Hồi 35: Cứu Đồng Mỗ tiểu tăng phạm giới
Ô Lão Đại biến sắc mặt, vừa toan lên tiếng thì Bất Bình đạo nhân đưa mắt ra hiệu, rồi mỉm cười nói: “Đoàn huynh đã nói là đứng bàng quan, không giúp bên nào thì không góp ý kiến cũng là chuyện đương nhiên. Ô Lão Đại! Chúng ta muốn tiến đánh núi Phiêu Diểu thì cần nhất là phải biết rõ thực hư trong cung Linh Thứu. Bọn Ô huynh chín người đã lên núi thám thính, vậy sau khi mụ ác tặc rời khỏi cung Linh Thứu thì trong cung còn lại bao nhiêu tay cao thủ, cách bố trí thế nào? Ô huynh tuy không biết hết nhưng chắc cũng tìm hiểu được mấy phần, xin nói ra để mọi người cùng bàn định.”
Ô Lão Đại đáp: “Nói ra xấu hổ, bọn tại hạ đến dò xét cung Linh Thứu mà chẳng ai dám vào thám thính. Cả chín người chỉ lo ẩn nấp, sợ gặp phải nhân vật lợi hại nào thì nguy to. Tại hạ nấp ở vườn hoa phía sau cung, bị một đứa bé gái bắt gặp, ăn mặc theo kiểu a hoàn. Tại hạ tránh không kịp, bị nhìn rõ mặt, liền nhảy xổ tới thi triển phép cầm nã bắt nó lại, thật là bí quá phải làm liều, không kể gì đến tính mạng nữa. Nhân vật trong cung Linh Thứu không phải tầm thường, dù nó chỉ là một đứa trẻ nít, nhưng biết đâu võ công thần diệu? Lúc đó tại hạ biết phen này mình mười phần chết chín…”
Giọng y run lên, chứng tỏ nhớ đến tình trạng nguy hiểm khi đó, vẫn còn sợ hãi vô cùng. Mọi người lẳng lặng ngồi nghe Ô Lão Đại kể chuyện, thấy hắn vẫn đang bình yên vô sự, rõ ràng dù có gặp nguy hiểm thì cũng đã thoát khỏi. Nhưng bọn này hễ nghĩ đến Thiên Sơn Đồng Mỗ là người cứ run bắn lên, thế mà Ô Lão Đại dám lên tận núi Phiêu Diểu bắt người, dẫu vì tình trạng bắt buộc mà phải mạo hiểm thì cũng lớn mật vô cùng, nếu là hạng người tầm thường thì đành bó tay chịu chết. Ai cũng sinh lòng bội phục hắn.
Ô Lão Đại kể tiếp: “Tại hạ xông vào, vận dụng toàn lực thi triển Hổ Trảo Công. Lúc đó tại hạ định bụng nếu một chiêu mà không bắt được con nhỏ, để nó kịp la lên cho người ta đến cứu, thì mình nhất quyết nhảy từ núi cao trăm trượng xuống chết cho sướng thân, nhất định không để lọt vào tay mụ ác tặc để bị hành hạ dã man. Ngờ đâu, tay trái tại hạ chụp xuống vai con nhỏ, tay phải nắm chặt được cánh tay nó, mà nó tuyệt không kháng cự chi hết, ngã lăn ra ngay, tựa như người không có võ công. Lúc đó tại hạ mừng vô kể, đến nỗi bủn rủn cả chân tay. Nói ra chỉ sợ các vị cười, con nhỏ đó lăn ra rồi thì cái tên Ô Lão Đại nhát gan này cũng suýt ngã theo.”
Mọi người nghe đến đây đều cười ồ lên, đầu óc cảm thấy khoan khoái, hết cả lo lắng hoang mang. Tuy Ô Lão Đại tự cười mình nhát gan, nhưng ai nấy đều cho rằng hắn dũng cảm phi thường, dám lên tận núi Phiêu Diểu bắt người thì thật là kinh thiên động địa.
Ô Lão Đại giơ tay ra vẫy, một tên thủ hạ liền xách một cái túi vải đen chạy ra, đặt xuống trước mặt Ô Lão Đại. Ô Lão Đại cởi dây cột, kéo miệng túi xuống, để lộ ra một người. Ai nấy đều ồ lên một tiếng, người trong túi là một đứa bé gái thân hình bé nhỏ.
Ô Lão Đại dương dương đắc ý nói: “Con nhỏ này là do Ô mỗ bắt ở trên núi Phiêu Diểu đem về.” Mọi người hoan hô vang dội: “Ô Lão Đại bất hủ!” “Ô Lão Đại đáng mặt anh hùng hảo hán!” “Quần tiên ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo xin tôn Ô Lão Đại lên làm thủ lĩnh!”
Tiếng hoan hô của mọi người xen lẫn với tiếng khóc hu hu của cô bé. Nó đang ôm mặt khóc nức nở.
Ô Lão Đại nói: “Bọn tại hạ bắt được con nhỏ này rồi, vẫn sợ có người phát giác rượt theo, hấp tấp chạy xuống núi liền. Lúc tra hỏi con nhỏ này không khai thác được chút gì, đáng tiếc là nó bị câm điếc. Ban đầu bọn tại hạ tưởng nó giả vờ, đã nghĩ ra vô số biện pháp để thử thách, có lúc lại bất thình lình quát sau lưng nó một tiếng thật to thử xem nó có giật mình không. Nhưng thử gì thì thử, cũng thấy nó câm điếc thật.”
Mọi người nghe tiếng cô bé khóc thì biết nó câm thật. Giữa đám đông có người cất tiếng hỏi: “Ô Lão Đại! Nó không nghe được, thì sao không viết chữ xem nó có hiểu không?” Ô Lão Đại đáp: “Nó chẳng hiểu chi hết. Bọn ta đã dùng đủ cách, dìm xuống nước lạnh, nhúng vào nước nóng, bắt nhịn đói, chẳng còn thiếu cách gì mà xem ra nó không phải là đứa ngoan cố, chỉ là một đứa nhỏ vừa câm điếc vừa ngu ngốc.”
Đoàn Dự không nhịn được, cười hăng hắc nói: “Dùng thủ đoạn đê hèn để hành hạ một cô bé, thế mà không biết nhục ư?” Ô Lão Đại nói: “Bọn ta bị mụ Thiên Sơn Đồng Mỗ hành hạ còn thảm khốc gấp mười, mình trả oán một chút, có gì là nhục?” Đoàn Dự nói: “Các vị có báo thù rửa hận thì phải đối phó với chính mụ Thiên Sơn Đồng Mỗ mới hợp lý. Đi bắt nạt đứa con nít thì có ích gì đâu?”
Ô Lão Đại đáp: “Dĩ nhiên là có ích.” Rồi hắn lớn tiếng gọi: “Các vị huynh đệ! Hôm nay chúng ta đồng tâm hiệp lực phản lại núi Phiêu Diểu, từ giờ phút này thì phúc cùng hưởng, họa cùng chịu. Vậy chúng ta phải uống máu ăn thề, mưu đồ đại sự. Có vị nào không đồng ý thì xin cho biết.”
Lão Đại hỏi hai lần vẫn không thấy ai đáp lại. Hắn hỏi đến lần thứ ba thì một đại hán cao lớn đứng lên, lặng lẽ chạy về phía tây. Ô Lão Đại lớn tiếng gọi: “Khu đảo chúa đảo Kiếm Ngư! Ngươi đi đâu thế?” Đại hán không trả lời, cứ cắm đầu chạy như bay, chớp mắt đã vượt qua một thung lũng. Mọi người la lên: “Thằng cha này nhát gan, chưa lâm trận đã bỏ chạy. Mau chặn hắn lại!” Mười mấy người lập tức rượt theo, đều là những tay giỏi khinh công, nhưng Khu đảo chúa đã chạy xa rồi, chẳng hiểu họ có đuổi kịp hay không.
Bất thình lình một tiếng rú thê thảm từ sau núi vọng lại, mọi người đều kinh ngạc nhìn nhau, cả mười mấy người đuổi theo Khu đảo chúa cũng dừng lại. Bỗng nghe một luồng gió rít lên vù vù, một vật hình tròn như quả bóng từ sau núi bay vù tới, rớt vào giữa đám đông.
Ô Lão Đại nhảy vọt lên, giơ tay ra chụp được quả bóng đó, soi vào ánh đèn thì ra một cái đầu lâu, máu thịt bầy nhầy. Mọi người nhìn kỹ bộ mặt thủ cấp này thì thấy râu đâm tua tủa, hai mắt tròn xoe, chính là Khu đảo chúa vừa chạy trốn. Ô Lão Đại run sợ la lên: “Khu đảo chúa…” Nhất thời hắn nghĩ không ra, tại sao Khu đảo chúa vừa trốn đi đã mất mạng mau đến thế, rồi bỗng nảy ra một ý nghĩ cực kỳ khủng khiếp: “Chẳng lẽ Thiên Sơn Đồng Mỗ đã đến đây rồi?”
Bất Bình đạo nhân cất tiếng cười ha hả rồi nói: “Kiếm Thần thần kiếm quả nhiên danh bất hư truyền! Huynh canh gác thật là nghiêm mật!” Phía sau thung lũng có một thanh âm vọng lại nghe rất rõ: “Kẻ nào lâm trận mà bỏ trốn thì ai cũng có quyền giết chết. Xin các vị động chúa, đảo chúa miễn trách cho ta.”
Mọi người đang sợ hãi, bấy giờ mới hoàn hồn đồng thanh nói: “May mà được Kiếm Thần trừ diệt quân phản nghịch để đại sự của chúng ta không bị phá hoại.”
Mộ Dung Phục cùng bọn Đặng Bách Xuyên đều nghĩ bụng: “Gã này tự xưng là Kiếm Thần, thật là ngông cuồng tự đại. Dù kiếm pháp y có giỏi đến đâu chăng nữa thì cũng không nên tự xưng là thần. Trên giang hồ chưa có nhân vật nào mang biệt hiệu chối tai như vậy, không hiểu kiếm pháp gã này cao đến mức độ nào?”
Ô Lão Đại tự thấy xấu hổ vì mình nhát gan nhìn thần thấy quỉ. Hắn lớn tiếng nói: “Các vị huynh đệ hãy lấy khí giới ra, mỗi người đâm chém một nhát vào con tiểu quỷ này! Tuy nó câm điếc, nhưng cũng là nhân vật ở trong núi Phiêu Diểu, mũi đao dính máu ả tức là từ nay cùng núi Phiêu Diểu đối đầu một mất một còn. Chúng ta làm như vậy thì kẻ nào ăn ở hai lòng cũng không thể lùi bước được nữa.” Ô Lão Đại nói xong, liền rút soạt lưỡi quỷ đầu đao ra.
Mọi người đều hoan hô: “Đúng lắm, phải làm như thế mới được! Đao kiếm chúng ta đã dính máu kẻ thù thì chỉ có tiến chứ không có thoái.”
Đoàn Dự hốt hoảng la lên: “Làm thế không được, muôn ngàn lần không được! Mộ Dung huynh! Huynh nên ra tay ngăn cản, đừng để họ hành động bất nhân như vậy.” Mộ Dung Phục lắc đầu nói: “Đoàn huynh! Tính mạng của họ đều ràng buộc vào hành động này, chúng ta là người ngoài chẳng nên can thiệp vào việc không phải của mình.” Đoàn Dự động lòng nghĩa hiệp, tức giận nói: “Đã là bậc đại trượng phu, thì giữa đường gặp chuyện bất bình không thể nhắm mắt bỏ qua. Vương cô nương! Cô nương có trách mắng thì cũng đành chịu, tại hạ không thể không cứu cô bé kia được. Nhưng… nhưng sức tại hạ không trói nổi con gà, khó lòng mà cứu cô ta. Trời ơi! Đặng huynh, Công Dã huynh, sao nhị vị không động thủ đi? Bao huynh, Phong huynh, nhị vị tiếp ứng cho tiểu đệ xông vào cứu người được không?” Bọn Đặng Bách Xuyên bốn người bao giờ cũng hành động theo ý Mộ Dung Phục, thấy y không muốn can thiệp đành nhìn Đoàn Dự lắc đầu, nhưng gã nào cũng tỏ vẻ bần thần.
Ô Lão Đại thấy Đoàn Dự kêu cứu lung tung, nghĩ rằng chàng công lực rất cao thâm, nếu sinh sự thì lắm rắc rối, mình không thể chần chờ, phải động thủ lẹ cho rồi. Hắn vung lưỡi quỷ đầu đao lên, hô to: “Ô Lão Đại động thủ trước tiên!”, rồi bổ lưỡi đao xuống cô bé đứng trong túi vải.
Đoàn Dự la lên: “Hỏng bét!” Chàng vung ngón tay ra chiêu Trung Xung Kiếm phóng vào quỷ đầu đao của Ô Lão Đại. Nhưng chàng không thu phát Lục Mạch Thần Kiếm theo ý muốn được, có lúc hiệu nghiệm, có lúc không. Có khi chân khí đầy dẫy, uy lực mãnh liệt; có khi lại không huy động được một chút nội lực nào. Lúc này chàng chỉ trỏ lung tung, nhưng chân khí chỉ ra đến bàn tay rồi ngừng lại, không phát ra kiếm khí được.
Lưỡi đao của Ô Lão Đại chém xuống gần đến mình cô bé, đột nhiên một bóng đen từ phía sau một tảng đá lớn vọt ra. Bóng đen giơ tay trái lên gạt phắt lưỡi đao của Ô Lão Đại, tay phải chộp lấy túi vải đặt lên lưng, cõng cả cô bé lẫn cái túi chạy thẳng về hướng tây bắc.
Mọi người nhốn nháo, vừa la ó vừa rượt theo. Nhưng bóng đen cước lực thần tốc, chạy nhanh như biến không thể đuổi kịp. Mấy tên động chúa đảo chúa phóng ám khí theo vù vù, nhưng cũng không kịp, ám khí chưa đến đích đều hết đà rơi lả tả xuống đất.
Đoàn Dự cả mừng, mắt chàng sáng rực lên, nhận ra bóng đen là một người mình đã gặp ở kỳ hội của Tô Tinh Hà. Chàng lớn tiếng la lên: “Té ra là Hư Trúc hòa thượng chùa Thiếu Lâm, Hư Trúc sư huynh, Đoàn mỗ xin chắp tay thi lễ. Chùa Thiếu Lâm của sư huynh là Thái Sơn Bắc Đẩu của võ lâm, quả nhiên danh bất hư truyền!”
Cả bọn thấy người kia phóng một chưởng đẩy bật Ô Lão Đại ra, chân bước nhẹ nhàng, võ công thật là lợi hại; lại nghe Đoàn Dự hoan hô vang dội, gọi hắn là hòa thượng Thiếu Lâm. Danh tiếng phái Thiếu Lâm lừng lẫy xưa nay, ai cũng có ý nể sợ. Chỉ vì việc này liên quan trọng đại, cô bé đã bị cứu đi, nếu không giết nhà sư đó để diệt khẩu thì không chừng mưu đồ bị tiết lộ, đại họa tới ngay tức khắc. Mọi người láo nháo đuổi theo.
Hư Trúc chạy thẳng lên núi. Đỉnh núi này tuyết phủ trắng xóa, ẩn hiện trong mây, không phải cao thủ khinh công mà trèo lên đỉnh thì phải mất bốn năm ngày. Bất Bình đạo nhân la lên: “Đừng sợ. Hòa thượng này leo lên núi là tự vào tuyệt lộ, không lẽ hắn bay lên trời hay sao? Chúng ta chỉ cần giữ chặt các đường xuống núi là hắn không thoát được.” Mọi người nghe vậy mới yên tâm trở lại. Ô Lão Đại bèn phân chia đệ tử các phái giữ chặt các đường xuống núi ở cả bốn phía. Y sợ nhà sư Thiếu Lâm đột phá được trùng vây, nên mỗi ngả đường đều đặt đến ba chặng gác, chặng đầu giữ không được thì còn chặng giữa, chặng giữa giữ không được đã có chặng sau, ít nhất cũng đủ thì giờ hô hoán gọi tiếp ứng. Y lại sắp xếp mười mấy cao thủ tuần tra bốn mặt, sau đó Ô Lão Đại mới cùng Bất Bình đạo nhân, An động chúa, Tang Thổ Công, Hoắc động chúa, Khâm đảo chúa, cả thảy mấy chục người lên núi tìm kiếm nhà sư này để trừ khử cho dứt hậu hoạn.
Bọn Mộ Dung Phục được phân công canh giữ mặt phía đông. Phía này không hề có đường xuống núi, bề ngoài là mời giúp canh phòng, thật sự là bọn Ô Lão Đại không muốn họ tham gia. Mộ Dung Phục hiểu Ô Lão Đại còn nghi kỵ mình, chỉ khẽ cười rồi dẫn bọn Đặng Bách Xuyên qua mặt phía đông trấn thủ. Đoàn Dự chẳng sợ gì ai, không ngớt mở miệng ca tụng Hư Trúc là anh hùng hảo hán.
