừa nhổm người lên thì chân đã nhũn ra, té nhào xuống đất. Bà đưa hai tay ra, cố sức từ từ kéo Lý Thu Thủy lại, định bụng nhân lúc cứu binh của kẻ thù chưa đến, phải ra tay hạ sát trước.
Bỗng mụ nghe những tiếng tí tách rất nhỏ, dường như nước từ trên bậc đá đang chảy xuống. Lý Thu Thủy cùng Hư Trúc cũng nghe tiếng nước chảy, liền quay lại nhìn thì quả nhiên thấy trên bậc đá có nước chảy xuống. Cả ba người cùng ngạc nhiên tự hỏi: “Nước đâu mà chảy xuống đây?”
Trong hầm mỗi lúc một sáng hơn, nước không nhỏ giọt nữa mà đã chảy thành dòng, tràn qua bậc đá. Hư Trúc nhìn lên tầng hầm thứ nhất thì không thấy ai, chỉ thấy lửa cháy mỗi lúc một lớn. Lý Thu Thủy “hừ” một tiếng rồi nói: “Cháy rồi! Cháy những túi bông rồi!…” Thì ra ngoài cửa hầm nước đá có xếp đầy những bao chứa bông để cách nhiệt, giữ cho nước đá lâu tan. Lúc nãy Lý Thu Thủy bị Đồng Mỗ đánh một quyền, cây đuốc trong tay văng lên tầng thứ nhất rớt vào đống bao tải chứa bông. Lập tức bông cháy lên, sức nóng làm cho nước đá tan ra chảy xuống.
Thế lửa mỗi lúc một to, băng tan mỗi lúc một nhanh, nước chảy xuống đã nghe ào ào. Chẳng bao lâu tầng hầm thứ ba đã ngập hơn một tấc và nước từ bậc đá vẫn tiếp tục chảy xuống. Mực nước mỗi lúc một cao, dần dần ngập đến thắt lưng ba người.
Lý Thu Thủy thở dài nói: “Sư tỉ! Hôm nay tỉ muội ta cùng chết tại đây. Sư tỉ hãy giải huyệt cho Mộng Lang để gã thoát ra đi.” Mọi người đều hiểu rõ, chẳng bao lâu nữa nước sẽ ngập lên tới đầu, cả ba đều chết đuối.
Đồng Mỗ cười nhạt nói: “Tự mi gây chuyện, bây giờ còn nói nhiều nữa ư? Ta đang muốn giải huyệt cho gã, nhưng mi lại làm bộ nhân đức nói vậy, ta không giải khai nữa. Tiểu hòa thượng! Thế là ngươi chết về câu nói của con tiện nhân, ngươi có biết không?” Đồng Mỗ xoay mình quay lại phía bậc đá, cố trườn lên để tạm thời khỏi bị ngập. Tuy chính bà cũng khó tránh được cái chết, nhưng được thấy Lý Thu Thủy chết trước mình thì cũng coi như đã trả được mối thù mấy mươi năm.
Lý Thu Thủy mắt thấy Đồng Mỗ nhoai dần lên, còn mình đã bị nước đá lạnh thấu xương tràn lên lấp xấp tới ngực. Chân khí trong người lại đang nhộn nhạo đau đớn vô cùng, lúc này mụ chỉ mong cho nước mau ngập đến miệng đến mũi để chết quách đi, đỡ phải chịu những cơn đau nhức như ong đốt kim châm khắp thân thể.
Bỗng nghe Đồng Mỗ la lên một tiếng, lại lăn tõm xuống nước. Thì ra mụ đang bị trọng thương, tay chân mất hết sức lực, lúc bò lên tới bậc thứ bảy thì một cục băng to bằng nắm tay trôi xuống chạm vào đầu gối. Mụ không tự chủ được, lại trượt xuống đúng vào người Hư Trúc, rồi lăn sang bên trái y, còn bên hữu y là Lý Thu Thủy. Thế là ba người nằm cạnh nhau trong vũng nước.
Đồng Mỗ thân thể nhỏ bé hơn Hư Trúc và Lý Thu Thủy nhiều, dĩ nhiên sẽ bị ngập nước đầu tiên. Lúc này bà đau khổ vô cùng, nhưng cũng có nghĩ: “Bất luận thế nào, con tiện nhân kia cũng phải chết trước ta.” Bà muốn ra tay hại Lý Thu Thủy nhưng lại bị Hư Trúc nằm chắn giữa. Tuy trong người bà nội lực tràn trề, nhưng lúc này muốn nhúc nhích cánh tay cũng không được. Bà thấy vai Hư Trúc kề vai Lý Thu Thủy, chợt nghĩ ra một cách, liền nói: “Tiểu hòa thượng! Ngươi nhất định đừng vận công chống cự, nếu không thì coi như tự sát.” Không đợi Hư Trúc trả lời, bà vận nội lực truyền sang vai y. Hành động này của Đồng Mỗ mới thực là tự sát, lúc này mụ không vận khí được, nội lực không được bổ sung mà phải tiêu hao, tất càng chóng chết. Nhưng bà vẫn liều đánh một đòn tối hậu không cần biết hậu quả, vì nếu cứ để cho nước dâng lên thì đương nhiên sẽ chết trước kẻ thù.
Lý Thu Thủy lập tức rung chuyển, phát giác ra Đồng Mỗ dùng nội lực đánh sang, liền cố gắng vận công chống lại.
Hư Trúc nằm giữa hai người, vừa thấy một luồng nhiệt khí truyền vào vai trái, lập tức lại thấy vai phải cũng có một luồng nhiệt khí dương thúc sang, chỉ trong chớp mắt là hai luồng kình khí xung đột trong người y một cách mãnh liệt. Công lực Đồng Mỗ và Lý Thu Thủy vốn ngang nhau, sau khi hai người cùng bị trọng thương vẫn kẻ tám lạng người nửa cân như cũ. Vì thế mà nội lực hai người đều dừng lại chống đối nhau trong người Hư Trúc, không ai đẩy được sang tới thân thể đối phương. Hóa ra Hư Trúc lại bị tả hữu giáp công cực kỳ đau khổ, may mà Hư Trúc đã được bảy mươi năm công lực của Vô Nhai Tử truyền cho, lại chưa bị thương. Vì thế mà nếu cục diện ba người đồng môn cầm cự kéo dài, thì Hư Trúc cũng không đến nỗi mất mạng vì hai tay đại cao thủ giáp công.
Đồng Mỗ thấy mực nước lên cao dần, tới cổ, tới cằm, rồi lên đến miệng, bèn cố thôi thúc nội lực để đánh một đòn tối hậu mong hạ sát tình địch. Nhưng nội lực Lý Thu Thủy cũng còn đầy rẫy, không phải một giờ hay mấy khắc mà hao tán hết được. Tiếng nước chảy róc rách vẫn không ngừng, rồi Đồng Mỗ thấy trong miệng lạnh buốt, nước đã tràn vào. Bà kinh hãi, bất giác cố nhổm lên, nhưng không ngồi vững được, ngã ra nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Thì ra bà mất một chân nên người nhẹ đi, dễ nổi hơn người thường, thật là tìm thấy cái sống trong chỗ chết. Đồng Mỗ thả mình nằm ngửa trên mặt nước chỉ lộ mũi miệng ra để thở, trong lòng bình tĩnh nghĩ thầm: “Nước lên cao thì người mình cũng nổi cao lên. Không ngờ ở dưới nước thì mình bị mất một chân lại là lợi điểm.” Nội lực từ tay bà vẫn phóng ra không ngớt.
Hư Trúc vừa rên la vừa gọi: “Ôi chao! Sư bá! Sư thúc! Hai vị có tỉ đấu bao lâu thì cũng chẳng ai hơn ai kém, chỉ có tiểu điệt ở giữa chịu chết mà thôi.” Nhưng Đồng Mỗ cùng Lý Thu Thủy đang tỉ thí nội lực cực kỳ nguy hiểm, ai ngưng lại trước là phải táng mạng. Trường hợp này hai bên nội lực xấp xỉ nhau thì bất luận kẻ thắng người bại đều mất mạng cả, chỉ còn phân biệt được ai tắt hơi trước mà thôi. Hai bà này đều cao ngạo ghê gớm, chẳng ai chịu thua ai, hôm nay có cơ hội giải quyết xong mối cừu hận mấy chục năm trời, làm sao mà dàn xếp được nữa? Hơn nữa nội lực cả hai đang nhộn nhạo trong người không kiềm chế được, bây giờ có chỗ phát tiết ra ngoài, tuy có hại nhưng đỡ đau khổ được ít nhiều.
