Hồi 28: Tử Sam long vương ân đoạn nghĩa tuyệt
Gần tới Đại Đô, Trương Vô Kỵ nghĩ thầm trong trận chiến đêm qua ở chùa Vạn An, rất nhiều võ sĩ thuộc hạ của Nhữ Dương Vương đã biết mặt chàng, chạm trán với chúng sẽ rất bất tiện; thế là chàng ghé vào một gia đình nông phu mua một bộ quần áo cũ thay vào, đầu đội thêm cái nón lá, lấy tro than xoa mặt và tay cho đen đúa, rồi mới đi vào thành.
Chàng trở lại khách điếm ở phía tây kinh đô, nhìn bốn bề không thấy có gì lạ, mới lẻn nhanh vào phòng mình. Tiểu Chiêu đang ngồi bên song cửa đan áo, thấy chàng bước vào thì giật mình, một lát mới nhận ra, vẻ mặt mừng rỡ, tươi tắn như bông hoa xuân chớm nở, nói:
– Công tử gia, tiểu nữ cứ ngỡ là một anh nhà quê nào vào nhầm phòng, ai ngờ lại là công tử.
Trương Vô Kỵ cười hỏi:
– Cô nương đang làm gì đấy? Ở một mình có buồn không?
Tiểu Chiêu đỏ mặt, giấu chiếc áo len đan dở ra sau lưng, e thẹn nói:
– Tiểu nữ tập đan áo, chưa cho xem được.
Nàng giấu cái áo xuống dưới gối, rót trà cho Trương Vô Kỵ, thấy mặt chàng lem luốc, cười hỏi:
– Công tử không rửa mặt hay sao?
Trương Vô Kỵ mỉm cười:
– Ta cố ý bôi lem, đâu cần rửa.
Chàng bưng chén trà lên, nghĩ thầm: “Triệu cô nương muốn ta đưa nàng đi mượn thanh đao Đồ Long. Đại trượng phu một lời nặng như núi, không thể thất tín với người khác. Huống hồ mình cũng đang định đi mời nghĩa phụ trở về Trung thổ. Nghĩa phụ vốn e ngại có quá nhiều kẻ thù, mắt bị lòa không thể đối phó nổi. Nhưng bây giờ quần hào võ lâm đồng tâm kháng Hồ, mọi thù oán riêng tư đều được cởi bỏ hết. Chỉ cần có ta ở bên cạnh lão nhân gia thì không ai dám động tới sợi tóc của nghĩa phụ ta. Biển cả sóng to gió lớn nhiều hung hiểm, cô bé Tiểu Chiêu không thể đi cùng. Được, có cách rồi, ta sẽ nhờ Triệu Mẫn đem Tiểu Chiêu vào gửi trong vương phủ, còn an toàn bằng mấy ở nơi khác”.
Tiểu Chiêu thấy chàng tự nhiên tủm tỉm cười, bèn hỏi:
– Công tử nghĩ gì vậy?
Trương Vô Kỵ nói:
– Ta cần đến một chốn thật xa, xa vô cùng, không tiện đem cô nương đi theo. Ta vừa nghĩ ra một nơi có thể gửi cô nương ở tạm đó.
Tiểu Chiêu mặt liền biến sắc, nói:
– Công tử gia, tiểu nữ nhất định đi theo công tử, tiểu nữ muốn được ngày ngày hầu hạ công tử.
Trương Vô Kỵ khuyên:
– Ta chỉ mong tốt lành cho cô nương thôi. Ta phải đi một chuyến rất xa, rất nguy hiểm, không biết bao giờ mới trở về.
Tiểu Chiêu nói:
– Bữa ở trong đường hầm trên đỉnh Quang Minh, tiểu nữ đã quyết ý công tử đi đâu, tiểu nữ theo đó, trừ phi công tử giết tiểu nữ đi thì đành chịu. Công tử chán ghét tiểu nữ, không muốn tiểu nữ ở bên cạnh ư?
Trương Vô Kỵ nói:
– Không, không phải thế! Cô nương biết ta thích cô nương mà, ta chỉ không muốn cô nương phải mạo hiểm vô ích thôi. Khi nào trở về, ta sẽ tìm cô nương ngay.
Tiểu Chiêu lắc đầu:
– Chỉ cần được ở bên cạnh công tử, thì nguy hiểm đến mấy tiểu nữ cũng không sợ. Công tử hãy cho tiểu nữ theo cùng!
Trương Vô Kỵ cầm tay Tiểu Chiêu, nói:
– Tiểu Chiêu, ta cũng không giấu cô nương nữa, ta đã nhận lời đưa Triệu cô nương đi ra hải ngoại một chuyến. Biển cả mênh mông, ngày ngày sóng to gió lớn, phần ta không đi không được, chứ cô nương mạo hiểm như thế chẳng có ích gì.
Tiểu Chiêu đỏ mặt, nói:
– Nếu công tử đi chung với Triệu cô nương, thì tiểu nữ lại càng phải ở bên cạnh công tử.
Nói xong câu đó, nàng đã nước mắt lưng tròng. Trương Vô Kỵ nói:
– Tại sao cô nương lại càng phải ở bên ta?
Tiểu Chiêu đáp:
– Cô nương họ Triệu ấy tâm địa độc ác, ai biết nàng ta sẽ đối xử thế nào với công tử? Tiểu nữ phải đi cùng để còn có người hầu hạ công tử.
Trương Vô Kỵ chột dạ: “Không lẽ cô bé này cũng có tình ý với mình hay sao?” Chàng thấy lời của nàng rất chân thành thì cảm kích, mỉm cười:
– Thôi được, cô nương đi theo cũng không sao, giữa biển gặp gió to sóng lớn đừng có mà kêu khổ đấy.
Tiểu Chiêu cả mừng, vâng dạ rối rít, nói:
– Nếu tiểu nữ làm cho công tử bực mình, thì công tử cứ việc ném tiểu nữ xuống biển làm mồi cho cá!
Trương Vô Kỵ cười:
– Làm sao ta bỏ cô nương cho đành?
Hai người tuy ở bên nhau lâu ngày, có khi trên đường chỗ ăn ở không tiện, hai người ở chung một phòng, nhưng Tiểu Chiêu tự coi mình là phận tôi tớ, còn Trương Vô Kỵ thì không hề bông đùa cợt nhả một câu nào, vừa rồi chàng buột miệng nói “Làm sao ta bỏ cô nương cho đành?” liền biết là đã lỡ lời, bất giác đỏ mặt, quay đầu nhìn ra cửa sổ. Tiểu Chiêu thì nhè nhẹ thở dài, đến ngồi bên chàng.
Trương Vô Kỵ hỏi:
– Sao cô nương lại thở dài?
Tiểu Chiêu nói:
– Số người mà công tử không đành bỏ thì nhiều đấy. Chu cô nương phái Nga Mi này, quận chúa nương nương của phủ Nhữ Dương Vương này, mai sau không biết còn bao nhiêu cô nương nữa. Khi đó liệu công tử có còn nhớ đến con hầu này chăng?
Trương Vô Kỵ nhìn thẳng vào mặt nàng, nói:
– Tiểu Chiêu, lâu nay cô nương luôn luôn chu đáo với ta, sao ta chẳng biết? Chẳng lẽ ta lại là kẻ vong ân bội nghĩa, không biết người tốt kẻ xấu hay sao?
Chàng nói hai câu này với vẻ mặt trân trọng, hết sức thành thực.
Tiểu Chiêu vừa thẹn, vừa thích, cúi đầu, nói:
– Tiểu nữ không dám mong gì nhiều, chỉ mong công tử cho phép tiểu nữ được mãi mãi làm một tiểu a hoàn hầu hạ công tử, thế là mãn nguyện rồi. Đêm qua công tử không ngủ, chắc mệt lắm rồi, công tử hãy đi nằm nghỉ một lát đi.
Nói rồi nàng trải giường, hầu chàng đi nằm, còn mình thì ra ngồi bên cửa sổ, tiếp tục đan áo.
Trương Vô Kỵ nghe tiếng xích sắt ở hai tay nàng kêu lanh canh, cảm thấy trong lòng bình an nhẹ nhõm, chẳng mấy chốc đã ngủ thiếp đi.
Chàng ngủ một mạch đến gần tối mới dậy, ăn một tô mì, rồi nói:
– Tiểu Chiêu, ta đưa cô nương đi gặp Triệu cô nương, mượn kiếm Ỷ Thiên chặt dây xích cho cô nương.
Hai người đi ra đường, thấy binh lính Mông Cổ phóng ngựa qua lại, canh phòng rất nghiêm; chắc là vì chuyện đêm qua phủ Nhữ Dương Vương bị đốt, chùa Vạn An đại loạn. Mỗi khi nghe tiếng vó ngựa, hai người lại nép mình vào góc khuất để quân Nguyên khỏi trông thấy, chẳng bao lâu đã tới cái quán rượu nhỏ nọ.
Trương Vô Kỵ dẫn Tiểu Chiêu vào trong quán, đã thấy Triệu Mẫn ngồi ở bàn hai người từng ngồi tối hôm qua, tủm tỉm cười, đứng dậy, nói:
– Trương công tử quả là người thủ tín.
Trương Vô Kỵ thấy nàng thần sắc như thường, không có vẻ gì khó chịu về chuyện đêm qua, thì nghĩ thầm: “Cô gái này quả thật bản lĩnh cao cường; về lý mà xét, ta sai người giết ái thiếp của cha nàng, lại giải thoát hết cao thủ của sáu đại môn phái mà nàng tốn bao công sức mới bắt được, đáng lẽ nàng phải giận ta lắm, đằng này vẫn bình thản như thường, không biết nàng sẽ làm gì đây?”
Thấy trên bàn đã bày sẵn hai cái bát, hai đôi đũa, chàng bèn cúi mình một cái, ngồi xuống, Tiểu Chiêu thì đứng hầu ở xa xa.
Trương Vô Kỵ ôm quyền nói:
– Triệu cô nương, việc đêm qua tại hạ quả là đắc tội, mong cô nương lượng thứ.
Triệu Mẫn cười nói:
– Cái nàng Hàn cơ õng à õng ẹo của cha ta, ta vừa gặp đã khó chịu. Đa tạ công tử đã sai người giết đi; mẹ ta khen công tử quá tài giỏi đấy.
Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, không ngờ kết quả lại bất ngờ ngoài dự liệu. Triệu Mẫn nói tiếp:
– Bọn người ấy công tử cứu họ ra cũng tốt, bằng không họ chả chịu quy hàng, ta có giữ họ lại cũng chẳng ích gì. Công tử cứu họ ra, hẳn là họ biết ơn công tử hết mực. Từ nay uy danh của công tử trong võ lâm Trung nguyên không có ai sánh kịp công tử. Vậy ta kính mừng Trương công tử một chén!