***
Người cướp túi vải đựng cô bé đúng là Hư Trúc. Hôm đó Đinh Xuân Thu cùng Mộ Dung Phục ác đấu kinh hồn trong phạn điếm, về sau Du Thản Chi cứu A Tử chạy đi, Đinh Xuân Thu phân tâm để Mộ Dung Phục thừa cơ giật được tay ra trốn thoát. Lúc đó Hư Trúc cũng nhân lúc lộn xộn chui từ phòng trong ra rồi cướp đường chạy trối chết. Y chạy ra khỏi phạn điếm, rồi toan đi tìm bọn Tuệ Phương sư bá sư thúc để xin chỉ thị. Từ lúc Hư Trúc phóng chưởng đánh chết sư bá tổ Huyền Nạn, y kinh hãi vô cùng, mất cả chủ ý. Y chưa có kinh nghiệm giang hồ, lại không thuộc đường lối, không dám gặp nhiều người mà cũng không dám vào quán trọ, chỉ tìm những nơi hẻo lánh mà đi.
Lúc đó ba mươi sáu động chúa và bảy mươi hai đảo chúa hẹn nhau đến hội họp tại hang núi, mỗi người đều dắt theo đệ tử nên nhân số rất đông. Hư Trúc dọc đường đã gặp bọn này, thấy nhiều nhân vật giang hồ bèn đi theo, hy vọng gặp bọn Tuệ Phương. Nhưng y thấy họ hình dung cổ quái, hành tung kỳ bí nên cũng sợ hãi, chỉ bí mật theo dõi. Hư Trúc chẳng hiểu gì về những chuyện ân oán giang hồ, nhưng bản tính nghĩa hiệp, sẵn dạ từ bi. Y thấy Ô Lão Đại vung quỷ đầu đao lên toan chém một bé gái câm điếc tuyệt không có khả năng kháng cự, liền thấy bất nhẫn vô cùng. Hư Trúc cũng chẳng hiểu ai phải ai trái, chỉ quyết cứu mạng cô bé, liền từ sau tảng đá lớn nhảy vọt ra, cướp lấy cái túi vải cõng lên lưng chạy trốn.
Hư Trúc đề khí chạy lên núi, thấy càng lên cao rừng cây càng rậm rạp. Phía sau vẫn nghe tiếng người huyên náo rượt theo nhưng mỗi lúc một xa dần. Lúc nhà sư ra tay cứu người chỉ vì lòng nghĩa hiệp nhất thời, bây giờ mới nghĩ đến bọn người này rất đông. Võ công đã ghê gớm mà thủ đoạn cũng vô cùng độc ác. Chỉ một tên trong đối phương ra tay là mình đã không địch nổi, huống chi họ đông người như thế. Nhà sư đâm ra sợ hãi, nghĩ thầm: “Bây giờ phải tìm một nơi kín đáo mà ẩn núp để họ không tìm thấy, thì tính mạng mình cùng cô bé này mới giữ được an toàn.” Lúc này y đi không cần tìm đường, cứ lựa chỗ nào cây cối rậm rạp nhất là xông vào.
Cũng may mà y đã nhận được bảy mươi năm công lực của vị lão nhân, chạy gần hai giờ mà chẳng thấy mệt nhọc chút nào. Nhà sư lại chạy một lúc nữa, trời bắt đầu sáng rõ. Mặt đất dưới chân y phủ đầy tuyết, thì ra chỗ này âm u lạnh lẽo, tuyết phủ quanh năm. Hư Trúc định thần nhìn xung quanh một lượt, tim vẫn đập thình thịch. Y tự hỏi: “Không biết mình phải chạy trốn đến chỗ nào mới yên?”.
Đột nhiên sau lưng y có tiếng quát: “Tên tiểu quỷ xấu xa kia, ngươi tưởng trốn được ư? Ta tưởng ngươi phải hổ thẹn mà chết.” Hư Trúc giật mình la hoảng: “Úi chao!”, rồi co giò chạy lên đỉnh núi như phát điên. Y chạy được mấy dặm mới dám dừng chân ngoảnh đầu lại, thì không thấy ai đuổi theo. Y yên tâm, tự nói: “Hay quá! Không có người đuổi theo.”
Y vừa dứt lời thì sau lưng lại có tiếng chế giễu: “Nam tử hán đại trượng phu gì mà nhát gan đến thế? Thật là đồ chuột nhắt mật nhỏ xíu!” Hư Trúc lại sợ cuống cuồng, cất bước chạy như bay, vẫn nghe thanh âm kia nheo nhéo ở đằng sau: “Đồ nhát gan, đồ ngu ngốc, chẳng được tích sự gì!” Dường như giọng nói chỉ cách chừng hai ba thước, người nói có thể với tay một cái là tóm được.
Hư Trúc nghĩ thầm: “Hỏng bét, hỏng bét! Võ công người này cao cường đến thế, mình nhất định không thoát khỏi độc thủ của hắn rồi!” Y nghĩ thế, nhưng vẫn gia tăng cước lực đến tột độ, mỗi lúc chạy một mau hơn. Thanh âm kia lại cất lên: “Nhát gan đến thế thì còn ra vẻ anh hùng cứu người làm chi? Ngươi định chạy trốn tới đâu?”
Lần này Hư Trúc nhận ra tiếng nói ngay sát bên tai, y sợ quá, hai chân nhũn ra suýt nữa té xuống, lảo đảo mấy bước rồi quay đầu lại nhìn. Lúc này trời đã sáng bạch, ánh mặt trời chiếu rõ cả khu rừng rậm rạp mà tuyệt không thấy bóng người. Hư Trúc nghĩ chắc người này ẩn nấp gần đấy, liền cung kính nói: “Tiểu tăng thấy người ta toan sát hại một cô bé nhỏ tuổi, nên không tự lượng sức mà xuất thủ cứu người, không dám tự nghĩ là có bụng anh hùng.”
Thanh âm kia cười nhạt rồi nói: “Ngươi hành động mà không biết tự lượng sức, thì chỉ chuốc khổ vào thân mà thôi!”
Thanh âm này tựa như ngay ở bên tai, Hư Trúc lại càng kinh hãi, hốt hoảng quay đầu nhìn lại mà phía sau nào thấy ai đâu? Nhà sư nghĩ bụng: “Thân pháp người này xuất quỷ nhập thần đến mức mình không trông thấy được, võ công y chắc chắn cao hơn mình mấy chục lần. Nếu y cố hại thì chỉ giơ tay lên một cái là lấy xong mười mạng Hư Trúc chứ đừng nói một. Nhưng nghe giọng điệu thì y chỉ trách mình bất tài nhát gan, dường như y không cùng phe với Ô Lão Đại.” Nghĩ vậy, Hư Trúc định thần lại rồi nói: “Tiểu tăng bất tài, dám xin tiền bối chỉ điểm cho.”
Người kia lại cười nhạt, nói: “Ngươi có phải là đồ tử đồ tôn gì của ta đâu mà ta phải chỉ điểm cho ngươi?” Hư Trúc đáp: “Dạ, dạ! Tiểu tăng ăn nói càn rỡ mong tiền bối tha tội cho. Bên địch rất đông người, tiểu tăng không phải là đối thủ, tiểu tăng muốn kiếm đường tẩu thoát.” Y nói xong, lại đề khí tiếp tục chạy lên đỉnh núi.
Thanh âm sau lưng lại vang lên: “Ngọn núi này là tuyệt lộ, bọn chúng canh giữ dưới chân núi cả rồi. Ngươi định chạy đi đâu cho thoát?” Hư Trúc hoang mang dừng bước, đứng ngẩn ra ấp úng: “Tiểu tăng… không biết làm thế nào, mà cũng không rõ đường đi. Xin tiền bối mở lòng từ bi chỉ điểm cho một lối thoát.” Giọng ở sau lưng lại cười hăng hắc, rồi hững hờ nói: “Hiện giờ chỉ có hai cách, một là ngươi chạy theo đường cũ xuống núi, xông vào trùng vây của địch mà giết sạch bọn yêu ma quỷ quái đó đi.” Hư Trúc đáp: “Một là tiểu tăng không đủ tài năng, hai là tiểu tăng không muốn giết người.” Thanh âm kia nói: “Vậy phải theo cách thứ hai, ngươi tung mình nhảy xuống vực sâu muôn trượng cho nát ra như cám, thì cả trăm điều cũng giải quyết xong hết!”
Hư Trúc ngập ngừng: “Cái đó…” Y quay đầu nhìn lại, trên mặt đất phủ tuyết chỉ thấy có vết chân mình, không thấy vết chân người thứ hai nào nữa. Y nghĩ thầm: “Người này đi trên tuyết mà không lộ vết chân, võ công tuyệt diệu không thể tưởng tượng được.” Thanh âm kia lại hỏi: “Ngươi tính thế nào?” Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng nhảy xuống vực thẳm mà chết thì cũng đành, nhưng lẽ nào để bé gái mà tiểu tăng đang cõng cũng phải chết theo. Như thế là cứu người mà lại hóa ra hại người, thật là không nỡ.”
Thanh âm kia lại hỏi: “Ngươi có liên quan gì với núi Phiêu Diểu không? Sao không tìm cách thoát thân mà còn mạo hiểm cứu người làm chi?” Hư Trúc vừa chạy tiếp lên đỉnh núi vừa cất tiếng đáp: “Núi Phiêu Diểu hay cung Linh Thứu gì gì đi nữa thì tiểu tăng cũng mới nghe thấy hôm nay, chẳng quen biết ai trên đó cả. Tiểu tăng là đệ tử phái Thiếu Lâm, chuyến này mới vâng mệnh sư phụ xuống núi lần đầu. Bất luận là môn phái nào trên giang hồ, tiểu tăng cũng không có liên quan chi hết.” Thanh âm kia cười nhạt đáp: “Như vậy thì ngươi là một vị tiểu hòa thượng chùa Thiếu Lâm, thấy việc nghĩa mà làm phải không?” Hư Trúc đáp: “Là tiểu hòa thượng thì đúng, còn thấy việc nghĩa mà làm thì không dám nói. Tiểu tăng chẳng có kiến thức gì, nên hành động bừa bãi, hiện giờ trong lòng còn vô số vấn đề nan giải, không biết phải làm thế nào.”
Thanh âm kia nói: “Nội lực của ngươi thâm hậu hiếm có, nhưng hoàn toàn không phải nội lực phái Thiếu Lâm là nghĩa làm sao?” Hư Trúc đáp: “Chuyện này nói ra dài lắm, chính là một vấn đề đã làm tiểu tăng rối trí.” Thanh âm kia giục: “Dài ngắn cái gì? Ta không cho phép người nói lăng nhăng để bưng bít, mau mau nói thật đi!” Giọng nói đó đầy vẻ uy nghiêm, khó mà không tuân theo được. Nhưng Hư Trúc nhớ lại Tô Tinh Hà đã dặn: ba chữ Tiêu Dao Phái là bí mật, chỉ có người bản phái mới được biết, nên tuy nhà sư biết người phía sau mình là một bậc tiền bối bản lĩnh cao thâm, nhưng đến mặt mũi còn chưa trông thấy, thì không dám đem chuyện bí mật trọng đại như vậy ra kể với y. Hư Trúc nghĩ vậy liền đáp: “Xin tiền bối lượng thứ, thực tình tiểu tăng có nhiều nỗi khổ tâm không thể trình bày được.”
Thanh âm kia nói: “Được lắm! Đã thế thì ngươi đặt ta xuống thôi!” Hư Trúc giật bắn người lên, lắp bắp hỏi: “Cái… cái gì?” Thanh âm kia nhắc lại: “Ngươi đặt ta xuống đi, đừng hỏi lằng nhằng nữa.”
Hư Trúc không phân biệt rõ thanh âm này là nam hay nữ, chỉ biết là giọng nói của người già cả. Y không hiểu nổi tại sao người bí mật này lại bảo mình đặt y xuống, thực ra là ý gì. Nhà sư liền dừng bước quay đầu nhìn lại thì phía sau vẫn chẳng thấy bóng một ai, còn đang ngơ ngẩn thì thanh âm kia cất tiếng mắng: “Xú hòa thượng, mau đặt ta xuống. Ta ngồi trong cái túi vải trên lưng ngươi chứ ở đâu? Ngươi tưởng ta là ai?”
Hư Trúc hồn vía lên mây, kinh hãi quá bèn buông tay ra. Chiếc túi vải rớt xuống đất đánh “huỵch” một tiếng, người trong túi la lên: “Úi chao!” Tiếng kêu đau này cũng nghe rất già nua. Hư Trúc la lên một tiếng “Trời ơi!” rồi hỏi: “Tiểu cô nương! Là cô đấy à? Sao giọng nói của cô nghe già thế?” Y bèn cúi xuống, cởi miệng túi vải rồi đỡ cô bé dậy.
Cô này thân hình nhỏ bé, chỉ khoảng tám chín tuổi, nhưng hai mắt sáng như điện rất có thần khí, đang quắc lên nhìn Hư Trúc trông rất oai nghiêm. Y há hốc miệng ra hồi lâu, không nói nên lời. Cô bé cất tiếng: “Ngươi thấy bậc trưởng bối mà không thi lễ, thì còn ra nghĩa lý gì?” Thanh âm cô ra vẻ người già mà vẻ mặt cũng rất nghiêm nghị. Hư Trúc ngập ngừng: “Tiểu… cô nương…” Cô bé vội gắt lên: “Tiểu cô nương với đại cô nương cái gì? Ta là Mỗ Mỗ đây!” Hư Trúc mỉm cười nói: “Hiện giờ chúng ta đang bị hãm nơi tuyệt địa, cô nương chẳng nên nói giỡn. Lại đây, chui vào trong túi đi, để tiểu tăng cõng lên lưng mà trèo núi. Chỉ trong chốc lát là địch nhân đuổi đến nơi!”.
Cô bé đảo mắt nhìn Hư Trúc từ trên xuống dưới, đột nhiên thấy trên ngón tay y có đeo một cái nhẫn bảo thạch đen thì giật mình hỏi: “Ngươi… ngươi đeo cái gì thế kia? Đưa ta coi thử!” Thật ra Hư Trúc cũng không muốn đeo cái nhẫn này trên ngón tay, nhưng y biết đó là một vật rất trọng yếu không dám bỏ trong bọc, sợ sơ ý rớt mất. Nhà sư nghe cô bé hỏi tới cái nhẫn liền cười đáp: “Cái nhẫn đó không đẹp đâu.”
Cô bé đột nhiên vung tay ra, nắm lấy cổ tay trái Hư Trúc, để ý nhìn rất kỹ cái nhẫn. Cô nắm bàn tay Hư Trúc lật qua lật lại nhìn một hồi lâu. Hư Trúc cảm thấy bàn tay cô run rẩy không ngớt, bèn quay đầu lại nhìn, thấy đôi mắt vừa to vừa trong trẻo của cô đầy nước mắt. Một hồi lâu, cô bé mới buông tay y ra.
Cô bé lên tiếng hỏi: “Ngươi ăn cắp cái nhẫn này của ai?” Thanh âm cô cực kỳ nghiêm khắc, tựa như đang thẩm vấn đạo tặc. Hư Trúc có ý không bằng lòng, nói: “Kẻ xuất gia phải giữ nghiêm giới luật, sao lại trộm cắp được? Đây là vật của người ta cho tiểu tăng, sao cô lại bảo là đồ ăn cắp?” Cô bé nói: “Nói chuyện hồ đồ! Ngươi là đệ tử Thiếu Lâm thì sao người ta lại cho ngươi cái nhẫn này được? Ngươi mà không nói rõ đầu đuôi, thì bữa nay ta phải lột da róc xương để người biết thế nào là đau khổ.”
Hư Trúc bất giác bật cười, nghĩ bụng: “Nếu mình không nhìn thấy người, chỉ nghe thanh âm thì chắc phải bị cô bé này dọa cho bở vía.” Y đáp: “Tiểu cô nương!…” Ba tiếng này vừa ra khỏi miệng, đột nhiên nghe đánh “bốp” một cái, má bên trái nhà sư đã bị một cái tát, may mà cô bé yếu sức nên tát không đau lắm. Hư Trúc tức giận hỏi: “Sao cô xuất thủ đánh người? Còn bé mà đã dã man vô lễ như thế ư?”
Cô bé nói: “Pháp danh ngươi là Hư Trúc! Hừ! Linh, Huyền, Tuệ, Hư.. ngươi là đệ tử đời thứ ba mươi bảy phái Thiếu Lâm. Có phải ngươi kêu bọn tiểu hòa thượng Huyền Bi, Huyền Từ, Huyền Thống, Huyền Nạn bằng sư tổ không?”
Hư Trúc giật mình kinh hãi, lùi lại một bước. Tại sao cô bé này mới tám chín tuổi đã biết lai lịch các bậc trưởng bối phái mình, lại dám gọi các vị sư bá tổ, sư thúc tổ mình là Huyền Từ, Huyền Bi bằng tiểu hòa thượng? Cô ta nói chuyện đâu có giống như trẻ nít? Y nghĩ thầm: “Người ta vẫn đồn rằng trên đời có chuyện hồn người chết mượn xác. Hay là… có linh hồn một vị tiền bối nào nhập vào người cô bé này?”
