Hồi 33: Đẩu Chuyển Tinh Di, trấn áp hồ quần cẩu đảng
Mộ Dung Phục đưa tay vẫy Đinh Xuân Thu, lên tiếng: “Tiền bối! Thì ra cõi nhân sinh chẳng rộng lớn gì. Chúng ta vừa mới chia tay, bây giờ lại gặp nhau rồi.” Đinh Xuân Thu cười đáp: “Lão phu thật là có duyên với công tử.” Lão lại nghĩ: “Ta đã đả thương mấy tên đại tướng dưới tay hắn, hôm nay trong kỳ hội lại suýt lấy được cái mạng nhỏ xíu của hắn, làm sao hắn bỏ qua ta được? Nghe đồn võ công nhà Mộ Dung ở Cô Tô uyên bác siêu quần, võ lâm không ngớt ca tụng môn Gậy ông đập lưng ông của nhà gã rất nhiều, chắc không phải là vô lý. Lúc hắn ném quân cờ đã thi triển công phu ném ám khí đến mức tuyệt diệu. Nhưng lúc hắn ngẩn ra nhìn cuộc cờ, người khác mà không kịp cứu thì ta đã thừa cơ trừ khử rồi. Thế thì thằng lỏi này võ công tuy cao, nhưng chưa chắc đã hiểu các pháp thuật khác.” Lão quay sang bảo A Tử: “Ngươi bảo giả tỉ ta phế bỏ công lực, cắt gân bứt mạch, hoặc chặt chân tay của ngươi, thì ngươi thà chết lập tức chứ không cũng chịu nói ra cái đó ở đâu. Có phải thế không?”
A Tử sợ tái mặt, run run đáp: “Sư phụ đại lượng, chẳng nên.., chẳng nên lưu tâm mấy câu hồ đồ loạn ngữ của đệ tử làm gì.” Mộ Dung Phục cười nói: “Đinh tiên sinh! Niên kỷ tiên sinh cũng đã cao rồi, chấp nhặt với đứa con nít làm chi? Lại đây, lại đây, chúng ta cạn ba chén rượu rồi đàm văn luận võ có phải hơn không? Trước mặt người ngoài mà đem việc trong môn hộ ra thanh toán, thì coi sao tiện?”.
Đinh Xuân Thu chưa trả lời, một tên đệ tử phái Tinh Tú đã nổi giận quát lên: “Thằng lỏi này không biết trên biết dưới. Sư phụ ta là bậc võ lâm chí tôn, sao lại thèm đàm văn luận võ với tiểu tử hậu sinh như ngươi được? Ngươi có tư cách gì mà đòi đàm luận với sư phụ của ta?”.
Lại có tên hùa theo: “Nếu ngươi muốn thỉnh giáo sư phụ ta thì phải biết kính cẩn dập đầu, may ra Tinh Tú lão tiên thương yêu kẻ hậu bối mà chỉ điểm cho một hai điều. Mi dám mở miệng đòi đàm văn luận võ với Tinh Tú Lão Tiên thì người ta phải cười mi đến trẹo quai hàm. Ha ha!” Gã cười hai tiếng, vẻ mặt đột nhiên hơi sượng lại, sau một lúc gã lại cười mấy tiếng khô khan, rồi há hốc miệng ra mà không nói gì nữa, nhưng vẻ mặt vẫn cười cợt một cách bí hiểm.
Bọn đệ tử phái Tinh Tú biết bạn đồng môn trúng phải Tam Tiếu Tiêu Dao Tán tắt hơi rồi, đều không khỏi kinh sợ mà im bặt, cúi đầu xuống không dám nhìn sư phụ nữa. Bọn chúng tự hỏi: “Không hiểu gã này lỡ miệng xúc phạm chỗ nào mà sư phụ bực tức đến mức hạ thủ giết y?”
Còn Đinh Xuân Thu thì vừa tức giận vừa sợ hãi. Lão vừa đối thoại với A Tử vừa khẽ phẩy tay áo, ngấm ngầm vận nội lực tung Tam Tiếu Tiêu Dao Tán vào Mộ Dung Phục. Thứ phấn độc này không hương không sắc, lại cực kỳ mịn hạt không tài nào nhìn rõ được, lão tin chắc võ công Mộ Dung Phục cao đến đâu cũng không thể phát giác ra. Nào ngờ Mộ Dung Phục dùng thủ đoạn gì không hiểu, hất Tam Tiếu Tiêu Dao Tán vào người gã kia, chết mất một gã đệ tử chẳng có gì đáng tiếc, nhưng Mộ Dung Phục đang cười cười nói nói, chẳng giơ tay nhấc chân gì mà hất được phấn độc qua người khác, thì công lực này quả là phi thường quá sức tưởng tượng. Đinh Xuân Thu là người kiến văn quảng bác, nhớ ngay đến thủ pháp “gậy ông đập lưng ông” vốn là sở trường của Mộ Dung Phục. Thủ pháp này tương tự như thủ pháp chụp ám khí để phóng lại, bây giờ gã lại đón lấy phấn độc để tung ra. Nhưng phấn độc nhỏ li ti vô hình vô sắc mà sao không có chút nào dính vào người, lại bị gã hất hết ra ngoài được?
Đinh Xuân Thu lại nghĩ: “Tam Tiếu Tiêu Dao Tán do mình phóng ra, sao gã dùng thủ pháp gây ông đập lưng ông mà không hất trở về mình? Hừ! Chắc là thằng lỏi con này úy kỵ lão tiên nên không dám vuốt râu hùm.” Lão nghĩ đến ba chữ “vuốt râu hùm”, bèn đưa tay lên vuốt thì chỉ thấy bảy tám sợi râu bị cháy dở chỉ còn ngắn chùn ngũn. Trong lòng lão không lấy thế làm buồn mà lại mừng thầm, lẩm bẩm: “Tô Tinh Hà cùng với tên sư già Huyền Nạn nội lực cao thâm khó lường, rút cục vẫn chết về tay lão tiên, thì thằng lỏi Mộ Dung Phục miệng còn hôi sữa có chi đáng kể?” Đinh Xuân Thu bèn nói: “Mộ Dung công tử, chúng ta thật là có duyên với nhau. Lại đây, lại đây! Để ta mời công tử chén rượu.” Nói xong lão búng ngón tay một cái, chén rượu trước mặt lão bay sang bàn Mộ Dung Phục, không rớt ra ngoài nửa giọt.
Bình thời thì bọn đệ tử đã thi nhau tán tụng, nhưng vừa rồi một gã đồng môn mới nói mấy câu đã bị thảm tử, nên chúng sợ hãi quá, chẳng ai dám mở miệng nói nhiều để lộ chỗ sơ hở. Song ít ra cũng phải reo lên một tiếng tán thưởng, nếu không tất bị sư phụ hành hạ thảm khốc, Chén rượu vừa đáp xuống trước mặt Mộ Dung Phục, bọn đệ tử đồng thanh hô một tiếng: “Tuyệt diệu!” như sấm vang. Trong bọn đệ tử có ba tên đặc biệt nhát gan không dám hoan hô, khi thấy bọn đồng môn reo hò, mới sực nhớ ra mình chưa lên tiếng. Ba tên này vội kêu lên “tuyệt diệu!” nhưng đã chậm mất một chút, nghe có vẻ không nghiêm chỉnh, chúng thấy bọn đồng môn liếc mắt quở trách thì vừa hổ thẹn vừa sợ hãi vô cùng.
Mộ Dung Phục nói: “Chén rượu này của Đinh tiên sinh, vãn bối xin chuyển sang mời lệnh cao đồ!” Nói xong gã thổi phù một cái, chén rượu lại bay đến trước mặt một tên đệ tử phái Tinh Tú ngồi bên trái.
Một bên búng ngón tay vào chén rượu, một bên lấy hơi thổi chén rượu bay đi, thật ra cũng chưa thể phân biệt được nội lực hơn kém. Nhưng nhìn qua thì ai cũng có cảm tưởng như thủ pháp của Mộ Dung Phục xảo diệu hơn, mà nội lực cũng mạnh hơn Đinh Xuân Thu.
Gã đệ tử phái Tinh Tú thấy chén rượu bay đến trước mặt, hốt hoảng không kịp suy nghĩ, bất giác đưa tay trái ra đón lấy mà nói: “Sư phụ mời công tử mà!” Gã định dùng chưởng lực đẩy chén rượu lại Mộ Dung Phục, thì đột nhiên rú lên một tiếng thê thảm, ngã ngửa ra sau rồi không nhúc nhích gì nữa. Bọn đệ tử hiểu ngay lúc sư phụ búng chén rượu đã để thuốc kịch độc bám quanh cái chén. Mộ Dung Phục bất tất phải uống rượu, chỉ cần cầm đến chén cũng đủ mất mạng như gã đệ tử này rồi.
Đinh Xuân Thu biến sắc mặt, căm giận vô cùng. Lão biết rằng lần này không che mắt được bọn đệ tử, chúng đều biết mình dùng phấn độc ám hại Mộ Dung Phục, lại bị gã trả miếng làm mất mạng đệ tử phái Tinh Tú. Lão dùng cả hai tay nâng một chén rượu khác, từ từ đứng lên nói: “Mộ Dung công tử! Lão phu mời công tử một chén, đừng từ chối mà bẽ mặt lão phu!” Lão vừa nói vừa đi tới phía Mộ Dung Phục.
Mộ Dung Phục thấy trong chén rượu trắng có ẩn sắc xanh, rõ ràng có pha thuốc kịch độc. Đinh Xuân Thu đi tới chỉ còn cách một cái bàn, Mộ Dung Phục liền vận nội công hít mạnh một hơi. Rượu trong chén Đinh Xuân Thu đang cầm đột nhiên bay lên thành một sợi dây nước xanh lè.
Đinh Xuân Thu kêu thầm: “Lợi hại quá!”, biết đối phương hít mạnh cho rượu vọt lên, rồi sẽ thổi ra để rượu bắn về phía mình. Tuy lão không sợ rượu độc, nhưng để khắp người rượu ướt đầm đìa thì thật khó coi, bèn vận nội lực nhắm vào dây rượu thổi mạnh trước. Tia rượu bay đến cách mũi Mộ Dung Phục nửa thước, đột nhiên chuyển hướng sang trái, lượn vòng qua sau gáy y rồi bay vào đến miệng một tên đệ tử phái Tinh Tú.
Gã này đang há miệng sắp hoan hô, chữ “Tuyệt diệu” chưa kịp thốt ra thì tia rượu độc đã bắn vào miệng gã rồi chui xuống bụng. Đầu óc gã còn chậm chạp hơn tia rượu, không kịp nghĩ vẫn hô: “Tuyệt diệu!”, rồi mới giật mình kêu lên: “Chết rồi!” Gã ngã gục ngay xuống đất, trong chớp mắt mặt đã sạm đen lại, mất mạng tức khắc. Mộ Dung Phục thấy thuốc độc ghê gớm như vậy không khỏi rùng mình nghĩ thầm: “Ta bôn tẩu giang hồ bấy lâu, chưa thấy chất độc nào ghê gớm đến thế.”
Hai người tỉ đấu chưa xong, nhưng phái Tinh Tú đã chết mất ba tên đệ tử, như vậy rõ ràng Đinh Xuân Thu lép vế.
Đinh Xuân Thu cả giận, đặt chén rượu xuống bàn rồi phóng chưởng ra. Mộ Dung Phục từng nghe tiếng Hóa Công Đại Pháp, gia tâm đề phòng rất cẩn thận. Đinh Xuân Thu phóng veo véo luôn ba chưởng, Mộ Dung Phục đều dùng thân pháp để né tránh, không để cho tay lão chạm vào.
Trong phạn điếm nhỏ bé bàn ghế ngổn ngang, lối đi chật hẹp, mà hai người tiến thoái không một tiếng động. Hai bên xuất chiêu nhanh như chớp nhưng quyền chưởng không hề chạm nhau, bàn ghế cũng không bị xô đẩy chút nào.
Bọn đệ tử phái Tinh Tú chỉ biết sợ hãi đứng sát vào tường, không ai dám trốn ra ngoài vì sợ phạm tội đại bất trung, sau này tất bị sư phụ nghiêm trị. Chúng biết rõ tình thế nguy hiểm vô cùng, chỉ chạm phải một chút chưởng phong là có thể nguy hại đến tính mạng, tên nào cũng cố ép người mỏng như tờ giấy dán vào tường. Mộ Dung Phục thủ nhiều công ít, tuy chưởng pháp tinh thục nhưng không dám đối chưởng với Đinh Xuân Thu, thành ra bị trói chân trói tay ở thế hạ phong.
Tinh Tú Lão Quái vừa trao đổi mấy chiêu, thấy Mộ Dung Phục không dám đối chưởng, biết ngay gã sợ Hóa Công Đại Pháp, lão liền nảy ra ý định tỉ thí nội lực. Nhưng Mộ Dung Phục thân pháp kỳ ảo, chiêu thức vừa mau lẹ vừa khó đoán được phương hướng, lão muốn đối chưởng cũng không phải chuyện dễ. Một lúc sau Đinh Xuân Thu nảy ra một kế, dùng hữu chưởng đánh như gió bão để uy hiếp đối phương, giả vờ sử dụng tay trái không được tinh nhuệ, lại còn cố ý giấu giếm sợ đối phương khám phá ra.
Nhãn quan Mộ Dung Phục sắc bén vô cùng, nhìn ra ngay đối phương có nhược điểm. Gã lạng người đi nửa vòng, rồi đột nhiên phóng hai chưởng mãnh liệt nhằm đánh vào sườn trái Đinh Xuân Thu. Đinh Xuân Thu khẽ kêu lên một tiếng, lùi lại tránh né, tựa như không dám đưa tay trái ra đón đỡ. Mộ Dung Phục cả mừng nghĩ thầm: “Chắc hẳn lão quái này đã bị nội thương gì ở nửa người bên trái.” Gã bèn giả vờ tấn công dữ dội vào bên phải, chờ bên trái đối phương lộ sơ hở mới dùng hết sức đánh một chiêu.
Hai bên đấu hơn hai chục chiêu nữa, Đinh Xuân Thu rút tay trái về giấu trong tay áo, hữu chưởng biến thành trảo chụp xuống Mộ Dung Phục. Gã bèn nghiêng người lách qua, phóng quyền đánh thẳng vào sườn trái. Đinh Xuân Thu chỉ chờ có vậy, bèn phất tay áo bên trái nghe vù vù để cuốn lấy tay phải đối phương.
Mộ Dung Phục nghĩ thầm: “Tụ phong của ngươi có lợi hại gấp mười cũng đừng hòng đả thương nổi ta.” Gã không chịu thu quyền về, lại vận thêm kình lực vào cánh tay để đón lấy tụ phong của đối phương. Nghe “soạt” một tiếng, tay áo bên phải Mộ Dung Phục bị rách toạc một miếng, gã giật mình, lại gia tăng kình lực cho phát quyền hung hãn hơn, đột nhiên đầu quyền bị bàn tay Đinh Xuân Thu nắm lấy.
Chiêu thức này vượt ngoài dự liệu của Mộ Dung Phục. Y kinh hãi nghĩ thầm: “Thì ra lão quái này giả vờ bị thương nửa người bên trái là kế dụ địch, ta mắc bẫy rồi.” Rồi gã hối hận nghĩ: “Mình tự cao quá, coi Tinh Tủ Lão Quái vang danh thiên hạ không vào đâu. Quân tử báo thù mười năm chưa muộn, hà tất ta phải căm giận nhất thời, chưa tính toán kỹ đã mạo hiểm khiêu chiến với lão.” Mộ Dung Phục không còn đường rút lui nữa, liền huy động nội lực toàn thân phóng ra đầu quyền. Nhưng nội kình gã xuất ra chỉ như cục đá chìm xuống biển, không hiểu mất đi đâu hết. Mộ Dung Phục kêu thầm một tiếng: “Ôi chao!” Lúc gã đến gây sự với Đinh Xuân Thu đã định bụng không để Hóa Công Đại Pháp của lão chạm được vào mình, nhưng cuối cùng lại không tránh khỏi. Lúc này Mộ Dung Phục tiến thoái lưỡng nan, nếu tiếp tục vận nội kình để kháng cự, thì nội lực cứ bị hóa tán dần đi, chỉ trong khoảnh khắc là mất hết công lực biến thành phế nhân. Gã cũng không dám dùng thủ pháp Bảo Nguyên Thủ Nhất rút nội lực về, vì Đinh Xuân Thu nổi tiếng dụng độc ghê gớm, không chừng thuốc độc của lão có thể theo đường chân khí rút về mà chui vào nội thể, rồi xâm nhập đến tạng phủ.