Thời gian chừng ăn xong bữa cơm, nước lạnh đã ngập đến miệng Lý Thu Thủy. Mụ không biết bơi nên không dám bắt chước Đồng Mỗ thả người nổi lên mặt nước, liền phong tỏa đường hô hấp theo phép Quy Tức Công để chiến đấu với địch nhân. Nước dần dần ngập đến mắt, đến mày, rồi ngập cả đầu bà, nhưng nội lực hùng hậu vẫn phát ra không ngớt.
Nước lạnh tràn vào miệng Hư Trúc ừng ực luôn ba ngụm, y la lên: “Ôi chao! Tiểu điệt… sặc nước…” Đang lúc kinh hoàng, đột nhiên hai mắt y tối sầm lại không nhìn thấy gì nữa. Hư Trúc vội ngậm chặt miệng lại, thở bằng mũi, nhưng lúc hít không khí vào, trong ngực cũng thấy khó chịu. Thì ra nhà hầm nước đá này bốn mặt kín mít, không có chỗ thông hơi. Những bao bông gòn đã cháy hàng mấy giờ, bao nhiêu dưỡng khí trong nhà đều biến thành thán khí hết, lúc này lửa không còn dưỡng khí nên tự tắt đi. Hư Trúc cùng Đồng Mỗ cảm thấy khó thở, còn Lý Thu Thủy đang vận Quy Tức Công, bế khí không hít thở nên không hay biết gì.
Lửa tắt rồi, dưới hầm lại tối đen, nhưng nước vẫn còn chảy xuống không ngớt. Hư Trúc cảm thấy nước băng đã tràn khỏi miệng, dần dần đến lỗ mũi, nghĩ thầm: “Ta sắp chết rồi! Ta sắp chết rồi!” Lúc này Đồng Mỗ cùng Lý Thu Thủy vẫn tiếp tục thúc đẩy nội lực công kích nhau.
Chân khí trong người Hư Trúc nhộn nhạo đến mức lục phủ ngũ tạng y tựa như đổi chỗ lộn tùng phèo cả lên. Đồng thời mực nước chỉ còn cách lỗ mũi một chút, nước dâng thêm một phần nữa thì không còn cách gì thở được. Hư Trúc bị phong tỏa mấy chỗ huyệt đạo, muốn ngước lên một chút cũng không được. Nhưng lạ thay, một lúc lâu sau, nước băng không dâng thêm chút nào nữa, chỉ giữ nguyên mực đó. Thì ra từ lúc những bao bông tắt rồi, nước đá không tan ra nữa. Lại một lúc sau, Hư Trúc bắt đầu thấy đau đớn trong người, cơn đau phát xuất từ dưới lưng, dần dần đến nách, rồi lên đến ngực. Tầng hầm thứ ba chất đầy nước đá, cực kỳ giá lạnh, nước từ trên chảy xuống đã dần dần đóng lại thành băng. Sau cùng, cả ba người đều bị đông cứng lại trong nước đá.
Khi băng đã đóng chắc rồi, nội lực của Đồng Mỗ và Lý Thu Thủy bị cách riêng ra, không truyền qua người Hư Trúc được nữa. Nhưng hết chín phần mười nội lực của hai bà đã truyền vào trong người Hư Trúc, xung đột nhau ở đó mỗi lúc một ghê gớm hơn. Hư Trúc tưởng chừng như mình sắp nổ tung, tuy đông giữa khối băng, mà khí nóng thiêu đốt trong người bứt rứt rất khó chịu.
Không biết tình trạng này kéo dài đã bao lâu, đột nhiên toàn thân y giật bắn lên một cái. Hai luồng nhiệt khí hòa với chân khí bản thân, chạy tứ tung khắp các huyệt đạo trong người như bầy ngựa phi không dừng vó. Thì ra chân khí của Đồng Mỗ và Lý Thu Thủy trút vào cùng với chân lực của Vô Nhai Tử truyền cho từ trước cũng là nội lực cùng một môn phái, bây giờ đã điều hòa được với nhau. Nội lực của ba người hợp vào làm một, vô cùng mạnh mẽ không có gì chế ngự được, chạy đến đâu là huyệt đạo được đả thông tới đó.
Hư Trúc cảm thấy thân thể tự do, mới khẽ rung hai tay một cái thì khối băng bọc quanh người y đã vỡ tan. Y nghĩ thầm: “Không hiểu sư bá và sư thúc ra sao rồi? Ta hãy đưa cả hai người ra ngoài trước đã.” Hư Trúc đưa tay ra sờ thì chỉ thấy vừa lạnh vừa cứng, thì ra hai người đã biến thành hai khối băng rắn chắc. Hư Trúc kinh hãi vô cùng, không suy nghĩ gì nữa, liền ôm mỗi tay một khối, đi lên tầng hầm thứ nhất. Y mở xong hai lớp cửa gỗ thì thấy không khí trong lành tràn vào mũi, bèn hít một hơi dài, cảm thấy sung sướng không sao tả xiết. Ngoài cửa, trăng sáng vằng vặc trên trời, bóng hoa lay động dưới đất, thì ra đêm đã khuya rồi.
Hư Trúc cả mừng nghĩ thầm: “Ban đêm thì mình trốn ra khỏi hoàng cung lại càng dễ hơn.” Y liền ôm hai khối băng chạy thẳng tới chân tường, vừa đề khí nhảy một cái thì đột nhiên thấy người lơ lửng bốc lên cao khỏi mặt tường chừng một trượng, dường như còn lên cao nữa. Hư Trúc cũng không hiểu sao cú nhảy của mình lại tuyệt diệu đến thế, sợ lên cao quá, bất giác buột miệng la lên.
Bốn tên ngự tiền thị vệ đang đi tuần trong cung, chợt nghe tiếng người la liền chạy lại xem, thì thấy một vật xam xám có hai cái cánh sáng choang như hai khối thủy tinh lớn đang từ từ bay vượt qua tường. Chúng không hiểu là quái vật gì, sợ đến miệng há hốc ra không ngậm lại được nữa, mắt thấy quái vật đã bay vào rừng cây ngoài cung. Chúng la ó kêu người rượt theo, nhưng chẳng thấy tông tích đâu nữa. Bốn gã cãi nhau không ngớt, gã nghĩ là thần, gã cho là quỷ, gã tưởng là thần núi, gã bảo là ma cây.
Hư Trúc bay ra khỏi hoàng cung, hạ xuống chạy bộ. Dưới chân y là đường lát đá xanh, hai bên đường nhà cửa san sát. Y không dám dừng bước, cứ cắm đầu chạy về phía tây. Được một lúc lại đến chân tường thành, y liền đề khí nhảy lên mặt thành. Bọn lính canh võ nghệ tầm thường, chỉ thấy mắt hoa lên một cái rồi mất hút, không hiểu là vật gì.
Hư Trúc chạy hơn mười dặm nữa thì đến một nơi hoang dã, bốn phía đều không có nhà cửa. Lúc đó y mới dám dừng chân lại đặt hai khối băng xuống, nghĩ thầm: “Bây giờ phải lấy hai người ra khỏi khối băng.” Y tìm đến một khe suối, ngâm hai khối băng xuống nước. Ánh trăng soi rõ miệng mũi Đồng Mỗ đã hở ra ngoài, song hai mắt nhắm nghiền, không hiểu còn sống hay đã chết. Băng vỡ dần ra rồi trôi đi, Hư Trúc gỡ hết những miếng băng cứng còn sót quanh người Đồng Mỗ và Lý Thu Thủy rồi ôm hai người lên. Y sờ trán hai bà đều thấy còn hơi nóng, liền đem để ra xa nhau, chỉ sợ hai bà vừa tỉnh dậy là tiếp tục động thủ.