Cô bé lại giục: “Ta hỏi ngươi, phải thì nói rằng phải, không thì nói rằng không, sao lại không đáp?” Hư Trúc liền đáp: “Cô nương nói không sai, nhưng cô gọi phương trượng đại sư bản tự bằng tiểu hòa thượng thì thái quá!” Cô bé nói: “Y chả là tiểu hòa thượng thì là gì? Ta ngang hàng với Linh Môn đại sư là sư phụ y, mỗi lần Huyền Từ gặp ta đều phải kính cẩn kêu bằng tiền bối. Ta kêu y bằng tiểu hòa thượng đã mười mấy năm nay rồi, có gì mà thái quá?” Hư Trúc lại càng kinh hãi. Linh Môn thiền sư là sư phụ Huyền Từ và là đệ tử đời thứ ba mươi tư chùa Thiếu Lâm. Những vị cao tăng nổi tiếng chùa Thiếu Lâm, Hư Trúc đều biết cả. Y càng nghe càng tin có linh hồn bậc trưởng bối nào đang nhập trong người cô này, liền hỏi: “Thế thì… thế thì cô là ai?”.
Cô bé giận dữ nói: “Ban đầu ngươi cứ mở miệng là gọi ta bằng tiền bối, ta tưởng ngươi là kẻ cung kính biết lễ. Sao bây giờ ngươi dám kêu ta bằng cô? Nếu mỗ mỗ không nghĩ đến ngươi đã có công cứu mạng thì đã phóng chưởng đánh chết tươi rồi!” Hư Trúc nghe thấy cô bé tự xưng là mỗ mỗ thì hoảng hồn đổi giọng nói: “Mỗ mỗ! Tiểu tăng không dám hỏi đến tôn tính đại danh nữa!” Cô bé hài lòng nói: “Thế mới là phải. Ta hỏi ngươi, cái nhẫn bảo thạch ngươi đeo trên ngón tay ở đâu ra?” Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng nói thực, đó là của một vị tiên sinh đã cho tiểu tăng. Thực ra tiểu tăng cũng không muốn nhận, vì mình là đệ tử phái Thiếu Lâm không được phép lãnh cái nhẫn này. Nhưng vị lão tiên sinh đó đến lúc lâm nguy không cho tiểu tăng phân giải…”
Cô bé đột nhiên lại thò tay ra nắm lấy cổ tay Hư Trúc, run run hỏi: “Ngươi nói… vị tiên sinh đó đến lúc… lâm nguy à? Y chết rồi ư? Không! Không! Ngươi nói đi, tướng mạo vị tiên sinh đó như thế nào?” Hư Trúc đáp: “Lão tiên sinh đó râu dài ba thước, mặt đẹp như ngọc, phong độ cực kỳ tuấn nhã.” Cô bé càng run rẩy hơn, hỏi: “Làm sao y lại lâm nguy? Bản lĩnh của y…” Đột nhiên cô tức giận, quát mắng: “Thằng trọc thối tha này! Vô Nhai Tử bản lĩnh phi thường, chưa tán công thì làm sao chết được? Người như y đâu có chết dễ dàng như vậy?” Hư Trúc gật đầu đáp: “Dạ, dạ!” Cô bé tuy còn nhỏ tuổi nhưng cái thế khiếp người, Hư Trúc vừa kính cẩn vừa sợ hãi, nên mặc dầu chẳng hiểu gì hết vẫn không dám cãi lý, mà cũng không dám hỏi lại. Y tự hỏi: “Tán công là thế nào? Người ta chết dễ như không, sao cô này lại bảo là khó?”
Cô bé lại hỏi: “Ngươi gặp Vô Nhai Tử ở đâu?” Hư Trúc hỏi lại: “Phải chăng tiền bối hỏi về lão tiên sinh mặt mũi khôi ngô, sư phụ của Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà?” Cô bé đáp: “Dĩ nhiên là ta hỏi y. Hừ! Ngươi không biết cả tên tuổi y, rõ ràng ngươi bảo y đã cho ngươi cái nhẫn này là nói dối. Ngươi không những mặt dày vô sỉ mà còn to gan lớn mật nữa.”
Hư Trúc hỏi: “Tiền bối có quen biết Vô Nhai Tử lão tiên sinh ư?” Cô bé tức mình quát lên: “Ta hỏi mi chứ có phải mi hỏi ta đâu? Mi gặp Vô Nhai Tử ở đâu? Nói mau” Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng gặp lão tiên sinh đó trên một ngọn núi. Sở dĩ có cuộc gặp gỡ này là vì tiểu tăng ngẫu nhiên phá được thế cờ Trân Lung kỳ bí mà ra.”
Cô bé vung tay toan tát y, nhưng lại rụt tay về, chỉ quát mắng: “Mi ăn nói hồ đồ. Thế cờ đó bày ra đã mấy chục năm, bao nhiêu kẻ sĩ tài trí còn chưa phá được. Gã thầy chùa ngu dốt như mi mà đòi phá giải ư? Mi còn nói láo thì ta không lịch sự nữa đâu!”
Hư Trúc nói: “Tiểu tăng không có bản lĩnh phá thế Trân Lung đó đâu, chỉ vì khi đó ở vào thế cưỡi cọp, Thông Biện tiên sinh bức bách tiểu tăng phải đi một nước cờ, tiểu tăng đành nhắm mắt lại, cầm quân cờ đặt bừa xuống bàn. Ngờ đâu quân cờ đó chẹn họng chết hết một đám quân trắng bên mình, nhưng thế cờ thành trống trải rồi sau cùng phá giải được, chỉ là may mắn mà thôi. Vì tiểu tăng liều lĩnh đi một nước cờ mà rồi sau vướng phải tội lỗi không ít. Thật là tội nghiệt! Hỡi ôi! A di đà Phật! A di đà Phật!” Y chắp tay trước ngực, niệm Phật một hồi.
Cô bé bán tín bán nghi nói: “Mi nói như vậy thì cũng hơi có lý…” Chưa dứt lời thì đột nhiên dưới sườn núi có tiếng gọi nhau văng vẳng, rồi tiếng chân người nhộn nhịp. Hư Trúc la hoảng: “Ôi chao!” Y hấp tấp bỏ cô bé vào lại túi vải rồi đặt lên lưng, co giò chạy lên núi như kẻ phát điên.
Nhà sư chạy được một lúc thì tiếng la ó nghe đã xa xa. Y quay đầu lại, thấy vết chân mình in trên tuyết rõ mồn một, bất giác la hoảng lên: “Nguy rồi!” Cô bé hỏi: “Việc gì mà nguy?” Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng lưu vết chân lại trên mặt tuyết thì dù có chạy xa đến đâu, họ cũng theo dấu vết đuổi đến nơi được.” Cô bé nói: “Phi thân đi trên ngọn cây thì không để lại vết chân. Đáng tiếc là võ công ngươi kém cỏi quá, có cái thuật khinh công nhỏ mọn mà cũng không biết. Tiểu hòa thượng! Xem chừng nội lực ngươi cũng khá, nhảy lên thử xem.”
Hư Trúc nói: “Dạ! Để tiểu tăng thử.” Rồi y tung mình nhảy lên cao quá ngọn cây, nhưng lúc hạ xuống đáp vào cành cây thì nặng nề quá, cành cây gãy răng rắc rồi cả người lẫn cành rớt xuống. Đáng lẽ y té ngửa đè lên cái túi, nhưng tâm địa nhân từ, sợ mình đè cô bé bị thương, bèn cố lật mình té sấp xuống. “Binh” một tiếng, trán y đập vào một tảng đá rách da chảy máu, bèn la rầm lên: “Ôi chao! Ôi chao!” Rồi Hư Trúc lồm cồm gượng đứng lên, xấu hổ nói: “Tiểu tăng… ngu dốt quá, không nhảy được!”
Cô bé nói: “Ngươi chịu bị thương chứ không đè lên ta, thế là biết cung kính mỗ mỗ. Mỗ mỗ một là muốn lợi dụng, hai là muốn thưởng công, bây giờ ta dạy cho ngươi cách phi thân. Nghe cho rõ đây: Lúc tung người lên thì phải co hai đầu gối lại, đề tụ chân khí vào huyệt Đan Điền, lúc chân khí đưa người lên rồi thì thả lỏng thân thể, phong bế huyệt Ngọc Chẩm…” Cô bé giải thích từ từ, rồi lại dạy cho Hư Trúc chuyển hướng lúc người đang ở trên không, tạt ngang hay vượt lên cao hơn nữa phải làm thế nào. Cô bé dạy xong rồi nói: “Ngươi hãy theo phương pháp của ta lại nhảy lên đi!”
Hư Trúc nói: “Dạ! Để tiểu tăng thử nhảy một mình xem sao đã, sợ lúc té xuống làm đau tiền bối.” Nhà sư nói xong toan đặt cái túi trên lưng xuống. Cô bé tức giận quát lên: “Mỗ mỗ đã đem bản lĩnh dạy ngươi chẳng lẽ còn sai lầm ư? Thử làm cái quái gì? Nếu lần này ngươi lại té nữa thì mỗ mỗ lập tức giết chết ngươi đó.”
Hư Trúc sợ hãi vô cùng, bất giác nghĩ mình đang cõng một hồn ma nhập vào xác người, thì mồ hôi toát ra như tắm, toan quăng cái túi vải ra xa nhưng lại không dám. Rồi y nghiến răng vận khí theo đúng phép của cô bé vừa truyền thụ, co hai chân tung mình nhảy lên. Lần này nhà sư vận khí theo đúng lời dạy của cô bé, bế huyệt Ngọc Chẩm, nên lúc nhảy, người y từ từ đưa lên trên không.
Dù y đang lơ lửng trong không gian mà chuyển hướng theo ý muốn cũng rất dễ dàng. Nhà sư mừng quá, la lên: “Được rồi! Được rồi!” Không ngờ y vừa mở miệng, chân khí tiết ra ngoài, người lại rớt xuống. May mà lần này rớt thẳng, hai chân đụng mạnh xuống đất chỉ thấy hơi đau, không đến nỗi ngã lăn ra.
Cô bé lớn tiếng mắng: “Đồ ngốc! Giả tỉ ngươi muốn mở miệng ra nói thì phải biết điều hòa hô hấp đã. Bước thứ nhất chưa xong đã muốn đến bước thứ năm, thứ sáu rồi!” Hư Trúc nói: “Dạ dạ! Tiểu tăng ngu ngốc!” Nhà sư lại đề khí nhảy lên, rồi nhẹ nhàng đáp xuống một cành cây. Lần này cành cây chỉ rung chứ không gãy rời.
Hư Trúc mừng thầm, nhưng không dám mở miệng hoan hô. Y theo lời của cô bé nhảy xa hơn một trượng đáp xuống cành cây thứ hai, rồi lại chuyển sang cành cây thứ ba. Càng lúc y vận khí càng thuận tiện, thân mình nhẹ nhõm, sức lực sung túc, càng nhảy càng xa. Về sau nhà sư nhảy một cái là vượt qua hai cành cây, rồi vọt từ cây nọ sang cây kia nhanh thoăn thoắt, lơ lửng trên không chẳng khác gì cưỡi gió mà đi. Y không khỏi vừa kinh hãi vừa mừng thầm. Đỉnh núi đầy tuyết phủ, cây mọc dày chi chít, nhà sư nhảy chuyền từ ngọn cây này sang ngọn cây kia thì người đi dưới đất không biết dấu vết đâu mà truy tìm. Chẳng bao lâu nhà sư đã vào đến giữa khu rừng sâu thẳm.
Cô bé nói: “Được rồi! Thôi xuống đi!” Hư Trúc đáp ngay: “Vâng!”, rồi từ từ nhảy xuống, đỡ cô bé ra khỏi túi vải.
Cô bé thấy mặt nhà sư lộ vẻ vui mừng không giấu được, thì lại cất tiếng mắng: “Tên tiểu hòa thượng này chẳng ra gì, mới học được một chút công phu thô thiển mà đã vui mừng tự mãn.” Hư Trúc nói: “Dạ dạ! Tiểu tăng nhãn giới rất thiển cận. Tuyệt nghệ mỗ mỗ dạy cho tiểu tăng thật là hữu dụng…” Cô bé nói: “Ngươi mới học một lượt đã hiểu ngay, mỗ mỗ nhìn ngươi quả đã không lầm. Nhưng nội lực của ngươi không phải thuộc phái Thiếu Lâm. Vậy ngươi đã học võ công của ai? Sao ngươi còn nhỏ tuổi mà nội công đã thâm hậu đến thế?”
Hư Trúc cảm thấy trong lòng chua xót, cặp mắt bất giác đỏ hoe, đáp: “Đó là Vô Nhai Tử lão tiên sinh lúc lâm chung đã đem nội lực bảy mươi năm tu luyện truyền vào trong thân thể tiểu tăng. Thực tình tiểu tăng không dám phản bội phái Thiếu Lâm để đi theo phái khác. Nhưng khi đó Vô Nhai Tử lão tiên sinh chẳng đợi tiểu tăng nói năng gì, hóa giải ngay công lực Thiếu Lâm của tiểu tăng, rồi truyền công phu của mình sang. Tiểu tăng chẳng biết đó là phúc hay là họa. Hỡi ôi! Nhất định sau này tiểu tăng phải về lại chùa Thiếu Lâm, nhất định… nhất định…” Nhà sư cứ “nhất định” một hồi, mà chẳng biết nhất định phải làm gì.
Cô bé ngơ ngẩn không nói gì, cầm túi vải trải lên tảng đá, ngồi trầm tư một lúc rồi nhẹ nhàng hỏi: “Vậy thì Vô Nhai Tử đã truyền chức chưởng môn phái Tiêu Dao cho ngươi ư?” Hư Trúc nói: “Thì ra… thì ra mỗ mỗ cũng biết đến phái Tiêu Dao?” Y từng nghe Tô Tinh Hà nói, người ngoài phái mà nhắc đến ba chữ “phái Tiêu Dao” thì quyết không để sống, bây giờ y thấy cô bé chính miệng nói ra mới dám nói theo. Y lại càng tin chắc cô bé này là một vị tiền bối nào mượn xác để hoàn hồn, là ma quỷ chứ không phải người. Dù có muốn giết cô này cũng không biết giết phải ai?
Cô bé tức giận nói: “Ta mà lại không biết phái Tiêu Dao ư? Ta biết phái Tiêu Dao trước cả Vô Nhai Tử là khác.” Hư Trúc “Dạ dạ!”, nghĩ thầm: “Chắc bà này là hồn ma đã mấy trăm năm về trước, dĩ nhiên già hơn Vô Nhai Tử lão tiên sinh nhiều.”
Bỗng thấy cô bé lượm một cành khô vạch xuống mặt đất đầy tuyết phủ thành một bàn cờ vây, ngang mười chín hàng, dọc mười chín hàng. Hư Trúc ngấm ngầm kinh hãi nghĩ thầm: “Cô này lại bắt mình đánh cờ thì hỏng bét.” Y thấy cô bé vẽ xong bàn cờ, lại vẽ quân cờ, khuyên tròn trống ở giữa là quân trắng, khuyên tròn có một chấm ở giữa là quân đen. Bàn cờ chi chít những quân, đến lúc cô bé vẽ xong một nửa, Hư Trúc đã nhận ra đó là thế Trân Lung bí hiểm của Vô Nhai Tử trước kia. Y nghĩ thầm: “Té ra cô này cũng biết thế cờ kỳ bí đó.” Rồi y tự hỏi: “Phải chăng ngày trước cô không phá nổi thế cờ này nên tức quá mà chết?” Y nghĩ đến đây thì ớn lạnh cả xương sống.
Cô bé vẽ thế cờ xong, cất tiếng nói: “Ngươi bảo đã giải được thế cờ này, vậy đầu tiên đi thế nào, ngươi thử diễn lại cho ta coi!” Hư Trúc đáp: “Dạ!”, rồi vẽ một con cờ vít chết một đống quân của mình. Cục diện bàn cờ lập tức cởi mở, rồi y tiếp tục diễn lại những nước được Đoàn Diên Khánh truyền âm chỉ thị, phản kích lại quân đen. Bất giác mồ hôi cô bé toát ra ướt cả trán, miệng lẩm bẩm: “Ý trời, thật là ý trời! Trong thiên hạ làm gì có ai nghĩ ra phương pháp phải tự sát trước rồi mới giết người sau?” .
Cô bé đợi Hư Trúc diễn lại xong cách phá thế Trân Lung, trầm ngâm một lúc rồi nói: “Xem ra tiểu hòa thượng là người thành thực chứ không phải ăn nói hồ đồ. Còn Vô Nhai Tử truyền cái nhẫn thất bảo này lại cho ngươi như thế nào, ngươi kể hết lại cho ta nghe. Ngươi phải nói cho thật đúng, chỉ sai nửa câu là mất mạng.”
Hư Trúc đáp: “Vâng”, rồi nhà sư kể lại từ đầu, mình được sư phụ sai xuống núi, lý do phá thế cờ bí hiểm, Vô Nhai Tử truyền công trao nhẫn, Đinh Xuân Thu ám hại Tô Tinh Hà cùng Huyền Nạn đại sư, rồi mình đi kiếm bọn sư bá Tuệ Phương. Y từ từ kể lại cho cô bé không sót mảy may.