Lúc này Mộ Dung Phục nghĩ không ra phương kế gì nữa, tình trạng vô cùng nguy ngập. Bỗng sau lưng gã có người lớn tiếng nói: “Sư phụ bày mưu xảo diệu vô cùng, hãm tên tiểu tử này vào tuyệt địa.” Mộ Dung Phục lùi lại hai bước, không quay đầu lại, chỉ nghe tiếng nói mà xoay tay trái nắm trúng ngực tên đệ tử phái Tinh Tú đang ngoác mồm nịnh hót.
Nhà Cô Tô Mộ Dung có phép cầm nã tuyệt diệu gọi là Đẩu Chuyển Tinh Di, cũng là một kỹ thuật mượn sức người để đánh người. Người ngoài không biết rõ, cứ tưởng nhà Mộ Dung hiểu biết sâu xa tuyệt kỹ của các môn phái khắp thiên hạ, không sót một môn nào, do đó mới có chủ trương “Gậy ông đập lưng ông”, muốn hạ sát ai thì dùng chính môn tuyệt kỹ thành danh của người đó. Thực ra trong võ lâm có tới hàng ngàn hàng vạn môn tuyệt kỹ, cho dù nhà Mộ Dung có thông minh đến đâu cũng không học hết được, mà đã gọi là tuyệt kỹ thì cũng không phải luyện trong một sớm một chiều mà thành. Đúng ra nhà Mộ Dung chỉ có thuật Đẩu Chuyển Tinh Di là xảo diệu, chuyển phương hướng chiêu thức của đối phương phản kích vào chính người đã ra chiêu.
Người quen dùng Tỏa Hầu Thương, thì nhân vật nhà Mộ Dung sẽ dùng thuật Đẩu Chuyển Tinh Di kéo mũi thương quay trở lại tự đâm vào cổ. Người nào giỏi về Đoạn Tí Đao thì đi đến kết quả tự chém đứt cánh tay mình. Chưa ai tận mắt trông thấy nhà Mộ Dung thi triển môn Đẩu Chuyển Tinh Di, chỉ thấy cũng binh khí ấy, cũng chiêu thức ấy, nên không đoán được là chính người đó mất mạng về chiêu thức của mình, thực ra là tự sát. Người nào võ công càng cao thâm, thì cái chết lại càng ly kỳ. Trước nay nhà Mộ Dung ở Cô Tô nếu không lấy một chọi một, hay không chắc thắng đối phương cả trăm phần trăm thì không bao giờ dùng đến thuật Đẩu Chuyển Tinh Di, nên tiếng tăm vang lừng khắp giang hồ mà không ai hiểu được đạo lý bên trong.
Dùng thuật Đẩu Chuyển Tinh Di để di chuyển phương hướng những vật hữu hình như khí giới quyền cước thì còn dễ, chứ di chuyển những thứ vô hình như nội lực, khí công thì khó vô cùng. Mộ Dung Phục luyện thuật này chưa đạt đến mức tinh vi, gặp phải Đinh Xuân Thu là cao thủ bậc nhất, gã tự biết không thể dùng phép Đẩu Chuyển Tinh Di để lại chính đối phương được. Vì thế mấy lần chàng thi triển thuật Đẩu Chuyển Tinh Di chỉ di chuyển sang người thứ ba, kẻ lãnh nạn là đệ tử phái Tinh Tú. Đinh Xuân Thu dùng Tam Tiếu Tiêu Dao Tán, quăng chén để rải phấn độc và thổi tia rượu độc, Mộ Dung Phục đều kiếm được kẻ chết thay cho mình một cách dễ dàng.
Bây giờ Đinh Xuân Thu dùng Hóa Công Đại Pháp, Mộ Dung Phục không biết làm gì nữa, nghe thấy một tên đệ tử phái Tinh Tú há miệng tung hô sư phụ ở ngay sau lưng, trong lúc cấp bách gã cũng không nghĩ kỹ, liền nắm ngay lấy tên này để thay thế cho mình, không ngờ cuộc mạo hiểm này hiệu quả vô cùng. Bản ý Tinh Tú Lão Quái là hóa giải công lực của Mộ Dung Phục, ngờ đâu đệ tử bản môn lãnh nạn.
Mộ Dung Phục thí nghiệm thành công, chẳng khác nào được cải tử hoàn sinh. Y quyết không để Đinh Xuân Thu kịp suy nghĩ, liền đẩy tên đệ tử này cho chạm vào người một tên đệ tử khác. Tên đệ tử thứ hai cũng bị Hóa Công Đại Pháp của Đinh Xuân Thu hóa giải mất công lực.
Đinh Xuân Thu thấy Mộ Dung Phục mượn gió bẻ măng, làm hại đệ tử của mình thì căm hận vô cùng. Nhưng lão lại nghĩ: “Nếu mình muốn giữ mạng cho mấy tên đệ tử vô dụng này mà thả hắn ra thì không biết bao giờ mới gặp được cơ hội. Thằng lỏi này mà chạy thoát thì mình mất năm tên đệ tử để chỉ xé được nửa cái tay áo của hắn, thế là phái Tinh Tú đại bại rồi. Tinh Tú Lão Tiên còn mặt mũi nào mà diễu võ dương oai ở Trung Nguyên nữa?” Lão bèn quyết định không buông đầu quyền của Mộ Dung Phục ra.
Mộ Dung Phục lại lùi mấy bước, dính tên đệ tử này vào tên đệ tử khác cho Đinh Xuân Thu hóa giải công lực. Chỉ trong khoảnh khắc ba tên đệ tử phái Tinh Tú đã kiệt quệ chân khí như bị ma cà rồng hút máu, thân thể khô kiệt dính vào với nhau không sao gỡ ra được. Đám đệ tử còn lại cả kinh, thấy Mộ Dung Phục lùi dần về phía mình, đều thất thanh la hoảng.
Mộ Dung Phục rung tay một cái, chuỗi ba tên đệ tử phái Tinh Tú bị hất tung lên, lại trúng vào một tên khác. Tên này đang hô hoán chưa kịp ngậm miệng lại thì người đã mềm nhũn ra. Thế là bốn người dính liền nhau như một xâu cá.
Bọn đệ tử phái Tinh Tú chưa bị dính vào đều chỉ mong Đinh Xuân Thu buông tha Mộ Dung Phục. Đinh Xuân Thu thi triển Hóa Công Đại Pháp thần kinh quỷ khốc, đều bị gã mượn sức người để hại người, hóa tán công lực của đệ tử phái Tinh Tú. Những tên còn ở ngoài chỉ lo đến lượt mình dính vào, nhưng chúng không dám phóng ra cửa, chỉ chạy lui chạy tới quanh quẩn bên trong phạn điếm, cố né tránh để khỏi mắc độc thủ.
Căn phạn điếm này nhỏ hẹp, Mộ Dung Phục cứ vung tay một cái là lại chạm vào một tên đệ tử phái Tinh Tú, trong chớp mắt đã câu được thêm bốn tên, thế là xâu chuỗi dài tới tám người. Bây giờ gã cầm cây “bát tiết côn” vừa lớn vừa dài như vậy, muốn tìm kẻ chết thay cho mình thật dễ như chơi. Lúc này rõ ràng Mộ Dung Phục đang chiếm thượng phong, nhưng y vẫn lo sợ, vì bọn đệ tử phái Tinh Tú tuy nhiều nhưng dùng mãi cũng phải hết, đến lúc Đinh Xuân Thu hóa giải công lực hết thảy bọn chúng rồi, thì tất phải đến lượt mình. Y nghĩ vậy nên lúc nào cũng cố tìm cơ hội thoát khỏi tay Đinh Xuân Thu.
Đinh Xuân Thu thấy bọn môn đồ mình cứ từng tên một dính mãi vào, chẳng khác gì một cành liễu xâu đàn cá. Bấy giờ bọn còn ở ngoài vòng chỉ lo tìm đường né tránh, chẳng tên nào hoan hô Đinh Xuân Thu nữa. Lão vừa thẹn vừa tức, nhất quyết nắm giữ đầu quyền Mộ Dung Phục không buông, nghĩ thầm: “Mất hết lũ đệ tử vô dụng này cũng không sao, rốt cuộc ta hủy được công lực của Mộ Dung Phục là Tinh Tú Lão Tiên thắng Cô Tô Mộ Dung, vụ này sẽ chấn động thiên hạ.” Lão bèn không giận dữ nữa, lại ra vẻ ung dung.
Bọn đệ tử phái Tinh Tú chỉ mong sư phụ ném chuột sợ vỡ đồ, buông tha Mộ Dung Phục để mình khỏi chết oan, bây giờ thấy Đinh Xuân Thu trở lại bộ mặt tiên phong đạo cốt thì biết rằng hết hy vọng rồi. Gã nào cũng la ó rầm trời, nhưng chưa dám chạy trốn, cũng chưa có tên nào dám mở miệng van xin Đinh Xuân Thu thả Mộ Dung Phục ra.
Đinh Xuân Thu liếc mắt nhìn quanh thì trong đám đệ tử chỉ có hai người không lẩn tránh. Một người là Du Thản Chi, đang ngồi ủ rũ trong góc nhà, hai tay ôm lấy cái đầu sắt, nửa như sợ hãi vô cùng, nửa như chán đời không thèm trốn tránh. Còn người kia là A Tử, mặt mày tái mét, ngồi co ro trong góc nhà đối diện.
Đinh Xuân Thu gọi to: “A Tử!” A Tử đang ngơ ngẩn xuất thần, đột nhiên nghe tiếng sư phụ gọi, bèn giật mình nói: “Sư phụ! Sư phụ đại triển thần oai…” Nàng chỉ nói được nửa câu rồi ngượng nghịu gượng cười. Đúng là Đinh Xuân Thu đang thi triển thần oai, nhưng hại toàn là đệ tử mình. A Tử thông minh lanh lợi nhưng lúc này cũng nghĩ không ra lời ca tụng nào cho hợp lý.
Đinh Xuân Thu không làm gì được Mộ Dung Phục đã bực lắm rồi, lại thấy giọng cười của A Tử có vẻ trào phúng, lão nổi điên lên, phất tay áo bên trái cuốn hai chiếc đũa trên bàn phóng vọt tới cặp mắt của A Tử.
A Tử la lên: “Trời ơi!”, vội vàng đưa tay lên gạt đôi đũa nhưng đã chậm một chút, đầu đũa đã trúng vào tròng mắt. Nàng thấy vừa tê vừa ngứa, vội lấy tay áo dụi mắt, lúc mở mắt ra chỉ thấy những đốm trắng nhảy múa. Chốc lát thì những đốm trắng này cũng biến mất, trước mắt nàng chỉ còn một tấm màn đen kịt.
Hồn vía A Tử bay mất hết, bất giác la lên: “Ta.. Mắt của ta… Ta không thấy gì hết.” Bỗng nhiên nàng cảm nhận có một làn gió lạnh buốt thổi qua, rồi một cánh tay choàng ngang hông, có người kéo mình chạy đi. A Tử vẫn kêu gào: “Mắt của ta…”, đột nhiên nghe một tiếng “Bình, sau lưng có hai người đối chưởng. Rồi nàng thấy thân thể bay lên như đằng vân giá vũ, mơ hồ còn nghe tiếng Mộ Dung Phục kêu to: “Thôi thôi, ta đi trước đây! Tinh Tú Lão Quái! Sau này…”
A Tử thấy lạnh buốt tới xương, bên tai nghe tiếng gió vù vù, một người lạnh như băng đang ôm nàng chạy nhanh. Hai hàm răng nàng khua lách cách, rên rỉ: “Lạnh quá… Mắt của ta… Lạnh, lạnh quá!” Người kia nói: “Phải, phải! Chúng ta chạy đến bên kia rừng, Tinh Tú Lão Quái không tìm được đâu.” Miệng gã nói mà chân vẫn chạy không chậm lại chút nào. Một lúc sau A Tử cảm thấy gã dừng lại rồi để nàng xuống, dưới chân có tiếng xào xạc tựa như một đám lá khô. Người đó hỏi: “Cô nương! Mắt của cô ra sao rồi?”
A Tử chỉ thấy hai mắt đau buốt, cố gắng trợn đến rách khóe ra mà vẫn không thấy gì, cả trời đất vũ trụ chỉ như một khối màu đen. Nàng hiểu rằng đôi mắt của mình đã bị độc dược của Đinh Xuân Thu làm cho đui mù, đột nhiên khóc òa lên, vừa khóc vừa la: “Ta… Mắt của ta mù rồi! Ta mù rồi!”
Người kia dịu dàng an ủi: “Không chừng sẽ chữa khỏi.” A Tử cả giận đáp: “Độc dược của Đinh lão quái lợi hại vô cùng, làm sao mà trị được? Ngươi gạt ta! Mắt ta mù rồi! Mắt ta mù rồi!” Nàng càng khóc lớn tiếng. Người kia lại nói: “Bên kia có một khe suối nhỏ, chúng ta qua đó thử xem, không chừng rửa sạch được chất độc dính trong mắt cô nương.” Gã nói xong liền nhẹ nhàng nắm tay A Tử, kéo nàng đứng dậy.
A Tử thấy tay người đó lạnh buốt, bất giác rụt tay lại, gã liền buông ra. A Tử bước được hai bước, vấp một cái suýt ngã. Gã khẽ la lên: “Cẩn thận!”, rồi lại nắm lấy tay nàng. A Tử không rút về nữa, để gã nắm tay dẫn đi. Gã nói: “Cô nương đừng sợ, đến cạnh khe suối rồi đó.”
A Tử quì xuống, dùng hai tay vốc nước lên rửa mặt. Nước suối mát rượi, nàng thấy cơn đau mắt từ từ dịu đi, nhưng trời đất vẫn tối đen, trước mắt không thấy chút ánh sáng nào. Nàng vừa tuyệt vọng, vừa thương tâm, vừa phẫn nộ, vừa không thấy ai giúp mình được. Rất nhiều cảm giác cùng ùa đến, nàng ngồi bệt xuống đất, khóc òa, giẫm chân liên hồi, nấc lên: “Ngươi gạt ta! Ngươi gạt ta! Mắt ta mù rồi! Mắt ta mù rồi!”
Người kia nói: “Cô nương đừng đau buồn quá. Tại hạ không rời cô nương đâu, cô nương cứ yên tâm đi.” A Tử cảm thấy được an ủi, bèn hỏi: “Ngươi… ngươi là ai?” Người đó đáp: “Tại hạ… tại hạ là…” A Tử lại nói: “Thật là không phải, xin lỗi nhé. Đa tạ các hạ đã ra tay cứu mạng, xin hỏi tôn tính đại danh là gì?” Người đó ấp úng đáp: “Tại hạ… Tại hạ… Cô nương không biết tại hạ đâu.” A Tử đáp: “Ngay cả tên họ ngươi cũng không nói ra, lại còn nói dối là không rời ta nữa ư? Mắt của ta mù rồi, ta… ta chết đi còn hơn.” Rồi nàng lại thút thít khóc.