Nói rồi nàng mỉm cười, nâng chén rượu lên.
Vừa lúc đó từ bên ngoài có một người bước vào, chính là Phạm Dao. Phạm Dao hành lễ với Trương Vô Kỵ, sau đó cung kính vái Triệu Mẫn, nói:
– Quận chúa, Khổ đầu đà xin cáo từ.
Triệu Mẫn không thèm đáp lễ, lạnh lùng nói:
– Khổ đại sư, ông đánh lừa ta giỏi lắm. Quận chúa của ông bị một phen nhớ đời.
Phạm Dao đứng thẳng người dậy, ngang nhiên nói:
– Khổ đầu đà họ Phạm tên Dao, là Quang Minh hữu sứ của Minh giáo. Triều đình với Minh giáo là thù địch, bản nhân trà trộn vào phủ Nhữ Dương Vương, tất có mục đích riêng; may được quận chúa dùng lễ đối đãi, nay đến để cáo biệt.
Triệu Mẫn lạnh lùng nói:
– Đại sư muốn đi thì đi, hà tất phải đa lễ?
Phạm Dao nói:
– Đại trượng phu hành sự quang minh lỗi lạc, từ nay trở đi, tại hạ đối địch với quận chúa; nếu không cáo từ minh bạch, chẳng hóa ra phụ tấm lòng tử tế bấy nay của quận chúa.
Triệu Mẫn nhìn Trương Vô Kỵ, hỏi:
– Công tử có bản lĩnh gì mà thuộc hạ nào cũng tận tâm trung thành đến thế?
Trương Vô Kỵ nói:
– Chúng tôi đều vì nước vì dân, vì nhân hiệp, vì nghĩa khí. Phạm hữu sứ và ta vốn không quen biết nhau, nhưng vừa gặp đã thân thiết, hết lòng lo liệu cho nhau, không uổng cái nghĩa huynh đệ.
Phạm Dao cười ha hả, nói:
– Mấy lời của giáo chủ quả nói đúng tâm can của thuộc hạ. Xin giáo chủ hãy bảo trọng, vị quận chúa nương nương này tuy ít tuổi nhưng tàn ác xảo quyệt vô cùng. Giáo chủ quá tốt bụng, chớ có mắc lừa nàng ta.
Trương Vô Kỵ nói:
– Phải, bản nhân không dám khinh suất.
Triệu Mẫn cười:
– Đa tạ Khổ đại sư quá khen.
Phạm Dao quay người ra khỏi quán rượu, lúc ngang qua chỗ Tiểu Chiêu, y đột nhiên giật mình, lộ vẻ kinh ngạc lạ thường, cứ như trông thấy ma quỷ hiện hình không bằng, kêu lên lạc cả giọng:
– Ngươi… ngươi… Tiểu Chiêu lấy làm lạ, hỏi:
– Gì vậy?
Phạm Dao ngẩn người nhìn một hồi, rồi lắc đầu:
– Không phải… không phải người ấy… ta nhìn lầm.
Y thở dài, vẻ rầu rĩ, đẩy cửa bước ra, miệng lẩm bẩm:
– Giống quá, giống quá đi mất.
Triệu Mẫn và Trương Vô Kỵ nhìn nhau, không hiểu y bảo Tiểu Chiêu giống ai.
Bỗng nghe từ xa vọng tới mấy tiếng tiêu, ba tiếng dài, hai tiếng ngắn, âm thanh chói tai. Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, nghĩ đây chính là tín hiệu triệu tập đồng môn của phái Nga Mi. Hồi trước ở Tây Vực chàng sống trong đoàn người phái Nga Mi mấy ngày, đã vài lần nghe họ dùng tín hiệu này để liên lạc với nhau. Chàng nghĩ thầm: “Tại sao phái Nga Mi quay lại Đại Đô? Không lẽ họ gặp địch nhân?” Triệu Mẫn nói:
– Đấy là phái Nga Mi, dường như họ gặp chuyện khẩn cấp, chúng ta đi xem thử nhé?
Trương Vô Kỵ ngạc nhiên hỏi:
– Cô nương cũng biết ư?
Triệu Mẫn cười đáp:
– Ta ở Tây Vực từng dẫn người đuổi theo họ bốn ngày bốn đêm, cuối cùng bắt được Diệt Tuyệt sư thái, sao lại không biết?
Trương Vô Kỵ nói:
– Được, vậy mình đi xem sao. Triệu cô nương, ta nhờ cô nương giúp trước một việc, hãy cho ta mượn kiếm Ỷ Thiên một chút.
Triệu Mẫn cười nói:
– Công tử còn chưa mượn thanh đao Đồ Long cho ta, đã đòi mượn kiếm Ỷ Thiên của ta, coi như công tử là người khôn hơn.
Nàng cởi thanh bảo kiếm đeo bên hông đưa cho Trương Vô Kỵ.
Trương Vô Kỵ rút kiếm khỏi bao, gọi:
– Tiểu Chiêu, lại đây.
Tiểu Chiêu tới trước mặt chàng, Trương Vô Kỵ vung kiếm, nghe loảng xoảng mấy tiếng nhỏ, dây xích trói buộc chân tay Tiểu Chiêu đứt rời, rơi xuống đất. Tiểu Chiêu quỳ xuống, nói:
– Đa tạ công tử, đa tạ quận chúa.
Triệu Mẫn cười, nói:
– Cô bé này xinh quá. Giáo chủ hẳn là thích lắm.
Tiểu Chiêu đỏ mặt, mắt sáng lên niềm vui cao độ.
Trương Vô Kỵ tra kiếm vào vỏ, trả lại Triệu Mẫn, nghe tiếng tiêu của phái Nga Mi vọng thẳng về hướng đông bắc, bèn nói:
– Ta đi thôi.
Triệu Mẫn lấy ra một đĩnh bạc nhỏ ném xuống bàn, quay mình ra khỏi tửu điếm. Trương Vô Kỵ sợ Tiểu Chiêu không theo kịp, bèn tay phải nắm tay cô bé, tay trái đỡ ngang lưng, bám sát ngay phía sau Triệu Mẫn. Chạy độ hơn chục trượng, thấy thân hình Tiểu Chiêu nhẹ lâng lâng, cước bộ di động hết sức nhanh nhẹn, chàng hơi lấy làm lạ, tay không đỡ lưng nàng nữa, song Tiểu Chiêu vẫn đi ngang với chàng, không hề bị tụt lại sau. Tuy chàng chưa thi triển khinh công thượng thừa, nhưng đã chạy cực nhanh, mà Tiểu Chiêu vẫn theo kịp như thường.
Chẳng mấy chốc Triệu Mẫn đã vượt qua mấy con đường nhỏ vắng vẻ, đến bên ngoài một ngôi nhà có tường bao quanh. Trương Vô Kỵ nghe loáng thoáng bên trong có tiếng tranh cãi, biết là người của phái
Nga Mi đang ở đây, bèn nắm tay Tiểu Chiêu nhảy qua tường, trong đêm tối đáp xuống không một tiếng động. Triệu Mẫn cũng nhảy vào theo, ba người nằm phục trong đám cỏ cao.
*
* *
Ở phía bắc khu vườn hoang có một tòa lương đình đổ nát, bên trong tụ tập đến hơn hai chục người. Chỉ nghe giọng nói của một nữ nhân:
– Ngươi là đệ tử ít tuổi nhất của bản môn, từ phong thái đến võ công đều không có điểm nào xứng đáng chức chưởng môn cả…
Trương Vô Kỵ nhận ra đó là giọng nói của Đinh Mẫn Quân, bèn bò lại gần hơn, cách đám đông vài trượng mới dừng lại. Dưới ánh sao mờ, căng mắt nhìn, thấy trong đó có cả nam lẫn nữ, đều là đệ tử phái Nga Mi, ngoài Đinh Mẫn Quân ra, các đại đệ tử khác của Diệt Tuyệt sư thái hình như cũng đều hiện diện. Đứng hàng đầu bên trái có một thiếu nữ dong dỏng cao, quần xanh dài chấm đất, chính là Chu Chỉ Nhược. Chỉ nghe giọng Đinh Mẫn Quân gay gắt giục:
– Ngươi nói đi, nói đi!
Chu Chỉ Nhược thong thả nói:
– Đinh sư tỷ nói rất phải, tiểu muội là đệ tử ít tuổi nhất của bản môn, bất luận phong thái, võ công, tài năng, phẩm hạnh đều không có điểm nào xứng đáng làm chưởng môn bản phái. Sư phụ ra lệnh buộc tiểu muội gánh vác đại nhiệm, tiểu muội đã một mực chối từ, nhưng tiên sư nặng lời quở trách, buộc tiểu muội phải thề độc không được làm trái lời sư phụ dặn dò.
Đại đệ tử phái Nga Mi là Tĩnh Huyền nói:
– Sư phụ anh minh, đã hạ lệnh cho Chu sư muội tiếp nhiệm chức chưởng môn, tất là có thâm ý. Bọn ta ai ai cũng chịu đại ân tài bồi của sư phụ, phải tôn cử di chí của lão nhân gia, đồng lòng phò tá Chu sư muội, làm rạng rỡ võ đức của bản môn.
Đinh Mẫn Quân cười khẩy, nói:
– Tĩnh Huyền sư tỷ bảo sư phụ “tất là có thâm ý”, năm chữ “tất là có thâm ý” quả nói rất đúng. Bọn ta khi ở trên tháp cao chùa Vạn An chẳng phải đều đã nghe Khổ đầu đà và Hạc Bút Ông lớn tiếng nói với nhau những gì đó sao? Cha mẹ của Chu sư muội là ai, tại sao sư phụ lại đối xử đặc biệt với Chu sư muội, chẳng đã rõ rành rành đó sao?
Khổ đầu đà nói với Lộc Trượng Khách, rằng Diệt Tuyệt sư thái là người tình cũ của y, Chu Chỉ Nhược là con riêng của hai người, chẳng qua là do cái tính tà ma ngoại đạo nổi lên, y thuận miệng nói giỡn chơi. Hạc Bút Ông lại đi công khai nói ra như chuyện nghiêm túc, người ngoài nghe thấy, tuy không tin hoàn toàn, song cũng không khỏi nghi ngờ. Chuyện tư tình nam nữ, người đời thường tin là có nhiều hơn là không có; mà Diệt Tuyệt sư thái lại đặc biệt thương yêu Chu Chỉ Nhược, các đệ tử không hiểu vì sao, thành thử mấy chữ “là con riêng” nghe có lý hơn cả. Mọi người nghe Đinh Mẫn Quân nói mấy câu vừa rồi đều lặng thinh.