Y vất vả hết nửa đêm, trời đã mờ mờ sáng, bèn dựa lưng vào một gốc cây ngồi nghỉ. Chim đang hót véo von, bỗng nghe dưới gốc cây phía bắc, Đồng Mỗ “Hừ” một tiếng, gốc cây phía nam Lý Thu Thủy cũng “A” một tiếng, cả hai hồi tỉnh cùng lúc.
Hư Trúc cả mừng nhảy đến đứng giữa hai bà, chắp tay thi lễ nói: “Sư bá! Sư thúc! Ba người chúng ta may mà thoát chết, xin hai vị ngưng đánh nhau đi thôi.” Đồng Mỗ nói: “Không được! Con tiện nhân kia chưa chết, ta chưa chịu dừng tay.” Lý Thu Thủy cũng nói: “Thù sâu tựa bể, chưa chết chưa thôi.” Hư Trúc xua tay loạn lên nói: “Ngàn lần không được, vạn lần không được!”
Lý Thu Thủy chống tay xuống đất toan nhảy xổ lại, Đồng Mỗ cũng vung tay lên chuẩn bị phòng chưởng nghênh địch. Ngờ đâu Lý Thu Thủy vừa đứng thẳng dậy, bỗng la lên một tiếng rồi lại nhũn ra té nhào xuống đất. Bên kia Đồng Mỗ vung tay lên, nhưng muốn khoanh tròn một cái cũng không được, lại tựa vào gốc cây thở hồng hộc.
Hư Trúc thấy hai bà không còn sức để đánh nhau thì cả mừng nói: “Hay lắm! Hai vị ngồi nghỉ một lúc, vẫn bối đi kiếm thứ gì ăn được. Bỗng thấy Đồng Mỗ cùng Lý Thu Thủy đều ngồi xếp bằng, lòng bàn chân lòng bàn tay hướng cả lên trời y hệt như nhau. Hư Trúc biết hai vị sư tỉ sư muội đồng môn đang đem toàn lực vận công, người nào ngưng tụ được chút ít khí lực để xuất chiêu ra trước là đối thủ không sao chống nổi. Hư Trúc bèn không dám bỏ đi, chỉ sợ lúc mình trở về thì đã thấy một hay hai xác chết nằm lăn ra đó. Y nhìn Đồng Mỗ rồi lại nhìn Lý Thu Thủy, thấy cả hai bà nét mặt nhăn nheo, dung nhan tiều tụy, liền nghĩ: “Sư bá đã chín mươi sáu tuổi rồi, sư thúc trẻ lắm cũng ngoài tám mươi. Cả hai đã già rồi mà vẫn còn nóng tính đến thế.”
Hư Trúc vừa giũ áo một cái, nghe bịch một tiếng, bức đồ hình của Vô Nhai Tử bị rớt xuống đất. Bức họa này bằng lụa tốt, ngâm nước lâu mà vẫn chưa rách, Hư Trúc liền đem trải ra phơi trên một hòn đá.
Lý Thu Thủy nghe tiếng rơi, mở hé mắt ra, thấy bức họa thì thét lên: “Đem cho ta xem! Ta không tin sư huynh lại vẽ chân dung con tiện tỳ kia.”
Đồng Mỗ cũng la lớn: “Đừng cho hắn coi! Ta phải giết chết hắn. Lỡ hắn xem xong tức uất lên mà chết, hóa ra nhẹ nhàng quá ư?”
Lý Thu Thủy cười ha hả nói: “Ta không cần xem nữa. Mi sợ ta xem bức họa, chắc chắn người trong tranh không phải là mi. Khi nào sư ca lại đem nét đan thanh tuyệt diệu để vẽ một con lùn nửa người nửa quỉ? Sư huynh vốn không thích vẽ bùa trừ quỉ, thì vẽ mi làm gì?”
Chuyện thương tâm nhất trong đời Đồng Mỗ là bà luyện công bị sai, vĩnh viễn không thành người lớn. Đó là kiệt tác của Lý Thu Thủy, ngày xưa nhằm lúc Đồng Mỗ luyện công sắp thành bất ngờ thét lên một tiếng, khiến mụ phân tâm mà chân khí chạy ngược đường, không thể nào phục nguyên được nữa. Lúc này Lý Thu Thủy lại chọc vào vết thương lòng của bà. Uất khí Đồng Mỗ bất giác nổi lên, bà lớn tiếng quát: “Đồ tiện nhân! Ta… ta…” Bà nghẹn thở, trong cổ họng phát ra những tiếng òng ọc rồi thở ra một búng máu, xây xẩm như sắp ngất xỉu. Lý Thu Thủy lạnh lùng cười hỏi: “Mi chịu thua chưa? Có cần tỉ đấu nữa không?” Rồi mụ cũng ho lên sù sụ,không nói tiếp được. Hư Trúc thấy hai người đều kiệt sức, liền khuyên giải: “Sư bá, sư thúc! Hai vị nghỉ ngơi một lát, bồi bổ thần khí lại đã.” Đồng Mỗ nổi giận nói: “Không được!”
Lúc ấy ở hướng tây nam đột nhiên có tiếng leng keng vọng lại, tựa như tiếng chuông lạc đà, Đồng Mỗ nghe thấy lập tức phấn khởi, móc trong bọc ra một cái ống ngắn màu đen, nói: “Ngươi tung cái ống này lên trời.” Còn Lý Thu Thủy nghe tiếng leng keng lại càng ho kịch liệt hơn. Hư Trúc chẳng hiểu ra sao, cầm cái ống sắt nhỏ đặt vào ngón tay giữa rồi búng lên không, bỗng nghe một hồi còi lanh lảnh từ trong ống phát ra. Lúc này chỉ lực của Hư Trúc đã đến mức phi thường, cái ống nhỏ bay lẫn vào những đám mây, vẫn nổi lên những tiếng vi vu không ngớt. Hư Trúc kinh hãi nghĩ thầm: “Nguy rồi! Chắc cái ống sáo nhỏ này là tín hiệu của sư bá gọi người đến để đối phó với Lý sư thúc.” Y bèn chạy lại trước mặt Lý Thu Thủy khẽ nói: “Sư thúc! Quân tiếp viện của sư bá sắp tới nơi, để tiểu điệt cõng sư thúc chạy trốn.”
Chỉ thấy Lý Thu Thủy nhắm mắt cúi đầu, không ho mà cũng không nhúc nhích nữa. Hư Trúc cả kinh, đưa tay sờ mũi bà không thấy thở nữa thì kinh hãi la gọi: “Sư thúc! Sư thúc!” Y gọi chán lại lay vai Lý Thu Thủy, nhưng vừa chạm vào thì bà ngã lăn ra. Thì ra bà đã chết rồi!
Đồng Mỗ cười ha hả nói: “Hay lắm! Hay lắm! Con tiện nhân kinh hãi mà chết rồi! Ha ha! Đại thù đã báo, con tiện nhân cuối cùng phải chết trước ta.” Mụ kích động đến mức nghẹn thở; phun ra một ngụm máu tươi.
Tiếng vo vo trên không trung dần dần hạ thấp, Hư Trúc giơ tay ra đón lấy ống sáo đen đang rơi xuống. Y đang toan lại gần Đồng Mỗ xem sao, bỗng nghe tiếng vó dồn dập lẫn tiếng leng keng như nhạc ngựa, mấy chục con lạc đà từ phía tây nam chạy rất nhanh, chốc lát đã đến nơi. Hư Trúc quay đầu nhìn lại, thấy đoàn lạc đà này toàn là nữ nhân cưỡi, người nào cũng mặc áo xanh nhạt, trước ngực áo thêu một con chim thứu màu đen trông rất hung dữ. Đám người này trông xa xa tựa như một đám mây xanh lơ lửng bay đến, rồi những thanh âm thiếu nữ vang lên: “Giáo chủ! Bọn thuộc hạ đến chậm, tội đáng muôn thác!”
Mấy chục người cưỡi lạc đà vừa trông thấy Đồng Mỗ, còn ngoài xa đã lập tức nhảy xuống, chạy đến trước bà ta lạy rạp xuống sát đất. Hư Trúc thấy người đi đầu là một mụ già chừng năm sáu chục tuổi, còn ngoài ra lớn có nhỏ có, từ bốn mươi đến khoảng mười bảy, mười tám tuổi. Bọn này có vẻ rất khiếp sợ Đồng Mỗ, nằm phục xuống đất không dám ngửng lên nhìn.