Người đó cuống quít kêu lên: “Cô nương nhất định không được chết. Tại hạ… tại hạ nhất định vĩnh viễn không rời xa cô nương, chỉ cần cô nương đồng ý cho tại hạ ở bên mình là được.” A Tử la lên: “Ta không tin! Ngươi gạt ta, ngươi lừa gạt không cho ta chết, ta lại càng muốn chết. Mắt ta mù rồi, làm người thế nào được nữa?” Người đó nói: “Tại hạ không lừa dối cô nương. Nếu tại hạ bỏ cô nương mà đi thì sẽ không được chết yên lành.” Giọng nói của gã nghe vừa lo lắng vừa chân thành. A Tử hỏi lại: “Thế thì ngươi là ai?” Người đó nói: “Tại hạ… tại hạ ở Tụ Hiền Trang… không phải, không phải, ta ở họ Trang, tên là Trang Tụ Hiền.”
Người cứu A Tử chính là thiếu trang chủ Du Thản Chi của Tụ Hiền Trang.
A Tử đáp: “Thì ra là Trang… Trang tiền bối. Tiểu nữ đa tạ tiền bối đã cứu mạng.” Du Thản Chi vội đáp: “Ta cứu được cô thoát khỏi độc thủ của Tinh Tú Lão Tiên là mừng lắm rồi, không cần cô phải đa tạ. Ta cũng không phải là tiền bối chi hết, chỉ lớn hơn cô mấy tuổi thôi.” A Tử bèn nói: “Ồ, thế thì ta phải gọi huynh là Trang đại ca mới phải.” Du Thản Chi vui sướng vô hạn, run giọng đáp: “Chuyện này… thật là không dám.”
A Tử nói: “Trang đại ca, ta muốn cầu xin huynh một việc.” Du Thản Chi đáp: “Cô nương đừng nói tới hai chữ cầu xin. Cô nương sai bảo việc gì thì cứ nói, ta sẽ xả thân tận lực mà làm cho bằng được.” A Tử mỉm cười hỏi lại: “Chúng ta chưa từng quen biết, sao huynh lại tốt với ta như thế?” Du Thản Chi đáp: “Đúng… đúng là chưa quen biết. Ta chưa từng gặp cô nương, cô nương cũng chưa từng thấy ta. Hôm nay chúng ta mới gặp mặt lần đầu.” A Tử khẽ nói: “Không phải là ta chưa từng thấy huynh, phải nói là ta vĩnh viễn không thể thấy huynh mới đúng.” Nàng nói rồi, không kìm lòng được lại tuôn nước mắt ra.
Du Thản Chi vội nói: “Không sao đâu. Cô nương không nhìn thấy ta thì lại càng tốt.” A Tử hỏi: “Sao lại thế?” Du Thản Chi đáp: “Ta… tướng mạo ta rất khó coi, nếu cô nương thấy ta nhất định sẽ không vui.” A Tử cười nói: “Huynh lại gạt ta nữa rồi. Người nào càng cổ quái, ta lại càng thích nhìn. Trước kia ta có một tên đầy tớ bị chụp một cái mặt nạ sắt không tháo ra được. Hắn mới là khó coi nhất trong thiên hạ. Nếu huynh nhìn thấy hắn, chắc chắn phải cười đến ba ngày ba đêm mới nín được. Huynh có muốn xem hắn không?” Du Thản Chi run rẩy đáp: “Không, không! Ta không muốn xem.” Gã nói xong, bất giác lui lại hai bước.
A Tử nói: “Lúc nãy huynh ôm ta chạy nhanh như bay, võ công thật là tuyệt diệu, giống hệt tỉ phu của ta. Thế mà lá gan của huynh lại nhỏ xíu, không dám nhìn cả người đầu sắt. Gã đầu sắt ấy thật là ngoan ngoãn, ta sẽ kêu hắn nhào lộn nhảy múa cho huynh xem. Ta đã kêu hắn đút cái đầu sắt vào chuồng cho sư tử cắn thử, lại còn kêu thuộc hạ cột dây vào người hắn đem thả cho bay lên như diều, chuyện đó mới là thú nhất.”
Du Thản Chi bất giác run rẩy, nói: “Ta không muốn xem, thật tình ta không muốn xem.” A Tử than thở: “Thôi được. Vừa rồi huynh nói, bất kể ta muốn huynh làm chuyện gì, huynh cũng xả thân làm cho được, thì ra toàn là chuyện lừa gạt.” Du Thản Chi đáp: “Không, không! Ta quyết không lừa dối cô nương. Cô nương muốn ta làm chuyện gì?” A Tử bảo: “Ta muốn về với tỉ phu, hiện ở Nam Kinh nước Liêu. Trang đại ca! Huynh đưa ta đi nhé.”
Du Thản Chi thấy đầu óc rối như mớ bòng bong, trong giây lát không nói được tiếng nào. A Tử lại hỏi: “Thế nào? Huynh không muốn hay sao?” Du Thản Chi lắp bắp cố đáp: “Không… không phải. Ta… ta không phải… không… muốn đi Nam Kinh nước Liêu.” A Tử nói: “Ta muốn huynh đi xem tên hề đầu sắt cho vui, huynh không chịu đi. Ta nhờ huynh dẫn ta về gặp tỉ phu, huynh cũng không dẫn. Để ta đi một mình vậy.” Nàng nói xong, chầm chậm đứng dậy, rồi đưa hai tay ra trước quờ quạng tìm đường bước đi.
Du Thản Chi la lên: “Ta đưa cô nương đi! Cô nương đi một mình… thế nào được?” Thế là Du Thản Chi nắm lấy bàn tay mềm mại của A Tử, dẫn nàng ra khỏi rừng, trong lòng nghĩ: “Giả tỉ ta cứ được nắm tay nàng đi chầm chậm thế này, dẫu là đi xuống mười tám tầng địa ngục cũng thấy hoan hỉ vô hạn.”
Vừa ra tới đường lớn, gã bỗng thấy phía trước có một đám ăn mày. Gã nhận ra người đi đầu thân thể cao lớn, tướng mạo thanh tú, chính là Toàn Quan Thanh, đà chủ của Đại Trí phân đà trong Cái Bang, bèn nghĩ thầm: “Hôm trước người này bị sư phụ ta đả thương, thế mà chưa chết.” Gã không muốn đối mặt bọn này, liền nắm tay A Tử rời khỏi đường lớn, đi vào một bãi đất trống. A Tử cảm thấy dưới chân không bằng phẳng, liền hỏi: “Chuyện gì thế?” Du Thản Chi chưa trả lời, Toàn Quan Thanh đã thấy hai người bèn chạy tới ngăn lại, quát hỏi: “Các ngươi lén lén lút lút làm cái gì thế? Ngươi… ngươi đội cái gì kỳ vậy?”
Du Thản Chi cả kinh nghĩ thầm: “Hắn mà nói ra hai chữ Đầu Sắt là A Tử cô nương lập tức biết ta là ai, nhất định sẽ không thân cận với ta nữa. Cho dù nàng có sai ta đưa về Nam Kinh, cũng nhất định không cho ta nắm tay nàng”, không tự chủ được, đột ngột quì xuống sụp lạy, rồi đưa tay cố ra hiệu cho Toàn Quan Thanh hiểu rằng không nên nói ra chân tướng của mình.
Toàn Quan Thanh không hiểu nổi y đưa tay ra hiệu cái gì, bèn hỏi: “Ngươi làm gì vậy?” Du Thản Chi chỉ A Tử, xua tay, rồi chỉ mặt mình, xua tay, rồi lại lạy mấy lạy. Toàn Quan Thanh nhìn lại thấy A Tử mù cả hai mắt, cũng hơi hơi hiểu rằng gã đầu sắt này muốn mình đừng nói lộ chuyện. Trong lúc đó bọn đệ tử Cái Bang đều đã đến gần.
Một tên chỉ vào đầu Du Thản Chi, cười ha hả rồi nói: “Thật là kỳ quái, gã đầu…” Du Thản Chi tức khắc nhảy vọt lên đánh ra một chưởng. Gã Cái Bang đưa tay ra đỡ, nhưng chỉ nghe răng rắc vài tiếng rồi gãy cả xương tay lẫn xương sườn, thân thể bay vọt ra sau mấy thước, rơi tới đất thì đã chết rồi.
Bon đệ tử Cái Bang vừa cả kinh vừa phẫn nộ, năm người cùng xông lên công kích. Hai tay Du Thản Chi múa lên loạn xạ, chưởng pháp thật là tệ hại, so với đệ tử Cái Bang hạng bét cũng còn thua xa, nhưng chưởng phong đi tới đâu thì ở đó vang lên những tiếng: “lắc cắc”, “binh binh”, “Ái chà”, “Trời ơi”, rồi cả năm tên Cái Bang đều văng ra mấy trượng mất mạng. Những người còn lại đều sợ hãi, chia nhau bao vây Du Thản Chi và A Tử, nhưng không dám bước lên xuất thủ nữa.
Đột nhiên Du Thản Chi lại quì xuống trước mặt Toàn Quan Thanh, lại đưa tay ra dấu, chỉ A Tử rồi lại chỉ đầu mình, xua tay không ngớt.
Toàn Quan Thanh thấy gã này chỉ cất tay đã đánh chết sáu tên Cái Bang, công lực ghê gớm trên đời hiếm thấy. Tại sao hắn không tiếp tục xuất thủ giết người bịt miệng mà lại quỳ lạy mình, thì thật không hiểu nổi. Y cũng ra dấu, chỉ A Tử, chỉ cái đầu sắt của gã, rồi lại chỉ mình, lắc lắc đầu. Du Thản Chi cả mừng, gật đầu lia lịa. Toàn Quan Thanh nghĩ: “Võ công của người này vừa cao thâm vừa cổ quái, trong lòng lại nơm nớp sợ ta làm lộ bí mật của hắn. Không chừng ta có thể nhận việc này để kìm chế hắn mà sử dụng.”, bèn quay lại ra lệnh cho bọn Cái Bang: “Các người đừng nói gì hết, không ai được mở miệng.” Du Thản Chi trong lòng cảm kích vô cùng, lại lạy hắn mấy cái nữa.
A Tử hỏi: “Trang đại ca, bọn họ là ai vậy? Huynh đã đánh chết mấy người rồi phải không?” Du Thản Chi đáp: “Họ là mấy vị bằng hữu Cái Bang, vừa rồi chúng ta có chút hiểu lầm. Vị này là đà chủ Đại Trí phân đà, nhân nghĩa hơn người, là một đại hảo nhân ta vốn rất khâm phục. Ta… ta sơ ý đả thương mấy vị huynh đệ của ông ta, thật là có lỗi.” Gã nói xong bèn chắp tay thi lễ với bọn Cái Bang.
A Tử nói: “Trong Cái Bang mà lại có hảo nhân ư? Trang đại ca! Võ công của huynh cao cường đến thế, sao không giết sạch chúng để rửa bớt hận cho tỉ phu ta?” Du Thản Chi vội đáp: “Không, không! Đó chẳng qua là chuyện hiểu lầm, ta với vị Toàn đà chủ đây vốn là hảo bằng hữu. Cô nương ở đây đợi ta một chút, để ta cùng Toàn là chủ nói cho rõ những chuyện hiểu lầm.” Gã nói xong liền quay lại Toàn Quan Thanh vẫy vẫy tay.
Toàn Quan Thanh nghe gã nói là biết mình cũng thấy ngạc nhiên, nhưng xem chừng không có ác ý, liền cùng hắn đi ra xa mười mấy trượng.
Du Thản Chi thấy đã đi đủ xa để A Tử không nghe chuyện được, lại sợ đi xa hơn nữa thì bọn Cái Bang thừa cơ khinh khi nàng, liền dừng lại chắp tay nói: “Toàn đà chủ! Được đà chủ giấu giếm cho, tại hạ không dám quên đại ân đại đức.”
Toàn Quan Thanh đáp: “Tại hạ không biết tí gì nguyên ủy bên trong. Tôn tính đại danh của huynh là gì?” Du Thản Chi đáp: “Tại hạ họ Trang, tên gọi là Tụ Hiền, bất hạnh bị người ta chụp cái thứ quỉ quái này lên đầu, nhưng không thể để cô nương đó biết được.” Toàn Quan Thanh thấy gã vừa nói vừa chăm chăm nhìn A Tử đầy vẻ chiêm ngưỡng, trong lòng đã đoán ra đến bảy tám phần: “Cô nương này thanh tú mỹ lệ, nhất định gã đầu sắt này ái mộ nàng, nhưng rất sợ nàng biết chân tướng kỳ dị của gã.” Hắn bèn hỏi: “Sao Trang huynh biết tại hạ?” Du Thản Chi đáp: “Hôm trước Đại Trí phân đà của quí bang hội họp về chuyện đề cử bang chủ, tại hạ may mắn ở cạnh đó nên nghe người ta gọi đến danh hiệu Toàn đà chủ. Hôm nay tại hạ sơ ý đả thương mấy vị huynh đệ quí bang, thật là có lỗi, mong Toàn đà chủ lượng thứ cho.”
Toàn Quan Thanh đáp: “Chỉ là chuyện hiểu lầm, huynh đừng để tâm. Trang huynh! Cái vật trên đầu huynh, tại hạ nhất định không nói ra, lát nữa cũng sẽ dặn dò thuộc hạ không để lộ đâu.” Du Thản Chi cảm kích đến rơi lệ, chắp tay không ngừng nói: “Đa tạ, đa tạ!”. Toàn Quan Thanh lại nói: “Nhưng Trang huynh cùng vị cô nương đó dắt tay nhau đi trên đường lớn sẽ gặp nhiều người, thế nào cũng có người thấy lạ mà hô hoán. Trang huynh muốn giết họ cũng không kịp đâu.”
Du Thản Chi đáp: “Phải lắm, phải lắm!” Từ lúc gã cứu được A Tử đến nay, thần hồn điên đảo, chưa hề nghĩ đến việc này. Bây giờ nghe Toàn Quan Thanh nhắc nhở, gã mất hết chủ ý, do dự nói: “Tại hạ… tại hạ chỉ còn cách… đưa nàng vào chỗ thâm sơn cùng cốc mà tránh người ta.”
Toàn Quan Thanh mỉm cười nói: “Như vậy chỉ sợ cô nương đó nghi ngờ. Hơn nữa, sau khi hai vị kết thành phu phụ, cô nàng sớm muộn gì cũng phát giác ra thôi.” Du Thản Chi nóng cả người, đáp lại: “Kết thành phu… phu phụ thì tại hạ không dám nghĩ đến, chắc không được đâu. Tại hạ… tại hạ sao dám thế? Chuyện đó… thật là khó hơn lên trời.”
Toàn Quan Thanh nói: “Trang huynh, lúc nãy huynh có gọi tại hạ là hảo bằng hữu. Đã là hảo bằng hữu thì có chuyện khó xử dĩ nhiên phải giúp nhau giải quyết. Thôi thì thế này nhé, chúng ta cùng đến thị trấn phía trước thuê một cỗ xe lớn, huynh cùng với cô nương đó ngồi trong xe thì không ai thấy được nữa.” Du Thản Chi cả mừng, nghĩ đến lúc được ngồi cùng A Tử trong xe, thật là thần tiên cũng không bằng. Gã vội đáp: “Vâng, vâng! Toàn đà chủ thật là cao kiến.”
Toàn Quan Thanh đáp: “Sau đó chúng ta mới tìm cách tháo bỏ cái chụp sắt trên đầu Trang huynh. Toàn mỗ vỗ ngực đảm bảo vĩnh viễn vị cô nương đó không biết được cái chuyện làm Trang huynh khó chịu. Huynh nghĩ xem có được không?”
Nghe phịch một tiếng, Du Thản Chi đã quì mọp xuống đất, dập đầu lạy Toàn Quan Thanh lia lịa, cái đầu sắt gõ xuống đất vang lên những tiếng boong boong.