Chu Chỉ Nhược nói, giọng run run:
– Đinh sư tỷ, nếu sư tỷ không phục việc tiểu muội tiếp nhiệm chức chưởng môn, thì cứ nói thẳng ra. Chứ sư tỷ hồ ngôn loạn ngữ, bôi nhọ thanh danh cả đời của sư phụ, thì cái đó tội gì? Tiên phụ của tiểu muội họ Chu, là một người làm nghề lái đò trên sông Hán Thủy, không biết chút võ công nào cả. Tiên mẫu họ Tiết, tổ tiên cũng là thế gia, quê ở Tương Dương, khi thành Tương Dương bị thất thủ, thì chạy xuống phía nam, lưu lạc không nơi nương tựa, đã kết duyên với tiên phụ. Tiểu muội may mắn được Trương chân nhân phái Võ Đang tiến dẫn, trở thành môn hạ phái Nga Mi, trước đó chưa hề gặp qua sư phụ. Sư tỷ chịu ơn lớn của sư phụ, nay lão nhân gia vừa quy tiên, đã mở miệng ăn nói những lời như thế, còn… thì…
Nói tới đây, giọng nàng nghẹn ngào, nước mắt ròng ròng, không nói được nữa.
Đinh Mẫn Quân cười khẩy:
– Ngươi muốn tiếp nhiệm chức chưởng môn, còn chưa được đồng môn công nhận, thân phận còn mù mờ, đã đòi tác uy tác phúc, bảo ta làm bại hoại thanh danh sư phụ, tội này tội nọ. Ngươi định trị tội ta phải không? Vậy ta hỏi ngươi, ngươi đã nhận lời sư phụ nhận chức chưởng môn, lý ra phải lập tức trở về núi Nga Mi. Sư phụ tạ thế, bản phái có biết bao nhiêu việc cần vị chưởng môn xử lý. Thế mà ngươi lại một mình trở lại Đại Đô là vì sao?
Chu Chỉ Nhược nói:
– Sư phụ giao cho tiểu muội một việc cực kỳ hệ trọng, tiểu muội không thể không quay lại Đại Đô.
Đinh Mẫn Quân hỏi:
– Đó là việc gì? Ở đây toàn là đồng môn bản phái, không có người ngoài, sao ngươi không nói rõ ra?
Chu Chỉ Nhược nói:
– Đó là bí mật lớn nhất của bản phái, chỉ người chưởng môn được biết, không thể nói cho bất cứ ai khác.
Đinh Mẫn Quân lại cười mỉa:
– Gớm chưa, cái gì ngươi cũng vin vào hai chữ “chưởng môn”, không lừa nổi ta đâu. Ta hỏi ngươi: bản phái với Ma giáo thù sâu như bể, biết bao đồng môn bản phái đã bỏ mạng bởi tay Ma giáo; giáo chúng Ma giáo chết dưới kiếm của sư phụ cũng không phải ít. Sư phụ sở dĩ qua đời, chỉ vì không muốn để cho giáo chủ Ma giáo đỡ cho. Vậy mà hài cốt của sư phụ chưa lạnh, ngươi đã lẻn đi tìm tên tiểu dâm tặc họ Trương, hiện là đại ma đầu giáo chủ, là thế nào?
Mấy câu sau cùng Trương Vô Kỵ nghe mà không khỏi chột dạ. Lúc đó chàng thấy có một ngón tay mềm mại quẹt quẹt nhẹ vào má trái chàng, chính là Triệu Mẫn ở bên cạnh trêu chọc. Trương Vô Kỵ đỏ mặt, nghĩ thầm: “Chẳng lẽ Chu cô nương đi tìm ta thật ư?”
Chỉ nghe Chu Chỉ Nhược ấp úng nói:
– Sư tỷ… lại nói năng lung tung…
Đinh Mẫn Quân lớn tiếng nói:
– Ngươi còn chối nữa ư? Ngươi bảo mọi người cứ về núi Nga Mi trước, bọn ta hỏi ngươi trở lại Đại Đô có việc gì, ngươi ấp úng không chịu nói ra. Các đồng môn biết có chuyện không hay, mới lén theo sau xem thế nào. Ngươi đến hỏi cha ngươi là Khổ đầu đà về chỗ ở của tên tiểu dâm tặc, ngươi tưởng bọn ta không biết chắc? Ngươi đến khách điếm tìm tên tiểu dâm tặc, tưởng bọn ta không biết chắc?
Mụ ta cứ nhắc đi nhắc lại bốn chữ “tên tiểu dâm tặc”, Trương Vô Kỵ cố nhịn đến mấy cũng bực mình lắm, đột nhiên cảm thấy có ai phà hơi vào sau gáy, biết ngay là Triệu Mẫn lại cười trêu chàng.
Đinh Mẫn Quân nói tiếp:
– Ngươi muốn tìm ai trò chuyện, muốn tằng tịu với ai, người ngoài chả rỗi hơi để ý làm gì. Đằng này tên tiểu dâm tặc Trương Vô Kỵ là kẻ đối đầu sinh tử với bản phái, vậy mà đêm qua khi tất cả mọi người chạy ra khỏi Đại Đô, suốt dọc đường ngươi cứ đắm đuối nhìn hắn; hắn tới đâu, ngươi liếc theo đó; việc đó chẳng phải ta đặt điều cho ngươi, mà các đồng môn đều chính mắt nhìn thấy cả. Cái lần ở trên đỉnh Quang Minh, tiên sư bảo ngươi đâm hắn một kiếm, hắn chẳng né tránh thì thôi, lại còn cười tít mắt lên với ngươi. Còn ngươi thì cũng liếc mắt đưa tình với hắn, chỉ chọc khẽ một cái như gãi ngứa. Kiếm Ỷ Thiên sắc bén là thế, nếu đâm thật, sao hắn lại không chết? Nếu bên trong không có tư tình, ai mà tin nổi kia chứ?
Chu Chỉ Nhược khóc òa lên, nói:
– Ai liếc mắt đưa tình bao giờ? Sư tỷ chớ có dùng những lời khó nghe ấy để vu cho người khác.
Đinh Mẫn Quân cười mỉa mai:
– Ta nói những lời khó nghe, thế sao những việc ngươi làm không sợ người ta bảo là khó coi? Ngươi tưởng lời của ngươi dễ nghe lắm chắc? Hừ, tại khách điếm ngươi đã hỏi gã chưởng quỹ thế nào? “Làm ơn cho hỏi, ở đây có vị khách họ Trương hay không? À, trạc hai mươi tuổi, dong dỏng cao, cũng có thể vị khách ấy dùng họ khác cũng nên”.
Đinh Mẫn Quân bắt chước giọng nói của Chu Chỉ Nhược nói ngập ngà ngập ngừng, lại cố ý làm điệu bộ õng ẹo cho người nghe thêm ghét.
Trương Vô Kỵ tức giận, nghĩ thầm Đinh Mẫn Quân là kẻ điêu ngoa tai ác nhất trong phái Nga Mi, Chu Chỉ Nhược hiền lành mềm yếu, không phải là đối thủ của mụ ta; nhưng nếu mình xuất hiện bênh vực cho nàng, thì một là chuyện riêng của phái Nga Mi, người ngoài không tiện xen vào; hai là như thế càng đẩy Chu Chỉ Nhược vào thế bất lợi; thành thử nhìn thấy nàng bị dồn vào chân tường mà đành bó tay.
Đại đa số đệ tử phái Nga Mi vốn tôn trọng di mệnh của sư phụ để Chu Chỉ Nhược làm chưởng môn; nhưng nay nghe Đinh Mẫn Quân nói năng sắc bén, hợp tình hợp lý, thì đều nghĩ thầm: “Sư phụ và Ma giáo có thù oán sâu xa, Chu sư muội lại có quan hệ bất thường với giáo chủ Ma giáo như vậy, lỡ nàng ta đem bản phái bán đứt cho Ma giáo thì làm sao đây?”
Lại nghe Đinh Mẫn Quân nói:
– Chu sư muội, ngươi do Trương chân nhân phái Võ Đang dẫn nhập làm môn hạ của sư phụ, mà tên tiểu dâm tặc kia chính là con của Trương ngũ hiệp phái Võ Đang. Chuyện này bên trong chứa đựng âm mưu quái dị gì, ai mà biết được.
Đoạn mụ ta cao giọng, nói:
– Các vị sư huynh sư tỷ, sư đệ sư muội, sư phụ tuy có di ngôn bảo Chu sư muội tiếp nhiệm chức chưởng môn, nhưng lão nhân gia không thể ngờ người vừa viên tịch, cốt tro chưa lạnh, thì người chưởng môn bổn phái đã lập tức lẻn đi tìm gặp giáo chủ Ma giáo để tư tình. Việc này can hệ trọng đại đến sự hưng suy tồn vong của bổn phái; nếu tiên sư biết chuyện hôm nay, lão nhân gia ắt sẽ chọn người chưởng môn khác. Di chí của sư phụ là làm sao cho bổn phái được rạng rỡ, chứ quyết không muốn bổn phái bị diệt trừ bởi tay Ma giáo. Theo ý tiểu muội, chúng ta hãy kế thừa di chí của tiên sư, mong Chu sư muội hãy trao lại thiết chỉ hoàn của chưởng môn, chúng ta sẽ chọn một vị sư tỷ tài đức vẹn toàn, danh tiếng võ công đều trội hơn đồng môn, đứng ra giữ chức chưởng môn.
Đinh Mẫn Quân dứt lời, có sáu, bảy người lên tiếng phụ họa.
Chu Chỉ Nhược nói:
– Tiểu muội đã nhận lệnh của tiên sư tiếp nhiệm chưởng môn bản phái, chiếc thiết chỉ hoàn này quyết không giao cho ai cả. Tiểu muội quả thực không ham chức chưởng môn, nhưng đã từng lập trọng thệ với sư phụ, quyết không thể… quyết không phụ sự ủy thác của lão nhân gia.
Câu này nàng nói ra nghe rất yếu ớt, một vài đồng môn trước đó đứng giữa, chưa theo phe nào, nghe nàng nói vậy đều thầm lắc đầu.
Đinh Mẫn Quân gay gắt nói:
– Thiết chỉ hoàn của chưởng môn, ngươi không muốn trao lại cũng phải trao! Hai môn quy nghiêm giới của bổn phái là khi sư diệt tổ và dâm tà vô sỉ ngươi đều đã phạm, thì có còn đủ tư cách chưởng lý môn hộ phái Nga Mi nữa chăng?
Triệu Mẫn ghé môi sát tai Trương Vô Kỵ, nói nhỏ:
– Chu cô nương của công tử nguy mất! Công tử hãy gọi ta là “hảo tỷ tỷ”[112], ta sẽ đứng ra giải vây cho nàng ta.