Đồng Mỗ hừ một tiếng rồi tức giận hỏi: “Các ngươi tưởng là ta chết rồi phải không? Thế là các ngươi tha hồ thảnh thơi vui thú, không sợ ai quản thúc nữa phải không?” Mụ già nhất đám người kia dập đầu luôn mấy cái đáp: “Không dám.” Đồng Mỗ hỏi: “Sao lại không dám? Nếu thực tình các ngươi còn nghĩ đến ta thì sao lại chỉ có chừng này người đến đây?” Mụ già đáp: “Giáo chủ! Từ hôm giáo chủ rời cung, bọn thuộc hạ đều băn khoăn lo lắng…” Đồng Mỗ tức giận ngắt lời: “Thúi lắm, thúi lắm!” Mụ già chỉ biết: “Dạ, dạ!” Đồng Mỗ lại càng căm tức, quát to: “Ngươi đã biết là thúi, sao còn dám giở giọng thúi tha đó ra trước mặt ta?” Mụ già không dám nói gì nữa, dập đầu xuống lạy lia lạy lịa.
Đồng Mỗ nói: “Các ngươi băn khoăn lo lắng suông thì được cái gì? Sao không mau mau xuống núi tìm ta?” Mụ già đáp: “Dạ! Bọn thuộc hạ cùng nhau thương nghị, lập tức xuống núi phân nhau thám thính tin giáo chủ. Thuộc hạ dẫn bộ Hiệu Thiên đi về phương Đông, còn bộ Dương Thiên đi về phía Đông Nam, bộ Xích Thiên đi về phía chính Nam, bộ Chu Thiên đi về phía Tây Nam, bộ Thành Thiên đi về phía chính Tây, bộ U Thiên đi về phía Tây Bắc, bộ Loan Thiên đi về phía Đông Bắc, bộ Quân Thiên ở lại canh giữ bản cung. Thuộc hạ bất tài nên nghênh giá chậm trễ, thật là đáng chết, đáng chết.” Mụ nói xong lại dập đầu lia lịa.
Đồng Mỗ nói: “Các ngươi đều áo xiêm rách rưới, chắc trong ba tháng qua đã gặp nhiều gian khổ.” Mụ già thấy Đồng Mỗ có ý khen thưởng công lao bọn mình thì lộ vẻ vui mừng đáp: “Bọn thuộc hạ chỉ biết vì giáo chủ mà tận tâm tận lực, dù phải nhảy vào lửa cũng không từ nan. Chút công lao nhỏ mọn này chỉ là bổn phận mà thôi.” Đồng Mỗ nói: “Ta luyện công chưa xong thì gặp cường địch bắt đi, rồi bị con tiện nhân kia chặt cụt một chân, suýt nữa mất mạng, may được sư diệt ta là Hư Trúc cứu thoát. Những chuyện gian khổ nguy hiểm không thể nói mấy câu mà hết.”
Bọn nữ nhân áo xanh vội quay lại tạ ơn Hư Trúc: “Ơn đức trời biển của tiên sinh, bọn tiện nữ dù tan xương nát thịt cũng chưa thể báo đền trong muôn một. Hư Trúc đột nhiên thấy rất nhiều nữ nhân lạy tạ mình, vội xua tay loạn lên nói: “Không dám! Không dám!”, rồi vội vàng quì xuống đáp lễ. Đồng Mỗ quát lên: “Hư Trúc đứng dậy! Bọn chúng đều là nô tì của ta, ngươi làm thế là mất cả phẩm giá.” Hư Trúc cố nói mấy câu “không dám” nữa rồi mới đứng dậy.
Đồng Mỗ nhìn Hư Trúc nói: “Chiếc nhẫn bảo thạch của chúng ta đã bị con tiện nhân kia đoạt mất. Ngươi qua đó lấy về.” Hư Trúc “Vâng” rồi chạy đến bên Lý Thu Thủy; rút chiếc nhẫn bảo thạch trong ngón tay bà ra. Chiếc nhẫn này vốn là của Vô Nhai Tử giao cho Hư Trúc, y lấy lại từ Lý Thu Thủy, trong lòng không ngại ngùng gì.
Đồng Mỗ nói: “Ngươi là chưởng môn phái Tiêu Dao. Ta lại đã truyền thụ cho ngươi các môn tuyệt học Sinh Tử Phù, Thiên Sơn Chiết Mai Thủ, Thiên Sơn Lục Dương Chưởng. Kể từ hôm nay, ngươi là chủ nhân cung Linh Thứu núi Phiêu Diểu. Nô tỳ chín bộ trong cung Linh Thứu đều do ngươi cầm quyền sinh sát, ngươi muốn cho ai sống hay chết đều tùy ý.” Hư Trúc cả kinh nói: “Sư bá! Sư bá! Việc này không được đâu.” Đồng Mỗ tức giận hỏi: “Sao lại không được? Bọn nô tỳ chín bộ này phục vụ bất lực, không kịp nghênh giá, để ta phải nhục nhã chui vào túi vải, bị bọn hồ quần cẩu đảng Ô Lão Đại ngược đãi khinh nhờn, sau cùng phải chịu cụt chân, mất mạng…”
Quần nữ đều run lên bần bật, năn nỉ: “Bọn nô tỳ đáng chết, chỉ mong giáo chủ khai ân.” Đồng Mỗ nhìn Hư Trúc nói: “Bọn nô tỳ bộ Hiệu Thiên này đã tìm được ta, có thể giảm tội một chút, còn nô tỳ tám bộ kia đều phải chặt chân tay. Việc này giao cho ngươi xử trí.” Bọn nữ nhân đều dập đầu nói: “Đa tạ giáo chủ!” Đồng Mỗ lại quát: “Sao bọn mi không lạy tạ tân giáo chủ?” Chúng lại quay sang khấu đầu bái tạ Hư Trúc. Y lại xua tay lia lịa nói: “Thôi đi, thôi đi! Ta làm chủ nhân các vị thế nào được?”
Đồng Mỗ nói: “Ta chỉ còn sống trong khoảnh khắc, nhưng được tận mắt thấy con tiện nhân chết trước, lại tìm được truyền nhân để truyền thụ sở học của mình, thật là chết được nhắm mắt. Ngươi không chịu vâng lời ư?” Hư Trúc ấp úng đáp: “Chuyện này… vãn bối không làm được.” Đồng Mỗ cười ha hả hỏi: “Trong mộng ngươi đã gặp một vị cô nương, còn muốn gặp lại nàng không? Có chịu nhận lời ta làm chủ nhân cung Linh Thứu không?” Hư Trúc vừa nghe Đồng Mỗ nhắc đến cô nương trong mộng thì toàn thân run bắn lên, mặt mũi đỏ bừng, gật đầu luôn mấy cái. Đồng Mỗ cười nói: “Hay lắm! Ngươi lấy bức họa ra để ta xé đi, khi đó ta không còn lo gì nữa, có thể chỉ cho ngươi đi tìm vị cô nương trong mộng.”
Hư Trúc lấy bức họa ra, Đồng Mỗ giơ tay đón lấy, đưa lên ánh mặt trời coi, rồi bất giác “ồ” lên một tiếng, vừa kinh hãi vừa vui mừng. Bà xem kỹ lại lần nữa rồi cười ha hả, reo lên: “Không phải hắn, không phải hắn? Ha ha! Ha ha!” Trong tiếng cười rộ, hai hàng nước mắt chảy xuống gò má, rồi ngoẹo đầu ra không nói gì nữa.
Hư Trúc cả kinh giơ tay ra đỡ lấy, thì thấy xương cốt toàn thân bà mềm như bông, co rúm lại thành một đống, đã chết thật rồi.
Bọn nữ nhân áo xanh chạy ùa tới vây quanh, khóc rống lên nghe rất thương tâm. Bọn này đều từng lâm vào cảnh nguy nan, được Đồng Mỗ ra tay cứu vớt, nên tuy bà cai quản rất nghiêm khắc mà họ vẫn cảm kích, không oán hận chút nào. Hư Trúc nghĩ đến mình đã ở với Đồng Mỗ ba tháng trời không dời nửa bước, được bà truyền thụ võ công. Bây giờ thấy bà ta cười rộ lên rồi chết, y khó mà nhịn được, cũng phục xuống khóc rống lên.