Toàn Quan Thanh cũng quì xuống trả lễ, đáp lời: “Trang huynh dùng tới đại lễ như vậy, tại hạ thật không dám nhận. Trang huynh đã không chê bỏ, thì hai chúng ta kết nghĩa kim lan, huynh nghĩ thế nào?”
Du Thản Chi cả mừng đáp: “Thật là tuyệt diệu. Đệ thì chuyện gì cũng không hiểu, bây giờ có một vị nghĩa huynh túc trí đa mưu chỉ điểm cho, thật là cầu còn chưa được.” Toàn Quan Thanh cười ha hả nói: “Chắc ta lớn hơn mấy tuổi, thôi thì không khách sáo nữa, ta làm ca ca của hiền đệ vậy.”
***
Trong lúc Đinh Xuân Thu cùng Tô Tinh Hà đánh nhau đến trời sầu đất thảm, ánh mắt si tình của Đoàn Dự trước sau vẫn không rời khỏi Vương Ngữ Yên, còn ánh mắt ngưỡng mộ của Vương Ngữ Yên thì lại không rời biểu huynh Mộ Dung Phục chút nào. Vì thế hai luồng nhãn quang của chàng và nàng không hề gặp nhau.
Đến khi Đinh Xuân Thu thua trận chạy trốn, Hư Trúc bàn chuyện với môn hạ phái Tiêu Dao, bọn Mộ Dung Phục bỏ đi, Đoàn Dự không hiểu sao vẫn lẽo đẽo theo sau Vương Ngữ Yên.
Sau khi xuống núi, Mộ Dung Phục quay lại Đoàn Dự chắp tay nói: “Đoàn huynh! Hôm nay chúng ta may mắn gặp nhau, bây giờ xin tạm biệt, sau này còn có khi gặp lại.” Đoàn Dự đáp: “Vâng, vâng! Hôm nay chúng ta may mắn gặp nhau, bây giờ xin tạm biệt, sau này còn có khi gặp lại.” Mắt chàng vẫn chăm chăm ngắm nhìn Vương Ngữ Yên, Mộ Dung Phục lộ vẻ bất bình, hừ một tiếng rồi quay lưng bỏ đi ngay. Đoàn Dự vẫn luyến tiếc nhìn theo.
Bao Bất Đồng cũng chắp tay tiến đến chỗ Đoàn Dự, lên tiếng: “Đoàn công tử! Hôm nay công tử ra tay tương trợ Mộ Dung công tử nhà ta, Bao mỗ xin đa tạ.” Đoàn Dự đáp: “Không cần khách sáo.” Bao Bất Đồng lại nói: “Chuyện đó đã cảm ơn rồi là xong, bây giờ chúng ta không ai nợ ai nữa. Nhưng mắt của ngươi cứ trợn lên nhìn vào Vương cô nương, thật là vô lễ. Tới bây giờ vẫn còn ráng nhìn theo, lại càng vô lễ hơn. Ngươi đã là người đọc sách, có biết thế nào là Phi lễ vật thị, phi lễ vật hành (không đúng lễ không nhìn, không đúng lễ không làm) không? Lúc này Bao mỗ mất hết khí lực, trong đầu còn nhiều câu mắng người rất hay ho, nhưng không đủ sức nói ra.” Đoàn Dự thở dài một tiếng rồi đáp: “Đã vậy thì Bao huynh không đúng lễ không nói, còn ta không đúng lễ thì không theo, như thế là xong.” Bao Bất Đồng cười ha hả đáp: “Vậy thì hay lắm!”, rồi quay lưng, đi theo Mộ Dung Phục.
Đoàn Dự nhìn theo Vương Ngữ Yên đến khi nàng đi khuất vào rừng cây, rồi đứng đó ngơ ngẩn xuất thần. Chu Đan Thần tiến lại nói: “Công tử! Chúng ta đi thôi.” Đoàn Dự đáp: “Phải lắm, chúng ta đi thôi.” Nhưng nói thì nói vậy, chân vẫn không nhúc nhích, đến khi Chu Đan Thần giục đến lần thứ ba, chàng mới chậm chạp leo lên con ngựa do Cổ Đốc Thành mang tới, Đoàn Dự ngồi trên lưng ngựa rồi, ánh mắt vẫn dõi theo con đường Vương Ngữ Yên vừa ra đi.
Thì ra sau khi Đoàn Dự đưa thư cho Toàn Quan Thanh, chàng lập tức đi bái kiến Đoàn Chính Thuần. Phụ tử xa nhau lâu ngày, nay được trùng phùng mừng vui khôn xiết. Nguyễn Tinh Trúc đối với tiểu vương tử lại càng chiều chuộng lấy lòng. A Tử đã không từ biệt mà đi, nên huynh muội không được gặp nhau. Đoàn Chính Thuần và Nguyễn Tinh Trúc nghĩ rằng chuyện A Châu, A Tử nói ra thêm ngượng, nên cũng không kể cho chàng nghe.
Được mười mấy ngày, Thôi Bách Tuyền cùng Quá Ngạn Chi cũng đến gặp mặt. Hai người sư thúc sư điệt này đã mất liên lạc với Đoàn Dự từ Cầm Vận Tiểu Trúc ở Tô Châu, đi khắp nơi tìm kiếm cũng không thấy tung tích chàng đầu. Sau này họ về núi Phục Ngưu ở Hà Nam, nghe người trong bản môn cho biết Trấn Nam Vương nước Đại Lý cũng đến Hà Nam, liền đến bái kiến thì thấy Đoàn Dự bình yên vô sự, lúc đó mới yên lòng.
Đoàn Dự trải qua bao nhiêu nguy hiểm, hưởng thú đoàn tụ gia đình ở bên phụ thân thật là vui sướng, nhưng lòng nhớ nhung Vương Ngữ Yên mỗi ngày lại tăng lên. Sắp đến ngày kỳ hội, chàng liền xin phép phụ thân, dẫn theo bọn Cổ Đốc Thành đi dự. Quả nhiên hoàng thiên không phụ lòng người, chàng đã gặp mặt ý trung nhân, nhưng phen này gặp xong lại càng thêm sầu não. Gặp hay là không gặp thì tốt hơn, đến bây giờ chính chàng vẫn không hiểu được.
Đoàn người đi được hơn hai mươi dặm thì thấy trước mặt có một đám bụi lớn đang cuộn tới, rồi mười mấy con ngựa chạy đến. Đó chính là tam công Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch nước Đại Lý cùng một số quân sĩ, chạy đến nơi liền xuống ngựa thi lễ với Đoàn Dự. Thì ra họ phụng mệnh Đoàn Chính Thuần đến đây tiếp ứng, e rằng trong kỳ hội này có hung hiểm gì chăng. Mọi người nghe kể trong kỳ hội có cả Đoàn Diên Khánh đến dự thì lo ngay ngáy, thấy lão không động tới Đoàn Dự, đều cho là phen này may mắn vô cùng.
Chu Đan Thần khẽ kể cho bọn ba người Phạm Hoa biết chuyện Đoàn Dự trong kỳ hội đã gặp cô nương mỹ lệ của nhà Mộ Dung Cô Tô, ngắm nhìn cô ta không nháy mắt, ngẩn ngơ đi theo, cũng may mà bị người ta đuổi về. Bọn Phạm Hoa nhìn nhau cười thầm, trong lòng đều nghĩ: “Tiểu vương tử phong lưu thành tính, thật là gia học uyên nguyên. Nếu chàng nhờ chuyện này mà quên đi mối tương tư với cô em ruột Mộc Uyển Thanh thì thật đáng mừng vô cùng.”
Đến hoàng hôn, đoàn người ghé vào phạn điếm ăn cơm. Phạm Hoa đang kể về chuyến đi Giang Nam, bỗng dưng lại nói: “Công tử! Nhà Mộ Dung có nhiều chuyện kỳ bí, sau này nếu gặp họ thì phải để ý đề phòng.” Đoàn Dự hỏi lại: “Chuyện như thế nào?” Phạm Hoa kể: “Ba người bọn thuộc hạ vâng lệnh vương gia đi đến Yến Tử Ổ nhà Mộ Dung ở Tô Châu, xem có dấu tích gì về việc Huyền Bi đại sư của phái Thiếu Lâm bị họ sát hại không?” Thôi Bách Tuyền cùng Quá Ngạn Chi đều hết sức chú ý, vội hỏi: “Ba vị có hỏi ra được chuyện gì không?” Phạm Hoa đáp: “Ba người chúng ta không công khai cầu kiến, chỉ ngấm ngầm điều tra. Nhà Mộ Dung không có nam nữ chủ nhân ở nhà, chỉ có mấy tên tì bộc. Một tiểu cô nương tên là A Bích đảm đương hết công chuyện cả mấy tòa trang viện.” Đoàn Dự gật đầu nói: “Ô, A Bích cô nương là người tốt. Ba vị không đả thương cô ấy chứ?” Phạm Hoa mỉm cười nói: “Không đâu. Bọn thuộc hạ dò xét mấy đêm liền, lục hết trang viên nhà Mộ Dung từ trước ra sau cũng không thấy chút manh mối nào. Ba huynh đột nhiên nhớ đến chuyện tên Phiên tăng Cưu Ma Trí bắt công tử từ Đại Lý đi Giang Nam, nói là đem tế điện trước mộ phần Mộ Dung tiên sinh…”
Thôi Bách Tuyền ngắt lời: “Chính thế. Cũng may mấy ả nha đầu trong nhà Mộ Dung nhất định không chịu đưa tên mọi trọc đầu đó đi tế mộ, nhờ vậy mà công tử mới thoát khỏi độc thủ.”
Đoàn Dự lại gật đầu nói: “Hai vị cô nương A Châu, A Bích đối với ta rất tốt. Không biết hiện nay họ ra sao?” Ba Thiên Thạch cười cười đáp: “Bọn thuộc hạ điều tra ba đêm đều có nhìn vào cửa sổ, chỉ thấy A Bích cô nương đang may một cái áo bào của nam nhân, luôn miệng than thở: Không hiểu công tử ở bên ngoài có lạnh không? Khi nào chàng mới về đây? Có phải nàng may cái áo đó cho công tử không?” Đoàn Dự vội nói: “Không phải đâu. Đó là nàng may áo cho Mộ Dung công tử.” Ba Thiên Thạch nói: “Phải đấy. Thuộc hạ xem chừng cô tiểu a đầu này thần hồn điên đảo về công tử của nàng. Ba người bọn thuộc hạ đi tới đi lui, cô ả cũng chẳng biết gì.” Gã nói vậy, hiển nhiên muốn nhắc nhở Đoàn Dự đừng học theo phụ thân mà đi đến đâu để nợ tình đến đó, trong lòng A Bích chỉ có Mộ Dung công tử chứ không hề có Đoàn công tử đâu.
Đoàn Dự thở dài một tiếng rồi đáp: “Mộ Dung công tử tuấn tú trên đời có một, khó mà trách được nàng. Huống hồ họ là biểu huynh biểu muội, lại có tình thanh mai trúc mã từ bé với nhau.” Phạm Hoa cùng Ba Thiên Thạch ngơ ngác nhìn nhau, cùng nghĩ: “Tiểu a đầu đó với công tử của thị mà có tình thanh mai trúc mã thì cũng hợp lý, nhưng sao lại là biểu huynh biểu muội được?” Thì ra Đoàn Dự bỗng dưng chuyển qua nói về Vương Ngữ Yên.
Thôi Bách Tuyền hỏi lại: “Phạm tư mã, Ba tư không! Hai vị nghĩ tên Phiên tăng đó đòi đi tế mộ Mộ Dung tiên sinh là có ý gì? Chuyện đó có liên quan gì đến cái chết của tệ sư huynh không?” Phạm Hoa đáp: “Đúng là tại hạ đang muốn nhờ mọi người bàn cho rõ chuyện này. Hoa huynh nghe tới chữ mộ là ngứa tay liền, liền đoán rằng trong mộ của lão này có điều cổ quái, cần phải đào vào thám thính. Tại hạ cùng Ba huynh không tán thành lắm, dòng họ Mộ Dung Cô Tô danh vang thiên hạ, Đoàn gia chúng ta mà đào mả của chúng thì thật là khó giải thích. Hoa huynh lại cho rằng lén lút đào, thần không hay, quỉ không biết thì không việc gì mà sợ. Bên tại hạ cãi không lại, đành phải nghe theo. Mộ phần đó an táng phía sau trang viện, ở chỗ vừa thanh tĩnh vừa bí hiểm, thật là khó tìm. Ba người bọn tại hạ đào vào trong mộ, cạy nắp quan tài ra. Thôi huynh biết có gì trong đó không?” Thôi Bách Tuyền cùng Quá Ngạn Chi cùng đứng bật dậy, hỏi dồn: “Có cái gì?” Phạm Hoa đáp: “Quan tài trống rỗng, không có xác chết.”
Hai người Thôi Quá cùng há hốc miệng ra không ngậm lại được. Qua một lúc lâu, Thôi Bách Tuyền mới vỗ đùi đánh bép rồi nói: “Cái lão Mộ Dung Bác này chưa chết đâu. Lão sai thằng con xuất hiện dương oai khắp nơi ở Trung Nguyên để bày nghi trận, còn mình thì lén lút ra ngoài ngàn dặm giết người. Sư huynh ta… sư huynh ta nhất định là bị lão ác tặc Mộ Dung Bác này sát hại.”
Phạm Hoa lắc đầu phản đối: “Thôi huynh nói vậy, có chỗ không hợp lý. Lão Mộ Dung Bác võ công cao thâm khôn lường, thiếu gì thủ đoạn giết người, hà tất phải dùng tới công phu Gậy ông đập lưng ông cho thiên hạ nghi ngờ nhà Mộ Dung Cô Tô? Còn nếu lão muốn nổi tiếng võ lâm thì phải giả chết làm gì?” Thôi Bách Tuyền lại ngồi xuống, vò đầu bứt tai mãi mà cũng chẳng nghĩ ra được cái gì.
Đoàn Dự nói: “Trong thiên hạ có cả ngàn cả vạn môn phái, muốn biết rành được hết thì khó như lên trời. Thế mà nàng hiểu rõ như trong lòng bàn tay, thật là…”
Thôi Bách Tuyền la lên: “Đúng rồi! Tuyệt chiêu Thiên Linh Thiên Liệt của sư huynh ta là độc môn bí truyền của phái Phục Ngưu, rất ít người biết, chắc là cô gái đó giết sư huynh ta chứ còn ai nữa?” Đoàn Dự lắc đầu cãi lại: “Sức nàng không trói nổi con gà, tuy là hiểu hết võ công các nhà các phái, nhưng cũng không thể ra tay giết người được.”
Mọi người ngồi nhìn nhau mãi, cũng chẳng ai đưa ra được ý kiến gì nữa.
***
Đinh Xuân Thu đánh mù mắt A Tử, không ngờ Du Thản Chi lại liều mạng cướp nàng chạy trốn. Lúc đó lão quái không khỏi phân tâm, kình lực ở ngón tay giảm sút, Mộ Dung Phục bèn nhân cơ hội xuất tuyệt chiêu Đẩu Chuyển Tinh Di. Nghe một tiếng “phập”, năm ngón tay của Đinh Xuân Thu bỗng chuyển qua nắm cổ tay một tên đệ tử. Mộ Dung Phục đánh bừa một quyền rồi phóng vọt đi, cười ha hả hô lớn: “Thôi thôi, ta đi trước đây. Tinh Tủ Lão Quái! Sau này còn có dịp gặp nhau.” Y vừa hô vừa vận khinh công chạy thẳng, không quay lại nhìn cái nào nữa.