Trương Vô Kỵ sực nghĩ, cô gái này túc trí đa mưu, tất có diệu kế giúp Chu Chỉ Nhược thoát khốn, nhưng nàng còn nhỏ hơn mình mấy tuổi, phải hạ mình gọi nàng bằng “bà chị” thì chẳng nhục lắm sao? Chàng đang do dự, thì Triệu Mẫn lại nói:
– Công tử không gọi là tùy công tử, ta đi đây.
Trương Vô Kỵ không còn cách nào hơn, đành ghé tai nàng nói:
– Hảo tỷ tỷ.
Triệu Mẫn cười không thành tiếng, toan nhổm dậy tiến ra, thì mọi người trong đình đã phát giác. Đinh Mẫn Quân quát lên:
– Ai đó? Tại sao lén lút nghe trộm?
Đột nhiên bên ngoài tường vọng vào mấy tiếng ho, một giọng thiếu nữ trong trẻo nói:
– Đêm hôm khuya khoắt, phái Nga Mi các ngươi lén lút làm gì trong đó?
Một làn gió lướt qua theo bóng người, trong lương đình đã có thêm hai người.
Hai người vừa bay vào ngoảnh mặt về phía ánh trăng, Trương Vô Kỵ nhìn rất rõ, chính là Kim Hoa bà bà, còn thiếu nữ thân hình yểu điệu, mặt mũi xấu xí chính là nàng Thù Nhi Ân Ly, biểu muội của Trương Vô Kỵ, con gái của Ân Dã Vương.
Hôm Vi Nhất Tiếu bắt được Thù Nhi, chưa kịp mang lên đỉnh Quang Minh, thì hàn độc phát tác, y cố nhịn không hút máu nàng, rốt cuộc không chịu nổi, ngã lăn ra bất tỉnh, sau được Chu Điên cứu tỉnh, nhìn đến Thù Nhi thì đã không thấy đâu nữa. Trương Vô Kỵ từ ngày chia tay với nàng vẫn thường nhớ đến, không ngờ lúc này nàng bất ngờ xuất hiện ở đây, chàng cả mừng, suýt nữa thì lên tiếng gọi.
Đinh Mẫn Quân lạnh lùng nói:
– Kim Hoa bà bà, bà tới đây làm gì?
Kim Hoa bà bà hỏi:
– Sư phụ ngươi đâu?
Đinh Mẫn Quân đáp:
– Tiên sư đã viên tịch tối hôm qua, bà ở ngoài kia đã nghe trộm từ lâu, biết cả rồi sao còn hỏi?
Kim Hoa bà bà kêu lên, lạc cả giọng:
– Ồ, Diệt Tuyệt sư thái viên tịch mất rồi! Làm sao mà chết? Sao không đợi gặp lại ta? Chà, tiếc thay, tiếc thay…!
Chưa nói dứt câu bà ta đã cúi gập người ho sù sụ. Thù Nhi đấm lưng nhè nhẹ cho bà ta, nhìn Đinh Mẫn Quân cười nhạt, nói:
– Ai thèm nghe trộm chuyện của các người? Ta cùng bà bà đi ngang qua đây, nghe tiếng léo nhéo chướng tai, nhận ra giọng nói của mi, nên mới ghé vào xem thế nào. Bà bà hỏi gì mi, mi có nghe rõ không đấy? Sư phụ mi chết thế nào?
Đinh Mẫn Quân tức giận:
– Cái đó thì liên can gì đến ngươi? Tại sao ta lại phải nói với ngươi?
Kim Hoa bà bà thở một hơi dài, thong thả nói:
– Ta bình sinh động thủ với người khác, chỉ thua sư phụ ngươi một lần, song hoàn toàn không phải vì chiêu số võ công, mà chỉ vì không chống đỡ nổi kiếm Ỷ Thiên quá sắc bén đó thôi. Mấy năm qua ta thề tìm một thanh bảo đao, để so tài cao thấp với sư phụ ngươi một lần nữa. Lão bà này đi khắp chân trời góc bể, cũng không đến nỗi uổng công, được một cố nhân bằng lòng cho ta mượn bảo đao. Ta nghe đồn phái Nga Mi bị triều đình bắt giam ở chùa Vạn An, ta định bụng đến cứu sư phụ ngươi ra để so tài thực sự một lần nữa, nào ngờ hôm nay tới thì chùa Vạn An chỉ còn là một đống gạch vụn. Ôi, định mệnh đã an bài, Kim Hoa bà bà đời này không rửa được cái nhục thua trận. Diệt Tuyệt sư thái ơi là Diệt Tuyệt sư thái, sao mụ không chết trễ lại một hai ngày cho ta nhờ?
Đinh Mẫn Quân nói:
– Nếu sư phụ vãn bối còn sống, thì bà lão bất quá lại thua thêm một trận nữa, sẽ còn buồn lòng hơn mà thôi…
Đột nhiên nghe “bốp bốp” bốn tiếng rất giòn, Đinh Mẫn Quân choáng váng hoa mắt, lảo đảo chực ngã, hai má đã bị Kim Hoa bà bà tát cho bốn cái liền. Cứ tưởng bà lão ho hen ốm yếu, ai ngờ ra tay lại thần tốc đến thế, thủ pháp lại quái dị đến thế; bốn cái tát đó làm cho Đinh Mẫn Quân không có cách gì né tránh hay chống đỡ. Kim Hoa bà bà đứng cách xa Đinh Mẫn Quân phải gần hai trượng, trong nháy mắt vụt tới trước mặt, tát liền bốn cái, rồi trở về chỗ cũ, hành động y như ma quỷ vậy.
Đinh Mẫn Quân vừa tức vừa sợ, rút kiếm ra, xông tới chỉ mặt Kim Hoa bà bà, nói:
– Con mụ ăn mày kia, quả không thiết sống nữa sao?
Kim Hoa bà bà tựa hồ không nghe không thấy tiếng chửi cũng như mũi kiếm của Đinh Mẫn Quân, chỉ chậm rãi nói:
– Sư phụ ngươi sao lại chết?
Giọng bà lão buồn thiu, tựa hồ trong lòng hết sức chán chường. Mũi kiếm của Đinh Mẫn Quân cách ngực bà lão chưa đầy ba thước, cuối cùng vẫn không dám đâm tới, Đinh Mẫn Quân chỉ chửi:
– Con mụ ăn mày, việc gì ta phải nói với mụ?
Kim Hoa bà bà thở dài, lẩm bẩm một mình:
– Diệt Tuyệt sư thái, bà một đời anh hùng, đáng mặt một nhân vật xuất chúng trong võ lâm, vậy mà khi thác đi, trong đám đệ tử không có đứa nào đứng ra tiếp nhiệm chưởng môn hay sao?
Tĩnh Huyền sư thái tiến lên một bước, chắp tay hành lễ, nói:
– Bần ni Tĩnh Huyền tham kiến bà bà. Tiên sư lúc lâm chung có di mệnh cho Chu Chỉ Nhược Chu sư muội tiếp nhiệm chưởng môn; có điều là một số đồng môn trong bản phái chưa phục. Tiên sư đã viên tịch, khiến cho bà bà không được thỏa lòng, định mệnh như thế, còn biết nói sao? Chưởng môn bản phái chưa định, thành thử chưa thể hẹn gì với bà bà được. Nhưng phái Nga Mi là một môn phái lớn trong võ lâm, quyết không thể đánh mất uy danh của tiên sư. Bà bà có gì sai bảo, xin cứ nói ra, sau này người chưởng môn bản phái sẽ theo quy củ võ lâm xử lý với bà bà. Nếu bà bà cậy mình là bậc tiền bối, trình cường khi nhân, phái Nga Mi tuy hôm nay gặp đại nạn mất sư phụ, nhưng cũng sẽ đối phó đến cùng với bà bà, dẫu máu thấm đầy khu vườn hoang này, thì cũng quyết tử chiến.
Mấy lời đó được nói ra một cách từ tốn, không ngang ngạnh cũng không luồn cúi, cả Trương Vô Kỵ lẫn Triệu Mẫn cũng thầm khen là đanh thép.
Kim Hoa bà bà sáng mắt lên, nói:
– Thì ra khi viên tịch, tôn sư cũng đã có di mệnh, định người kế nhiệm chức chưởng môn, thế thì hay lắm. Là vị nào vậy? Xin cho gặp mặt.
Lời lẽ của Kim Hoa bà bà so với lúc nói với Đinh Mẫn Quân đã khách sáo hơn nhiều.
Chu Chỉ Nhược bước ra thi lễ, nói:
– Bà bà vạn phúc! Chưởng môn đời thứ tư của phái Nga Mi Chu Chỉ Nhược kính chào bà bà.
Đinh Mẫn Quân lớn tiếng nói:
– Sao không biết xấu, dám tự phong mình làm chưởng môn đời thứ tư của bản phái.
Thù Nhi cười khẩy:
– Vị Chu tỷ tỷ này là người tử tế, hồi ta ở Tây Vực đã được Chu tỷ tỷ thăm nom. Chu tỷ tỷ mà còn không đáng làm chưởng môn, thì mi đòi làm hay sao? Mi mà còn hỗn xược với bà bà của ta, ta sẽ thưởng cho mi vài cái tát nữa đó.
Đinh Mẫn Quân cả giận, dùng trường kiếm đâm luôn vào ngực Thù Nhi. Thù Nhi nghiêng người qua, giơ tay tát vào mặt Đinh Mẫn Quân. Thân pháp của nàng hệt như Kim Hoa bà bà, nhưng xuất thủ thì không nhanh bằng. Đinh Mẫn Quân lập tức hụp đầu xuống tránh, nên kiếm của mụ ta cũng không thể đâm trúng Thù Nhi.
Kim Hoa bà bà cười, nói:
– Con bé này, ta dạy bao nhiêu lần, cái chiêu dễ thế mà học không xong. Nhìn cho kỹ vào này!
Bà lão vung tay phải, thuận thế tát vào má trái Đinh Mẫn Quân một cái, xoay tay tát má bên phải, lại thuận tay tát má trái, lại xoay tay tát má bên phải, bốn cái tát rất rõ ràng, ai cũng nhìn thấy. Đinh Mẫn Quân cảm thấy hình như toàn thân bị giữ chặt, tứ chi không cử động được, mặt bị bốn cái tát, không có cách gì chống đỡ; may mà Kim Hoa bà bà không hề dùng lực nên mụ ta mới không bị trọng thương.
Thù Nhi cười nói:
– Bà bà, thủ pháp của bà bà con học được rồi, chỉ không có nội lực như bà bà mà thôi. Để con thử lại này.
Đinh Mẫn Quân bị nội lực của Kim Hoa bà bà giữ chặt, thấy Thù Nhi lại giơ tay sắp vả vào mặt mình, thì tức quá suýt ngất đi.