Cô bé không nói một câu, chăm chú nghe xong mới lên tiếng: “Vậy thì Vô Nhai Tử rõ ràng là sư phụ ngươi. Thế mà ngươi không kêu y bằng sư phụ, lại kêu bằng lão tiên sinh, là nghĩa làm sao?” Hư Trúc bẽn lẽn đáp: “Tiểu tăng vốn là hòa thượng chùa Thiếu Lâm, nhất định không thể quy đầu môn phái nào khác.” Cô bé lại hỏi: “Ngươi không muốn làm chưởng môn phái Tiêu Dao ư?” Hư Trúc lắc đầu lia lịa, đáp: “Ngàn vạn lần không muốn.” Cô bé liền nói: “Vậy thì dễ lắm, ngươi trao cái nhẫn thất bảo đó lại cho ta. Ta thay ngươi làm chưởng môn phái Tiêu Dao, có được không?” Hư Trúc cả mừng đáp: “Chuyện đó tiểu tăng cầu còn chưa được.” Nói xong nhà sư tháo chiếc nhẫn bảo thạch ở ngón tay ra, trao lại cho cô bé.
Cô bé thần sắc bất định, nửa như vui nửa như buồn, đón lấy chiếc nhẫn. Ngờ đâu ngón tay cô nhỏ quá, ngón giữa và ngón vô danh không thể đeo vừa, cô đành gắng gượng đeo vào ngón cái, dường như không vừa ý. Cô bé lại hỏi: “Ngươi còn nói Vô Nhai Tử trao cho một tấm đồ hình, dặn ngươi đến Vô Lượng Sơn ở Đại Lý tìm người để học Bắc Minh Thần Công. Tấm đồ hình ấy đâu?”
Hư Trúc thò tay vào bọc lấy đồ hình ra. Cô bé mở ra xem, vừa thấy mỹ nữ cung trang trong bức đồ hình, đột nhiên cô sa sầm nét mặt, cất tiếng mắng: “Lão.. lão bảo ngươi đi tìm con tiện tì này để học võ công! Thì ra lão chết đến nơi mà vẫn không quên được con tiện tì, vẽ chân dung nó đẹp đến thế này!” Mặt cô đầy vẻ oán hận, liệng bức vẽ xuống đất, giẫm chân lên.
Hư Trúc kêu: “Trời ơi!”, rồi vội cúi xuống nhặt lên. Cô bé tức tối hỏi: “Mi tiếc ư? Hư Trúc đáp: “Bức tranh đẹp như thế, dĩ nhiên đáng tiếc.” Cô bé hỏi: “Con tiện tì đó là ai, tên tiểu tặc Vô Nhai Tử có bảo ngươi không?” Hư Trúc lắc đầu đáp: “Không!” Y nghĩ thầm: “Không hiểu sao Vô Nhai Tử lão tiên sinh đã biến thành tên tiểu tặc Vô Nhai Tử rồi?”
Cô bé vẫn hầm hầm tức giận nói: “Hừ! Tên tiểu tặc này si mê quá, đừng nói bây giờ mà ngay mấy chục năm về trước, dung mạo con tiện nhân kia cũng không xinh đẹp đến thế này.” Cô càng nói càng tức, thò tay ra toan giựt lấy bức họa, Hư Trúc vội cất ngay vào bọc. Cô bé không cướp được mỹ nhân đồ, tức quá thở lên hồng hộc, chửi mắng không tiếc lời: “Tên tiểu tặc vô lương tâm! Con tiện tì vô liêm sỉ!” Hư Trúc đứng ngẩn người ra, không hiểu vì lý do gì mà cô bé lại nổi giận. Y đoán là quỉ hồn đang nhập vào cô bé có quen biết mỹ nhân trong bức họa, hai người này có mối thù oán gì đó, nên bây giờ vừa thấy hình người trên bức vẽ là tức giận không nhịn được.
Cô bé còn đang vừa thóa mạ vừa nguyền rủa, thì bụng Hư Trúc đột nhiên kêu òng ọc một hồi. Suốt đêm qua cho tới sáng nay y mãi lo chạy trốn, chưa được hạt cơm nào vào ruột, nên đói đến sôi bụng.
Cô bé hỏi: “Ngươi đói lắm phải không?” Hư Trúc đáp: “Đúng thế! Trên ngọn núi đầy tuyết phủ này, chẳng có thứ gì ăn được.” Cô bé nói: “Sao lại không có? Trên núi này có gà rừng, có hươu nai, lại có cả sơn dương. Bây giờ ta dạy cho ngươi cách chạy nhanh dưới đất, để ngươi đi bắt gà rừng cùng hươu nai cầy cáo…” Hư Trúc không chờ cô bé nói hết vội xua tay ngắt lời: “Kẻ tu hành không thể sát sinh được! Tiểu tăng thà chịu chết đói, quyết không ăn mặn.” Cô bé tức mình mắng: “Tặc hòa thượng! Chẳng lẽ suốt đời ngươi không ăn mặn sao?”
Hư Trúc nhớ lại hôm vào quán cơm đã bị một cô gái giả trai đánh lừa ăn một miếng thịt béo và húp nửa bát thang gà, nhăn nhó đáp: “Có một lần tiểu tăng bị người ta lừa gạt ăn phải đồ mặn, nhưng đó chỉ là vô tâm không biết, chắc đức Phật không bắt tội. Còn bảo tiểu tăng tự tay sát sinh thì nhất quyết không thể được.”
Cô bé nói: “Ngươi không dám giết gà giết hươu, thế mà giết người thì còn đại ác hơn nhiều”. Hư Trúc kinh ngạc hỏi lại: “Tiểu tăng mà giết người ư? A di đà Phật! Tội lỗi, tội lỗi.” Cô bé nói: “Ngươi còn niệm Phật thì thật là buồn cười. Ngươi không đi bắt gà rừng cho ta ăn thì chỉ trong hai giờ nữa là ta phải chết, thế là ngươi giết ta đó!” Hư Trúc gãi đầu gãi tai nói: “Trên núi này chắc có rau thơm, có măng tre, để tiểu tăng đi kiếm về cho tiền bối dùng.” Cô bé sầm mặt lại, chỉ tay lên trời nói: “Lúc mặt trời lên tới đỉnh đầu mà ta không được ăn đồ huyết thực, nhất định là phải chết.” Hư Trúc cực kỳ kinh hãi, nói: “Sao tiền bối lại phải ăn đồ huyết thực?” Y nghĩ ngay tới loài quỷ hút máu, sợ đến lạnh xương sống.
Cô bé lại nói tiếp: “Ta mắc một chứng bệnh kỳ quái là hàng ngày cứ đúng giờ ngọ không được ăn đồ huyết thực thì chân khí trong người sôi lên sùng sục, phát điên lên mà chết, e rằng nguy hiểm cho ngươi.” Hư Trúc vẫn lắc đầu quây quậy nói: “Đành chịu thôi. Đệ tử nhà Phật thì phải nghiêm thủ thanh quy giới luật. Tự mình dĩ nhiên không được sát sinh, mà thấy người ta có ý định sát sinh cũng phải hết sức ngăn cản.”
Cô bé quắc mắt lên nhìn, thấy y tuy ra chiều sợ hãi song rất kiên quyết, không chịu khuất phục mình. Cô liền đổi giọng cười hì hì rồi hỏi: “Ngươi tự xưng là đệ tử nhà Phật, nghiêm thủ thanh quy giới luật. Vậy có những giới luật gì?” Hư Trúc đáp: “Giới luật nhà Phật chia làm giới căn bản và giới đại thừa, hai thứ riêng biệt.” Cô bé cười khẩy hỏi: “Rắc rối nhỉ? Giới căn bản, giới đại thừa là những gì?” Hư Trúc đáp:“Giới căn bản tương đối dễ hơn và chia ra làm bốn bậc, một là ngũ giới, hai là bát giới, ba là thập giới và bốn là cụ túc giới tức là hai trăm năm mươi giới. Cư sĩ tu tại gia phải giữ gìn ngũ giới, đầu tiên là không sát sinh, thứ hai là không trộm cắp, thứ ba là không dâm tà, thứ tư là không nói dối, thứ năm là không uống rượu. Tỳ kheo xuất gia thì trước hết phải giữ bát giới rồi sang đến thập giới và cuối cùng rộng ra đến cụ túc hai trăm năm mươi giới, còn nghiêm mật hơn nhiều. Nói sao thì nói, không được sát sinh là giới cấm quan trọng nhất của đệ tử nhà Phật.”.
Cô bé trầm ngâm một lúc rồi hỏi: “Ta nghe nói những bậc cao tăng cửa Phật nếu muốn thành chánh quả thì phải giữ Thượng thừa giới và còn kêu bằng Thập nhân, có đúng thế không?” Hư Trúc kinh hãi đáp: “Đúng thế! Giới đại thừa phải xả thân cứu người, hành xử theo thập nhân.” Cô bé hỏi: “Thập nhân là những gì?”
Võ công Hư Trúc tầm thường, nhưng y thuộc kinh Phật làu làu, bèn đáp ngay: “Trong thập nhân thì một là cắt thịt nuôi chim ưng, hai là cúng thân cho hổ đói, ba là chặt đầu tạ cho trời, bốn là bẻ xương xuất tủy, năm là đem thân đốt thiên đăng, sau là móc mắt ra bố thí, bảy là lột da để chép kinh, tám là đâm vào tim để thề thốt, chín là đốt thân thể cúng Phật, mười là lấy máu tưới cho đất.”
Y kể một điều, cô bé cười khẩy một tiếng. Y kể xong, cô bé cười hỏi: “Cắt thịt nuôi chim ưng là thế nào?” Hư Trúc đáp: “Tiền kiếp đức Phật Thích Ca Mâu Ni thấy con chim ưng đói toan vồ con bồ câu, trong lòng bất nhẫn, liền giấu con bồ câu vào trong lòng. Con chim ưng đòi hỏi: “Ngài cứu tính mạng con bồ câu mà để ta chết đói, há chẳng phải hại mạng ta sao?” Đức Phật liền xẻo thịt mình cho con chim ưng ăn.” Cô bé lại hỏi: “Thế thì cái tích cúng thân cho hổ đói đại khái cũng thế thôi chứ gì?” Hư Trúc đáp: “Đúng thế!”
Cô bé lại nói: “Xem thế thì biết thanh quy giới luật của nhà Phật vừa thâm sâu vừa quảng đại, há chỉ ba chữ Không Sát Sinh mà thôi. Giả tỉ ngươi không đi bắt gà rừng cùng hươu nai cho ta ăn, thì cũng nên bắt chước Thích Ca Mâu Ni, tự lấy máu thịt trong người để cúng dường cho ta ăn uống, không làm thế thì không phải đệ tử Phật môn.” Cô bé vừa nói vừa túm lấy tay Hư Trúc, vén cao tay áo lên để lộ da thịt, rồi cười nói: “Ta ăn cánh tay này của ngươi, cũng sống được một ngày.”
Hư Trúc thấy cô bé nhe hai hàm răng trắng nhởn, tựa như muốn há miệng cắn vào cánh tay mình thì không khỏi rùng mình. Chính ra cô này chỉ mới tám chín tuổi, sức lực chả có gì đáng sợ, nhưng trong lòng Hư Trúc vẫn yên trí đó là nữ quỉ mượn xác hoàn hồn, thấy cô có ý nghĩ bất chính, bất giác hoảng hốt, la lên một tiếng thật to rồi hất tay cô bé ra, rảo bước chạy lên đỉnh núi.
Trong lúc hốt hoảng, y hét vang động một góc rừng… Bỗng thấy trên sườn núi phía xa xa có tiếng người hô hoán: “Đây rồi! Các vị mau mau qua bên này.” Tiếng hô vừa vang dội vừa dõng dạc, chính là thành âm của Bất Bình đạo nhân
Hư Trúc lẩm bẩm: “Nguy rồi! Mình hét to quá nên tiết lộ hành tung, bây giờ biết làm thế nào?” Y cũng chưa dám quay về chỗ cũ để cõng cô bé chạy, còn bỏ cô ta lại để chạy một mình thì không nỡ, liền dừng bước đứng trên sườn núi, trong lòng do dự. Y nhìn xuống thì thấy bốn năm cái chấm đen đang bò lên, tuy còn xa nhưng rồi cũng có lúc đến nơi. Cô bé kia lọt vào tay họ thì dĩ nhiên khó lòng thoát chết.
Nhà sư lại chạy xuống mấy bước gọi: “Tiền bối! Nếu tiền bối phát thệ không cắn tiểu tăng thì tiểu tăng sẽ cõng tiền bối chạy trốn.” Cô bé cười ha hả đáp: “Ngươi trở lại đây, ta nói cho mà nghe. Năm người đang trèo lên thì người đi đầu là Bất Bình đạo nhân, thứ hai là Ô Lão Đại, thứ ba là gã họ An, còn hai người nữa thì một họ La và một họ Lợi. Trước hết ta phải dạy cho ngươi mấy chiêu để đánh ngã lão Bất Bình đạo nhân.” Ngừng một lát, cô lại mỉm cười nói tiếp: “Ngươi chỉ đánh cho lão ngã ra, không hại mạng mà cũng không đả thương, như vậy không thể gọi là sát sinh hay phá giới được.” Hư Trúc đáp: “Vì cứu người mà đánh ngã cường đồ, tất nhiên là việc phải làm. Nhưng Bất Bình đạo nhân cùng Ô Lão Đại võ công phi phàm, tiểu tăng làm sao đánh ngã họ? Bản lĩnh của tiền bối tuy cao thâm nhưng trong khoảnh khắc thì tiểu tăng không thể học kịp” .
Cô bé mắng: “Đồ ngu! Vô Nhai Tử là sư phụ Tô Tinh Hà cùng Đinh Xuân Thu. Võ công hai gã Tô, Đinh thế nào ngươi cũng đã biết rõ rồi, đồ đệ đến mức đó thì bản lĩnh sư phụ có thể nghĩ ra mà biết rõ được. Y đã đem cả công lực tu luyện bảy mươi năm truyền cho ngươi, thì bọn Bất Bình đạo nhân, Ô Lão Đại bì với ngươi thế nào được? Chỉ vì ngươi ngu ngốc quá nên không biết vận dụng nội lực mà thôi. Ngươi cầm túi vải lại đây, hít mạnh một hơi, vận chân khí vào cánh tay phải rồi mở miệng túi ra. Còn tay trái thì đập vào sau lưng địch nhân…” Hư Trúc học theo cô bé, nhưng y vẫn không tin mấy thủ pháp này lại hạ được những tay cao thủ võ lâm kia.
Bỗng nghe cô bé nói tiếp: “Sau đó ngươi lấy ngón tay trỏ bên trái điểm vào những bộ vị này của địch nhân. Phải vận khí theo đúng cách thức, điểm vào bộ vị bên địch không được sai trệch chút nào, sai một ly thì đi một dặm. Lúc lâm địch, nếu không hạ được địch nhân là có thể mất mạng như chơi.”
Hư Trúc ráng nhớ thật kỹ những lời cô bé chỉ dẫn. Có điều mấy thủ pháp đó mau lẹ quá, tuy chỉ có năm sáu chiêu thức, nhưng mỗi chiêu thức lại kèm theo những thân pháp, bộ pháp, chưởng pháp đặc biệt kỳ diệu. Nào là hạ bàn phải đứng vững, thượng bàn phải chếch đi… thực là phức tạp vô cùng. Hư Trúc luyện một hồi lâu mà vẫn chưa đúng cách. May mà trí nhớ y rất tốt, cô bé dạy những gì y đều nhớ không sót một câu. Nhưng khi diễn lại tất cả các chiêu thức thì lần nào y cũng lầm lẫn, sai trật.
Cô bé dạy tới dạy lui mấy lần vẫn chưa được như ý, tức quá cất tiếng mắng: “Đồ ngu! Vô Nhai Tử chọn ngươi làm truyền nhân thì chắc là y đui mắt rồi. Giả tỉ ngươi là một gã thiếu niên tuấn tú thì còn hiểu được, đằng này ngươi lại là một thằng trọc con vừa ngu dốt vừa xấu xí. Ta không hiểu sao Vô Nhai Tử coi ngươi vừa mắt ở chỗ nào.”
Hư Trúc nói: “Vô Nhai Tử lão tiên sinh cũng kể với tiểu tăng là đã cố tìm một thiếu niên phong lưu tuấn nhã để làm truyền nhân. Lề luật của phái Tiêu Dao thật là kỳ quái. Từ đây trở đi, tiền bối giữ lấy chức chưởng môn phái Tiêu Dao…” Rồi y không nói nữa, trong lòng nghĩ: “Tiền bối chỉ là một con quỷ già nhập vào các vị tiểu cô nương, cũng chẳng phải là thiếu niên tuấn tú gì.”
Hư Trúc luyện thêm hai lần nữa, nhưng một lần thì tay phải đưa ra lẹ quá, một lần thì ngón tay điểm lệch đi một chút. Y rất kiên nhẫn, toan luyện lại nữa, thì bỗng nghe tiếng bước chân vang lên. Bất Bình đạo nhân chạy như bay, đã đuổi lên tới nơi. Lão cười nói: “Tiểu hòa thượng! Ngươi chạy lẹ quá chừng, làm ta đuổi mệt quá!” Lão điểm ngón chân xuống đất, nhảy xổ đến.