Chuyến này Mộ Dung Phục coi như toàn thắng. Một mình y đả thương hơn hai chục tên đệ tử phái Tinh Tú, chọc Đinh Xuân Thu tức điên lên, lại còn thoát thân không mất một sợi tóc, thật là may mắn vô cùng. Trên đường chạy về, y nhớ lại trận chiến vừa qua mà bủn rủn cả người, Mộ Dung Phục cùng với Vương Ngữ Yên và bọn Đặng Bách Xuyên tìm một khách điếm ở lì bên trong để bọn Đặng Bách Xuyên dưỡng thương:
Được mấy ngày thì Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác hồi phục trước, rồi dần dần Đặng Bách Xuyên cùng Công Dã Càn cũng khỏe mạnh trở lại. Sáu người bàn đến chuyện A Châu hiện không biết ở đâu, bèn quyết định đi Lạc Dương thám thính tin tức của nàng.
Đến Lạc Dương không tìm được gì, họ lại sang phía tây để điều tra. Một hôm, sáu người đi gấp nên lỡ độ đường, đến tối mịt vẫn còn trong vùng núi, chung quanh không một bóng người. Phong Ba Ác lên tiếng: “Hình như bọn mình đi lạc rồi, nãy giờ cứ quanh qua quẹo lại chẳng có vẻ gì là đúng đường cả.” Đặng Bách Xuyên đáp: “Thôi thì chúng ta tìm một hang động hay miếu hoang gì đó để trú tạm vậy.”
Phong Ba Ác rảo bước đi lên trước tìm chỗ nghỉ chân, nhưng thấy đường càng lúc càng khó đi, chung quanh toàn là đá tảng ngổn ngang. Gã thì nằm đâu cũng ngáy o o được, nhưng tìm chỗ cho Vương Ngữ Yên thì thật là khó khăn. Lúc đi vòng qua một sườn núi, bỗng thấy phía hữu có ánh đèn le lói, Phong Ba Ác mừng quá quay lại gọi to: “Bên này có nhà!”
Bọn Mộ Dung Phục nghe tiếng chạy đến, Công Dã Càn hoan hỉ nói: “Chắc đây chỉ là lều của thợ săn, nhưng cũng đủ chỗ cho Vương cô nương nghỉ một đêm.” Sáu người hướng về phía có ánh đèn mà đi khá lâu, vẫn chỉ thấy ánh đèn le lói chứ không thấy nhà đâu. Phong Ba Ác lẩm bẩm thóa mạ: “Con mẹ nó! Cái đèn kia coi bộ tà môn.” Đột nhiên Đặng Bách Xuyên khẽ gọi: “Dừng lại đã! Công tử nhìn xem, ảnh lửa kia kỳ quá!” Mộ Dung Phục ngưng thần nhìn kỹ, quả nhiên ngọn đèn đó phát ra ánh sáng xanh biếc khác thường. Cả bọn đều gia tăng cước lực đi về phía ngọn đèn, một lúc nữa thì trông đã rõ. Bao Bất Đồng kêu lên: “Thì ra bọn tà ma ngoại đạo tụ tập ở đây!”
Kể ra thì năm người này võ công cơ trí tuyệt cao, gặp phải bang phái nào trên giang hồ cũng không sợ hại gì. Nhưng họ nghĩ hôm nay cùng đi với Vương Ngữ Yên nên đừng dây dưa gây sự là hơn. Bao Bất Đồng cùng Phong Ba Ác lâu rồi không động thủ với ai, tuy ngứa chân ngứa tay nhưng cũng tự kiềm chế. Phong Ba Ác nói: “Đi suốt ngày mệt quá. Chỗ này xem chừng không tốt, bọn ta quay lại là hơn.” Mộ Dung Phục mỉm cười nghĩ thầm: “Phong tứ ca đổi tính, thật là hay quá!” Y liền nói: “Biểu muội! Chỗ đó không yên tĩnh đâu, chúng ta quay lại thôi.” Vương Ngữ Yên chẳng hiểu gì hết, nhưng cũng vui vẻ nghe theo lời biểu huynh.
Sáu người bèn quay trở lại, mới được mấy bước, đã nghe tiếng người văng vẳng: “Các ngươi đã biết đây là chỗ ngoại đạo tà ma tụ hội, đã thành yêu ma quỷ quái chưa, sao không vào đây hội họp cho vui?” Thanh âm này chợt cao chợt thấp, lúc liền lúc đứt rất khó chịu, nhưng mọi người đều nghe rõ.
Mộ Dung Phục bất giác kêu lên một tiếng, biết rằng lời của Bao Bất Đồng vừa nói đã lọt vào tai chúng. Nghe thanh âm cũng biết người vừa nói có nội lực thâm hậu, nhưng chưa hẳn là cao thủ bậc nhất. Mộ Dung Phục phất tay áo một cái nói: “Chúng ta không rảnh mà dính vào. Họ nói gì cũng mặc kệ, ta đi thôi!”
Thanh âm vừa rồi lại vang lên: “Tiểu súc sinh! Miệng thì nói giọng ngông cuồng, bây giờ lại cúp đuôi chạy trốn. Bọn mi muốn trốn thì phải quỳ xuống lạy lão tổ tôn ba trăm lạy trước đã.”
Phong Ba Ác không nhịn được nữa, dừng bước lại hạ giọng nói: “Công tử! Bọn này khinh mình quá lắm.” Mộ Dung Phục lắc đầu nói: “Họ chưa biết mình là ai đâu, cứ mặc kệ.” Phong Ba Ác đành đáp: “Vâng.”
Sáu người đi được hơn chục bước nữa thì thanh âm kia lại nói: “Bọn đàn ông đã muốn trốn thì lão tổ tôn tha cho, nhưng phải để con điếm non kia lại cho lão tổ tôn tiêu khiển!”
Năm người thấy đối phương dám xúc phạm Vương Ngữ Yên thì giận tái mặt, dừng bước rồi quay lại. Thanh âm kia lại nói: “Thế nào? Các ngươi ngoan ngoãn để con nhỏ đó lại thì lão tổ tôn…”
Y vừa nói đến chữ “tôn” thì Đặng Bách Xuyên đã đề khí từ đan điền quát lên: “Tôn… ôn… ôn” hòa vào chữ “tôn” của đối phương vang rền cả hang núi. Tai mọi người ù cả lên, nhưng cũng nghe thấy một tiếng rú thê thảm ở chỗ ngọn đèn xanh vọng ra. Giữa đêm khuya, tiếng rú này lẫn trong dư âm tiếng quát của Đặng Bách Xuyên nghe thật là dễ sợ.
Vừa rồi Đặng Bách Xuyên vận nội lực tuyệt cao quát lên làm chấn động đối phương, cứ nghe tiếng rú thì biết gã bị thương khá nặng, không chừng mất mạng cũng nên. Tiếng rú chưa dứt, bỗng nghe “vèo” một tiếng, một mũi tên bắn lên không rồi nổ ra, ánh lửa xanh là chiếu sáng đến nửa vòm trời.
Phong Ba Ác nói: “Một vừa hai phải thôi, muốn nhịn cũng không được. Chúng ta quét sạch sào huyệt bọn yêu quái này rồi nói chuyện sau.” Mộ Dung Phục gật gật đầu nói: “Chúng ta tưởng là nhường họ một chút cho yên, bây giờ đã làm thì phải làm đến nơi đến chốn.” Sáu người chạy thẳng đến chỗ có ánh lửa xanh.
Mộ Dung Phục sợ Vương Ngữ Yên kinh hãi quá, bèn chậm bước lại đi song song với nàng. Bỗng nghe tiếng la ó om sòm, Phong Ba Ác cùng Bao Bất Đồng đã cùng người động thủ. Dưới ánh sáng lờ mờ thấy ba bóng đen vụt tới, phóng ra ba chưởng đập vào vách núi nghe ầm ầm, rõ ràng không trúng hai gã Bao, Phong.
Lúc Mộ Dung Phục tới chỗ ngọn đèn, đã thấy Đặng Bách Xuyên cùng Công Dã Càn đứng trên một cái đỉnh đồng xanh rất lớn, vẻ mặt cực kỳ nghiêm trọng. Từ đỉnh đồng có một luồng khói bốc thẳng lên không, nhỏ như sợi dây mà nhanh như tên bắn. Vương Ngữ Yên nói: “Đây là phái Tang Thổ Công, động Bích Lân ở Xuyên Tây.” Đặng Bách Xuyên gật đầu nói: “Cô nương quả nhiên biết nhiều hiểu rộng.” Bao Bất Đồng quay người lại cãi: “Sao đại ca biết? Kiểu đốt khói này là cách báo tin đã có cả ngàn năm, chưa chắc đã là phái Tang Thổ Công động Bích Lân ở Xuyên Tây…” Gã chưa nói xong, Công Dã Càn đã trỏ vào một cái chân đỉnh đồng, có ý bảo gã tự xem lấy.
Bao Bất Đồng cúi xuống thắp lửa lên nhìn kỹ thì thấy chân đỉnh có chữ “Tang”, nét khắc ngoằn ngoèo như hình mấy con rắn nhỏ xếp thành, đồng đã teng xanh lại, đúng là một cái đỉnh rất cổ. Gã biết Vương Ngữ Yên nói đúng rồi, nhưng vẫn cãi bướng chơi: “Giả tỉ đây là đỉnh đồng của phái Tang Thổ Công ở Xuyên Tây thật đi nữa, thì cũng có thể là chúng mượn về đây. Huống chi mười chiếc đỉnh cổ thì có đến chín chiếc là giả.”
Mộ Dung Phục tự hỏi: “Nơi đây cách Xuyên Tây rất xa, chẳng lẽ địa giới phái Tang Thổ Công rộng lớn đến thế?” Gã có nghe nói phải Tang Thổ Công động Bích Lân ở Xuyên Tây là một giống rợ Miêu, chuyên về ám khí độc, hành vi khác hẳn với nhân sĩ võ lâm ở Trung Nguyên. Cũng may là bọn họ không tranh chấp với ai, miễn là đừng ai xâm nhập địa giới núi Dao Sơn đất Xuyên Tây của họ thì thôi. Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên dĩ nhiên chẳng sợ phái Tang Thổ Công, nhưng họ nghĩ rằng mình vốn không thù không oán thì tránh đi là hơn, thắng bọn tà môn ngoại đạo cũng chẳng vẻ vang gì, mà dây dưa đến họ lại thêm phiền phức.
Mộ Dung Phục trầm ngâm một lát rồi quyết định: “Chỗ này lắm chuyện thị phi, ta mau mau rời đi là hơn.” Y nhìn thấy một lão già còn thoi thóp thở nằm bên đỉnh đồng, mình mặc áo ngắn, lưng thắt dây cỏ, mắt mở trừng trừng nhìn mọi người, dĩ nhiên là người vừa hỗn láo lúc nãy. Mộ Dung Phục nhìn Bao Bất Đồng gật gật đầu, rồi liếc lão già đó một cái. Bao Bất Đồng hiểu ý, bẻ lấy cành trúc có buộc chiếc đèn sáng xanh, đập cả trúc lẫn đèn vào ngực lão già đánh chát một tiếng, ngọn đèn xanh liền tắt phụt. Vương Ngữ Yên kinh ngạc la lên một tiếng. Công Dã Càn nói: “Lượng nhỏ không phải quân tử, ít độc bất thành trượng phu! Phải giết người bịt miệng để khỏi lo về sau.” Y nói xong liền phóng chân ra đá đổ cái đỉnh đồng. Mộ Dung Phục kéo tay Vương Ngữ Yên chạy về phía bên trái.
Mới chạy được hơn mười trượng thì trong bóng tối bỗng nghe tiếng binh khí rít lên vù vù, một đao một kiếm từ trong bụi cỏ vung ra. Mộ Dung Phục phất tay áo một cái, mượn sức đánh sức, đao bên trái chém vào đầu người bên phải, còn kiếm bên phải đâm trúng ngực người bên trái. Chỉ chớp mắt là Mộ Dung Phục đã hạ xong hai tên đánh lén, chân vẫn bước đi. Công Dã Càn tán dương: “Công tử! Hảo công phu!”
Mộ Dung Phục chỉ mỉm cười, vượt lên phía trước phóng chưởng đánh ra trúng một địch nhân đang xông tới, gã này lăn xuống sườn núi. Tay trái Mộ Dung Phục lại phóng ra một chưởng, một tên khác đưa song chưởng lên đỡ, bỗng la lên một tiếng “úi chao” rồi phun máu tươi ra. Đột nhiên có mùi tanh hôi theo chiều gió bay đến, Mộ Dung Phục vội phóng chưởng đánh bật thứ ám khí quái lạ đó ra. Lại nghe một tiếng rú, rõ ràng địch thủ đã trúng phải ám khí kịch độc của chính mình.
Trong đêm tối đen, mọi người bị vây hãm mà không biết địch nhân nhiều hay ít. Mộ Dung Phục thuận tay giết đến người thứ sáu, ngấm ngầm kinh hãi nghĩ bụng: “Ba người đầu thuộc phái Tang Thổ Công ở Xuyên Tây, còn võ công ba người sau rõ ràng thuộc ba phái khác nhau. Kẻ thù càng lúc càng nhiều, thật là bất lợi.”
Đặng Bách Xuyên hô lên: “Chúng ta cùng nhau đi về hướng Thính Hương Thủy Tạ.” Thính Hương Thủy Tạ là một cái trại ở hướng Tây trong Yến Tử Ổ của nhà Mộ Dung, trước kia A Châu ở đó. Đặng Bách Xuyên muốn gọi mọi người chạy qua hướng Tây, nhưng không muốn địch nhân biết mà ngăn trở.
Mộ Dung Phục nghe là hiểu ngay, nhưng lúc đó trời không trăng không sao, khó mà phân biệt phương hướng, không hiểu hướng Tây ở chỗ nào. Y ngưng thần một chút, nghe thấy ở bên phải có tiếng hai phát chưởng của Đặng Bách Xuyên, liền kéo Vương Ngữ Yên lùi lại ba bước để đi gần lại Đặng Bách Xuyên. Hai tiếng véo véo lại vang lên, Đặng Bách Xuyên lại đánh ra hai chưởng, cứ nghe cũng biết địch nhân không phải tay vừa. Đặng Bách Xuyên ngưng tụ chân khí quát lên một tiếng, Mộ Dung Phục biết ngay là y ra chiêu Thạch Phá Thiên Kinh, chắc đối phương khó lòng tránh nổi. Quả nhiên người kia rú lên một tiếng kinh hồn, tiếng rú dần dần xuống thấp tựa như người đang rơi xuống, rồi lại nghe một tảng đá lớn lăn xuống đè cành cây gãy răng rắc, Mộ Dung Phục cả kinh nghĩ thầm: “Người này sẩy chân rơi xuống vực sâu rồi! Nãy giờ ta có thấy hang động gì đâu, may mà Đặng Bách Xuyên đánh một người rơi xuống, không thì trong lúc tối đen thế này bọn mình rất dễ quờ quạng mà rớt xuống vực.”
Lúc đó phía bên trái có tiếng người hỏi: “Cao nhân phương nào đến phá quấy Vạn Tiên đại hội? Không xem ba mươi sáu động chúa và bảy mươi hai đảo chúa ra gì ư?”
Bọn Mộ Dung Phục đều la lên kinh ngạc. Họ đã nghe tiếng ba mươi sáu động chúa và bảy mươi hai đảo chúa, nhưng đã là động chúa, đảo chúa thì không thuộc môn phái nào mà cũng không đi hội họp với ai bao giờ. Bọn người này võ công có kẻ hơn người kém, nhân phẩm cũng có kẻ lành người dữ, giao kết không thân thiện được nên đi đâu hay hành động gì cũng chỉ có một mình. Nhân sĩ giang hồ trước nay chẳng trọng vọng gì bọn này, chỉ biết họ ở tản mác ngoài đảo ở Đông Hải, Hoàng Hải, hoặc trong dãy Côn Luân. Lâu nay họ vẫn mai danh ẩn tích nên chẳng ai để ý đến làm gì, ngờ đâu hôm nay họ tụ tập tại đây.