Bỗng nhiên phía sau có tiếng khàn khàn cười nói: “Ha ha! Tỉ tỉ ơi, cuối cùng tỉ tỉ lại chết trước tiểu muội. Vậy thì tỉ tỉ thắng hay là tiểu muội thắng?” Hư Trúc nghe đúng là thanh âm Lý Thu Thủy thì giật mình kinh hãi, tự hỏi: “Sao người chết rồi mà còn sống lại được?” Y nhảy nhỏm lên, xoay người nhìn lại thì thấy Lý Thu Thủy đang ngồi tựa lưng vào gốc cây, nói: “Hiền điệt! Ngươi đưa bức tranh cho ta coi. Sao sư tỉ ta lại vừa khóc vừa cười rồi đột ngột từ trần?”
Hư Trúc nhẹ nhàng gỡ tay Đồng Mỗ, lấy bức họa ra. Bức họa đã bị ướt rồi được phơi khô, nét bút có nhiều chỗ lờ mờ, nhưng người trong tranh vẫn là mỹ nữ cung trang, diện mạo giống Vương Ngữ Yên như đúc, nét cười dịu dàng mỹ lệ khó tả. Hư Trúc chợt nhận ra diện mạo của mỹ nữ này có nhiều chỗ giống sư thúc, nhưng cũng cầm bức họa lại đưa cho Lý Thu Thủy.
Lý Thu Thủy đón lấy bức họa xem, bỗng dưng cười nhạt nói: “Giáo chủ các ngươi đã ác đấu với ta, cuối cùng cũng chết trước. Các ngươi như bầy đom đóm mà dám tranh sáng cùng mặt trăng mặt trời ư?”
Hư Trúc quay lại nhìn thì thấy bọn phụ nữ áo xanh đang chống kiếm, sắc mặt người nào cũng đầy vẻ bi phẫn, chỉ muốn xông vào giết Lý Thu Thủy báo thù cho Đồng Mỗ, vì chưa được lệnh của tân chủ nhân nên không dám động thủ mà thôi.
Hư Trúc nói: “Sư thúc! Người… người…” Lý Thu Thủy nói: “Võ công sư bá ngươi tuy rất cao thâm, nhưng còn nhiều chỗ sơ hở. Cứu binh của y đã đến, dĩ nhiên là ta không kháng cự nổi nên phải giả chết. Ha ha! Rút cục y phải chết trước ta. Gân cốt trong toàn thân y đã gãy nhừ, công lực tiêu tan, nhất định không phải giả chết nữa.” Hư Trúc nói: “Lúc ác chiến trong hầm nước đá, sư bá đã trá tử lừa được sư thúc một phen. Thế thì sư bá cùng sư thúc kẻ tám lạng người nửa cân, không phân cao thấp.”
Lý Thu Thủy thở dài nói: “Trong lòng ngươi vẫn thiên về sư bá nhiều hơn.” Mụ vừa nói vừa mở bức họa ra coi, thần sắc đột nhiên biến đổi, hai tay run bần bật, cả bức họa cũng rung lên. Mụ khẽ nói: “Đúng là nó, đúng là nó. Ha ha! Ha ha!” Trong tiếng cười chứa đầy nỗi đau khổ bi thương.
Hư Trúc bất giác không cầm lòng được, lên tiếng hỏi: “Sư thúc làm sao vậy?” Y nghĩ thầm: “Một bà bảo “không phải hắn”, một bà lại bảo “đúng là nó”, không hiểu người trong bức hình là ai.”
Lý Thu Thủy nhìn mỹ nhân trong bức họa hồi lâu rồi nói: “Ngươi xem đây! Người này má lúm đồng tiền, mắt bên phải có nốt ruồi đen, đúng không?” Hư Trúc nhìn lại mỹ nhân trong bức họa rồi gật đầu đáp: “Đúng!” Lý Thu Thủy buồn rầu nói: “Đó là muội tử ta.” Hư Trúc lại càng ngạc nhiên, hỏi: “Là em gái sư thúc ư?” Lý Thu Thủy đáp: “Dung mạo muội tử rất giống ta, nhưng mà có lúm đồng tiền, cạnh mắt bên phải có nốt ruồi đen, còn ta không có.” Hư Trúc “ủa” lên một tiếng. Lý Thu Thủy lại nói: “Sư tỉ gạt là sư ca họa chân dung y, sớm tối chẳng rời, dĩ nhiên ta không tin. Nhưng… nhưng ta không ngờ lại là chân dung tiểu muội ta. Hiền điệt… bức họa này ở đâu ra”.
Hư Trúc liền đem tình hình Vô Nhai Tử lúc lâm chung trao lại bức họa cho mình và dặn đến núi Thiên Sơn tìm người truyền thụ võ nghệ, tình hình lúc Đồng Mỗ nhìn thấy bức họa rồi nổi cơn tức giận, nhất nhất thuật lại hết.
Lý Thu Thủy thở dài nói: “Lúc đầu sư tỉ nhìn thấy bức họa này cứ ngỡ là ta, một là vì tướng mạo ta rất giống, hai là sư ca quý mến ta hơn! Huống chi, hồi sư tỉ cùng ta tranh đấu, thì muội tử ta mới mười một tuổi lại không hiểu võ công, nên sư tỉ ta không ngờ là nó. Lúc nóng nảy y không nhìn kỹ, đến lúc lâm tử nhận ra người trong bức họa má lúm đồng tiền và có một nốt ruồi cạnh mắt, mới nói ba chữ: “Không phải hắn” rồi cười rộ mà chết. Ôi! Tiểu muội ơi! Ngươi thật là tốt phước!” Trên hai má Lý Thu Thủy lệ chảy đầm đìa.
Hư Trúc nghĩ thầm: “Thì ra sư bá cùng sư thúc đều có mối thâm tình với sư phụ mình, mà trong lòng lão nhân gia lại có kẻ khác. Không hiểu muội tử của sư thúc còn ở nhân gian không? Sư phụ bảo mình theo bức họa đồ này đi tìm thầy học nghệ, không lẽ vị muội tử này đang ở Vô Lượng Sơn nước Đại Lý ư?” Y bèn hỏi: “Sư thúc! Lệnh muội có phải đang ở Vô Lượng Sơn nước Đại Lý không?”
Lý Thu Thủy lắc đầu, mắt nhìn xa xa, tựa như đang xuất thần nhìn lại những tháng ngày trong quá khứ. Một lúc lâu bà mới lên tiếng: “Những năm đó ta cùng sư phụ ngươi ở trong một thạch động cạnh Kiếm Hồ trên Vô Lượng Sơn, tiêu diêu khoái lạc hơn cả thần tiên. Ta đã sinh cho lão một đứa con gái rất khả ái. Hai người chúng ta đã thu thập bí kíp võ công các môn các phái trong võ lâm, nuôi mộng sáng tác ra một môn võ công kỳ ảo bao trùm thiên hạ. Nhưng có một ngày, chúng ta tìm thấy trong núi một khối ngọc thạch rất lớn, lão bèn lấy ta làm mẫu mà điêu khắc thành một pho tượng. Từ lúc khắc xong, lão cứ cả ngày ngồi nhìn ngọc tượng đến xuất thần, không đếm xỉa đến ta nữa. Ta cố nói chuyện với lão, lão cứ ậm ừ cho qua chuyện, có khi lại chẳng thèm nghe, tâm tư đặt hết vào pho tượng. Sư phụ của ngươi điêu khắc rất tinh xảo, ngọc tượng thật là đẹp đẽ, nhưng cũng là tử vật mà thôi. Huống chi tượng lại điêu khắc giống ta, rõ ràng ta đang kề cận bên mình, sao lão không để ý đến ta mà lại đem lòng yêu thương pho tượng không dứt ra được? Đó là vì sao, vì sao?” Bà cứ tự kể rồi tự hỏi, dường như quên mất cả Hư Trúc đang ngồi cạnh.