Đột nhiên Chu Chỉ Nhược sấn tới, giơ tay trái đỡ chưởng của Thù Nhi, nói:
– Xin tỷ tỷ dừng tay!
Nàng quay sang nói với Kim Hoa bà bà:
– Bà bà, Tĩnh Huyền sư tỷ chúng tôi vừa rồi đã nói rõ, đồng môn bản phái tuy võ công chưa tinh thâm bằng bà bà, song cũng không để cho bà bà muốn lăng nhục thế nào cũng được.
Kim Hoa bà bà cười, nói:
– Ả họ Đinh mõm nhọn kia mở miệng ra là không phục ngươi làm chưởng môn, sao vừa rồi ngươi còn đỡ đòn cho nó?
Chu Chỉ Nhược nói:
– Chuyện nội bộ của môn phái chúng tôi không liên can đến người ngoài. Tiểu nữ được di mệnh của tiên sư, tuy bản lĩnh thấp kém, song cũng không để cho người ngoài làm nhục người trong bản phái.
Kim Hoa bà bà cười, nói:
– Hảo, hảo, hảo!
Bà lão nói xong ba tiếng ấy thì ho sù sụ. Thù Nhi lấy một viên thuốc đưa ra, Kim Hoa bà bà cầm lấy nuốt luôn, thở hổn hển một hồi, rồi đột nhiên hai chưởng cùng tung ra, một đặt ngay trước ngực Chu Chỉ Nhược, một đè sau lưng nàng, ép thân hình nàng giữa hai bàn tay bà, những chỗ ấy toàn là đại huyệt trí mạng.
Chiêu đó tung ra thật cực kỳ quái dị. Chu Chỉ Nhược tuy võ học chưa nhiều, nhưng cũng đã được Diệt Tuyệt sư thái chân truyền vài ba phần, không hiểu vì sao lại bị đối phương khống chế các đại yếu huyệt ở ngực và lưng, thì sợ tái cả mặt, không thốt nên lời. Kim Hoa bà bà thản nhiên nói:
– Chu cô nương, ngươi là chưởng môn mà võ công tầm thường quá. Không lẽ tôn sư lại đem trọng nhiệm người chưởng môn phái Nga Mi bắt một cô bé liễu yếu đào tơ như ngươi phải gánh vác? Ta xem ra quá nửa là do ngươi tự khoe khoang như thế.
Chu Chỉ Nhược định thần nghĩ bụng: “Bà ta chỉ cần ấn mạnh một cái, tâm mạch của ta sẽ bị đánh vỡ, chết ngay tại chỗ. Nhưng ta phải làm sao để không mất uy phong của sư phụ bây giờ?” Nghĩ đến sư phụ, dũng khí lập tức tăng gấp trăm lần, bèn giơ tay trái ra nói:
– Đây là thiết chỉ hoàn của chưởng môn phái Nga Mi, do tiên sư tự tay đeo cho tiểu nữ, không lẽ lại là giả?
Kim Hoa bà bà cười, nói:
– Sư tỷ của ngươi lúc nãy nói đúng, phái Nga Mi là một môn phái lớn trong võ lâm, nhưng chỉ với một chút bản lĩnh như nhà ngươi thì làm sao có thể làm chưởng môn một môn phái lớn trong võ lâm kia chứ? Ta thấy ngươi nên nghe theo lời dạy bảo của ta thì hơn.
Chu Chỉ Nhược nói:
– Kim Hoa bà bà, sư phụ đã viên tịch, nhưng phái Nga Mi hoàn toàn không phải vì thế mà bị trừ diệt. Tiểu nữ đã rơi vào tay bà bà, muốn giết cứ việc giết, chứ đừng hòng ép tiểu nữ làm những việc sai trái. Bổn phái bị hãm vào gian kế của triều đình, bị nhốt trên tháp cao, song không một ai chịu đầu hàng. Chu Chỉ Nhược này tuy tuổi ít, sức yếu, nhưng đã nhận trọng nhiệm, tự biết khó đảm đương, nên đã không nghĩ đến chuyện sống chết nữa rồi.
Trương Vô Kỵ thấy các yếu huyệt ở ngực và lưng nàng đã bị Kim Hoa bà bà khống chế, sống chết chỉ trong gang tấc, song vẫn hiên ngang như thế, chàng chỉ sợ Kim Hoa bà bà nổi giận lên sẽ giết nàng. Trong lúc nguy cấp, chàng toan nhảy ra cứu. Triệu Mẫn đoán biết ý nghĩ của chàng, cầm cánh tay chàng lay lay mấy cái, ngụ ý đừng lo vội.
Chỉ nghe Kim Hoa bà bà cười ha hả, nói:
– Diệt Tuyệt sư thái kể cũng tinh mắt thật, cô tiểu chưởng môn này võ công tuy yếu, nhưng tính cách lại mạnh mẽ. Ồ phải, phải rồi, võ công non yếu còn có thể luyện cho giỏi chứ núi sông dễ đổi, bản tính khó thay.
Thực ra lúc này Chu Chỉ Nhược đã sợ hết hồn, chỉ là nghĩ đến sư phụ lúc lâm chung lại ủy thác trọng nhiệm cho nàng, nên phải cố tỏ ra quật cường vậy thôi.
Các đồng môn phái Nga Mi vốn coi thường Chu Chỉ Nhược, nhưng thấy nàng không kể hiềm khích riêng, dám đứng ra che chở cho Đinh Mẫn Quân, khi bị cường địch uy hiếp vẫn không hề làm mất thanh danh bản phái, thì trong lòng đều đã kính phục. Thanh trường kiếm trong tay Tĩnh Huyền rung một cái, mấy tiếng sáo miệng huýt lên, các đệ tử phái Nga Mi bèn giãn ra, ai nấy rút binh khí vây chặt tòa lương đình lại.
Kim Hoa bà bà cười hỏi:
– Làm gì vậy?
Tĩnh Huyền nói:
– Bà bà bắt giữ chưởng môn phái Nga Mi là có ý gì?
Kim Hoa bà bà ho mấy tiếng, nói:
– Các ngươi tưởng cậy đông mà thắng được ư? Hà hà, dưới mắt Kim Hoa bà bà này, dù đông gấp mười thế này cũng có khác gì đâu?
Đột nhiên Kim Hoa bà bà bỏ Chu Chỉ Nhược ra, thân hình vọt ngay tới trước mặt Tĩnh Huyền, dùng hai ngón tay trỏ và giữa chọc vào hai mắt Tĩnh Huyền. Tĩnh Huyền vội thu kiếm về chém cánh tay Kim Hoa bà bà; chỉ nghe “hự” một tiếng, một sư muội đồng môn đứng bên cạnh đã ngã gục. Kim Hoa bà bà giả vờ tấn công Tĩnh Huyền, chân trái lại đá trúng huyệt đạo ở hông một nữ đệ tử phái Nga Mi.
Chỉ thấy thân hình Kim Hoa bà bà di chuyển vùn vụt trong lương đình, tay áo phất phới, tiếng ho húng hắng; trường kiếm của mấy chục đệ tử phái Nga Mi cùng chĩa tới mà không một ai đâm trúng vạt áo bà lão, trong khi bảy, tám người đã ngã xuống vì bị bà lão đánh trúng huyệt đạo. Thủ pháp đả huyệt của bà lão vô cùng quái dị, người trúng đòn đều kêu rống lên. Trong giây lát, giữa khu vườn hoang tiếng kêu la liên tiếp vang lên, nghe kinh hồn.
Kim Hoa bà bà vỗ tay một cái, trở vào lương đình, nói:
– Chu cô nương, võ công của phái Nga Mi các ngươi so với Kim Hoa bà bà thế nào?
Chu Chỉ Nhược nói:
– Võ công bản phái đương nhiên là cao hơn bà bà. Năm xưa bà bà đã bị bại dưới kiếm của tiên sư, không lẽ bà bà quên rồi sao?
Kim Hoa bà bà tức giận nói:
Chu Chỉ Nhược nói:
– Bà bà thử nói thực một câu xem, nếu tiên sư và bà bà đấu tay không với nhau, thì ai thắng ai bại?
Kim Hoa bà bà ngẫm nghĩ một lát, nói:
– Không biết nữa. Ta vốn muốn biết tôn sư và ta, ai mạnh ai yếu, nên mới tới Đại Đô này. Ôi, Diệt Tuyệt sư thái viên tịch, võ lâm đã mất đi một cao nhân. Tre già đã lụi, măng mới lại chưa mọc, phái Nga Mi từ nay suy tàn.
Bảy đệ tử phái Nga Mi nằm ngoài vườn không ngớt kêu la oai oái, dường như làm chứng cho lời của Kim Hoa bà bà. Mấy đại đệ tử như Tĩnh Huyền cố xoa bóp cho bọn họ, nhưng chẳng có tác dụng gì cả, xem chừng chỉ một mình Kim Hoa bà bà mới giải được.
Trương Vô Kỵ năm xưa từng chữa trị cho nhiều người bị Kim Hoa bà bà đả thương; biết bà lão này ra tay rất hiểm ác, ít gặp ai như thế trên giang hồ. Chàng định nhảy ra cứu, song lại nghĩ thầm: “Nếu mình giúp Chu cô nương, thì lại đắc tội với Thù Nhi. Biểu muội đối với mình cực tốt, lại là chỗ cốt nhục chí thân, mình làm sao có thể bên nặng bên nhẹ?”
Chỉ nghe Kim Hoa bà bà nói:
– Chu cô nương, ngươi đã phục chưa?
Chu Chỉ Nhược ngang nhiên nói:
– Võ công bản phái sâu như biển cả, đâu có thể thành tựu ngay. Chúng vãn bối còn nhỏ tuổi, dĩ nhiên không sánh kịp bà bà, nhưng sau này sẽ tiến triển đến vô cùng.
Kim Hoa bà bà cười nói:
– Hay lắm, hay lắm! Vậy Kim Hoa bà bà này cáo từ; đợi khi nào võ công của cô nương tiến triển đến vô cùng, sẽ trở lại giải huyệt cho bọn kia cũng được. Nói đoạn dắt tay Thù Nhi, quay mình đi ra.
Chu Chỉ Nhược nghĩ đến nỗi đau đớn của các đồng môn, một lát còn không chịu nổi, để Kim Hoa bà bà đi mất rồi, họ sẽ đau chết mất, vội nói:
– Bà bà, khoan đã! Xin hãy giải huyệt cho mấy vị sư huynh sư tỷ kia đã.
Kim Hoa bà bà nói:
– Muốn ta giải cứu cũng không khó. Từ rày trở đi, Kim Hoa bà bà và cô bé đệ tử này tới đâu, người của phái Nga Mi phải tránh ra, tìm đường khác mà đi, nghe chưa?