Mộ Dung Phục dõng dạc lên tiếng: “Bọn tại hạ sáu người, không biết các vị tụ hội nên đi lạc vào đây. Trong đêm tối đã có hiểu lầm, mạo phạm quá nhiều, mong các vị miễn thứ mà cho bọn tại hạ lên đường.” Y nói mấy câu thật là vừa phải, không gây sự, cũng không hạ mình, lại không để lộ tông tích. Đối với việc đã ngộ sát mấy người của đối phương, y đành phải xin lỗi mấy câu.
Đột nhiên bốn mặt nổi lên những chuỗi cười ha hả, khanh khách, hô hố… Tiếng cười mỗi lúc một nhiều, thoạt đầu chỉ độ mười mấy người, rồi sau nổi lên liên tiếp khắp bốn mặt tám phương, chắc phải đến năm sáu trăm người, từ ở ngay bên cạnh đến xa ngoài mấy dặm.
Mộ Dung Phục thấy thanh thế đối phương rất lớn, lại nghe bốn chữ Vạn Tiên đại hội thì nghĩ thầm: “Xem chừng đêm nay phải có đánh nhau. Mình bước nhầm vào chỗ tụ họp của bọn bàng môn tả đạo thật là rầy rà. May mà ta chưa để lộ tên tuổi, bỏ đi là hay hơn để bớt chuyện lôi thôi. Huống chi mình ít họ nhiều, sáu người làm sao địch nổi mấy trăm người.”
Giữa lúc tiếng cười còn đang râm ran, bỗng nghe trên sườn núi cao có tiếng nói: “Ngươi ăn nói hồ đồ, việc đã đến thế này mà đám hờ hững coi chẳng vào đâu. Bọn ngươi sáu người đã ra tay đánh chết mấy vị bằng hữu của chúng ta. Nếu quần tiên trong Vạn Tiên đại hội này mà tha cho bọn ngươi đi thì ba mươi sáu động cùng bảy mươi hai đảo còn mặt mũi nào trên giang hồ nữa?”.
Mộ Dung Phục trấn tĩnh lại, nhìn quanh thì thấy bóng người trùng trùng điệp điệp khắp bốn hướng tiền hậu tả hữu, trên đỉnh núi, dưới thung lũng, chỗ nào cũng thấy. Người thì tay áo rộng thùng thình, người thì mặc áo chẽn, có ông già râu dài phất phơ, lại có cô gái búi tóc ngược lên đỉnh đầu, chẳng biết họ ở đâu mà chui ra lắm thế. Bốn người Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Phong Ba Ác, Bao Bất Đồng đứng vây quanh Mộ Dung Phục cùng Vương Ngữ Yên để hộ vệ, nhưng so với mấy trăm người vây quanh thì chẳng khác gì một con thuyền nhỏ giữa biển cả.
Mộ Dung Phục cùng bọn Đặng Bách Xuyên tuy đã từng trải vô số nguy hiểm mà lúc này cũng không khỏi kinh sợ, nghĩ thầm: “Giả tỉ bọn người cổ quái này chỉ có mươi tên thì không đáng sợ, nhưng đông đến mấy trăm thì thật khó đối phó.”
Mộ Dung Phục đề tụ chân khí vào đan điền lớn tiếng nói: “Người ta thường nói: Không biết là không có tội. Tại hạ từng nghe đại danh ba mươi sáu động chúa và bảy mươi hai đảo chúa, nhất định không dám cố ý phạm lỗi. Tang Thổ Công động Bích Lân ở Xuyên Tây, Huỳnh Long tử động Câu Long bên Tây Tạng, Chương Chu Phu tiên sinh đảo chúa đảo Huyền Minh ở Bắc Hải, chắc mấy vị tiền bối này cũng có mặt tại đây. Tại hạ vô tình phạm tội, xin các vị miễn thứ cho.”
Bỗng nghe một tràng cười ha hả, rồi có tiếng người nói: “Ngươi tưởng nhắc đến danh hiệu chúng ta là được thả ra một cách dễ dàng chăng? Ha ha!…”
Mộ Dung Phục bắt đầu khó chịu, liền nói: “Tại hạ thấy các vị là bậc trưởng bối nên phải tiên lễ hậu binh nói năng lịch sự mà thôi. Mộ Dung Phục này há sợ gì ai?”
Rất nhiều người vừa nghe thấy ba chữ “Mộ Dung Phục” liền la lên “Ái chà!”. Thanh âm khô khan lại hỏi: “Phải chăng ngươi là Cô Tô Mộ Dung chuyên môn chơi trò Gậy ông đập lưng ông?” Mộ Dung Phục đáp: “Không dám! Chính là tại hạ.” Người kia nói: “Cô Tô Mộ Dung thì không thể chỉ thấy lờ mờ. Thắp đèn lên, để mọi người được nhìn rõ mặt y.”
Gã vừa nói xong, một ngọn đèn vàng thắp lên ở hướng Đông Nam, tiếp theo hướng Tây và Tây Bắc kéo đèn đỏ. Chỉ trong chớp mắt, bốn phương tám hướng đều sáng bừng lên, chỗ thì đèn lồng hay đuốc, chỗ lại đốt củi khô, nhựa thông. Mỗi động, mỗi đảo đều dùng đèn lửa khác nhau, có nơi còn hủ lậu thô sơ, có nơi đã rất tinh vi. Ánh lửa soi rõ mặt mọi người, thật là muôn hình muôn vẻ.
Bọn này có nam, có nữ, có đẹp, có xấu, có tăng nhân, có đạo sĩ, có người tay áo phất phơ, có người áo chẽn sát mình. Có những ông già râu dài quá rốn, lại có những cô gái búi tóc cao, phục sức đều rất kỳ lạ, không giống người ở Trung Thổ chút nào. Quá nửa bọn này đều tay cầm binh khí, mà nhiều thứ binh khí hình thù quái dị không biết gọi tên là gì. Mộ Dung Phục quay qua quay lại vái chào cả bốn phía, dõng dạc lên tiếng: “Tại hạ là Mộ Dung Phục ở Cô Tô, kính cẩn thi lễ cùng các vị”. Bốn bề đều có tiếng đáp lễ, nhưng cũng có nhiều người không thèm lý gì tới y.
Ở hướng tây có người nói: “Nhà Mộ Dung Cô Tô muốn diễu võ dương oai ở Trung Nguyên thì còn được, nhưng vào Vạn Tiên đại hội mà càn rỡ không coi chúng ta vào đâu, thì quả là lớn mật! Ngươi chuyên nghề Gậy ông đập lưng ông, vậy ta hỏi: Ngươi lấy gì mà đập vào lưng ta?”
Mộ Dung Phục nhìn về phía tiếng nói, thì thấy một lão già đầu trọc lóc, không tóc cũng không râu, mặt đỏ như máu, ngồi xếp bằng trên một tảng đá lớn. Nhìn xa xa, đầu lão vừa to vừa tròn, y như một quả huyết cầu, Mộ Dung Phục ôm quyền thi lễ nói: “Không rõ tôn tính đại danh các hạ là gì?”
Người kia ôm bụng cười nói: “Lão phu chỉ muốn coi thử chân tài thực học của nhà Mộ Dung ở Cô Tô, thì ra cũng chỉ có hư danh. Ta vừa hỏi ngươi làm cách nào dùng gậy ta đập vào lưng ta, ngươi đã hỏi lại ta rồi. Thôi thôi! Người khác thì ta không biết, còn ta chẳng muốn làm khó dễ gì ngươi nữa, muốn đi đâu thì đi!”
Mộ Dung Phục xem chừng cục diện hôm nay không thể nói cho xuôi được, tất phải động quyền động cước. Y liền nói: “Đã vậy thì tại hạ xin lãnh giáo mấy chiêu, mời tiền bối ra tay trước!”
Lão kia lại ôm bụng cười ha hả đáp: “Ta muốn khảo nghiệm ngươi chứ không phải muốn ngươi khảo nghiệm ta. Nếu ngươi không giữ được năm chữ Gậy ông đập lưng ông, thì cứ đi đi!”
Mộ Dung Phục nhíu mày nghĩ thầm: “Lão cứ ngồi không nhúc nhích, mình chẳng hiểu môn phái lại không biết họ tên lão, thì làm sao biết được lão sở trường môn gì, làm sao đập vào lưng lão được?”.
Y còn đang ngẫm nghĩ thì lão già kia cười khẩy nói: “Bọn ta ở tản mát ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo khắp chân trời góc bể, ít hiểu việc ở Trung Nguyên, bây giờ mới biết trong đám đui mù kẻ chột làm vua. Một thằng lỏi miệng còn hôi sữa như ngươi đã dám tự xưng Nam Mộ Dung, Bắc Kiều Phong gì gì thật là nghe muốn điếc cả lỗ tai! Ha ha! Thật là tức cười, thật là hèn mạt! Này này ta bảo, bữa nay mi muốn thoát thân cũng chẳng khó đâu. Tất cả có ba mươi sáu động chúa và bảy mươi hai đảo chúa, ngươi phải dập, đầu lạy mỗi vị mười lạy, tổng cộng một ngàn lẻ tám chục cái lạy, là bọn ta tha cho đi ngay.”
Bao Bất Đồng ráng nhịn đã lâu, bây giờ tức đến cành hông, dõng dạc lên tiếng: “Ngươi muốn công tử ta đem tuyệt kỹ của ngươi đập vào lưng ngươi, rồi lại bảo dập đầu lạy, thì ra nghề ruột của ngươi là dập đầu lạy người. Tuyệt kỹ đó thì công tử ta học không vào. Ha ha! Thật là tức cười, thật là hèn mạt!” Gã ngưng một chút rồi quay về phía lão đầu to, lặp lại câu của lão mười lần.
Lão kia quát lên một tiếng, khạc ra một cục đờm rồi phun vào mặt Bao Bất Đồng. Bao Bất Đồng nghiêng người tránh, bất ngờ cục đờm đang lơ lửng bỗng chuyển hướng bay vòng sang trái, bắn ngay trán Bao Bất Đồng đánh “tách” một tiếng. Cục đờm đó kình lực rất mạnh, lại bắn trúng huyệt Dương Bạch trên mí mắt khiến Bao Bất Đồng đau điếng, lảo đảo suýt ngất đi. Mộ Dung Phục cả kinh nghĩ thầm: “Kình lực trong cục đờm thì chẳng đáng gì, chỉ lạ ở chỗ cục đờm của lão lại chuyển hướng giữa chừng được.”
Lão đầu to cười ha hả nói: “Mộ Dung Phục! Không cần ngươi biểu diễn, chỉ cần ngươi nói rõ được lai lịch cục đờm đó là lão phu phục lắm rồi.”
Mộ Dung Phục nghe lão hỏi về lai lịch cục đờm, nghĩ mãi chẳng được gì, không biết nói sao. Đột nhiên thanh âm trong trẻo của Vương Ngữ Yên cất lên: “Đoan Mộc đảo chúa! Các hạ luyện thành Ngũ Đẩu Mễ Thần Công chắc không phải dễ dàng, đã phải tàn sát bao nhiêu sinh mạng rồi? Công tử của ta có nhã ý tránh cho các hạ khỏi bị đồng đạo thù ghét mà không muốn nói huỵch toẹt ra, lẽ nào lại dùng công phu đó để đối phó với các hạ?”
Mộ Dung Phục vừa kinh ngạc vừa mừng thầm, mấy chữ Ngũ Đẩu Mễ Thần Công quả là mình chưa từng nghe nói đến mà biểu muội lại biết, nhưng chưa hiểu nàng nói có đúng hay không.
Lão già đầu to giật mình, chỉ trong nháy mắt là khuôn mặt đỏ như máu biến thành trắng bệch không chút huyết sắc. Lão nói: “Con lỏi kia chỉ ăn nói hồ đồ, không hiểu biết chi hết. Ngũ Đẩu Mễ Thần Công là môn hại nhân lợi kỷ, nham hiểm độc ác vô cùng, ta luyện làm chi? Nhưng mi đã gọi đúng được họ của ta thì cũng không phải hạng tầm thường.”
Vương Ngữ Yên nghe vậy biết là mình đoán trúng rồi, nhưng lão không chịu thừa nhận môn võ vì sợ người ta khinh bỉ thôi. Nàng bèn nói: “Đoan Mộc động chúa ở động Xích Diệm trên núi Ngũ Chỉ tại đảo Hải Nam, trên giang hồ còn ai không biết, tiểu nữ đoán được có chi là lạ? Tuyệt kỹ vừa rồi của Đoan Mộc động chúa đã không phải là Ngũ Đẩu Mễ Thần Công, thì hẳn là một môn thần diệu do động chúa chế biến từ Địa Hỏa Công ra!”
Địa Hỏa Công vốn là tuyệt nghệ của Xích Diệm Động, các động chúa của động này đều ở họ Đoan Mộc, lão đầu to này tên gọi Đoan Mộc Nguyên. Lão nghe Vương Ngữ Yên nói rõ lai lịch mình, đã đem lòng khâm phục, lại thấy nàng giấu cho mình cái môn Ngũ Đẩu Mễ Thần Công chẳng tốt đẹp gì, đâm ra có cảm tình với nàng. Huống chi động Xích Diệm vốn chẳng có tiếng tăm gì, cái môn phái nhỏ bé của lão cũng chẳng mấy ai biết, thế mà nàng lại nói là “trên giang hồ còn ai không biết” khiến cho lão càng hoàn hỉ. Lão cười nói: “Phải rồi! Phải rồi! Đó chỉ là Địa Hỏa Công biến hóa đi một chút, chẳng có chi đáng kể. Lão phu nói trước rồi, ngươi đã gọi ra đúng môn phái thì lão phu không làm khó dễ nữa đâu.”
Đột nhiên ở tảng đá đối diện có tiếng khóc thút thít rất nhỏ, nghẹn ngào như có như không. Người đó vừa khóc vừa nói: “Đoan Mộc Nguyên! Lang quân ta cùng mấy vị huynh đệ có phải đều chết về tay ngươi không? Ngươi luyện cái môn Ngũ Đẩu Mễ Thần Công trời đánh ấy để sát hại bọn họ chứ gì?” Người đó nấp sau tảng đá không trông rõ tướng mạo, chỉ thoáng thấy mụ mặc áo đen, người cao, tay áo rộng thùng thình.
Đoan Mộc Nguyên cười ha hả đáp: “Nương tử là ai thế? Lão phu chẳng biết cái môn Ngũ Đẩu Mễ Thân Công đó là cái gì. Nương tử đừng nghe tiểu cô nương kia nói lung tung!”
Người đàn bà quay sang Vương Ngữ Yên vẫy tay gọi: “Tiểu cô nương qua đây chơi, ta muốn hỏi cô một điều.” Tay mụ cầm một cái cần trúc dài ba thước, ở đầu cần có gắn thiết trảo. Mụ vừa vẫy tay, cái bàn tay sắt đó đã móc đúng vào thắt lưng Vương Ngữ Yên, kéo người nàng bước tới một bước. Nàng cố gượng đứng vững, nhưng mụ kia lại vẫy tay nữa.
Vương Ngữ Yên lại bị kéo tới hai bước, sợ quá la lên một tiếng. Mộ Dung Phục liền phất tay áo một cái, thi triển công phu Đẩu Chuyển Tinh Di, khiến cho kình lực đang kéo Vương Ngữ Yên xoay lại kéo mụ kia.
Mụ kia “A” lên một tiếng, chân đứng không vững, loạng choạng rồi bước ra ngoài khe đá, đến trước mặt Mộ Dung Phục chừng hơn một trượng thì kình lực mới tiêu tan, không bị kéo tới nữa. Mụ cả kinh thất sắc, sợ Mộ Dung Phục xuất thủ hại mình liền buông cần trúc, ráng sức nhảy ngược lại phía sau một trượng.