Hư Trúc tự biết mình không địch nổi, toan xoay mình chạy trốn thì cô bé lại quát lên: “Theo đúng thủ pháp mà đối phó, không được sai lầm.” Hư Trúc không suy nghĩ gì nữa, mở miệng cái túi vải ra, vận chân khí vào cánh tay rồi nhắm tới Bất Bình đạo nhân đánh ra một chưởng.
Bất Bình đạo nhân mở miệng thóa mạ: “Thằng lỏi con! Ngươi dám ngang nhiên động thủ với đạo gia ư?” Rồi lão vung chưởng lên đánh. Hư Trúc không chờ phát chưởng tới nơi, đã đưa chân ra móc, Bất Bình đạo nhân liền loạng choạng trượt về phía trước. Hư Trúc lại vòng tay trái, vận chân khí vỗ vào lưng lão. Lạ thay! Bất Bình đạo nhân là tay bản lĩnh phi thường, coi ba mươi sáu đảo chúa cùng bảy mươi hai động chúa không vào đâu, mà không chịu nổi một chưởng này của Hư Trúc, người lão lạng đi rồi chui tọt vào miệng cái túi vải. Hư Trúc cả mừng toan phóng chỉ điểm vào huyệt Ý Xá trên xương sống của lão. Hư Trúc chưa học công phu điểm huyệt, lại trong lúc vội vàng nên điểm trệch đi một chút, trúng vào huyệt Dương Võng ở phía trên huyệt Ý Xá một chút.
Bất Bình đạo nhân rú lên một tiếng, chui được ra ngoài cái túi vải, lùi lại mấy bước rồi lăn người xuống sườn núi.
Cô bé than thở liên hồi: “Đáng tiếc! Thật là đáng tiếc!” Rồi cô quay lại mắng Hư Trúc: “Đồ ngu! Ta biểu ngươi điểm vào huyệt Ý Xá cho y hết đường cục cựa, ngươi lại điểm huyệt Dương Võng làm chi?”
Hư Trúc vừa kinh hãi vừa mừng thầm nói: “Thủ pháp của tiền bối thật là tuyệt diệu! Tuy tiểu tăng điểm trật chỗ cũng đủ làm cho lão một phen bở vía, sung sướng lắm rồi.” Lúc đó Ô Lão Đại đã nhảy tới nơi, Hư Trúc lại giương miệng túi ra nói: “Ngươi lại đây thử xem.”
Ô Lão Đại thấy Bất Bình đạo nhân mới đánh một chiêu đã rớt xuống núi thì trong lòng nao núng. Lão giơ thanh Lục Ba Hương Lộ Đao lên, xuất chiêu Vân Nhiễu Vu Sơn chém xéo vào người Hư Trúc. Hư Trúc kinh hãi la lên: “Ôi chao, nguy rồi! Y dùng đao thì tiểu tăng không đối phó được, tiền bối chưa dạy tiểu tăng phương pháp. Bây giờ có dạy cũng không kịp nữa…”
Cô bé cũng la lên: “Ngươi lại đây ôm ta nhảy lên ngọn cây.” Lúc này Ô Lão Đại đã chém liền ba đao, may mà hắn còn sợ chưa dám sấn vào, ba nhát đao đó chỉ chém hờ bên ngoài. Thế mà Hư Trúc đã ôm đầu chạy như chuột, tình thế rất là nguy cấp. Nhà sư nghe tiếng cô bé gọi thì mừng rỡ nghĩ thầm: “Phương pháp nhảy lên ngọn cây để chạy trốn thì mình đã học được rồi.” Nhà sư đang định chạy lại ôm cô bé thì Ô Lão Đại phóng liên hoàn đao chém tới nhanh như gió bão, nhằm vào yếu huyệt đối phương. Hư Trúc hốt hoảng la lên: “Không xong rồi!”, đề khí nhảy vọt lên rồi đáp xuống một cành lớn trên ngọn cây tùng.
Cây tùng này cao đến ba trượng, thế mà Hư Trúc nhảy lên như người biết bay, khiến cho Ô Lão Đại phải kinh hãi vô cùng. Võ công hắn tuy rất tinh thâm, nhưng khinh công tầm thường, không tài nào nhảy lên được cây tùng cao như vậy. Vả lại hắn chỉ muốn bắt cô bé kia, nên cứ đứng dưới chửi đổng: “Hòa thượng chết đâm kia! Ngươi có giỏi thì cứ ngồi trên ngọn cây đó, vĩnh viễn đừng xuống nữa.” Ô Lão Đại nói xong chạy lại chỗ cô bé, thò tay ra nắm lấy sau gáy cô. Hắn muốn bắt cô bé để đồng bọn mỗi người chém một đao, lấy huyết ăn thề, khiến không ai dám sinh lòng phản phúc nữa.
Hư Trúc thấy cô bé lại bị bắt thì trong lòng nóng nảy nghĩ thầm: “Mụ bảo mình ôm mụ nhảy lên cây, mà mình lại nhảy trước. Môn khinh công này là do mụ truyền thụ, bây giờ mình bỏ mặc mụ thì thật là vong ân bội nghĩa.” Nghĩ vậy, nhà sư lại từ ngọn cây nhảy xuống, cầm chiếc túi vải trong tay. Lúc nhảy xuống y đã giương miệng túi ra sẵn, muốn chụp lấy cô bé để cứu cô thoát nạn, nhưng chụp thế nào lại trúng đầu Ô Lão Đại. Hư Trúc cả mừng, bèn giơ ngón tay trái ra điểm xuống lưng lão. Y điểm phát này cũng không đúng như cô bé đã dạy, chệch xuống huyệt Vị Thương, dưới huyệt Ý Xá chừng một tấc.
Ô Lão Đại chỉ thấy trên đỉnh đầu có một luồng gió chụp xuống rồi trước mắt tối sầm, chẳng nhìn thấy gì. Hắn kinh hãi quá giơ đao chém bừa ra, nhưng chẳng trúng ai, rồi lại bị điểm vào huyệt Vị Thương. Ô Lão Đại tuy không nhủn người ra nhưng cũng tê bại hai cánh tay, thanh Lục Ba Hương Lộ Đao rớt xuống đất đánh choang một tiếng, còn tay kia nắm gáy cô bé cũng buông ra. Ô Lão Đại hốt hoảng vừa gỡ cái túi chụp trên đầu, vừa cố lăn mình ra xa.
Hư Trúc ôm lấy cô bé, lại nhảy lên ngọn cây, vừa nhảy vừa nói: “Nguy quá! Nguy quá!” Cô bé sắc mặt nhợt nhạt, tức mình mắng: “Ngươi đúng là đồ bỏ đi! Mỗ mỗ đã dạy ngươi thủ pháp kỳ diệu, thế mà điểm trật cả hai lần!” Hư Trúc hổ thẹn đáp: “Dạ dạ! Tại hạ vụng về, điểm không trúng huyệt đạo.” Cô bé lại nói: “Ngươi coi kìa, bọn chúng lại đến đó!” Hư Trúc nhìn xuống thì quả nhiên thấy Bất Bình đạo nhân cùng Ô Lão Đại đã trèo lên đến chỗ cũ. Ngoài ra còn ba người nữa đang đứng đằng xa chỉ chỏ nhưng không dám đến gần.
Bỗng một gã béo tròn quay mà thấp lủn thủn quát lên một tiếng rồi nhảy tới. Gã múa tít đôi búa ngắn thành một làn sáng bạc bao phủ toàn thân, rồi hai tiếng “chát chát” vang lên, hai cây búa chém vào thân cây. Sức gã rất mạnh mà lưỡi búa lại sắc bén, xem chừng hắn chém chưa tới mười nhát thì cây tùng phải đổ xuống rồi.
Hư Trúc cả kinh hỏi: “Bây giờ biết làm thế nào?” Cô bé lạnh lùng đáp: “Sư phụ ngươi đã chỉ ngươi đi kiếm con tiện tỳ vẽ trên họa đồ để học võ công. Vậy ngươi đi mà kiếm nó. Con tiện tỳ đó sẽ dạy ngươi phương pháp hạ được năm tên heo chó này!” Hư Trúc kêu lên: “Trời ơi!”, nghĩ thầm: “Lúc nguy cấp này mà mụ còn ráng tranh hơi với cô gái trong họa đồ.” “Chát chát” hai tiếng nữa, gã lùn lại chém vào cây tùng hai nhát búa. Cây tùng lung lay không ngớt, cành lá rớt xuống lả tả.
Cô bé bảo: “Ngươi đề tụ chân khí vào Đan Điền rồi vận nội lực ra bả vai, chuyển xuống huyệt Kiên Tỉnh ở khuỷu tay, xuống ba huyệt Dương Khoát, Dương Cốc, Dương Tì ở cổ tay, sau cùng vận đến huyệt Quan Xung ở ngón tay vô danh.” Cô vừa nói vừa đưa ngón tay trỏ vào các huyệt đạo trên mình Hư Trúc, biết rằng y không nhận rõ được những huyệt đạo trong người. Nếu chỉ gọi tên huyệt đạo ra thì nhất định y phải hoang mang, nên cô phải trỏ tay vào chỉ.
Hư Trúc từ khi được Vô Nhai Tử truyền công lực cho, chân khí đầy rẫy trong thân thể, y vận tới đâu là được tới đó, không phải ngưng trệ chút nào. Y nghe cô bé bảo sao liền vận khí đúng như vậy. Giữa lúc ấy lại hai tiếng “chát chát” nữa vang lên, cây tùng lắc qua lắc lại. Nhà sư kinh hãi đáp: “Vận xong rồi.” Cô bé lại nói: “Ngươi hái mấy trái tùng, ném vào đầu gã thấp lùn kia, không trúng đầu thì trúng vào ngực cũng được. Ngươi dùng chân lực ở ngón tay vô danh mà búng ra.” Hư Trúc “Vâng!”, rồi hái trái tùng, để vào đầu ngón tay vô danh.
Cô bé giục: “Bắn xuống đi!” Hư Trúc bật ngón tay cái, trái tùng ở đầu ngón tay vô danh bắn xuống đánh véo một tiếng cực kỳ cương mãnh. Nhưng Hư Trúc chưa học cách phóng ám khí, nên trái tùng trúng xuống đất, cách gã lùn đến ba thước. Gã lùn giật mình kinh hãi, nhưng chỉ chốc lát lại vung búa lên chém tiếp.
Cô bé tức mình mắng Hư Trúc: “Đồ ngu! Ngươi lại búng thử xem!” Hư Trúc rất xấu hổ, lại vận khí búng xuống một trái khác. Lần này y đang run tay nên lại càng tệ hơn, trật đến năm thước.
Cô bé lắc đầu, nói: “Cây tùng bên trái xa quá, ngươi mà cõng ta thì nhảy không tới được. Tình thế nguy cấp quá rồi, ngươi chạy trốn một mình đi thôi.” Hư Trúc đáp: “Sao tiền bối lại nói vậy? Tiểu tăng đâu phải kẻ tham sống sợ chết? Nguy hiểm đến đâu cũng mặc, tiểu tăng hết sức cứu tiền bối, nếu không cứu được thì cũng phải chết chung mới phải.” Cô bé lại mắng: “Hòa thượng ngốc! Ta với ngươi vốn không thân thích lại không quen biết, sao ngươi vì ta mà liều mạng làm chi? Hừ! Bọn chúng muốn giết hết cả hai người chúng ta, nhưng không phải chuyện dễ đâu. Bây giờ ngươi hái mười hai trái tùng, mỗi tay cầm sáu trái và phải vận chân khí như thế này…” Cô vừa nói vừa dạy nhà sư cách vận khí.
Hư Trúc ghi nhớ vào lòng, nhưng chưa vận khí xong thì cây tùng lung lay dữ dội như đưa võng, rồi có mấy tiếng “rắc rắc” vang lên, thân cây xiêu hơn về hướng đông bắc sắp đổ xuống. Bất Bình đạo nhân, Ô Lão Đại, gã lùn và hai người khác lớn tiếng reo hò rồi nhảy cả lại.
Cô bé quát lên: “Liệng nắm trái tùng đó ra!” Lúc này chân khí trong lòng bàn tay Hư Trúc đang chạy vùn vụt chỉ muốn thoát ra ngoài. Nhà sư vừa giơ hai tay lên, mười hai trái tùng đã vọt ra, nghe chát chát mấy tiếng. Bên địch có bốn người ngã lăn ra, còn sót gã lùn tuy không trúng phải nhưng cũng la lên: “Ôi mẹ ơi!”, rồi quăng đôi búa chạy nhanh xuống núi. Trong năm người này thì võ công gã lùn kém nhất, sở dĩ không bị thương là vì người gã thấp, trái tùng bay qua đầu. Hư Trúc liệng mười hai trái tùng ra mau lẹ quá, không ai có thể tránh kịp. Trên mặt tuyết có những vết loang lổ đỏ tươi, chính là máu từ vết thương bốn người kia chảy ra.
Hư Trúc liệng nắm trái tung ra rồi, sợ cô bé bị ngã liền ôm chặt lấy lưng cô, nhẹ nhàng nhảy xuống đất. Đột nhiên y trông thấy bốn người kia bị thương nặng như vậy, thì không khỏi ngẩn người ra.
Cô bé cất tiếng hoan hô, nhảy vọt đến bên cạnh Bất Bình đạo nhân, ghé miệng vào vết thương lão hút máu tươi, Hư Trúc cả kinh kêu lên: “Tiền bối làm gì vậy?” Rồi y nắm lấy lưng cô nhấc bổng lên. Cô bé hỏi lại: “Dù sao y cũng bị ngươi đánh chết rồi, mỗ mỗ hút máu để chữa bệnh thì có gì mà không được?”
Hư Trúc thấy mặt cô bé vấy đầy máu, khi mở miệng ra nói chuyện trông lại càng kinh hãi. Y hỏi: “Tiểu tăng đánh… đánh chết lão rồi ư?” Cô bé đáp:“Ta nói dối làm gì?” Cô nói xong lại cúi xuống hút máu.
Hư Trúc thấy trên trán Bất Bình đạo nhân thủng một lỗ to bằng quả trứng gà thì sợ quá la hoảng: “Ối chao! Ta liệng trái tùng lọt vào óc y rồi chăng? Trái tùng vừa nhẹ vừa mềm, làm sao lại đánh gãy xương xuyên vào trong óc được?” Y lại coi ba người kia thì một người bị hai trái tùng ném trúng ngực, một người trúng vào sống mũi, đều tắt thở cả rồi. Chỉ có Ô Lão Đại bị thương ở ngoài da nên chưa chết, nhưng miệng hắn không ngớt rên la.
Hư Trúc đến bên Ô Lão Đại lạy phục xuống đất nói: “Ô tiên sinh! Tiểu tăng lỡ tay làm tiên sinh bị thương, thật không phải cố ý. Nhưng thế là tội nặng lắm rồi, tiểu tăng áy náy vô cùng.” Ô Lão Đại tức mình thóa mạ: “Ngươi, lại còn muốn… nói giỡn nữa sao? Ngươi… cầm đao chém chết ta cho rồi!… Con bà ngươi.” Hư Trúc nói: “Tiểu tăng đâu dám nói giỡn với tiên sinh. Nhưng… nhưng…” Đột nhiên nhà sư sực nghĩ ra mình vừa giết chết ba mạng người, xem chừng Ô Lão Đại cũng khó lòng thoát chết. Thế là mình đã phạm vào tội sát sinh, một tội nặng nhất của nhà Phật. Y vừa đau lòng vừa kinh hãi, toàn thân run lên, nước mắt trào ra.
Cô bé uống no máu tươi rồi từ từ đứng lên, quay lại nhìn thấy Hư Trúc đang cuống quít thoa bóp vết thương cho Ô Lão Đại. Ô Lão Đại không nhúc nhích được mà miệng vẫn lớn tiếng mắng chửi không ngớt. Hắn nguyền rủa cực kỳ ác độc, mắng nhiếc xối xả vào mặt Hư Trúc. Hư Trúc tuyệt không cáu giận, chỉ ăn năn xin lỗi: “Không sai! Không sai! Quả là tiểu tăng tội lỗi không thể nói hết được. Nhưng tiểu tăng là kẻ côi cút, không biết cha mẹ là ai, thì tiên sinh mắng nhiếc cha mẹ tiểu tăng cũng vô ích mà thôi! Ô tiên sinh! Chỗ da bụng tiên sinh chắc là đau lắm, dĩ nhiên tiên sinh phải nổi nóng, tiểu tăng không dám trách đâu. Tiểu tăng chỉ thuận tay liệng ra một cái, không ngờ mấy trái tùng này ác nghiệt đến thế! Hỡi ôi! Mấy trái tùng này đúng là của tà môn, nếu không thì cũng là loại tùng bá đạo đặc biệt chứ không phải hạng tùng thông thường.”