Chu Chỉ Nhược nghĩ thầm: “Mình vừa làm chưởng môn, đã gặp ngay đại địch. Nếu chịu khuất phục như thế, phái Nga Mi làm sao có thể đứng vững trong võ lâm? Không lẽ thế là mình để cho phái Nga Mi bị hủy diệt hay sao?”
Kim Hoa bà bà thấy nàng lưỡng lự, chưa trả lời, thì cười, nói:
– Ngươi không muốn làm mất uy danh phái Nga Mi thì cũng được. Hãy đưa kiếm Ỷ Thiên cho ta mượn, ta sẽ giải cứu cho các đồng môn của ngươi.
Chu Chỉ Nhược nói:
– Sư đồ chúng tôi trúng phải gian kế của triều đình, bị giam vào tháp cao, kiếm Ỷ Thiên làm sao còn ở trong tay chúng tôi được?
Kim Hoa bà bà vốn đã tính đến chuyện đó, việc mượn kiếm chẳng qua chỉ là lời cầu may, nghe Chu Chỉ Nhược trả lời như thế chỉ hơi tỏ vẻ thất vọng, đột nhiên bà lão nói:
– Ngươi muốn bảo toàn uy danh phái Nga Mi thì sẽ không giữ được tính mạng mình…
Nói rồi lấy trong bọc ra một viên thuốc, nói:
– Đây là thuốc độc “Đoạn trường liệt tâm”[113], ngươi chịu uống, thì ta sẽ giải cứu cho bọn kia.
Chu Chỉ Nhược nghĩ đến lời trăn trối của sư phụ mà đứt từng khúc ruột, nghĩ thầm: “Sư phụ bảo ta phải lừa dối Trương công tử, việc ấy ta làm chẳng được, có sống cũng phải chịu giày vò khổ sở; chi bằng chết quách cho rồi, khỏi cần lo lắng đủ chuyện”. Bèn đưa tay nhận luôn viên thuốc độc.
Tĩnh Huyền gọi giật giọng:
– Chu sư muội, không được uống!
Trương Vô Kỵ thấy tình thế nguy cấp, định nhảy ra ngăn cản, thì Triệu Mẫn ghé tai chàng thì thầm:
– Ngốc ơi là ngốc! Thuốc giả đấy, không phải thuốc độc đâu.
Trương Vô Kỵ còn đang ngạc nhiên, thì Chu Chỉ Nhược đã bỏ viên thuốc vào miệng nuốt luôn.
Bọn Tĩnh Huyền nhao nhao lên toan xông cả tới động thủ với Kim Hoa bà bà. Kim Hoa bà bà nói:
– Cừ lắm, can đảm lắm! Thuốc độc vừa rồi chưa phát tác ngay đâu. Chu cô nương, ngươi đi theo ta, ngoan ngoãn vâng lời, không chừng ta sẽ vui lòng cho ngươi thuốc giải.
Nói xong bước tới chỗ những đệ tử phái Nga Mi đang kêu rên, vỗ vỗ mấy cái giải huyệt cho họ. Bọn họ lập tức khỏi đau, hết kêu rên, chỉ có điều nhất thời chưa cử động được vì tứ chi tê dại. Họ thấy Chu Chỉ Nhược xả thân vì họ, uống thuốc độc để cứu họ, thì đều vô cùng cảm kích, có người nói:
– Đa tạ chưởng môn!
Kim Hoa bà bà cầm tay Chu Chỉ Nhược, dịu dàng nói:
– Con ngoan, hãy đi theo ta, bà bà sẽ không ngược đãi con đâu.
Chu Chỉ Nhược chưa trả lời, đã cảm thấy một luồng lực đạo cực mạnh nhấc nàng bay lên.
Tĩnh Huyền gọi:
– Chu sư muội…
Rồi xông tới toan kéo lại, bỗng thấy có một luồng chỉ phong bắn xéo tới, đó là Thù Nhi từ bên cạnh dùng ngón tay tấn công. Tĩnh Huyền vung tả chưởng lên chặn lại, không ngờ chiêu đó của Thù Nhi chỉ là hư chiêu, nghe bốp một tiếng, Đinh Mẫn Quân đã bị trúng một cái tát, cái ngón “Chỉ đông đả tây” ấy chính là võ học của Kim Hoa bà bà. Chỉ nghe Thù Nhi cười khanh khách, đã vọt qua tường mà đi.
Trương Vô Kỵ nói:
– Đuổi theo mau!
Chàng một tay nắm Triệu Mẫn, một tay dắt Tiểu Chiêu, ba người cùng vượt tường ra ngoài.
Bọn Tĩnh Huyền thấy trong đám cỏ có tới ba người ẩn nấp thì hết sức kinh ngạc. Khinh công của Kim Hoa bà bà và Trương Vô Kỵ cao siêu biết mấy, khi các đệ tử phái Nga Mi nhảy lên bờ tường, thì sáu người kia đã lẫn vào bóng đêm, không biết đi về hướng nào.
Nhóm Trương Vô Kỵ đuổi được hơn mười trượng, thì Kim Hoa bà bà quát lên, chân vẫn không chậm lại:
– Đệ tử phái Nga Mi vẫn còn có kẻ dám đuổi theo Kim Hoa bà bà kia à, gớm nhỉ!
Triệu Mẫn nói:
– Hãy để lại chưởng môn bản phái!
Nàng vọt nhanh tới mấy trượng, kiếm Ỷ Thiên đâm vào sau lưng Kim Hoa bà bà. Chiêu “Kim đỉnh Phật quang”[114] này chính là một chiêu kiếm pháp đích truyền của phái Nga Mi, Triệu Mẫn học được từ các nữ đệ tử phái Nga Mi ở chùa Vạn An, có điều là không phải do Diệt Tuyệt sư thái truyền thụ, nên không mấy tinh diệu.
Kim Hoa bà bà nghe tiếng binh khí xé gió ở sau lưng, bèn buông Chu Chỉ Nhược, xoay ngay người lại. Triệu Mẫn lách cổ tay một cái, lại là chiêu “Thiên phong cánh tú”. Kim Hoa bà bà nhận biết binh khí trong tay đối phương chính là bảo kiếm Ỷ Thiên, thì nửa mừng nửa lo, vươn tay ra toan cướp lấy. Sau mấy chiêu, Kim Hoa bà bà đã tới gần trước mặt Triệu Mẫn, mấy ngón tay đang định chộp lấy cổ tay cầm kiếm của nàng, không ngờ Triệu Mẫn vòng gấp kiếm lại, sử chiêu “Thần đà tuấn túc” của kiếm pháp phái Côn Luân.
Kim Hoa bà bà thấy nàng là một thiếu nữ ít tuổi, cầm kiếm Ỷ Thiên, thi triển kiếm pháp đích truyền của phái Nga Mi, nên cứ ngỡ nàng là đệ tử phái Nga Mi. Để đối phó với Diệt Tuyệt sư thái, mấy năm qua Kim Hoa bà bà đã tìm hiểu thật kỹ kiếm pháp phái Nga Mi, thấy Triệu Mẫn sử mấy chiêu, nghĩ nàng công lực chưa ra gì, nên đã tính toán trước, một khi tiến đến gần nàng, thể nào cũng sẽ đoạt được kiếm Ỷ Thiên. Nào ngờ cô bé này bỗng dưng đổi sang kiếm pháp phái Côn Luân. Giả dụ nếu có chủ định từ trước, thì kiếm pháp phái Côn Luân đâu có là gì đối với Kim Hoa bà bà; song vì chiêu này quá bất ngờ, nên tuy võ công cao cường, Kim Hoa bà bà cũng sợ toát mồ hôi, vội lăn xuống đất mới tránh thoát, nhưng ống tay áo bên trái vẫn bị mũi kiếm sớt đi mất một mảnh to.
Kim Hoa bà bà nửa ngạc nhiên, nửa tức giận, lại xông tới. Triệu Mẫn biết võ công của mình thua kém bà lão quá xa, không dám đối chiêu với bà lão, chỉ múa kiếm, đâm bên phải chém bên trái, lách đông lượn tây; sử dụng lúc thì kiếm pháp phái Không Động, lúc thì kiếm pháp phái Hoa Sơn; vừa sử chiêu “Đại mạc phi sa” của phái Côn Luân, lại ra ngay chiêu “Kim châm độ kiếp”[115] trong Đạt Ma kiếm pháp của phái Thiếu Lâm. Chiêu nào cũng đều là tinh hoa trong kiếm pháp của từng môn phái, chiêu nào cũng đầy uy lực, cộng với sự sắc bén của kiếm Ỷ Thiên, khiến Kim Hoa bà bà hết sức kinh ngạc, nhất thời chưa có cách nào tới gần.
Thù Nhi sốt ruột quá, vội cởi thanh kiếm đeo bên hông, ném cho Kim Hoa bà bà. Triệu Mẫn tấn công gấp gấp bảy, tám chiêu liên tiếp, đến chiêu thứ chín, Kim Hoa bà bà bất đắc dĩ phải vung kiếm gạt ra, nghe “cách” một tiếng, trường kiếm đã gãy đôi.
Kim Hoa bà bà tái mặt, nhảy vọt ra ngoài, quát hỏi:
– Con nhãi kia, mi là ai?
Triệu Mẫn cười, nói:
– Sao mụ không rút thanh đao Đồ Long ra?
Kim Hoa bà bà giận dữ nói:
– Nếu ta có thanh đao Đồ Long trong tay, mi làm sao tiếp nổi tám chiêu, mười chiêu của ta? Mi có dám theo ta đi thử một chuyến hay không?
Triệu Mẫn cười nói:
– Nếu mụ có được thanh đao Đồ Long thì hay lắm. Ta sẽ ở Đại Đô chờ mụ đi lấy đao tới tái đấu.
Kim Hoa bà bà nói:
– Mi quay đầu lại, để ta nhìn rõ mặt mi coi.
Triệu Mẫn bèn nghiêng người, lè lưỡi, nhắm mắt trái, mở mắt phải, nhăn mặt méo miệng để trêu tức bà lão. Kim Hoa bà bà cả giận, nhổ toẹt một bãi nước miếng xuống đất, vứt thanh kiếm gãy, dắt Thù Nhi và Chu Chỉ Nhược bỏ đi.
Trương Vô Kỵ nói:
– Mình mau đuổi theo.
Triệu Mẫn nói:
– Việc đó không cần vội. Công tử cứ để ta. Ta dám chắc với công tử rằng Chu cô nương sẽ không sao cả.
Trương Vô Kỵ hỏi:
– Tại sao cô nương lại nhắc tới thanh đao Đồ Long?