Vương Ngữ Yên gỡ thiết trảo dính trong thắt lưng của mình ra, đưa cái cần cho Mộ Dung Phục. Y bèn phất tay trái, cái cần trúc từ từ bay về phía mụ. Mụ đưa tay định đón lấy, nhưng cái cần lại đột ngột rơi xuống, cắm trên mặt đất cách mụ ba thước.
Vương Ngữ Yên nói: “Thì ra là Lê phu nhân tại đảo Na Hoa biển Nam Hải. Thái Yến Công của phu nhân thật là tuyệt diệu, tiểu nữ khâm phục vô cùng!” Thiếu phụ kia biến sắc hỏi lại: “Tiểu cô nương! Sao cô nương… lại biết họ của ta? lại biết cả Thái Yến Công của ta?” Vương Ngữ Yên đáp: “Phu nhân vừa thi triển công phu thần diệu bắt vật ở trên không, chính là Thái Yến Công lừng danh thiên hạ của đảo Na Hoa chứ còn gì nữa.” Nguyên đảo Na Hoa ở miền Nam Hải, trên đảo này có nhiều chim én làm tổ ở những hốc núi đá vừa cao vừa hiểm hóc, việc lấy tổ yến không phải dễ dàng. Nhà họ Lê ở đảo này đã mấy trăm năm, do công việc dùng cần trúc gắn móc để gỡ yến sào mà luyện thành tuyệt kỹ Thái Yến Công độc đáo của riêng mình. Tuyệt kỹ này chính là một môn chuyên bắt lấy vật trên không, về khinh công, bộ pháp cũng có chỗ đặc biệt. Vương Ngữ Yên vừa thấy thân pháp Lê phu nhân nhảy ngược ra sau rất giống như cánh én bị gió biển thổi bạt đi, nên nàng không nghi ngờ gì nữa, nói rõ ra.
Lê phu nhân thấy Mộ Dung Phục phất tay áo một cái đã lôi được mình đi thì đã kinh hãi trong lòng, bây giờ lại nghe Vương Ngữ Yên gọi ra lai lịch võ công nhà mình, bèn cho là đối phương đã biết hết sở trường của mụ. Mụ không dám ngang ngược nữa, quay lại nói với Đoan Mộc Nguyên: “Đoan Mộc lão nhi! Hảo hán thì phải dám làm dám chịu. Lang quân ta cùng mấy vị huynh đệ phải chăng đã bị hại về tay ngươi?”
Đoan Mộc Nguyên cười ha hả đáp: “Lê phu nhân là đảo chủ đảo Na Hoa ở Nam Hải, vậy cũng là hàng xóm mà lão phu không biết, thật là thất kính. Lão phu chưa gặp trượng phu của phu nhân lần nào, đừng nói đến chuyện gia hại!”
Lê phu nhân có vẻ không tin, nói: “Sau này sẽ biết rõ, chỉ mong ngươi không phải là hung thủ.” Mụ nói xong, lại ẩn vào trong khe đá.
Lê phu nhân vừa rút lui, đột nhiên từ trên ngọn cây tùng có một vật nặng rớt xuống, đụng vào một tảng đá đánh choang một tiếng. Vật đó là một chiếc đỉnh đồng rất lớn đã teng xanh lại. Mộ Dung Phục ngẩng đầu nhìn lên ngọn cây tùng để xem ai nấp trên đó, tự hỏi: “Không biết ai đã mang một vật nặng đến mấy trăm cân lên ngọn cây, rồi lại thả xuống làm gì? Cái đỉnh này trông giống như cái đỉnh đồng của động Bích Lân mà Công Dã Càn vừa đá lăn ra lúc này, nhưng lớn hơn nhiều. Chẳng lẽ Tang Thổ Công lại nấp trên ngọn cây? Gã quan sát ngọn cây thật kỹ, nhưng chẳng thấy ai.
Bỗng nghe mấy tiếng vo vo nhỏ xíu lẫn trong tiếng gió, Mộ Dung Phục tâm cơ linh mẫn vô cùng, lập tức phóng chưởng đánh ra, lúc đó mới nhìn thấy ánh sáng lập lòe, mấy nghìn mũi kim nhỏ như lông trâu bắn tung tóe ra bốn phía, Mộ Dung Phục kêu thầm: “Nguy rồi!”, vội chụp lấy lưng Vương Ngữ Yên, tung mình nhảy lên không. Công Dã Càn, Phong Ba Ác cùng mọi người xung quanh đều nhao nhao kêu lên: “Nguy rồi!” “Trời ơi, trúng phải độc châm rồi!” “Con mẹ nó! Ám khí này độc lắm đây!” “Úi chao! Ngứa đến chết người.”
Mộ Dung Phục đang lơ lửng trên không, nhìn xuống thấy nắp chiếc đỉnh đồng lớn kia nhúc nhích, rồi trong đỉnh có vô số vật nhỏ tung ra. Y không suy nghĩ gì nhiều, đặt Vương Ngữ Yên lên ngọn cây rồi nói:”Biểu muội ngồi yên!”, rồi hạ mình xuống, dùng phép Thiên Cân Trụy đạp hai chân lên nắp đỉnh, đè chặt lấy.
Mộ Dung Phục nhảy lên rồi hạ xuống, chỉ trong chớp mắt đã giữ được nắp đỉnh lại. Những tiếng la gọi vang lên tứ phía: “Mau lấy thuốc giải độc!” “Đây là Ngưu Mao Châm của động Bích Lân, chỉ trong một giờ là nghẹt thở, độc chất công thẳng vào tâm tạng rất nguy hiểm.” “Thằng giặc thối tha Tang Thổ Công ở đâu, phải tóm lấy mà đòi thuốc giải” “Thằng cha này phóng Ngưu Mao Châm bừa bãi, cả ta đây là lão bằng hữu cũng bị thương rồi!” “Lấy thuốc giải mau! Tang Thổ Công đâu?”
Những tiếng gọi tìm Tang Thổ Công, gọi lấy thuốc giải nhốn nháo cả lên. Có người trúng độc châm phải nhảy loạn lên, có người lại ôm gốc tùng mà kêu rống. Ngưu Mao Châm quả là lợi hại vô cùng, khiến người trúng phải không sao chịu nổi.
Công Dã Càn tay trái xoa ngực, tay phải ôm bụng, đang ngưng thần vận khí. Phong Ba Ác thì hai chân nhảy loạn lên quát mắng om sòm. Mộ Dung Phục biết hai gã này đã trúng ám khí, trong lòng vừa lo lắng, vừa nghi ngờ, lại vừa căm hận. Rõ ràng trong đỉnh đồng phải có người vận động cơ quan thì mới phóng độc châm ra vừa nhanh vừa nhiều đến thế. Rủi ro ở chỗ cái đỉnh rớt xuống đánh choang một tiếng, khiến mọi người phải ngửng đầu nhìn lên ngọn cây, người ngồi trong đỉnh mới thừa cơ hội phóng độc châm ra.
Giả tỉ Mộ Dung Phục không ứng biến mau lẹ, hoặc chưởng phong không mãnh liệt thì đã bị hàng ngàn hàng vạn mũi độc châm bắn vào da thịt rồi. Kẻ ngồi trong đỉnh phóng trộm ám khí lại được chiếc đỉnh che kín, những mũi độc châm bị Mộ Dung Phục vận nội kình hất ra đều bắn vào người xung quanh hoặc bắn vào đỉnh, không thể trúng gã được.
Bỗng nghe một giọng nói bán nam bán nữ lên tiếng: “Mộ Dung Phục! Ngươi không trách ai được. Ngươi quen lấy gậy ông đập lưng ông, bây giờ hất độc châm ra làm bằng hữu nhà ngươi bị nạn là đúng nghề rồi.” Tên này đứng xa, lại ẩn sau một tảng đá lớn nên không trúng phải độc châm, bèn châm biếm chơi.
Mộ Dung Phục không lý gì đến gã, nghĩ bụng: “Muốn giải được độc châm này, dĩ nhiên cần đến người ngồi trong đỉnh đã vận động cơ quan phóng độc châm ra.” Chiếc nắp đỉnh dưới chân Mộ Dung Phục không ngớt rung động, chắc hẳn người ngồi trong đỉnh toan hất nắp đỉnh để xông ra. Nhưng ba ngón tay Mộ Dung Phục đang bám vào cây tùng lớn, nắp đỉnh chẳng khác gì đã liền vào gốc cây, sức đè xuống nặng đến vạn cân. Cây tùng lớn cứ lắc đi lắc lại vang lên những tiếng kẽo kẹt, những rễ nhỏ bị đứt mất nhiều, nhưng đẩy bật gốc cây lên đâu phải chuyện dễ dàng? Người ngồi trong đỉnh muốn thoát ra chỉ có cách dùng bảo đao bảo kiếm chém vỡ đỉnh, còn cố đội nắp đỉnh lên thì không ăn thua gì.
Mộ Dung Phục định bụng chờ một lát nữa rồi sẽ đột nhiên nới tay cho đối phương vọt ra, thế nào gã cũng liệng ra một nắm độc châm để hộ thân, khi đó sẽ vung chưởng hất độc châm bắn trở lại trúng vào người hắn. Dĩ nhiên hắn phải lấy thuốc giải ra để tự cứu, lúc đó sẽ cướp lấy, dễ hơn nhiều so với việc năn nỉ gã xin thuốc giải.
Nắp đỉnh bị đẩy hai lần nữa, rồi đột nhiên không thấy động tĩnh gì. Mộ Dung Phục nghĩ rằng người ngồi trong đỉnh đang vận hết nội lực để đột ngột phóng ra một lần chót. Y định bụng lần này sẽ nới tay cho hắn ra, cũng vận nội lực sẵn sàng phóng chưởng. Ngờ đâu một lúc lâu mà người trong đỉnh vẫn không nhúc nhích, tựa như đã chết ngạt trong đó rồi.
Tiếng kêu gào chung quanh mỗi lúc một thê thảm hơn. Có người ngứa quá không nhịn được phải lăn lộn dưới đất, lại có kẻ đập đầu vào đá, hay tự đấm ngực thình thình, xem thật là dễ sợ. Bảy tám giọng cùng la lối: “Mau mau lôi gã Tang Thổ Công ra đây, bắt hắn lấy thuốc giải độc!” Giữa những tiếng la ó, mười mấy người mắt đỏ ngầu đồng thời xông về phía Mộ Dung Phục.
Mộ Dung Phục điểm chân trái xuống nắp đỉnh, nhẹ nhàng nhảy vọt lên không. Y toan đáp xuống một cành tùng đâm ngang ra, đột nhiên nghe những tiếng vo vo, hàng trăm hàng ngàn mũi kim sáng chói bắn xéo lên.
Diễn biến thật là đột ngột. Người bắn độc châm là Tang Thổ Công hãy còn ngồi trong đỉnh, thế mà nắm độc châm này phóng ra rất mãnh liệt, rõ ràng đã được phát xạ bằng máy móc. Chẳng lẽ Tang Thổ Công còn có đồng đảng nấp gần đây để hạ độc thủ nữa chăng?
Lúc này Mộ Dung Phục đang lơ lửng trên không, khó mà tránh được. Nếu dùng chưởng lực hất xuống thì bốn người bọn Đặng Bách Xuyên đang ngồi dưới gốc cây lại bị trúng châm, như thế là làm hại đến huynh đệ. Mộ Dung Phục phất tay áo bên trái cho phồng lên như cánh buồm, mượn đà lượn trên không sang bên trái ba thước né tránh, đồng thời vung tay áo bên phải phát ra một luồng nội lực hất hàng ngàn mũi độc châm phóng lên trời. Sau đó người gã mới nhẹ nhàng hạ dần xuống.
Lúc này trên trời không có trăng sao, nhưng đèn đuốc bốn mặt chiếu sáng tỏ. Mọi người nhìn thấy thân pháp Mộ Dung Phục nhẹ nhàng như người biết cưỡi gió mà đi, đều không khỏi kinh hãi. Người thì la ó quát mắng, người thì hoan hô tán thưởng, át hẳn những tiếng rên la thê thảm.
Mộ Dụng Phục lúc còn lơ lửng trên không đã để mắt chú ý nhìn xem đám độc châm đó từ đâu bắn lên, lúc rớt xuống còn cách mặt đất hơn một trượng, chân trái liền đạp một cành cây mọc ngang để mượn đà nhảy sang mé hữu. Y đang hạ xuống từ từ, bỗng vọt đi lẹ như chim ưng, hai chân nhắm đạp xuống đầu một người vừa thấp lùn vừa béo trùng trục ngồi cạnh một phiến đá. Thì ra lúc Mộ Dung Phục đảo mắt nhìn quanh đã thấy người này ôm một cái đỉnh như đang thủ thế.
Gã lùn xoay người đi tránh ra ba thước, trông như một quả cầu lăn tròn dưới đất cực kỳ mau lẹ. Mộ Dung Phục đáp xuống chỗ trống, phóng chưởng ra đánh binh một tiếng vào lưng đối phương. Gã lùn đang muốn đứng dậy thì trúng chưởng lại ngã ra, liền mượn thế lăn luôn bảy tám trượng rồi mới đứng lên. Nhưng phát chưởng này cực kỳ mãnh liệt, gã vừa đứng lên đã lảo đảo mấy cái, hai chân nhũn ra, lại ngồi phệt xuống.
Tứ phía kia có mười mấy người cùng la lên: “Tang Thổ Công! Lấy thuốc giải ra!” rồi nhảy xổ lại. Đặng Bách Xuyên và Bao Bất Đồng đều nghĩ: “Gã lùn này là Tang Thổ Công.” Hai người muốn bắt gã để lấy thuốc giải trị thương cho huynh đệ, vội vàng vừa quát vừa nhảy vọt tới.
Tang Thổ Công chống tay trái xuống đất toan đứng lên, nhưng không đủ sức. Bao Bất Đồng nhảy tới trước tiên, thò tay ra chụp lấy vai gã, ngờ đâu đòn trảo vừa trúng đích thì bàn tay đau nhức không chịu được phải rút về, xoay bàn tay lên coi thấy máu chảy đầm đìa. Thì ra trên áo Tang Thổ Công giắt đầy kim nhọn chẳng khác gì con nhím, mà những mũi châm này đều tẩm thuốc độc. Chỉ trong chốc lát, Bao Bất Đồng thấy vừa ngứa ngáy vừa đau ghê gớm, chỉ muốn chặt đứt bàn tay mà vứt đi. Bao Bất Đồng vừa sợ vừa tức liền phóng chân trái ra, xuất chiêu Kim Câu Phá Băng đá vào mông Tang Thổ Công. Gã này đang nằm quằn quại dưới đất, rõ ràng thế nào cũng bị đá trúng.
Bàn chân chỉ còn cách mông Tang Thổ Công mấy tấc, đột nhiên Bao Bất Động tỉnh ngộ: “Hỏng bét, nếu mông hắn cũng gắn độc châm thì mình lại hỏng thêm một chân, thật là ngu xuẩn.” Nhưng gã sợ rút chân về đột ngột sẽ tổn thương đến gân cốt, bèn tức tốc phóng tả chưởng xuống đất, mượn đà lộn người đi.
Bao Bất Đồng biến thế rất mau lẹ, bàn chân chỉ lướt khẽ qua quần Tang Thổ Công, cũng chẳng hiểu mông của y có gắn châm độc hay không.
Lúc ấy Đặng Bách Xuyên cùng mọi người đã nhảy tới, thấy Bao Bất Đồng.rõ ràng đã chụp được Tang Thổ Công, mà không hiểu sao lại bị thương. Bởi vậy Tang Thổ Công nằm phục dưới đất không nhúc nhích mà chẳng ai dám mạo hiểm động thủ. Chỉ có Bao Bất Đồng tính tình cố chấp, nhất định không chịu thua. Gã nhấc một khối đá nặng đến hơn hai trăm cân, quát lên: “Tránh ra! Tiểu đệ phải đập chết con rùa đen này!”