Qua một lúc Lý Thu Thủy nhẹ nhàng nói tiếp: “Sư ca! Huynh thông minh tuyệt đỉnh mà si ngốc cũng cực kỳ. Sao huynh lại yêu pho ngọc tượng do mình điêu khắc? Sao huynh lại không yêu cô sư muội biết nói, biết cười, biết cử động, biết yêu huynh? Trong lòng huynh đã coi ngọc tượng này như tiểu muội của ta, có phải vậy không? Ta vì ghen với pho ngọc tượng này mà trở mặt với huynh, ra ngoài tìm bắt những thiếu niên tuấn tú về thân ái trước mặt huynh, từ đó huynh phẫn nộ bỏ đi, không quay lại nữa. Sư ca! Huynh đừng giận lâu, những thiếu niên tuấn tú đó đều bị ta tự tay giết chết, thả xuống Kiếm Hồ cả rồi. Huynh có biết không?”
Bà đưa bức tranh lên nhìn một lúc nữa, lại gọi: “Sư ca! Bức tranh này huynh vẽ từ lúc nào? Huynh vẽ ta nên mới kêu đồ đệ đem tranh đến Vô Lượng Sơn tìm ta, nhưng trong lúc vô tình huynh lại vẽ thành tiểu muội của ta, huynh có tự biết không? Trong lòng huynh thật sự chỉ có nó mà thôi. Khi xưa huynh si tình pho tượng là vì sao, bây giờ ta đã hiểu rồi.”
Hư Trúc nghĩ thầm: “Phật tổ đã dạy, cuộc sống trên đời khó mà tránh khỏi ba thứ độc là tham, sân, si. Sư bá, sư phụ, sư thúc ba vị đều là những nhân vật xuất phàm, mà cũng bị quay cuồng trong tam độc, dù võ công tuyệt thế mà trong tâm vẫn phiền não như bọn phàm phu tục tử tầm thường.”
Lý Thu Thủy quay lại nhìn Hư Trúc nói: “Hiền điệt! Ta cùng sư phụ của ngươi có một đứa con gái, nay đã gả cho nhà họ Vương ở Tô Châu. Khi nào có rảnh…” Đột nhiên bà lắc đầu, thở dài nói: “Thôi, không cần nữa. Chẳng hiểu nó còn sống trên thế gian không, mà mỗi người đều có cuộc sống riêng…” Đột nhiên bà thét lên: “Sư tỉ! Chị em ta đều là loài sâu bọ đáng thương, đều bị con người vô lương tâm đó lừa gạt! Ha ha? Ha ha!” Lý Thu Thủy cười lớn mấy tiếng, rồi ngã ngừa về đằng sau tắt hơi.
Hư Trúc cúi xuống nhìn thì thấy mũi và miệng bà ứa máu ra, đã ngừng thở mà chết. Chuyến này y vừa thấy hai vụ giả chết, cũng phải cảnh giác, nhưng hình như lần này bà chết thật rồi. Hư Trúc nhìn hai xác chết không biết làm thế nào.
Mụ già cầm đầu bộ Hiệu Thiên nói: “Chủ nhân! Chúng ta có cần đưa di thể giáo chủ về cung Linh Thứu để an táng cho long trọng không? Xin chủ nhân chỉ thị.” Hư Trúc đáp: “Như thế là phải.” Y lại trở thi thể Lý Thu Thủy nói: “Vị này… là sư muội của giáo chủ các ngươi. Tuy trước kia có oán thù với giáo chủ, nhưng… người chết rồi thì oan cừu coi như hết. Theo ta thì nên đưa cả hai vị về an táng, các ngươi nghĩ sao?” Mụ già khom lưng đáp: “Xin vâng.” Hư Trúc thấy trong lòng thoải mái, chỉ sợ bọn đàn bà áo xanh này thù hằn Lý Thu Thủy, không chịu an táng thi hài mụ mà còn muốn đập tan xác cho hả giận, y không ngờ họ ngoan ngoãn vâng lời, không phản đối chút nào. Thật ra bọn nữ nhân dưới trướng Đồng Mỗ kính sợ chủ nhân vô kể, tuyệt không dám trái ý. Bây giờ Hư Trúc là tân chủ nhân của chúng, y chỉ nói một lời là ai nấy răm rắp làm theo.
Mụ già chỉ huy quần nữ dùng chăn chiên bọc hai xác chết lại cẩn thận, để lên lưng lạc đà, rồi kính cẩn mời Hư Trúc cưỡi lạc đà đi trước. Hư Trúc khiêm tốn mấy câu, nghĩ rằng việc đã đến thế này, thôi thì mình cũng an táng hai vị Đồng, Lý đàng hoàng rồi sẽ trở về chùa Thiếu Lâm chịu tội. Y hỏi danh tính mụ già thì mụ đáp: “Phu quân của nô tỳ họ Dư, nên cố giáo chủ kêu bằng Tiểu Dư. Chủ nhân muốn gọi thế nào cũng được.” Đồng Mỗ đã ngoại cửu tuần, gọi mụ này bằng “Tiểu Dư” là phải. Hư Trúc không dám gọi thế, liền nói: “Dư bà! Pháp hiệu tại hạ là Hư Trúc. Chúng ta nên xưng hô ngang hàng, nếu cứ gọi là chủ nhân mãi thì tại hạ phải tổn thọ mất.”
Dư bà phục xuống đất, tuôn nước mắt nói: “Chủ nhân khai ân! Chủ nhân muốn giết muốn đánh thế nào, nô tì cũng cam tâm, chỉ khẩn cầu chủ nhân đừng đuổi nô tì khỏi cung Linh Thứu.” Hư Trúc kinh ngạc hỏi: “Làm gì có chuyện đó, tại hạ đánh người, giết người để làm chi?” Rồi y đưa tay ra đỡ mụ dậy. Cả đám nữ nhân thấy thế liền quì xuống năn nỉ: “Chủ nhân khai ân!” Thì ra Đồng Mỗ trước kia lúc nào tức giận thì mới ăn nói lịch sự, sau đó sẽ dùng thảm hình khổ sở. Bọn động chúa, đảo chúa Ô Lão Đại nếu được Đồng Mỗ phái người đến nhục mạ đánh đập thì mở tiệc ăn mừng, coi như thoát khỏi đại nạn. Bây giờ bọn nô tỳ thấy Hư Trúc lịch sự với Dư bà thì tưởng là sắp có họa lớn, nên quỳ cả xuống năn nỉ. Hư Trúc hỏi rõ nguyên do rồi an ủi mấy lần, nhưng quần nữ vẫn không yên tâm.
Hư Trúc leo lên lưng lạc đà, rồi bảo quần nữ cũng cưỡi lạc đà mà đi, nhưng chúng nhất định không dám, chỉ dắt lạc đà đi theo. Hư Trúc nói: “Chúng ta phải mau về đến cung Linh Thứu, không thì thời tiết đang nóng bức, chỉ sợ… chỉ sợ di thể giáo chủ có biến.” Bấy giờ bọn họ mới dám cưỡi lạc đà, nhưng đi theo sau cách một quãng xa. Hư Trúc muốn hỏi cho biết tình hình trong cung Linh Thứu, nhưng không tiện nên lại thôi.
Đoàn người nhắm hướng Tây mà đi gấp, được năm ngày thì gặp người đưa tin của bộ Chu Thiên. Dư bà phóng tín hiệu lên, người đưa tin liền quay về báo cáo. Chẳng mấy chốc bọn nữ nhân bộ Chu Thiên cưỡi lạc đà chạy như bay tới nơi, toàn thể bọn này đều mặc áo tía. Chúng sụp lạy trước thi thể Đồng Mỗ, rồi ra mắt tân chủ nhân. Thủ lãnh bọn Chu Thiên họ Thạch, mới ngoài ba mươi tuổi, Hư Trúc gọi bằng Thạch tẩu. Y sợ bọn nữ nhân kia sinh nghi mà sợ hãi, không dám nói chuyện lễ phép, chỉ an ủi sơ sơ, úy lạo bọn chúng dọc đường vất vả. Quần nữ bộ Chu Thiên đều cả mừng lạy tạ. Hư Trúc không dám xưng hô ngang hàng, chỉ bảo họ đừng gọi mình là “giáo chủ”, gọi là “chủ nhân” được rồi. Quần nữ đều cung kính tuân theo.