Triệu Mẫn nói:
– Ta nghe bà lão nói lúc ở khu vườn hoang, rằng đã đi khắp chân trời góc biển, cuối cùng mượn được của cố nhân một thanh bảo đao, cốt đấu với kiếm Ỷ Thiên của Diệt Tuyệt sư thái. “Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong?” Muốn tranh lợi hại với kiếm Ỷ Thiên, chỉ có thanh đao Đồ Long mà thôi. Chẳng lẽ cuối cùng Kim Hoa bà bà đã mượn được của Tạ lão tiền bối, nghĩa phụ của công tử, thanh đao Đồ Long? Ta vừa rồi múa kiếm đánh bà ta, cốt ép bà ta phải rút bảo đao ra đấu. Nhưng bà ta không mang đao bên người, lại bảo ta đi theo bà lão xem thử. Tựa hồ bà lão đã biết bảo đao ở đâu, song chưa lấy được.
Trương Vô Kỵ ngẫm nghĩ, nói:
– Kể cũng lạ thật!
Triệu Mẫn nói:
- Ta nghĩ Kim Hoa bà bà sẽ đi ra biển, giương buồm đi tìm thanh đao Đồ Long. Chúng ta phải làm sao đến trước, đừng để cho một người hai mắt đã mù, tâm địa nhân hậu như Tạ lão tiền bối lại bị bà lão độc ác đó lừa dối.
Trương Vô Kỵ, nghe nàng nói đến câu sau cùng thì nhiệt huyết trào dâng, vội nói:
– Đúng lắm, đúng lắm!
Lúc trước chàng nhận lời Triệu Mẫn đi mượn thanh đao Đồ Long, chẳng qua là vì lời hứa của đại trượng phu đáng giá ngàn vàng, không thể nuốt lời. Còn bây giờ nghĩ Kim Hoa bà bà đi gây khó dễ cho nghĩa phụ, thì chỉ hận không có cánh để bay ra cứu giúp.
Triệu Mẫn dẫn hai người đến trước vương phủ, dặn dò tên vệ sĩ canh cửa một hồi. Hắn luôn mồm vâng dạ, quay mình đi vào phủ, không lâu thì dắt ra chín con tuấn mã, vác theo một bọc to vàng bạc đưa cho nàng. Triệu Mẫn, Trương Vô Kỵ và Tiểu Chiêu ba người cưỡi ba con ngựa, còn sáu con kia dẫn theo để thay đổi, phóng gấp về hướng đông.
Sáng hôm sau, chín con ngựa đã mệt lử, Triệu Mẫn liền giơ kim bài của phủ Nhữ Dương Vương điều động binh mã cho quan lại địa phương, đổi lấy chín con ngựa khác. Khuya hôm đó, ba người đã phóng tới bờ biển.
Triệu Mẫn cưỡi ngựa chạy thẳng vào huyện thành, ra lệnh cho tri huyện chuẩn bị cấp tốc một chiếc thuyền đi biển kiên cố nhất, trên thuyền có sẵn đà công, thủy thủ, lương thực, nước ngọt, binh khí, quần áo rét. Ngoài ra, mọi thuyền bè ven biển hiện có phải đuổi hết về phía nam, suốt dọc năm mươi dặm bờ biển không cho đậu bất cứ chiếc thuyền đi biển nào cả. Kim bài của Nhữ Dương Vương đưa đến, một viên tri huyện tép riu lẽ nào dám trái lệnh? Triệu Mẫn, Trương Vô Kỵ và Tiểu Chiêu ở trong huyện nha uống rượu chờ tin. Chưa đầy một ngày, tri huyện đến bẩm mọi thứ đã chuẩn bị xong xuôi.
Ba người ra bờ biển xem chiếc thuyền, Triệu Mẫn dẫm chân kêu lên:
– Hỏng rồi!
Thì ra chiếc thuyền đang đậu là một hải thuyền rất lớn, cao hai tầng, mũi thuyền và hai bên mạn thuyền có gắn đại bác, đó là một pháo hạm của hải quân Mông Cổ. Năm xưa đại quân Mông Cổ tiến đánh Nhật Bản, tập trung rất nhiều tàu thuyền, không ngờ gặp một cơn bão, tàu thuyền bị đắm hết, cuộc đông chinh tan thành bọt nước. Nhưng quy mô đóng tàu thuyền đã thành hình từ đấy. Triệu Mẫn tính toán trăm sự đều hay, chỉ có một sai sót, không ngờ viên tri huyện nhận lệnh xong muốn tâng công, đã đi gặp thủy sư mượn ngay một chiếc pháo hạm. Lúc này trên thuyền đã có đủ lương thực, nước ngọt. Mọi tàu thuyền khác theo lệnh kim bài Nhữ Dương Vương truyền xuống, đã xuôi về phía nam vài chục dặm cả rồi. Triệu Mẫn đành cười gượng, lệnh cho các thủy thủ dùng lưới đánh cá treo lấp các khẩu đại bác, trên thuyền đặt vài chục sọt cá tươi, làm như chiến thuyền cũ không dùng nữa, đã sửa lại thành thuyền đánh cá.
Triệu Mẫn, Trương Vô Kỵ và Tiểu Chiêu mặc giả thủy thủ, dùng dầu lạc bôi vàng cả mặt, dán thêm chút ria mép, trông không ai nhận biết được nữa. Ba người lên thuyền, chờ Kim Hoa bà bà tới.
Nàng quận chúa Triệu Mẫn liệu sự như thần, quả nhiên gần tối thì có một cỗ xe lớn chạy tới bến, Kim Hoa bà bà dắt Thù Nhi và Chu Chỉ Nhược tới thuê thuyền. Thủy thủ đã được Triệu Mẫn dặn trước, nên từ chối, nói rằng đây là pháo hạm cũ nay sửa thành thuyền đánh cá, chỉ chuyên nghề chài lưới, chứ không chở khách. Mãi khi Kim Hoa bà bà đưa ra hai đĩnh vàng trả công, chủ thuyền mới miễn cưỡng nhận lời. Kim Hoa bà bà cùng Thù Nhi và Chu Chỉ Nhược lên thuyền, truyền lệnh giong buồm ra khơi.
Trên đại dương mênh mông vô bờ, chiếc thuyền trơ trọi chạy về hướng đông nam.
Thuyền đi hai ngày, Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn ở khoang dưới nhìn ra cửa sổ, thấy mặt trời mọc ban ngày và mặt trăng nhô lên ban đêm đều ở mạn thuyền bên trái, rõ ràng là thuyền chạy về phương nam. Bấy giờ là đầu mùa đông, gió bấc thổi mạnh, buồm no gió, thuyền trôi băng băng.
Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn bàn tính với nhau, chàng nói:
– Nghĩa phụ ta ở Băng Hỏa đảo trên cực bắc, mình muốn tìm ông thì phải đi về hướng bắc mới đúng, sao lại đi ngược xuống phương nam?
Triệu Mẫn nói:
– Kim Hoa bà bà chắc có chuyện quái lạ, huống hồ hiện giờ đâu phải là mùa gió nồm, có muốn lên phương bắc cũng chẳng đi được.
Chiều ngày thứ ba, đà công xuống khoang dưới bẩm với Triệu Mẫn, rằng Kim Hoa bà bà rất thông thuộc hải trình vùng này, chỗ nào có bãi cát, chỗ nào có đảo san hô, bà lão còn biết rõ hơn cả đà công.
Trương Vô Kỵ chợt nghĩ ra, nói:
– Hay là bà ta trở về đảo Linh Xà?
Triệu Mẫn hỏi:
– Đảo Linh Xà là thế nào?
Trương Vô Kỵ nói:
– Chồng của Kim Hoa bà bà là Ngân Diệp tiên sinh, quê ở đảo Linh Xà, ông ta chết rồi. Cái tên Kim Hoa Ngân Diệp đảo Linh Xà, chẳng lẽ cô nương chưa nghe bao giờ?
Triệu Mẫn cười, nói:
– Công tử hơn ta có vài tuổi, mà nhiều chuyện trên giang hồ sao rành thế?
Trương Vô Kỵ cười, đáp:
– Tà ma ngoại đạo Minh giáo thì phải rành rẽ nhiều chuyện nhàn rỗi trên chốn giang hồ hơn quận chúa nương nương chứ.
Hai người vốn đối địch với nhau, mỗi bên thống lĩnh rất nhiều hào kiệt, đã đánh nhau mấy trận ác liệt, nhưng sau mấy ngày ở dưới khoang thuyền với nhau, chuyện trò tự nhiên khỏi cần giữ ý; lại có chung đối thủ là Kim Hoa bà bà, nên khoảng cách giữa đôi bên mỗi ngày một ngắn lại.
Đà công bẩm báo xong, sợ Kim Hoa bà bà phát giác, vội trở lên buồng lái ngay.
Triệu Mẫn cười, nói:
– Đại giáo chủ, Kim Hoa Ngân Diệp đảo Linh Xà uy chấn giang hồ như thế nào, phiền đại giáo chủ kể lại cho con a hoàn thô lậu dốt nát này nghe có được chăng?
Trương Vô Kỵ cười, đáp:
– Nói ra thật xấu hổ, Ngân Diệp tiên sinh là người thế nào, ta cũng không biết chút gì. Riêng Kim Hoa bà bà thì ta đã từng gặp bà ta một lần.
Rồi chàng kể hồi ở Hồ Điệp cốc học nghề thuốc của “Điệp Cốc Y Tiên” Hồ Thanh Ngưu ra sao, người của các môn phái bị Kim Hoa bà bà hạ độc thủ sống dở chết dở đến Hồ Điệp cốc nhờ chạy chữa như thế nào, chàng nhờ Hồ Thanh Ngưu chỉ điểm mới chữa khỏi cho họ; sau đó Kim Hoa bà bà đấu với Diệt Tuyệt sư thái bị thua ra sao; hai vợ chồng Hồ Thanh Ngưu, Vương Nạn Cô bị Kim Hoa bà bà treo cổ thế nào, kể ra một lượt. Chàng nghĩ đến Hồ Thanh Ngưu tuy tính khí quái dị, nhưng đối với chàng rất tốt, nhớ lại cảnh xác vợ chồng họ bị treo lủng lẳng trên cây, thì bất giác rưng rưng nước mắt. Chàng lại kể sơ qua việc Thù Nhi muốn bắt chàng mang ra đảo Linh Xà làm bạn, chàng cắn vào tay Thù Nhi một cái thật đau như thế nào. Chàng cũng không hiểu tại sao mình chỉ thuật sơ qua chuyện đó, có lẽ vì nó có vẻ bất nhã chăng.
Triệu Mẫn lặng lẽ, chăm chú nghe từ đầu đến cuối, rồi trịnh trọng nói:
– Lúc đầu ta chỉ nghĩ bà lão này chẳng qua chỉ là một cao thủ võ công, không ngờ bên trong lại có nhiều chuyện ân oán. Nghe công tử kể, ta thấy bà lão này là kẻ rất khó đối phó, chúng ta phải hết sức cẩn thận mới được.