Ô Lão Đại nguyền rủa: “Mẹ kiếp! Trái tùng này lại không giống những trái tùng khác ư? Thằng trọc thối tha kia! Sau này mi chết đi sẽ bị quẳng lên núi đao, nhúng vào vạc dầu sôi, đời đời ở dưới mười tám tầng địa ngục. Hừ! Nội lực mi cao cường thì cứ đánh chết Ô Lão Đại này, võ công Ô mỗ không bằng ngươi, dù chết cũng chẳng oán hận. Thôi mi đừng bày trò nữa. Trái tùng sao lại tà môn bá đạo? Chính Bắc Minh Chân Khí của mi mới là tà môn bá đạo…” Hắn không còn hơi sức để nói tiếp nữa, nổi lên ho sù sụ.
Hư Trúc lấy làm lạ hỏi: “Cái gì là Bắc… Bắc…?” Cô bé cười đáp: “Hôm nay là mỗ mỗ đã giúp cho tiểu hòa thượng. Thần công Bắc Minh Chân Khí của ta chính ra không truyền thụ cho ai, chỉ vì ngươi hết dạ trung thành, vì mỗ mỗ mà liều mạng, đáng được mỗ mỗ truyền tuyệt nghệ cho. Vả lại trong lúc nguy cấp cần người, không dạy ngươi thì còn ai giúp ta nữa? Ô Lão Đại! Nhãn lực ngươi khá đấy, nhận ra công phu vừa rồi của tiểu hòa thượng.”
Ô Lão Đại giương mắt lên tròn xoe, kinh hãi ngẩn người ra một lúc rồi hỏi cô bé: “Mi là ai? Mi câm kia mà? Sao bây giờ mi nói được?” Cô bé cười nhạt nói: “Thứ mi mà dám hỏi ta là ai ư?” Rồi cô móc trong bọc ra một cái bình, lấy hai viên thuốc vàng đưa cho Hư Trúc nói: “Ngươi cho hắn uống đi.” Hư Trúc đáp: “Vâng!”, nghĩ thầm: “Giả tỉ đây là thuốc chữa thương thì hay lắm, còn nếu là thuốc độc thì Ô Lão Đại còn chết lẹ hơn.” Y thấy Ô Lão Đại đang đau đớn quá, cho hắn chết lẹ lại càng dễ chịu, nên không nói gì nữa, cầm thuốc đưa vào trước miệng Ô Lão Đại.
Ô Lão Đại ngửi thấy mùi thuốc cay xè mãnh liệt, hắt hơi luôn mấy cái, trong bụng vừa kinh hãi vừa mừng thầm cất tiếng hỏi: “Phải chăng… đây là Cửu Chuyển… Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn?” Cô bé gật đầu đáp: “Phải rồi! Quả nhiên ngươi biết nhiều hiểu rộng, đáng mặt đàn anh trong ba mươi sáu động và bảy mươi hai đảo.” Ô Lão Đại dịu giọng hỏi: “Sao ngươi lại muốn cứu mạng ta?” Nhưng hắn sợ bỏ qua cơ hội nên không đợi cô bé trả lời, há miệng đớp luôn cả hai viên thuốc nuốt vào bụng. Cô bé đáp: “Một là ta cám ơn ngươi đã giúp đỡ ta, hai là về sau ta còn có chỗ dùng ngươi.” Ô Lão Đại lại càng không hiểu hỏi: “Ta có giúp đỡ ngươi bao giờ đâu? Ô mỗ lúc nào cũng chỉ mong giết ngươi cho xong, mỗi khi nghĩ đến ngươi là ta chẳng yên tâm chút nào!”
Cô bé cười nói: “Mi quả là quang minh lỗi lạc, nghĩ thế nào nói thế đấy không thèm úp mở, không uổng danh một tay hảo hán.” Cô ngẩng lên nhìn, thấy mặt trời đã lên đến đỉnh đầu, bèn ngó Hư Trúc nói: “Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn chuyên trị nội thương, có thể cải tử hoàn sinh linh nghiệm vô cùng. Tiểu hòa thượng! Đã đến giờ ta phải luyện công, ngươi đứng đây hộ vệ cho ta. Nếu bất luận là ai đến quấy rầy thì ngươi lập tức thi triển Bắc Minh Chân Khí mà ta vừa truyền thụ, lấy một cục đất hay một viên đá bắn ra là xong.”
Hư Trúc lắc đầu đáp: “Nếu lại đánh chết người thì sao? Tiểu tăng không… không dám làm đâu.”
Cô bé chạy ra nhìn xuống sườn núi rồi nói: “Bây giờ chưa có tên nào lên hết, ngươi không làm thì thôi.” Cô nói xong, ngồi xếp bằng ngón trỏ bên phải chỉ lên trời, ngón trỏ bên trái chỉ xuống đất. Miệng cô khạc một tiếng, lỗ mũi phun ra hai dây khói trắng lợt.
Ô Lão Đại cả kinh la lên: “Úi chà! Đây là công phu Bát Hoang Lục Hạp Duy Ngã Độc Tôn.” Hư Trúc hỏi: “Ô tiên sinh, uống thuốc xong có bớt đau không?” Ô Lão Đại vẫn còn căm giận, lớn tiếng mắng: “Thằng trọc thối tha xỏ lá kia! Ta có bớt đau hay không thì việc gì đến mi? Đừng nói dài dòng nữa.” Hắn mắng thì mắng vậy, nhưng thấy vết thương ở bụng đã bớt đau thì nghĩ thầm: “Cửu Chuyển Hàng Xà Hoàn là linh dược trị thương hiệu nghiệm như thần của cung Linh Thứu trên ngọn Phiêu Diểu núi Thiên Sơn. Thuốc này có công hiệu cải tử hoàn sinh, như vậy thì mạng ta chưa chết.” Nhưng hắn thấy cô bé luyện công thì trong lòng trăm mối nghi ngờ, từng nghe nói Bát Hoang Lục Hạp Duy Ngã Độc Tôn là môn nội công cao nhất của cung Linh Thứu, ai chưa có mấy chục năm căn bản nội công thì không thể luyện được. Cô bé này tuy là người ở cung Linh Thứu nhưng cũng chỉ là trẻ nít, sao lại có nội công thượng thừa? Ô Lão Đại lại nghĩ là mình lầm, công phu cô bé đang luyện không phải môn Bát Hoang Lục Hạp Duy Ngã Độc Tôn.
Làn bạch khí trong mũi cô bé bốc ra bao phủ lấy đầu cô, quanh quẩn mãi không tan và mỗi lúc một dày đặc thêm, thành một đám mù trắng che kín cả mặt không trông rõ nữa. Lát sau những khớp xương trong toàn thân cô kêu răng rắc như bắp rang. Hư Trúc cùng Ô Lão Đại ngẩn người ra, đưa mắt nhìn nhau chẳng hiểu ra sao. Ô Lão Đại cũng chỉ nghe đồn về công phu Bát Hoang Lục Hạp Duy Ngã Độc Tôn, chẳng hiểu thực tế thế nào. Tiếng răng rắc trong khớp xương cô bé mỗi lúc một thưa, đám mù trắng cũng nhạt dần đi, sau chỉ còn lại một luồng bạch khí, cô lại hít vào trong mũi. Cô bé hít hết luồng bạch khí rồi mở mắt ra, từ từ đứng dậy.
Hư Trúc cùng Ô Lão Đại đồng thời dụi mắt, tưởng mình không trông rõ, vì sau khi cô bé luyện công xong hình như ra chiều khác lạ, nhưng không nói ra được chỗ khác lạ đó như thế nào. Cô bé nheo mắt nhìn Ô Lão Đại rồi nói: “Ngươi quả nhiên có kiến thức, biết cả môn Bát Hoang Lục Hạp Duy Ngã Độc Tôn của ta.” Ô Lão Đại hỏi: “Cô… thật tình cô là ai? Có phải là đệ tử của Đồng Mỗ không?”
Cô bé đáp: “Hừ! Mật của ngươi cũng không nhỏ.” Cô không trả lời Ô Lão Đại, lại quay sang bảo Hư Trúc: “Tay trái ngươi ẵm ta, còn tay phải nắm lấy lưng Ô Lão Đại. Ngươi vận khí theo cách ta truyền thụ để nhảy lên ngọn cây, rồi cứ chuyền cành nhảy lên đỉnh núi, phải lên cao một trăm trượng nữa.”
Hư Trúc nói: “Chỉ sợ tiểu tăng chưa đủ nội lực.” Tuy nói thế nhưng y vẫn theo lời, tay trái ẵm cô bé, tay phải xách lưng Ô Lão Đại, hết sức cố gắng mà không sao nhảy lên ngọn cây được. Cô bé tức giận hỏi: “Sao ngươi không vận khí?” Hư Trúc gượng cười đáp: “Dạ dạ! Tiểu tăng trong lúc hoang mang, quên mất.” Rồi nhà sư vận chân khí theo lối cô bé truyền thụ, lập tức người Ô Lão Đại chỉ còn nhẹ bằng một mớ bông, mà cô gái thì tựa hồ như không trọng lượng. Hư Trúc vừa nhảy tung lên đã tới ngọn cây, rồi cứ thế khoa chân bước từ cây nọ sang cây kia cách nhau hơn một trượng, tựa hồ như đi trên đất bằng chẳng khó khăn gì. Y thấy mình lướt trên ngọn cây nhẹ nhàng như vậy, trong lòng bất giác kinh hãi, vì thế mà chân khí quay về đan điền, chân bỗng nặng trịch rồi rơi người xuống. Nhưng tay y vẫn ẵm cô bé và nắm lưng Ô Lão Đại không chịu buông ra, chân vừa chấm đất lại nhảy vọt lên. Y sợ cô bé trách mắng nên không nói gì, lại băng băng chạy lên núi.
Ban đầu Hư Trúc đề khí chưa được linh động, có lúc chân bước chậm trễ, nhưng về sau chân khí trong người y chuyển vận nhẹ nhàng tựa như đang thở bình thường, trong bụng rất khoan khoái. Y không nghĩ ngợi gì nữa, tự nhiên chân khí lưu thông càng mau, đang trèo núi mà tựa như xuống dốc, muốn dừng lại cũng khó. Cô bé nói: “Ngươi mới luyện Bắc Minh Chân Khí, không nên sử dụng thái quá. Nếu muốn giữ mạng thì dừng lại nghỉ đi” Hư Trúc “Vâng”, phóng thêm mấy trượng nữa rồi mới nhảy từ trên cây xuống đất.
Ô Lão Đại vừa kinh hãi vừa thán phục, quay lại nói với cô bé: “Cô mới dạy Bắc Minh Chân Khí cho y mới một ngày mà đã ghê gớm đến thế ư? Võ công ở cung Linh Thứu núi Phiêu Diểu quả nhiên sâu như biển cả. Cô còn là đứa trẻ nít mà bản lĩnh đã cao cường đến như vậy thì ghê thật!”
Cô bé thấy bốn mặt đều là cây cối um tùm, cười nói: “Bọn chuột nhắt các ngươi đi tìm ba ngày nữa chưa chắc đã đến được đây.” Ô Lão Đại buồn rầu nói: “Dĩ nhiên là bọn ta thua xiểng liểng rồi. Gã tiểu hòa thượng này mà đem Bắc Minh Chân Khí ra hộ vệ cho ngươi, thì dù cả bọn ta có tìm đến đây cũng không làm gì được.” Cô bé cười nhạt không nói gì, tựa lưng vào gốc cây nhắm mắt ngủ.
Hư Trúc sau khi chạy nhảy một hồi, trong bụng lại thấy đói meo. Y hết nhìn cô bé lại nhìn Ô Lão Đại, nói: “Tiểu tăng muốn đi tìm chút gì ăn, chỉ sợ tiên sinh còn đem lòng đen tối gia hại cô bé này, thật chẳng yên lòng chút nào. Chi bằng tiểu tăng đem cả tiên sinh đi là yên.” Hư Trúc nói xong, lại nắm lấy lưng Ô Lão Đại toan xách đi.
Cô bé trừng mắt nói: “Đồ ngu! Ta đã dạy ngươi cách điểm huyệt, chẳng lẽ bây giờ hắn nằm không nhúc nhích mà ngươi cũng điểm không trúng ư?” Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng sợ mình vụng về điểm không trúng huyệt, y vẫn cử động được.” Cô bé nói: “Ta giữ Sinh Tử Phù, nắm mạng hắn trong tay thì sao hắn dám làm càn?”
Ô Lão Đại vừa nghe đến ba chữ Sinh Tử Phù thì thất thanh la hoảng: “Ngươi… ngươi… ngươi…” Cô bé hỏi: “Vừa rồi ngươi nuốt mấy viên thuốc của ta?” Ô Lão Đại đáp: “Hai viên.” Cô bé hỏi: “Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn là thánh dược của cung Linh Thứu. Giống súc vật như ngươi lại uống những hai viên linh đan ư?” Ô Lão Đại trán toát mồ hôi, run rẩy nói: “Còn… một viên là… là…” Cô bé lại hỏi: “Huyệt Thiên Trì của ngươi ra sao?”
Ô Lão Đại hai tay run lẩy bẩy cởi áo ra, quả nhiên huyệt Thiên Trì ở ngực trái đã nổi lên một cái chấm đỏ như máu. Hắn kêu lên: “Trời ơi!” rồi suýt ngất đi. Hồi lâu hắn mới ấp úng: “Ngươi… ngươi là ai? Sao ngươi lại biết chỗ sinh tử của ta? Phải chăng người đã cho ta uống Đoạn Cân Hủ Cốt Hoàn?” Cô bé mỉm cười rồi đáp: “Ta còn có việc sai bảo, chưa thúc đẩy cho chất độc phát tác ngay đâu, ngươi đừng lo.” Nhưng hai mắt Ô Lão Đại lồi ra, vẻ mặt khủng khiếp không thể nào diễn tả được.
Hư Trúc đã thấy Ô Lão Đại kinh hãi nhiều lần, nhưng chưa bao giờ khủng khiếp như lần này. Nhà sư thấy tội nghiệp, buột miệng hỏi: “Đoạn Cân Hủ Cốt Hoàn là gì? Phải chăng là một thứ thuốc kịch độc?” Ô Lão Đại da mặt co rúm lại, hồi lâu không thốt ra lời. Đột nhiên, hắn trỏ vào mặt Hư Trúc chửi mắng thậm tệ: “Thằng trọc thối tha kia! Gã thầy chùa ôn vật kia! Từ ông tổ tám mươi đời nhà mi trở xuống, đàn ông đều là đồ rùa đen bỉ ổi, đàn bà toàn là hạng kỹ nữ ti tiện. Đến đời mi là tuyệt chủng, không còn mống nào thừa tự. Nếu mi mà sinh con thì con trai phải thiếu hậu môn, con gái phải ba chân bốn tay…” Ô Lão Đại chửi rủa đến sùi bọt mép, một lát sau vết thương nổi cơn đau không chịu nổi mới im miệng.
Hư Trúc thở dài rồi nói: “Tiểu tăng là người tu hành dĩ nhiên không sinh con đẻ cháu, làm gì còn có con trai con gái nữa?” Ô Lão Đại lại nổi giận mắng tiếp: “Thằng ôn vật kia! Mi tưởng chỉ bị tuyệt tự mà thôi ư? Đâu có dễ dàng thế được? Mi còn phải sinh mười tám đứa con trai, mười tám đứa con gái, mà đứa nào cũng phải uống Đoạn Cân Hủ Cốt Hoàn. Chúng đau đớn ngồi trước mặt mi mà rên xiết kêu gào đến chín mươi chín ngày, chết chẳng chết được, sống chẳng sống cho. Rồi sau cùng chính mi cũng phải uống Đoạn Cân Hủ Cốt Hoàn để nếm mùi đau khổ …..” Hư Trúc giật mình hỏi: “Đoạn Cân Hủ Cốt Hoàn độc địa đến thế ư?” Ô Lão Đại đáp: “Gân cốt toàn thân đều đứt hết, muốn mở miệng, muốn uốn lưỡi cũng không được. Thế rồi… thế rồi…!” Hắn nghĩ đến mình đã uống phải thứ thuốc độc ác nhất thiên hạ, không nói gì nữa, cảm thấy ghê rợn hãi hùng, chỉ muốn đập đầu vào gốc cây tùng mà chết cho xong.
Cô bé mỉm cười nói: “Chỉ cần ngươi ngoan ngoãn nghe lời là ta không thúc đẩy cho chất độc phát tác. Thứ thuốc này có thể giữ đến mười năm không phát động, ngươi bất tất phải sợ hãi cuống cuồng đến thế. Tiểu hòa thượng! Ngươi điểm huyệt hắn đi, cho hắn khỏi nổi điên đập đầu vào gốc cây mà tự tận.”
Hư Trúc gật đầu nói: “Đúng thế!”, rồi vòng ra phía sau Ô Lão Đại, thò tay sờ vào huyệt Ý Xá trên lưng hắn, xem xét cẩn thận cho thật đúng rồi mới điểm vào. Ô Lão Đại rên lên một tiếng rồi ngất đi. Thật ra Hư Trúc đã luyện được Bắc Minh Chân Khí rồi, y bất tất phải nhìn nhận kỹ càng, điểm vào bất luận huyệt đạo nào cũng có thể làm cho đối phương trọng thương hay ngất xỉu. Hư Trúc thấy Ô Lão Đại nằm chết giấc thì sợ hãi chân tay luống cuống, hết vuốt mũi lại xoa ngực cho hắn, hồi lâu mới cứu tỉnh lại được. Ô Lão Đại đã suy nhược đến cực điểm, chỉ còn thoi thóp thở, không còn chút khí lực nào.