Đoàn người lại đi về hướng Tây mấy ngày nữa. Bộ Hiệu Thiên và bộ Chu Thiên phái người đi liên lạc với năm bộ Xích Thiên, Dương Thiên, Huyền Thiên, U Thiên, Thành Thiên, triệu tập đến đông đủ. Chỉ có bộ Loan Thiên là đi tìm Đồng Mỗ ở phía chính Tây, khoảng cách rất xa nên chưa liên lạc được. Cung Linh Thứu không có một nam nhân nào, một mình Hư Trúc ở với mấy trăm phụ nữ nên cực kỳ bẽn lẽn. May mà quần nữ đối với y cực kỳ cung kính, y không hỏi thì chẳng ai dám lên tiếng, thành ra cũng đỡ được nhiều điều phiền phức.
Một hôm đoàn người đang đi thì một nữ nhân áo xanh cưỡi lạc đà như bay chạy tới, chính là một thám tử của bộ Huyền Thiên đi trước dò đường. Thị cầm cây cờ xanh phất loạn lên, ra hiệu phía trước có biến cố, chạy gấp về phi báo với thủ lĩnh bản bộ.
Thủ lĩnh bộ Huyền Thiên là một cô nương chừng hai mươi tuổi, tên là Phù Mẫn Nghi. Cô được tin báo, hấp tập nhảy xuống lạc đà chạy đến trước mặt Hư Trúc nói: “Khải bẩm chủ nhân! Thám tử của nô tì báo cáo bọn thuộc hạ ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo của bản cung, nhân lúc giáo chủ bị nạn, cả gan nổi lên làm phản, tiến đánh núi Phiêu Diểu. Bộ Quân Thiên phòng thủ nghiêm mật các ngả đường lên núi, bọn tà ma kia chưa làm gì được. Nhưng mấy vị tỉ muội của bộ Quân Thiên chạy xuống núi để cầu cứu đã bị chúng giết chết.”
Hư Trúc đã biết chuyện bọn động chúa, đảo chúa tạo phản. Nhưng y tưởng bọn kia không giết được Đồng Mỗ, Bất Bình đạo nhân mất mạng, Ô Lão Đại trọng thương, cứ yên chí bọn họ thấy khó khăn mà giải tán rồi. Không ngờ đã bốn tháng nay, mà họ vẫn đang kéo nhau vây đánh núi Phiêu Diểu. Hư Trúc từ bé vẫn ở chùa Thiếu Lâm, ít hiểu nhân tình thế thái, gặp việc không biết phải đối phó ra sao. Y ngẩn ra một lúc rồi ấp úng: “Việc này… việc này…”
Lại nghe tiếng vó ngựa dồn dập, hai người nữa phóng ngựa đến. Một người bộ Huyền Thiên đi trước, theo sau là một nữ nhân áo vàng nằm trên lưng ngựa, mình vấy đầy máu, tay trái bị chặt cụt. Phù Mẫn Nghi vẻ mặt bi phẫn nói: “Chủ nhân! Đây là Trình tỉ tỉ, phó thủ lĩnh bộ Quân Thiên, e rằng khó mà qua khỏi.” Thiếu nữ họ Trình đã ngất xỉu, quần nữ bèn xúm lại tìm cách cầm máu, nhưng hơi thở chỉ còn thoi thóp, dường như sắp chết đến nơi.
Hư Trúc thấy người trọng thương, bỗng nhớ tới phép trị thương mà Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà đã dạy cho. Y giục lạc đà đến gần, đưa ngón tay giữa bên trái ra búng veo véo lên không năm cái để phong tỏa mấy huyệt đạo gần chỗ cánh tay bị chặt đứt, lập tức máu ngưng chảy. Hư Trúc lại sử chiêu Tinh Hoàn Khiêu Trịch của Đồng Mỗ, búng một cái thứ sáu. Một luồng Bắc Minh chân khí hùng hậu thúc vào huyệt Trung Phủ trên cánh tay của thiếu nữ bị thương. Thị bỗng “Ôi chao” một tiếng, tỉnh lại nói ngay: “Các vị tỉ muội! Mau… mau… lên núi Phiêu Diểu tiếp ứng! Bọn ta… bọn ta… không chống cự nổi.”
Hư Trúc điểm cách không, chẳng phải là muốn phô trương tuyệt kỹ, mà vì người bị thương là một thiếu nữ. Y đã không phải là hòa thượng nữa, song đệ tử nhà Phật giới sắc đã quen, không tiện đụng chạm vào thân thể nữ nhân. Không ngờ mấy cái búng tay hời hợt của y hiệu nghiệm như thần. Trong người Hư Trúc đã chứa gần hết nội lực của ba tay đại cao thủ là Vô Nhai Tử, Thiên Sơn Đồng Mỗ và Lý Thu Thủy, dĩ nhiên không phải tầm thường.
Quần nữ các bộ vì tuân theo di mệnh của Đồng Mỗ mà coi Hư Trúc như tân chủ nhân, thấy y còn trẻ, nói năng hành động nhiều chỗ ngốc nghếch, chưa thành tâm kính phục. Huống chi đa số nữ nhân ở cung Linh Thứu đã bị nam nhân tàn hại đến người chết nhà tan, lại được Đồng Mẫu giáo huấn cho thù hận nam nhân như độc xà mãnh thú. Lúc này họ thấy Hư Trúc xuất thủ theo đúng công phu của cung Linh Thứu mà nội lực lại cao thâm tột độ, đều vừa kinh hãi vừa sung sướng, hoan hô ầm ĩ. Quần nữ đều lạy rạp xuống đất, kính phục Hư Trúc như một vị thiên thần. Hư Trúc thất kinh gọi: “Làm gì thế? Mau mau đứng dậy đi!”
Đã có người báo cho thiếu nữ họ Trình biết việc giáo chủ quy tiên, thanh niên này vừa là ân nhân vừa là truyền nhân của giáo chủ, là tân chủ nhân của bản cung. Thiếu nữ họ Trình tên gọi Trình Thanh Sương ráng leo xuống ngựa, đến thi lễ với Hư Trúc: “Đa tạ chủ nhân cứu mạng. Xin… xin chủ nhân đến cứu ngay các tỉ muội trên núi. Bốn tháng nay bọn nô tì cố sức chống cự, nhưng ít người không địch lại số đông, tình trạng cực kỳ nguy hiểm.” Nàng nói xong, lại phủ phục xuống đất, không ngẩng đầu lên nữa.
Hư Trúc vội nói: “Thạch tẩu, ngươi đỡ y dậy đi! Dư bà, bây giờ tính thế nào đây?” Dư bà cùng đi với tân chủ nhân mười ngày, đã biết y thực thà trung hậu ít hiểu việc đời, liền đáp: “Khải bẩm chủ nhân! Núi Phiêu Diểu còn cách đến hai ngày đường. Tốt nhất là chủ nhân hãy lệnh cho nô tỳ dẫn thuộc hạ bản bộ lập tức chạy về cứu cấp, chủ nhân thống lĩnh mọi người đi sau. Chủ nhân về đến nơi thì bọn yêu ma kia lập tức phải tan tành, không đáng lo nữa.” Hư Trúc gật đầu, nhưng lại nghĩ có điều gì không ổn, nhất thời chưa quyết định.
Dư bà quay lại bảo Phù Mẫn Nghi: “Phù muội! Chủ nhân vừa mới kế vị, chưa kịp thay đổi y phục uy nghi để hàng phục yêu ma. Muội là Châm Thần của bản cung, phải lập tức may một bộ y phục cho chủ nhân.” Phù Mẫn Nghi đáp: “Phải lắm! Tiểu muội cũng đang nghĩ thế.”
Hư Trúc sửng sốt, không hiểu vì sao đang lúc nguy ngập mà họ còn nghĩ đến việc may quần áo, thật là tính khí nữ nhân.