Có người vội la lên: “Không được! Đập chết gã thì lấy đâu ra thuốc giải độc? Có người lại kêu: “Thuốc giải ở trong mình hắn, cứ đập chết là lấy được.” Xem chừng bọn này tụ họp với nhau mà mỗi người vẫn có ý kiến riêng, chẳng đồng tâm hiệp lực chi hết. Bao Bất Đồng muốn đập chết Tang Thổ Công, có người phản đối lại có người đồng tình, mỗi người một phách.
Giữa lúc lộn xộn, Bao Bất Đồng xách một tảng đá lớn bước tới, quát lên: “Ta phải đập nát bét con rùa đen mình đầy độc châm này.” Lúc đó lòng bàn tay gã càng ngứa ran lên không chịu nổi, bèn giơ thẳng hai tay đập mạnh tảng đá xuống lưng Tang Thổ Công. Chỉ nghe một tiếng binh vang lên, cát bụi bay mù mịt.
Mọi người đều giật mình kinh hãi. Tảng đá đó mà trúng lưng Tang Thổ Công thì tất nhiên hắn phải rú lên thê thảm, da thịt phải tan nát, không thể có cát bụi bay mù như thế được. Ai nấy định thần nhìn lại thì lại càng ngạc nhiên hơn, chỉ thấy khối đá nằm trơ dưới đất, Tang Thổ Công đã biến đi đâu mất.
Bao Bất Đồng phóng chân hất khối đá lăn sang một bên, dưới đất hiện ra một cái hang. Trong tên Tang Thổ Công đã có chữ “Thổ”, thuật địa hành của hắn rất mực tinh thông. Lúc nãy Mộ Dung Phục đè chặt nắp đỉnh, Tang Thổ Công không có cách nào hất nắp đỉnh lên để thoát ra, hắn phải đạp dưới đáy đỉnh vận động cả chân tay đào một cái hang chui xuống đất để thoát thân. Bao Bất Đồng ngẩn ngơ, nhìn cả bốn phương tám hướng xem Tang Thổ Công ở đâu. Gã nghĩ thầm: “Thằng cha này không phải là con Xuyên sơn giáp, thì dù hắn có chui xuống đất cũng đào được mấy thước là cùng, chẳng lẽ hắn biết thuật độn thổ mà trốn được ngay?”
Bỗng nhiên Mộ Dung Phục la lên: “Hắn đây rồi!” rồi vung tay áo bên phải quét vào tảng đá một cái. Tang Thổ Công thật là một con người cổ quái, có đủ ngón che mắt bịp người, nếu nhãn lực Mộ Dung Phục không đủ tinh vi thì không thể phát giác ra tảng đá này chính là lưng gã.
Tang Thổ Công như một trái bóng thịt, bị tụ phong mãnh liệt tung lên trên không. Lúc nãy hắn trúng chưởng của Mộ Dung Phục đã bị thương khá nặng, không còn sức kháng cự, vội cất tiếng la lên: “Đừng hạ độc thủ, để tại hạ lấy thuốc giải cho!”
Mộ Dung Phục chỉ mỉm cười, lại vung tay trái, phát ra một luồng kình phong vừa tiêu trừ tụ phong bên tay phải, vừa giữ thân thể Tang Thổ Công lại cho hạ từ từ xuống.
Xa xa phía trước có tiếng hoan hô: “Cô Tô Mộ Dung, danh bất hư truyền!” Mộ Dung Phục xua tay đáp: “Chẳng đáng làm trò cười, nghĩ mà hổ thẹn.” Lúc ấy một luồng kim quang, một luồng ngân quang vụt tới bên trái đầu y nhanh như chớp, tiếng rít lên nghe rất ghê sợ. Mộ Dung Phục không dám chần chờ, vận nội lực vào hai tay áo để đón lấy. Một tiếng “ầm” vang lên, tụ phong dội ngược lại, hai luồng ánh sáng cũng lui lại ba thước. Bấy giờ Mộ Dung Phục mới nhìn rõ, đó là hai cái đai vừa dài vừa rộng, một là đai vàng, một là đai bạc.
Hai người cầm đai đều đã già, lão sử đai vàng thì mặc áo bào bạc, lão sử đai bạc lại mặc áo bào vàng. Cả áo lẫn đai đều chiếu hào quang rực rỡ, cực kỳ diễm lệ. Loại áo bào vàng bạc này tựa như phục trang trên sân khấu, không phải để mặc lúc bình thường. Lão mặc áo bạc lên tiếng: “Bái phục, bái phục! Hãy tiếp thêm một chiêu của huynh đệ ta!” Hào quang lấp loáng, đai vàng vọt thẳng tới bên trái, còn đai bạc thì vung lên không rồi chụp xuống thượng bộ Mộ Dung Phục.
Mộ Dung Phục nói: “Hai vị tiền bối…”, mới được bốn chữ thì nghe mấy tiếng veo véo, phía dưới lại có ba thanh trường đao chém tới. Ba người này đều sử dụng Địa Đường Đao Pháp, chia nhau tấn công vào hạ bàn Mộ Dung Phục. Thế là Mộ Dung Phục bị ba mặt giáp công. Y nghĩ thầm: “Đối phương đã tự xưng là ba mươi sáu động chúa và bảy mươi hai đảo chúa, người nhiều thế mạnh, nếu hỗn chiến thì nguy hiểm khôn lường. Ta phải đánh phủ đầu, khủng bố tinh thần họ trước.” Ba lưỡi đao quét tới nơi, Mộ Dung Phục mắt lẹ chân nhanh, phóng luôn ba cước, đều trúng vào cổ tay địch nhân. Ba thanh đao đều bị đá tung lên không, bạch quang lấp loáng. Mộ Dung Phục lạng người sang bên, thi triển công phu Đẩu Chuyển Tinh Di gạt vào đầu cái đai vàng, nghe đánh chát một tiếng, đai vàng và đai bạc đã cuốn vào nhau.
Lúc này ba người sử đao đã lăn vào khoảng giữa Mộ Dung Phục và Tang Thổ Công. Bọn chúng đã mất đơn đao mà không chịu lùi lại, la lối om sòm, cứ định vồ lấy chân Mộ Dung Phục. Y không dám để chúng lấn quất bên mình, lại phóng cước nhanh như gió đá trúng huyệt đạo trước ngực cả ba. Đột nhiên xuất hiện một người mặc áo đen, chân tay dài như vượn, vượt qua mọi người rồi xòe bàn tay lớn bằng chiếc quạt nắm lấy Tang Thổ Công xách đi. Không hiểu trời sinh tên này có da bàn tay dày như da voi, hay là có đeo bao tay sắt, mà y không sợ độc châm trên người Tang Thổ Công. Y nắm được Tang Thổ Công rồi nhảy lùi lại xa hơn một trượng.
Mộ Dung Phục thấy mỗi cái giơ tay cất chân của người này đều ghê gớm, rõ ràng võ công hắn cao thâm hơn bọn kia nhiều. Y kinh hãi nghĩ thầm: “Tang Thổ Công mà bị tên này xách đi thì khó lòng kiếm được thuốc giải. Tâm niệm vừa động, Mộ Dung Phục liền vọt người lên, vượt qua ba tên nằm dưới đất, phóng chưởng đánh tới người áo đen. Gã kia cười lạnh lẽo, hoành đao trước ngực, thanh quang lấp loáng.
Đó là một lưỡi quỉ đầu đao sống dày lưỡi mỏng, sắc nhọn dị thường, đao quang xanh lè. Mộ Dung Phục thấy lưỡi đao của đối phương đã đón sẵn mà vẫn đánh xuống, tưởng chừng bàn tay y sắp đập vào lưỡi đao mà đứt lìa ra. Nhưng bàn tay y còn cách lưỡi đao chừng hai tấc thì đột nhiên xoay ngang ra, quét dọc theo lưỡi đao để hớt vào tay của người áo đen.
Cườm tay của Mộ Dung Phục đã vận chân lực vào, lợi hại chẳng kém gì lưỡi quỷ đầu đao, nếu chém trúng cũng chặt đứt được tay đối phương. Gã áo đen giật mình la lên một tiếng, buông rơi thanh đạo rồi xoay tay lại đỡ. Hai người đối chưởng nghe ầm một tiếng, gã áo đen lại la lên một tiếng nữa, rồi nhảy lùi lại xa hơn một trượng. Nhưng tay trái gã vẫn nắm chặt lấy Tang Thổ Công, nhất định không chịu buông ra. Mộ Dung Phục xoay tay lại nắm lấy thanh quỷ đầu đạo đang rơi xuống, bỗng ngửi thấy một mùi tanh tưởi, biết ngay lưỡi đao này có bôi thuốc độc tà môn.
Mộ Dung Phục tuy mới xuất một chiêu đã đoạt được khí giới của đối phương, song y thấy bảy tám người bên địch đã đưa binh khí ra chắn trước mặt người áo đen, thì khó mà xông vào cướp Tang Thổ Công lại được. Y lại vừa đối chưởng với người áo đen, biết rằng công lực hắn kém mình, nhưng bên trong lại có chỗ quái dị, giả tỉ được lấy một chọi một cũng không thể thủ thắng trong chốc lát được.
Tiếng người vẫn huyên náo không ngừng: “Tang Thổ Công! Mau lấy thuốc giải ra!” “Con mẹ nó! Thứ độc châm này mà không trị thì chỉ một giờ là mất mạng.” “Ô Lão Đại! Mau mau kêu hắn lấy thuốc giải ra, ta không chịu được nữa!” Dưới ánh đèn lửa, vô số bóng người chen lấn nhau chạy tới chỗ gã áo đen Ô Lão Đại để xin gã lấy thuốc giải cho.
Lão Đại nói: “Được rồi! Lão họ Tang béo phì này, móc thuốc giải ra đi!” Tang Thổ Công đáp: “Ngươi phải buông ta ra chứ!” Ô Lão Đại nói: “Ta mà buông tay thì địch nhân lại bắt ngươi mất, buông ra thế nào được? Lấy thuốc giải ra đi!” Những người đứng cạnh đều quát lên: “Phải rồi! Lấy thuốc giải ra đi.” Có người lớn tiếng thóa mạ: “Thằng rợ Miêu này! Ngươi còn chần chờ nữa là lão gia cho một mớ lửa đốt rụi cái động Bích Lân, họ hàng nhà rùa đen cháy không còn một cái móng chân!”
Tang Thổ Công ấp úng đáp: “Ta để thuốc giải dưới đất, phải buông ra thì ta mới đi lấy được.” Mọi người đều chưng hửng, biết hắn nói thật tình. Tang Thổ Công vốn thích ở trong sơn động âm u không có bóng mặt trời, hắn giấu thuốc dưới đất là hợp lý.
Mộ Dung Phục không nghe Công Dã Càn cùng Phong Ba Ác rên la, nhưng y thấy mọi người đang ngứa ngáy quằn quại, thì nhị ca cùng tứ ca tất cũng chẳng khác gì. Y quyết định trước mắt phải dùng toàn lực để cướp lại Tang Thổ Công rồi sẽ tính tiếp, bèn quát lên một tiếng, múa tít thanh quỷ đầu đao xông vào giữa đám đông như con hổ đói xông vào giữa đàn dê, mọi người đều dạt sang hai bên. Đặng Bách Xuyên và Bao Bất Đồng thì đang phải hộ vệ cho Công Dã Càn cùng Phong Ba Ác, không dám rời xa nửa bước vì sợ địch nhân ám hại.
Ô Lão Đại thấy Mộ Dung Phục hung hãn quá không dám chống đối, xách Tang Thổ Công lui ra xa. Bỗng có người kêu lên: “Các vị phải cẩn thận! Gã đang cầm Lục Ba Hương Lộ Đao, đừng để chém trúng.” Người khác lại kêu: “Trời ơi! Sao Ô Lão Đại lại để y đoạt được Lục Ba Hương Lộ Đao? Thế thì nguy to rồi!”
Mộ Dung Phục vung đao tiến vào, gặp đủ loại người. Hòa thượng cùng đạo sĩ, hán tử xấu xa cùng nữ nhân mỹ lệ, mặt ai cũng có vẻ khiếp sợ, hối hả tránh ra. Rõ ràng thanh quỷ đầu đao này có nhiều lai lịch, nhưng tanh tưởi khó ngửi mà lại gọi là Hương Lộ Đao, thật tức cười! Mộ Dung Phục nghĩ: “Ta múa thanh độc đao này chém chết mươi tên động chúa, đảo chúa gì gì đó cũng chẳng khó khăn gì, nhưng mình với bọn họ vốn không thù oán, thì giết người làm chi? Giả tỉ chúng liều chết không chịu cho thuốc giải, thì chất độc trong người nhị ca cùng tứ ca không hiểu sẽ phát tác thế nào.” Y nghĩ vậy nên tuy vung đao xông vào đám đông mà không hạ sát thủ chém chết mạng nào, chỉ điểm huyệt mấy người thôi.
Bọn người kia lúc đầu còn khiếp sợ, về sau thấy uy lực thế đạo của y không hung hãn lắm, đều trấn tĩnh lại. Chỉ trong khoảnh khắc trường kiếm, đoản đao, nhuyễn tiên… từ bốn phía tới tấp phóng ra nhằm vào người y. Mộ Dung Phục võ công cao cường, nhưng bị mười mấy người bao vây, tả xung hữu đột một lúc đã bắt đầu luống cuống. Y thấy bên ngoài vòng chiến còn ba bốn trăm người trùng trùng điệp điệp, không khỏi kinh hãi.
Mộ Dung Phục chống đỡ một lát nữa rồi nghĩ thầm: “Không hạ độc thủ thì biết đến bao giờ mới kết liễu tình thế này?” Y múa tít thanh đao, nghe hai tiếng “binh binh”, sống đao đã đánh trúng hai người bất tỉnh ngay. Bỗng nghe Đặng Bách Xuyên lớn tiếng quát: “Bọn đê tiện kia! Không được động đến cô nương!” Mộ Dung Phục liếc qua, thấy hai người đang tung mình nhảy lên ngọn cây có Vương Ngữ Yên ngồi trên, Đặng Bách Xuyên đang vừa chạy như bay tới, vừa tới tấp phóng chưởng ra ngăn trở. Mộ Dung Phục cực kỳ bối rối, lại thấy thêm ba người nữa chạy tới chỗ cây tùng đó. Y hiểu rõ ngay chủ ý bọn này, không hạ nổi mình nên nhảy lên bắt biểu muội để uy hiếp, thật là vô sỉ. Mộ Dung Phục bị vô số người bao vây, không có cách nào phân thân để chạy lại cứu Vương Ngữ Yên được, chỉ chốc lát đã thấy hai cô gái nắm tay Vương Ngữ Yên nhảy từ trên cây xuống. Một tên đầu đà tóc dài đội vòng vàng cầm giới đao kê vào cổ Vương Ngữ Yên quát lên: “Mộ Dung tiểu tử! Mi mà không chịu đầu hàng thì ta cắt đầu con bé này!”
Mộ Dung Phục ngẩn người ra, nghĩ bụng: “Bọn yêu ma này tàn ác vô cùng, chẳng kiêng nể cái gì, không chừng dám sát hại biểu muội ta thật. Biết làm thế nào đây? Tiếng tăm nhà Mộ Dung ở Cô Tô lừng lẫy võ lâm, sao lại đầu hàng được? Bây giờ mà mình mở miệng đầu hàng, thì sau này còn làm người được chăng?” Trong lòng y rối loạn mà tay chân không chậm lại chút nào, phóng ra hai chưởng vù vù, hất hai tên địch bay ra ngoài một trượng.
Gã đầu đà lại quát lớn: “Mi không đầu hàng là ta cắt cái đầu đẹp như hoa như ngọc này rớt xuống lập tức!”. Thanh giới đao vung lên, đao quang xanh lè rung động không ngớt.