Hư Trúc thấy Ô Lão Đại hội tỉnh rồi, mới đi tìm thức ăn. Trong rừng cây này chẳng thiếu gì hươu nai cầy cáo cùng dê rừng thỏ núi, nhưng làm sao y chịu sát sinh? Hư Trúc tìm kiếm hồi lâu mà chẳng thấy thứ gì ăn được, đành nhảy lên cây tùng hái quả. Nhân của trái tùng mùi vị thơm ngon, có thể ăn cho đỡ đói, nhưng nhỏ quá, y ăn hết hai ba trăm quả mà vẫn chưa no. Hư Trúc thấy mình đã đỡ đói, liền không ăn nữa, hái đầy hai túi rồi đem xuống mời bé gái và Ô Lão Đại ăn.
Cô bé nói: “Cám ơn ngươi, nhưng trong vòng ba tháng ta không thể ăn chay được. Ngươi giải huyệt cho Ô Lão Đại đi.” Rồi cô truyền phép giải huyệt cho Hư Trúc. Hư Trúc nói: “Phải đó chắc Ô Lão Đại cũng đói lắm rồi.” Y liền giải khai huyệt đạo cho Ô Lão Đại, rồi lấy một nắm trái tùng đưa cho hắn nói: “Ô tiên sinh! Tiên sinh ăn tạm mấy trái tùng này!” Ô Lão Đại hầm hầm trợn mắt lên, đón lấy bóc ăn, cứ ăn xong một trái là mắng một câu: “Thằng lỏi chết đâm chết chém này!” “Gã thầy chùa ôn vật kia!” Hư Trúc không hề tức giận, nghĩ thầm: “Mình đánh lão bị thương trầm trọng đến chết đi sống lại, lão căm tức là phải.” Cô bé nói: “Ngươi không được nói gì nữa, ăn xong trái tùng rồi ngủ đi.” Ô Lão Đại đáp: “Vâng!” Hắn không dám nhìn cô bé nữa, ăn hết chỗ trái tùng rồi ngoẹo đầu xuống ngủ.
Hư Trúc cũng ngồi xuống cạnh cô bé. Y mệt nhọc suốt ngày nên chẳng mấy chốc cũng ngủ say luôn. Sáng sớm hôm sau, nhà sư tỉnh dậy thấy trời đầy mây đen u ám, tựa như sắp có mưa giông. Cô bé nói: “Ô Lão Đại! Ngươi đi kiếm một con hươu sao hoặc một con dê rừng cũng được. Ta hẹn cho ngươi, đến giờ thìn phải đem về đây.” Ô Lão Đại đáp: “Vâng!” Hắn gượng đứng lên, nhặt một cành cây khô làm gậy chống đi, người hắn vẫn còn lảo đảo. Hư Trúc muốn lại đỡ Ô Lão Đại, nhưng nghĩ tới hắn đang đi bắt thú rừng thì luôn miệng niệm: “A di đà Phật! A di đà Phật!”, rồi lại nói: “Hươu dê thỏ gà, các loại chúng sinh, mau mau trốn xa đừng để Ô Lão Đại bắt được.” Cô bé bĩu môi cười nhạt nhưng không nói gì.
Ngờ đâu đạo cao một thước mà ma cao tới một trượng. Nhà sư cứ việc niệm kinh, còn Ô Lão Đại đang bị trọng thương mà không biết hắn có phù phép gì, chưa đến giờ thìn đã bắt được một con hươu nhỏ đem về. Hư Trúc lại càng niệm Phật không ngớt miệng.
Ô Lão Đại nói: “Tiểu hòa thượng! Mau đốt lửa lên để nướng thịt hươu ăn.” Hư Trúc nói: “Tội lỗi, tội lỗi! Tiểu tăng nhất quyết không làm chuyện tội lỗi này!” Ô Lão Đại xoay tay móc trong ống giày ra một lưỡi truy thủ sáng loáng để giết hươu. Cô bé nói: “Khoan hãy động thủ!” Ô Lão Đại đáp: “Vâng!”, rồi buông dao xuống. Hư Trúc cả mừng nói: “Hay lắm, hay lắm! Tiểu cô nương tâm địa nhân từ, sau này tất được hưởng phúc.” Cô bé chỉ cười nhạt một tiếng chứ không nói gì. Con hươu cứ tác lên không ngớt, rõ ràng đang đói. Hư Trúc chỉ muốn thả nó ra nhưng không dám.
Trời u ám nên bóng cây chỉ lờ mờ khó mà trông rõ, nhưng cũng thấy mỗi lúc một ngắn lại. Lát sau cô bé nói: “Đến giờ ngọ rồi!”. Cô giữ lấy đầu con hươu nhỏ, há miệng ra cắn vào cổ họng nó. Con hươu đau quá kêu ầm lên, cố sức giãy giụa, nhưng cô bé giữ nó thật chặt, miệng hút máu nghe ồng ộc. Hư Trúc cả kinh kêu lên: “Trời ơi! Trời ơi! Tiền bối tàn nhẫn quá!” Cô bé không lý gì đến y, vẫn ráng sức hút máu. Con hươu giãy giụa yếu dần, lát sau nó run lên bần bật rồi duỗi ra chết.
Cô bé hút máu no rồi, quăng con hươu chết xuống, một tay trỏ lên trời một tay trỏ xuống đất. Cô lại luyện môn Bát Hoang Lục Hạp Duy Ngã Độc Tôn, luồng khói trắng từ mũi phun ra quyện chung quanh đầu cô. Hồi lâu mới thấy cô bé thu làn khói trắng lại, đứng lên nói: “Ô Lão Đại! Ngươi nướng thịt hươu ăn đi.”
Hư Trúc trong lòng đau xót, lên tiếng: “Tiền bối đã có Ô Lão Đại hầu hạ. Lão hết lòng phục vụ, quyết không dám gia hại tiền bối đâu. Vậy tiểu tăng xin cáo biệt.” Cô bé nói: “Ta không cho ngươi đi!” Hư Trúc nói: “Tiểu tăng phải tìm các vị sư bá sư thúc, nếu không tìm thấy thì phải về chùa Thiếu Lâm phục mệnh, không thể chần chờ được.” Cô bé lạnh lùng hỏi: “Ngươi không theo lời ta, muốn tự mình bỏ đi, phải không?” Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng đã nghĩ ra một kế là lấy tăng bào nhét đầy cỏ khô cùng lá cây vào, giả làm một cái túi lớn đeo lên lưng mà trốn đi. Bọn người ở dưới chân núi mà trông thấy thế, tất là họ tưởng tiền bối nằm trong túi mà đuổi theo tiểu tăng. Thế là tiểu tăng có thể dẫn dụ họ đi thật xa, khi đó tiền bối cùng Ô Lão Đại nhân cơ hội để về núi Phiêu Diểu!” Cô bé nói: “Kế đó cũng không dở. Cảm ơn ngươi đã lo lắng, nhưng ta không muốn chạy trốn.” Hư Trúc đáp: “Thế cũng được! Tiền bối cứ nấp ở chỗ này. Nơi đây rừng rậm tuyết dày, bọn họ không tìm thấy được đâu. Họ có bao vây thì cũng mười ngày là phải rút đi. Tiền bối chờ họ đi rồi hãy xuống núi.”
Cô bé nói: “Mười ngày nữa thì công lực ta sẽ khôi phục lại như hồi mười tám, mười chín tuổi. Khi nào ta còn để cho chúng chạy thoát.” Hư Trúc kinh ngạc hỏi: “Sao?” Cô bé đáp: “Ngươi nhìn kỹ lại coi, ta hiện giờ so với ba hôm trước có gì khác không?” Hư Trúc ngưng thần nhìn kỹ, thấy thần sắc cô dường như lớn thêm mấy tuổi, hiện giờ cô trông như đứa nhỏ mười một, mười hai tuổi, chứ không giống đứa trẻ tám chín tuổi nữa. Nhà sư ấp úng nói: “Tiền bối… tiền bối… Hai ngày nay hình như tiền bối đã lớn thêm ba tuổi, nhưng thân hình tiền bối không cao lớn hơn trước chút nào.”
Cô bé hoan hỉ nói: “Hà hà! Nhãn lực ngươi cũng khá đấy, nhận ra ta đã lớn thêm mấy tuổi. Nhưng ngươi ngu dốt lắm. Thiên Sơn Đồng Mỗ vĩnh viễn là một nữ đồng, dĩ nhiên thân thể không bao giờ cao lớn thêm được.” Hư Trúc cùng Ô Lão Đại giật nảy mình lên, đồng thanh hỏi: “Thiên Sơn Đồng Mỗ! Cô là Thiên Sơn Đồng Mỗ ư?” Cô bé kiêu hãnh đáp: “Các ngươi tưởng ta là ai? Mỗ mỗ lúc nào cũng như một cô bé, mắt các ngươi đui rồi hay sao mà không trông thấy?”
Ô Lão Đại giương cặp mắt tròn xoe nhìn chòng chọc vào cô bé hồi lâu, miệng hắn mấp máy mà không thốt ra lời được. Một lúc sau, đột nhiên lão lăn ra tuyết kêu rên: “Ta… đáng lẽ ta phải biết sớm hơn!… Ta quả là ngu ngốc nhất thiên hạ. Ta… tưởng ngươi chỉ là một con tiểu a đầu tầm thường trong cung Linh Thứu, ngờ đâu… ngờ đâu ngươi chính là Thiên Sơn Đồng Mỗ!”
Cô bé nhìn Hư Trúc hỏi: “Còn ngươi tưởng ta là người như thế nào?”Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng tưởng tiền bối là một lão nữ quỷ nhập vào xác đứa nhỏ này để hoàn hồn.” Thiên Sơn Đồng Mỗ sa sầm nét mặt nói: “Ăn nói hồ đồ! Cái gì mà lão nữ quỉ mượn xác hoàn hồn?” Hư Trúc đáp: “Nữ thí chủ trông như một cô bé gái, mà tâm trí cùng thanh âm thì lại như bà lão, lại tự xưng là mỗ mỗ. Nếu không phải quỉ hồn một bà già nhập vào đứa trẻ nít thì sao lại như vậy?” Đồng Mỗ cười khanh khách nói: “Tiểu hòa thượng suy nghĩ thật là cổ quái.”
Rồi mụ quay sang hỏi Ô Lão Đại: “Hôm ấy ta lọt vào tay ngươi, ngươi không hạ sát ngay, chắc bây giờ hối hận lắm phải không?” Ô Lão Đại trở mình ngồi thẳng dậy đáp: “Đúng thế! Tại hạ đã lên núi Phiêu Diểu ba lần, và đã được nghe thanh âm tiền bối. Nhưng tiền bối bắt tại hạ phải bịt mặt, nên tại hạ chưa được nhìn rõ tướng mạo. Ô Lão Đại này có mắt không tròng, lại tưởng tiền bối là… là một cô bé vừa câm vừa điếc.”
Cô bé nói: “Chẳng những một mình ngươi mà trong bọn yêu quái ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo còn nhiều kẻ khác đã được nghe thanh âm ta. Nếu mỗ mỗ không giả câm thì tất bại lộ hành tung, nguy hiểm vô cùng!” Ô Lão Đại thở dài sườn sượt hỏi: “Võ công của tiền bối đã đến mực thần thông, giết người không phải dùng đến hai chiêu. Thế sao lúc bị tại hạ bắt, tiền bối lại không chống cự?”
Cô bé cười sằng sặc nói: “Ta đã cám ơn ngươi ra tay giúp đỡ, chính là vì thế. Hôm ấy cường địch sắp đến, mỗ mỗ lại thân thể bất an, khó lòng chống cự. May sao ta được ngươi dùng túi vải chụp lấy rồi cõng xuống núi, thế là tránh khỏi một kiếp nạn. Thế có phải là ta nên cám ơn ngươi không?” Cô nói tới đây, đột nhiên mắt lộ rung quang, nói tiếp: “Nhưng sau khi mi bắt được, lại bảo mỗ mỗ giả câm, rồi dùng bao nhiêu thủ đoạn vô lễ để đối phó với mỗ mỗ thì thực là tội ác ngập đầu. Nếu không như thế thì ta có thể tha mạng cho ngươi được.”
Lão Đại giật bắn người rồi quì hai gối xuống nói: “Mỗ mỗ! Người ta thường nói, không biết là không có tội. Nếu lúc ấy mà Ô Lão Đại này biết mỗ mỗ thì tất nhiên một lòng kính sợ, dù lớn mật đến đâu cũng không dám khinh mạn mỗ mỗ.” Cô bé cười nhạt nói: “Sợ ta thì có, kính ta thì chưa chắc. Ngươi tổ chức đại hội tụ tập bọn yêu ma ba mươi sáu động bảy mươi hai đảo, quyết tâm phản nghịch, bây giờ còn nói gì nữa?” Ô Lão Đại trán toát mồ hôi đầm đìa, dập đầu xuống đá núi lạy lấy lại để mười mấy lạy, máu tươi trên trán chảy ra đầm đìa.
Hư Trúc nghĩ thầm: “Té ra vị tiểu cô nương này là Thiên Sơn Đồng Mỗ. Đồng Mỗ! Đồng Mỗ! Mình cứ tưởng mụ họ Đồng tên Mỗ. Ngờ đâu chữ Đồng nghĩa là trẻ con, Đồng Mỗ tức là bà cụ non. Võ công cụ đã cao thâm, lại có bao nhiêu mưu thần chước quỷ nên ai cũng sợ mụ như cọp. Thế mà mấy bữa nay mình tận lực giúp đỡ, không chừng mụ cười thầm mình không biết tự lượng sức. Ha ha! Hư Trúc ơi là Hư Trúc, ngươi đúng là một tên hòa thượng ngu xuẩn.” Y thấy Ô Lão Đại dập đầu không ngớt, không nói tiếng nào, quay người toan bỏ đi.
Thiên Sơn Đồng Mỗ quát to: “Ngươi định đi đâu? Hãy đứng lại đã!” Hư Trúc quay lại chắp tay trước ngực nói: “Ba ngày nay tiểu tăng đã làm vô số việc ngu ngốc, bây giờ xin cáo từ thôi!” Đồng Mỗ hỏi: “Những việc gì ngu ngốc?” Hư Trúc đáp: “Nữ thí chủ võ công thần diệu, oai danh vang lừng thiên hạ. Hư Trúc này có mắt mà không thấy núi Thái Sơn, lại dám ra tay giúp đỡ, nữ thí chủ có cười vào mặt thì cũng đáng. Tiểu tăng càng nghĩ bao nhiêu càng hổ thẹn bấy nhiêu, thật không còn đất dung thân nữa.”
Đồng Mỗ tiến đến bên Hư Trúc, rồi quay lại nhìn Lão Đại nói: “Ta có việc cần nói riêng với tiểu hòa thượng. Người hãy lui ra xa.” Ô Lão Đại dạ dạ mấy tiếng rồi đứng lên, bước thấp bước cao đi về hướng đông bắc, khuất sau một cây tùng.
Đồng Mỗ nhìn Hư Trúc nói: “Tiểu hòa thượng! Ba ngày nay đúng là ngươi đã cứu mạng ta, có làm gì ngu ngốc đâu? Thiên Sơn Đồng Mỗ bình sinh chưa cảm ơn ai, nhưng ngươi đã cứu mạng ta thì sau này dĩ nhiên ta phải đền đáp.” Hư Trúc xua tay đáp: “Võ công nữ thí chủ cao cường như thế, cần gì tiểu tăng giúp sức? Rõ ràng thí chủ chế giễu mà thôi.” Cô bé sầm mặt nói: “Ta nói ngươi cứu mạng ta, tức là ngươi đã cứu mạng ta thật. Ta nói thật mà ngươi lại còn ra giọng khích bác ư? Ta đã luyện thành công phu Bát Hoang Lục Hạp Duy Ngã Độc Tôn, uy lực ghê gớm vô cùng. Nhưng công phu này có một điều đại bất lợi là cứ ba mươi năm phải một lần phản lão hoàn đồng.” Hư Trúc lấy làm lạ, hỏi: “Đang già mà trẻ lại ư? Thế thì càng tốt chứ sao?”
Thiên Sơn Đồng Mỗ thở dài đáp: “Ngươi là một tên tiểu hòa thượng bản tính thực thà, lại có ơn cứu mạng cho ta, vậy ta nói cho ngươi nghe cũng chẳng hề chi. Ta luyện môn công phu này từ hồi sáu tuổi, đến ba mươi sáu tuổi trở lại thành trẻ nít, lần đó phải mất ba mươi ngày mới luyện lại được. Đến năm sáu mươi sáu tuổi thì luyện lại mất sáu mươi ngày. Lần này ta đã chín mươi sáu tuổi thì phải mất đến chín mươi ngày mới phục hồi được công lực.” Hư Trúc cả kinh trợn mắt lên hỏi: “Sao? Thí chủ… năm nay đã chín mươi sáu tuổi rồi?”