Quần nữ đều nhìn Hư Trúc để chờ y ra lệnh. Hư Trúc cúi đầu xuống, bỗng nhận ra mình bốn tháng áo không thay, bốn tháng không giặt giũ, tăng bào vừa rách nát vừa bẩn thỉu, chính mình cũng ngửi thấy mùi hôi nồng nặc. Giữa đám nữ nhân phục sức hoa lệ, y không khỏi hổ thẹn, huống chi mình không phải là hòa thượng nữa thì cũng không nên mặc tăng bào. Thực ra, quần nữ đã coi Hư Trúc là chủ nhân, khi nào lại quan tâm đến quần áo đẹp hay xấu? Họ chăm chú nhìn y là để chờ lệnh, nhưng Hư Trúc tự thấy mình ăn mặc rách rưới dơ bẩn, nên ra chiều ngượng nghịu.
Dư bà chờ một lúc, lại hỏi: “Chủ nhân! Nô tì đi trước được chăng?”
Hư Trúc đáp: “Chúng ta cùng đi với nhau, cứu người là gấp. Y phục của ta tuy dơ bẩn, nhưng sau sẽ giặt cũng được, không quan hệ lắm.” Y liền thúc lạc đà chạy đi, quần nữ cũng lên ngựa chạy theo rất gấp. Lạc đà rất dai sức mà chạy cũng nhanh không kém gì ngựa. Đoàn người chạy mấy chục dặm đường mới tìm chỗ nghỉ ngơi để thổi cơm.
Dư bà chỉ ngọn núi phía Tây Bắc giữa đám mây mù, nói với Hư Trúc: “Chủ nhân, đó chính là núi Phiêu Diểu. Ngọn núi này quanh năm tuyết phủ, nhìn xa xa như có như không, nên mới gọi là Phiêu Diểu.”
Hư Trúc nói: “Xem ra còn xa lắm! Chúng ta phải đến càng sớm càng tốt, ăn uống xong phải lên đường lập tức.” Quần nữ đồng thanh đáp: “Vâng! Đa tạ chủ nhân lo lắng đến tỉ muội bộ Quân Thiên.” Cơm nước xong, đoàn người lại lên đường. Cả bọn gấp rút đi suốt ngày đêm, dọc đường chết không ít lạc đà. Lúc đến chân núi Phiêu Diểu, mới là sáng sớm ngày thứ hai.
Phù Mẫn Nghi nâng một vật màu sắc rực rỡ, khom lưng trao cho Hư Trúc, nói: “Nô tỳ may vá vụng về, xin chủ nhân mặc thử.” Hư Trúc ngạc nhiên hỏi: “Cái gì thế?”, rồi đón lấy mở ra xem, thì ra một tấm trường bào. Cái áo này may bằng gấm đoạn rất tốt, đủ màu sắc cân đối nhau, đường kim mũi chỉ khéo léo tuyệt vời. Thì ra Phù Mẫn Nghi cắt nhiều mảnh vải trên y phục của quần nữ để khâu thành tấm trường bào này.
Hư Trúc vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ nói: “Phù cô nương có ngoại hiệu Châm Thần là rất đúng, đang cưỡi lạc đà chạy nhanh mà vẫn may được cái áo đẹp thế này.” Y bèn cởi áo thầy tu, thay đổi y phục. Tấm trường bào này rất vừa vặn, viền bằng da báo lại càng thêm phần sang trọng. Chỗ da viền này cũng cắt từ áo của bọn nữ nhân ra. Hư Trúc mặc bộ áo hoa lệ này vào, tướng mạo cũng bớt mấy phần xấu xí.
Lúc này đoàn người đã đến đầu đường lên núi. Dọc đường Trình Thanh Sương đã báo cáo, cường địch đã đánh lên đến ngọn Đoạn Hồn. Núi Phiêu Diểu có tất cả mười tám ngọn hiểm trở, thì mười ba ngọn đã bị chiếm đóng. Quần nữ bộ Quân Thiên đã tử thương quá nửa, tình thế cực kỳ nguy hiểm.
Thạch tẩu vung đao hô lớn: “Núi Phiêu Diểu có chín bộ thì tám bộ đã hạ sơn, chỉ còn một bộ thủ thành. Địch nhân thừa lúc vắng người đến tập kích, thật là vô sỉ. Xin chủ nhân hạ lệnh cho toàn thể bọn thuộc hạ tấn công lên núi, quyết tử chiến với loài đạo tặc.” Dư bà nói: “Thạch muội đừng nóng nảy. Thế địch quá lớn, bộ Quân Thiên dựa vào địa thế hiểm trở mới chống giữ được hơn trăm ngày. Bây giờ chúng ta chân núi lại bị bất lợi. Địch nhân ở thế phản khách vi chủ, từ trên cao đánh xuống…” Thạch tẩu nói: “Thế thì phải làm thế nào?” Dư bà đáp: “Chúng ta âm thầm lên núi, địch nhân biết càng chậm càng hay.”
Hư Trúc gật đầu nói: “Dư bà nói đúng lắm.” Y đã lên tiếng, không ai dị nghị gì nữa. Quần nữ tám bộ chia thành từng đội, tiến lên núi không một tiếng động. Lúc trèo núi rất dễ phân biệt khinh công hay dở thế nào. Hư Trúc thấy mấy vị thủ lĩnh Dư bà, Thạch tẩu, Phù Mẫn Nghi, tuy phận nữ nhi mà thân pháp mau lẹ dị thường thì nghĩ bụng: “Dưới trướng tướng giỏi không có quân hèn, thuộc hạ của sư bá quả nhiên bản lãnh không vừa.”
Mỗi nơi hiểm yếu đều vương vãi đầy binh khí gãy cùng đá vỡ ra, rõ ràng lúc địch nhân tiến đánh đã xảy ra trận chiến đấu khủng khiếp. Đi qua ngọn Đoạn Hồn, đỉnh Thất Túc, khe Bách Trượng, thì tới Tiếp Thiên Kiều. Cây cầu này vốn chỉ là một sợi xích sắt treo giữa hai vách núi cao chót vót, bây giờ đã bị địch nhân dùng bảo đao chặt đứt đôi. Hai vách núi cách nhau đến năm trượng, khó mà nhảy qua được.
Quần nữ nhìn nhau kinh hãi nghĩ thầm: “Không chừng tỉ muội bộ Quân Thiên đã bị quân phản loạn giết hết rồi.” Họ đều biết Tiếp Thiên Kiều là cửa ải hiểm yếu cuối cùng. Dưới Tiếp Thiên Kiều là vực sâu muôn trượng, toàn đá tai mèo lởm chởm. Những người được đến cung Linh Thứu đều có bản lĩnh cao siêu, khinh công thượng thặng, muốn nhảy qua bên kia thì chỉ đáp chân vào dây sắt là lướt qua chẳng khó khăn gì. Lúc Trình Thanh Sương xuống núi thì địch nhân mới tấn công tới Đoạn Hồn Nhai, còn cách Tiếp Thiên Kiều khá xa. Dĩ nhiên tỉ muội bộ Quân Thiên đã phái người canh giữ cây cầu này rất nghiêm ngặt, hễ địch tiến đánh là mở khóa cho dây xích sắt tách rời làm hai đoạn, rớt xuống hai bên. Khe núi này cũng không rộng lắm, chỉ chừng năm trượng, nhưng nếu không có dây xích giăng ngang để làm điểm dừng chân thì dù bản lĩnh nghiêng trời cũng không nhảy qua nổi. Lúc này sợi dây xích đã bị chặt đứt, rõ ràng là bị phá hoại, chắc địch nhân tấn công quá đột ngột nên bộ Quân Thiên không kịp mở khóa.
Thạch tẩu vung thanh liễu diệp đao rít lên veo véo, kêu gọi: “Dư bà! Mau mau nghĩ cách vượt qua khe núi này!” Tính mụ rất nóng nảy, khi gặp chuyện nạn giải thì không bình tĩnh được, chỉ la hoảng càng thêm rối. Dư bà đáp: “Hừ! Biết làm thế nào được? Thật là khó giải quyết.”
Mụ chưa dứt lời, phía sau núi đã nổi lên tiếng rú thê thảm, đúng là thanh âm nữ nhân. Quần nữ máu nóng như sôi, biết là mấy tỉ muội bộ Quân Thiên vừa trúng độc thủ, chỉ hận mình không có cánh để bay qua khe núi về cung Linh Thứu, cùng địch nhân một phen tử chiến. Mọi người lớn tiếng mắng chửi ồn ào, nhưng chẳng nghĩ ra cách nào để vượt qua khe núi cực kỳ hiểm trở này.