Đồng Mỗ đáp: “Ta là sư tỉ của Vô Nhai Tử sư phụ ngươi. Nếu Vô Nhai Tử chưa chết thì năm nay y chín mươi ba tuổi. Ta lớn hơn y ba tuổi, chẳng phải chín mươi sáu là gì?”.
Hư Trúc giương cặp mắt thao láo nhìn chằm chặp vào sắc diện cùng thân thể mụ, chẳng thấy chỗ nào giống bà cụ chín mươi sáu tuổi cả.
Thiên Sơn Đồng Mỗ nói: “Công phu Bát Hoang Lục Hạp Duy Ngã Độc Tôn là một môn nội công kỳ diệu vô song, chỉ vì ta luyện môn này sớm quá. Lúc lên sáu ta đã bắt đầu luyện, mấy năm sau thì uy lực đã tiến bộ lắm rồi. Nhưng thân thể ta không lớn lên được nữa, vĩnh viễn chỉ bằng đứa trẻ nít tám chín tuổi.”
Hư Trúc gật đầu nói: “Thì ra là thế!”. Y từng nghe sư phụ nói, trên thế gian có những đứa nhỏ bảy tám tuổi đã cao bằng người lớn, cũng có những người đã mấy chục tuổi mà cao chưa tới ba thước, đó là do tam tiêu không hòa hợp mà ra. Nếu họ kịp thời luyện tập nội công thượng thừa thì cũng có hy vọng chữa khỏi. Y bèn hỏi: “Không hiểu phép luyện nội công của tiền bối có luyện tới Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu Kinh không?”
Đồng Mỗ ngẩn người, gật đầu đáp: “Không sai. Một hòa thượng nhỏ của phái Thiếu Lâm mà đã có kiến thức như vậy, võ lâm cho rằng phái Thiếu Lâm đứng đầu thiên hạ, quả là có lý.”
Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng chỉ được nghe sư phụ nói qua một ít về đạo lý của Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu Kinh, hiểu biết còn thô thiển, chỉ là buột miệng đoán bừa mà thôi.” Y lại hỏi: “Năm nay tiền bối phản lão hoàn đồng như thế nào?”
Thiên Sơn Đồng Mỗ đáp: “Lúc bắt đầu phản lão hoàn đồng thì công lực hoàn toàn mất hết. Sau một ngày tu luyện thì phục hồi lại được công lực bằng đứa nhỏ bảy tuổi: Đến ngày thứ hai công lực bằng hồi tám tuổi, ngày thứ ba bằng hồi chín tuổi… mỗi một ngày luyện tập là kéo lại một năm công lực, ngày nào đúng ngọ cũng phải uống máu tươi mới luyện công được. Hôm Ô Lão Đại lên núi Phiêu Diểu để thám thính, ta mới luyện được ba ngày. Ngươi thử nghĩ coi lúc đó ta mới có công lực bằng đứa nhỏ chín tuổi thì làm thế nào kháng cự được bọn Ô Lão Đại, An động chúa… mỗi tên có ba bốn chục năm công phu? Mấy ngày sau đó ta không được uống máu tươi, nên vẫn giữ nguyên mức đứa nhỏ tám chín tuổi. Công cuộc phản lão hoàn đồng cũng như rắn già lột da, mỗi lần thoát xác là một lần lớn lên, nhưng diễn biến đang dở dang mà bị người bắt được thì nguy hiểm vô cùng. Giả tỉ ta không được uống máu tươi thêm mấy ngày nữa, thì không tài nào luyện nội công được, chân khí trong người bành trướng lên rồi phát tác ra, điên khùng mà chết. Ta nói là ngươi đã cứu sống ta, chẳng phải là nói ngoa đâu.”
Hư Trúc lại hỏi: “Hiện giờ thí chủ đã phục hồi công lực lại bằng người mười một tuổi. Như vậy, muốn tới mức chín mươi sáu tuổi thì còn đến tám mươi lăm ngày nữa, vậy phải giết tám mươi lăm con hươu hay dê nữa hay sao?”
Thiên Sơn Đồng Mô mỉm cười đáp: “Tiểu hòa Thượng đã biết tính toán, thông minh hơn một chút. Tám mươi lăm ngày sắp tới, ta còn phải trải qua bao nhiêu gian nguy. Bọn Bất Bình đạo nhân, Ô Lão Đại chỉ là hàng chuột nhắt chẳng có chi đáng kể. Nhưng nếu đại địch biết tin này mà đến đây thì một mình ta khó lòng chống nổi, phải có ngươi hộ vệ mới được.”
Hư Trúc nói: “Võ công tiểu tăng kém cỏi, không bõ làm trò cười cho tiền bối. Tiền bối còn chưa đối phó được cường địch thì dĩ nhiên tiểu tăng chả làm gì được. Theo tiểu tăng thì tiền bối nên lánh xa đi, trốn được tám mươi lăm ngày thì công lực hoàn toàn phục hồi như cũ, chẳng phải sợ gì ai nữa.”
Thiên Sơn Đồng Mỗ nói: “Võ công ngươi tuy thấp kém, nhưng được Vô Nhai Tử đem công lực toàn thân trút sang, nội lực hiếm có trên đời. Nếu ngươi biết cách phát huy ra để vận dụng thì có thể đối phó được với cừu nhân của ta. Bây giờ chúng ta phải hợp lực giúp nhau, ta truyền cho ngươi những môn võ công tinh vi ảo diệu, người dùng võ công đó chống địch hộ vệ cho ta. Thế là hai bên cùng có lợi.” Mụ không chờ Hư Trúc ưng thuận, đã nói tiếp: “Ngươi tỉ như con nhà đại tài chủ, được tổ tiên để lại cho gia tài kếch sù, tiền bạc thừa thãi. Bây giờ ngươi không cần phải góp nhặt tiền tài mà chỉ cần đem ra xài phí. Tích tụ tiền tài mới là việc khó, còn vung tiền ra tiêu xài thì dễ ợt. Ngươi chỉ luyện một tháng là khá, luyện hai tháng thì có thể tạm chống đối được với cừu nhân của ta. Đầu tiên thì người phải học thuộc khẩu quyết. Câu đầu là: Pháp thiên thuận tự nhiên…”
Hư Trúc xua tay lia lịa nói: “Tiền bối! Tiểu tăng là đệ tử chùa Thiếu Lâm. Công phu của tiền bối tuy thần diệu vô song, nhưng tiểu tăng quyết không thể học được. Xin tiền bối miễn thứ cho.” Thiên Sơn Đồng Mỗ nổi giận nói: “Công phu phái Thiếu Lâm của ngươi đã bị Vô Nhai Tử hóa giải hết còn đâu, sao ngươi cứ nói hoài là đệ tử phái Thiếu Lâm?” Hư Trúc nói: “Tiểu tăng sẽ quay về phái Thiếu Lâm luyện lại từ đầu.” Thiên Sơn Đồng Mỗ tức giận nói: “Ngươi khinh ta là bàng môn tả đạo nên không thèm học phải không?” Hư Trúc đáp: “Đệ tử nhà Phật lấy từ bi làm căn bản, lấy phổ độ chúng sinh làm tâm nguyện, cốt sao cho minh tri kiến tính. Còn luyện võ công được cao thâm thì cũng là hay, mà luyện chẳng tới đâu thì cũng không trở ngại gì đến việc tu thành chánh quả. Kẻ tu hành không thể chuyên tâm luyện võ mà xao lãng việc chính yếu là tu tâm dưỡng tính.”
Đồng Mỗ thấy mắt nhà sư nhìn xuống đất, nghiễm nhiên có khí tượng một vị cao tăng bé nhỏ thì nghĩ rằng y thật là cứng cổ, không biết phải làm sao. Mụ trầm ngâm giây lát, rồi nghĩ ra một kế, lớn tiếng gọi: “Ô Lão Đại! Ngươi lập tức đi bắt hai con hươu đem về đây, để ta ăn thịt.”
Lão Đại đang ở ngoài xa mà công lực Đồng Mỗ chưa đủ, thanh âm mụ không truyền ra xa được. Mụ gọi tới ba lần mà Ô Lão Đại vẫn chưa nghe thấy.
Hư Trúc thất kinh nói: “Sao lại phải giết hươu? Hôm nay tiền bối uống máu tươi rồi mà?” Đồng Mỗ cười đáp: “Đây là ngươi bức bách ta phải sát sinh, sao lại còn hỏi nhiều?” Hư Trúc lấy làm lạ hỏi: “Tiểu tăng… tiểu tăng bức bách tiền bối sát sinh bao giờ?” Đồng Mỗ đáp: “Ngươi không chịu giúp ta kháng cự cường địch, ắt ta phải bị hành hạ cho đến chết. Ngươi thử nghĩ coi trong lòng ta phiền não hay không?” Hư Trúc gật đầu nói: “Tiền bối nói cũng có lý. Oán Tăng Hội là một trong bảy nỗi khổ của kiếp người, tiền bối muốn thoát khỏi thì phải bỏ hết sân si.” Đồng Mỗ cười khẩy: “Hừ hừ, ngươi lại muốn giảng đạo cho ta ư? Bây giờ thì không kịp rồi. Nỗi oán hận này không biết phát tiết vào đâu, ta đành giết dê giết hươu, sát sinh cho hả dạ.” Hư Trúc chắp tay để trước ngực nói: “A Di Đà Phật! Tội lỗi, tội lỗi! Tiền bối ơi! Những con hươu con dê đó thật là tội nghiệp, tiền bối nên tha mạng cho chúng mới phải.”
Đồng Mỗ cười nhạt đáp: “Chính mạng ta cũng sắp nguy đến nơi, chẳng cần nghĩ gì đến sinh vật nữa.” Rồi mụ lại cố cao giọng hô lên: “Ô Lão Đại! Ngươi mau đi bắt hươu sao về cho ta!” Lần này Ô Lão Đại lên tiếng trả lời.
Hư Trúc hoảng hốt, không biết phải làm sao. Nếu y bỏ đi thì mang tiếng là áp bức mụ phải sát sinh, không biết còn bao nhiêu hươu nai sẽ bị chết oan uổng vào tay Đồng Mỗ. Nếu y lưu lại học võ công của mụ thì cũng không ổn chút nào.
Bản lãnh bắt hươu nai của Ô Lão Đại thật ít người bì kịp, chẳng mấy chốc hắn đã nắm sừng lôi một con hươu về. Thiên Sơn Đồng Mỗ lạnh lùng nói: “Hôm nay ta đã uống máu hươu rồi, ngươi cầm dao chém chết con hươu này đi rồi quẳng xuống núi.” Hư Trúc vội nói: “Khoan đã! Khoan đã!…” Thiên Sơn Đồng Mỗ ngắt lời: “Nếu ngươi tuân lời ta thì ta không giết con hươu này. Nếu ngươi bỏ ta mà đi thì mỗi ngày ta phải giết chục con. Giết nhiều giết ít là tùy ở ngươi. Phật tổ vì phổ độ chúng sinh đã tuyên bố: “Nếu ta không vào địa ngục thì còn ai vào nữa?” Ngươi phục vụ ta mấy ngày, kể ra cũng chưa khổ đến mức vào địa ngục, thế mà ngươi nhẫn tâm khiến cho đàn hươu phải chết oan. Như vậy thì còn đâu là lòng dạ từ bi của đệ tử nhà Phật?” Nhà sư run rẩy đáp: “Tiền bối nói đúng lắm! Xin buông tha con hươu này, Hư Trúc xin tuân lời tiền bối.” Đồng Mỗ cả mừng quay lại bảo Ô Lão Đại: “Ngươi thả con hươu đó, rồi biến ra xa di.”
Đồng Mỗ chờ cho Ô Lão Đại đi xa, rồi bắt đầu truyền khẩu quyết về phép vận dụng chân khí trong người. Mụ là sư tỉ Vô Nhai Tử, đường lối võ công giống hệt. Về nội lực thì Hư Trúc cũng là đồng môn của mụ nên tiến bộ rất mau.
Hôm sau đến giờ Ngọ, Đồng Mỗ lại luyện môn Bát Hoang Lục Hạp Duy Ngã Độc Tôn, cũng cắn cổ hươu để hút máu tươi. Nhưng lần này mụ lấy thuốc xịt vào vết thương cho nó, rồi thả cho đi. Đoạn mụ quay lại bảo Ô Lão Đại: “Vị tiểu sư phụ đây không muốn thấy người ta sát sinh. Vậy từ nay trở đi, mỗ mỗ không cho ngươi ăn thịt hươu nữa, phải dùng trái tùng làm bữa. Nếu ngươi còn ăn thịt hươu, thịt dê, hừ, mỗ mỗ sẽ giết ngươi để báo thù cho chúng.”
Lão Đại vâng dạ luôn mồm, nhưng rủa thầm đến ông tổ mười chín hai mươi đời nhà Hư Trúc. Hắn thấy Đồng Mỗ có vẻ lịch sự với Hư Trúc, nên nghĩ tới cái đau khổ vì Đoạn Cân Hủ Cốt Hoàn mà không dám vô lễ ra miệng với nhà sư nữa.
Lại thêm mấy ngày, Hư Trúc thấy Đồng Mỗ không giết hại hươu dê mà Ô Lão Đại cũng không ăn nói hỗn láo như trước, thì mừng thầm nghĩ: “Người ta thủ tín với mình, có lý đâu mình chẳng tận tâm tận lực với người ta?” Bởi thế mà nhà sư ráng sức tập luyện võ công, không dám chểnh mảng chút nào. Dung mạo Thiên Sơn Đồng Mỗ mỗi ngày một biến đổi, mới trong bốn năm ngày đã từ cô bé mười một mười hai biến thành thiếu nữ mười sáu mười bảy tuổi. Có điều thân hình mụ vẫn thấp bé y nguyên. Một hôm sau giờ ngọ, Đồng Mỗ luyện xong môn Bát Hoang Lục Hạp Duy Ngã Độc Tôn rồi quay lại bảo Hư Trúc cùng Ô Lão Đại: “Chúng ta ở chỗ này đã lâu rồi, chắc là bọn yêu ma sắp tìm đến nơi. Tiểu hòa thượng! Ngươi cõng ta lên đỉnh núi, xách cả Ô Lão Đại đi theo, đừng để dấu vết gì trên mặt tuyết.”
Hư Trúc “Vâng” một tiếng, đưa tay toan ẵm Đồng Mỗ thì bỗng thấy mụ dung nhan xinh đẹp, khóe mắt long lanh, thực là một vị cô nương nguyệt thẹn hoa nhường. Nhà sư kinh hãi vội rút tay về, ấp úng nói: “Tiểu… tiểu tăng không dám mạo phạm.” Đồng Mỗ ngạc nhiên hỏi: “Ngươi nói mạo phạm cái gì?” Hư Trúc đáp: “Tiền bối đã trở thành một vị đại cô nương đang độ xuân thì, không phải là tiểu cô nương nữa. Nam… nam nữ thọ thọ bất thân, người xuất gia lại càng phải giữ gìn.”
Đồng Mỗ cười hì hì, vẻ mặt xinh tươi, hai má đỏ bừng, liếc mắt mỉm cười nói: “Tiểu hòa thượng lại nói chuyện hồ đồ rồi! Mỗ mỗ là một bà cụ chín mươi sáu tuổi, ngươi có cõng lên lưng cũng chẳng can hệ gì.” Mụ nói xong, toan nằm phục trên lưng Hư Trúc. Hư Trúc cả kinh nói: “Không được! Không được!”, rồi co cẳng chạy liền. Đồng Mỗ thi triển khinh công đuổi theo.
Lúc này Hư Trúc đã luyện Bắc Minh Chân Khí đến ba bốn thành, còn Đồng Mỗ mới phục hồi công lực bằng hồi mười tám tuổi, nên khinh công còn kém xa y. Hư Trúc mới vọt đi mấy cái đã bỏ mụ khá xa. Đồng Mỗ la lên: “Quay lại đã!” Hư Trúc dừng chân nói: “Để tiểu tăng nắm tay tiền bối nhảy lên ngọn cây!” Đồng Mỗ tức mình nói: “Ngươi cực kỳ hủ lậu, chẳng linh mẫn chút nào! Kiếp này ngươi tập luyện võ công thượng thừa khó mà thành được, khó mà thành được!”
Hư Trúc chưng hửng, nghĩ thầm: “Kinh Kim Cang có nói: Cái gì có tướng, tức là hư vọng. Tiểu cô nương hay đại cô nương thì cũng là hư vọng. Như Lai có nói: Thân người khi lớn lên, tuy không phải là thân lớn, nhưng gọi là thân lớn. Nếu vậy thì có thể nói: Đại cô nương cũng không phải là đại cô nương, chỉ là gọi bằng đại cô nương mà thôi.”. Y cứ nghĩ tới nghĩ lui không dứt khoát.
Đột nhiên mắt Hư Trúc hoa lên, một bóng trắng như có như không, từ đâu vọt lại trước mặt Đồng Mỗ. Thì ra đó là một người toàn thân mặc y phục trắng, lẫn vào màu tuyết thành ra chỉ thấy lờ mờ không rõ.