Trương Vô Kỵ cười, nói:
– Quận chúa nương nương văn võ kiêm toàn, dưới tay lại có nhiều kỳ tài dị sĩ, đối phó với một mình bà lão, có gì phải ngại?
Triệu Mẫn cười, nói:
– Tiếc rằng giữa đại dương mênh mông, không thể nào gọi các võ sĩ, phiên tăng của ta tới được.
Trương Vô Kỵ nói:
– Thế mấy tay đầu bếp, các thủy thủ kéo buồm kia chưa phải là cao thủ hạng nhất, mới chỉ là hạng nhì trên giang hồ thôi ư?
Triệu Mẫn kinh ngạc, cười ha hả, nói:
– Bội phục, bội phục! Đại giáo chủ quả thật tinh đời, không thể giấu nổi công tử.
Nguyên khi nàng trở lại vương phủ lấy tiền và ngựa, nàng đã kín đáo dặn vệ sĩ, điều động một số thuộc hạ đi gấp ra vùng biển chờ lệnh. Bọn họ đến nơi chỉ chậm hơn Trương Vô Kỵ nửa ngày. Bọn này không tham chiến ở chùa Vạn An, chưa gặp Trương Vô Kỵ lần nào, đóng giả đầu bếp và thủy thủ trên thuyền. Nhưng người có võ, thần sắc cử chỉ dù cố che giấu, vẫn cứ lộ ra, người tinh mắt như Trương Vô Kỵ nhìn vào là biết ngay.
Triệu Mẫn nghe chàng nói thế, nghĩ thầm nếu chàng đã nhìn ra, thì người lão luyện dày dạn như Kim Hoa bà bà hẳn cũng thừa biết. May bên mình người nhiều thế mạnh, Trương Vô Kỵ võ công cao cường, bà lão dù biết hay không biết cũng thế thôi, giả dụ phải động thủ, cả bà ta với Thù Nhi cũng chỉ có hai người, chẳng có gì đáng ngại. Còn nếu bà ta chưa nhận ra, thì mình cứ tiếp tục giả trang không sao.
Mấy ngày qua, điều Trương Vô Kỵ lo nhất là Chu Chỉ Nhược sau khi uống viên thuốc của Kim Hoa bà bà, chất độc đã phát tác hay chưa. Triệu Mẫn biết bụng dạ chàng, thấy chàng mặt ủ mày chau, bèn sai người lên khoang trên vờ bưng trà tiếp nước, xem xét động tĩnh, mỗi lần trở xuống đều bẩm là Chu cô nương lời lẽ, cử chỉ như thường, không có vẻ gì bị trúng độc cả. Sau mấy lần như thế, Trương Vô Kỵ cũng an tâm phần nào.
Chàng ngồi trong một góc khoang, nhớ lại tình cảnh trên cánh đồng tuyết ở Tây Vực, Thù Nhi bầu bạn với chàng thế nào; khi bị Hà Thái Xung, Võ Liệt, Đinh Mẫn Quân vây đánh, nàng đòi được gặp chàng lần cuối, chính chàng trước mặt bọn Hà Thái Xung đã nói lớn: “Cô nương, ta thành tâm mong muốn lấy cô nương làm vợ, chỉ mong cô nương đừng bảo ta không xứng”. Rồi chàng lại từng nói riêng với nàng: “Từ nay trở đi ta sẽ hết lòng ái hộ cô nương, săn sóc cô nương, bất kể kẻ nào đến gây khó dễ với cô nương, khinh khi cô nương, dẫu hắn tài ba đến mấy, ta cũng quyết xả thân bảo vệ cho cô nương chu toàn. Ta mong cô nương bình yên sung sướng, quên mọi khổ đau từ trước”. Nhớ lại câu nói đó, chàng bất giác đỏ mặt.
Triệu Mẫn nói:
– Hừ, công tử lại nhớ đến Chu cô nương rồi phải không?
Trương Vô Kỵ nói:
– Không có.
Triệu Mẫn nói:
– Làm gì phải chối, công tử nhớ hay không nhớ, ta đâu có kiểm soát được. Nam tử hán đại trượng phu, không nên nói dối.
Trương Vô Kỵ nói:
– Ta cần gì phải nói dối. Nói cho cô nương hay, người ta nhớ đến, không phải là Chu cô nương.
Triệu Mẫn nói:
– Nếu công tử nghĩ đến Khổ đầu đà hay Vi Nhất Tiếu, thì vẻ mặt công tử đâu có như thế. Những kẻ mặt mũi quái đản ấy, khi công tử nghĩ đến, vẻ mặt không bao giờ lại dịu dàng, bẽn lẽn như vừa rồi.
Trương Vô Kỵ cười, nói:
Cô nương thật là lợi hại, người khác nghĩ đến ai, xấu hay đẹp, cô nương cũng biết cả. Nói thật nhé, người mà ta nhớ đến lại chẳng xinh đẹp chút nào.
Triệu Mẫn thấy chàng nói rất thành thực, thì mỉm cười, không để ý nữa. Nàng tuy thông minh, cũng không thể tưởng tượng ra người chàng nhớ đến lại là cô gái Thù Nhi xấu xí đang ở khoang thuyền bên trên.
Trương Vô Kỵ nghĩ Thù Nhi luyện môn công phu âm độc “Thiên thù vạn độc thủ” đến nỗi mặt mũi sưng cả lên, từng cục lồi lõm; tối hôm trước trong khu vườn hoang, trông còn xấu hơn cả ngày trước thì chàng bất giác thở dài, nghĩ môn công phu tà độc ấy, càng luyện e rằng càng hỏng cả tâm linh lẫn thể xác. Chàng nhớ lúc Ân Lê Đình nói Trương Vô Kỵ rơi xuống vực chết rồi, Thù Nhi đã gục xuống đất khóc lóc thảm thiết, thì chàng vô cùng xúc động. Chàng từ khi lên đỉnh Quang Minh, ngày cũng như đêm, nếu không bận luyện công thì cũng bôn ba lo liệu cho Minh giáo, đâu có mấy lúc nghĩ đến chuyện riêng của mình. Tuy chàng cũng có lúc nhớ đến Thù Nhi, cũng từng hỏi Vi Nhất Tiếu, từng nhờ Dương Tiêu phái người đi tìm kiếm quanh đỉnh Quang Minh song đều không thấy tung tích nàng đâu cả. Bây giờ chàng mới tự trách mình: “Thù Nhi đối với ta tốt như thế, sao ta lại lạnh nhạt bạc bẽo với nàng? Tại sao bao lâu nay ta chẳng hề nhớ tới nàng?” Từ khi làm giáo chủ Minh giáo, mọi việc riêng tư chàng đều gác sang một bên.
Triệu Mẫn đột nhiên hỏi:
– Công tử lại hối hận việc gì chăng?
Trương Vô Kỵ chưa trả lời, từ khoang trên bỗng vọng xuống nhiều tiếng nói lao xao, rồi một thủy thủ chạy xuống bẩm báo:
– Phía trước thấy đất liền, Kim Hoa bà bà bảo chúng thuộc hạ giong thuyền tới.
Triệu Mẫn và Trương Vô Kỵ nhìn ra cửa sổ, thấy cách vài dặm có một hòn đảo lớn, cây cối xanh tốt, trên đảo có mấy ngọn núi cao chọc trời. Con thuyền no gió, lướt nhanh về phía trước. Chẳng mấy chốc thuyền đã tới đảo. Phía đông hòn đảo, núi đá chạy thẳng ra biển, không có bãi cạn, chiếc thuyền tuy ngập sâu dưới nước, song vẫn đậu được ngay cạnh bờ.
*
* *
Chiếc thuyền vừa đậu, bỗng nghe từ trên núi vọng xuống một tiếng rống lớn, trung khí sung mãn, cực kỳ uy mãnh. Trương Vô Kỵ vừa kinh ngạc vừa vui mừng. Tiếng rống kia quá quen thuộc, chính do nghĩa phụ chàng, Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn phát ra.
Hơn mười năm cách biệt, hùng phong của nghĩa phụ vẫn như xưa, làm sao chàng không vui mừng kia chứ? Chàng không kịp suy nghĩ vì sao Tạ Tốn đang ở Băng Hỏa đảo nơi cực bắc lại về đây, cũng bất chấp Kim Hoa bà bà có thể nhận ra chân tướng của mình, liền vội vã leo cầu thang lên buồng lái, nhìn về phía triền núi phát ra tiếng rống.
Chỉ thấy bốn hán tử tay cầm binh khí đang vây đánh một người có thân hình cao lớn. Người tay không nghênh địch chính là Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn. Trương Vô Kỵ thoáng nhìn, thấy nghĩa phụ tuy hai mắt đã mù, lại một mình chọi bốn, tay không đấu với bốn món binh khí, song không lép vế tí nào. Chàng chưa từng nhìn thấy nghĩa phụ động thủ với ai, bây giờ chỉ coi vài chiêu, đã mừng trong bụng: “Năm xưa Kim Mao Sư Vương uy chấn thiên hạ, quả nhiên danh bất hư truyền. Nghĩa phụ ta võ công cao hơn Thanh Dực Bức Vương, phải ngang với ông ngoại ta”. Bốn người kia võ công cũng khá cao cường, từ dưới thuyền nhìn lên triền núi không rõ mặt mũi, chỉ thấy họ áo quần lam lũ, lưng đeo túi vải, hẳn là người của Cái Bang. Bên cạnh còn có ba người đứng tiếp ứng.
Chỉ nghe một người lên tiếng nói:
– Giao thanh đao Đồ Long ra… tha chết cho ngươi… bảo đao thế mạng…
Gió núi thổi mạnh khiến tiếng nói nghe lúc được lúc mất; khoảng cách khá xa nên nghe không rõ, song cũng biết mấy kẻ kia muốn cướp đoạt thanh đao Đồ Long.
Tạ Tốn cười ha hả, nói:
– Thanh đao Đồ Long ở sau lưng ta đây, bọn Cái Bang thối tha kia có giỏi cứ đến mà lấy.
Miệng nói, tay ông ra chiêu chẳng chậm lại chút nào.
Kim Hoa bà bà nhún mình một cái đã vọt lên bờ, ho mấy tiếng, nói:
– Quần hiệp Cái Bang giáng lâm đảo Linh Xà, sao không đến hỏi chuyện lão bà tử, lại quấy rầy quý khách của đảo Linh Xà, là muốn gì đây?
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Quả nhiên đây là đảo Linh Xà, nghe giọng điệu của Kim Hoa bà bà, tựa hồ nghĩa phụ ta được lão bà mời đến. Năm xưa nghĩa phụ ta nhất quyết không chịu rời Băng Hỏa đảo về Trung nguyên, sao Kim Hoa bà bà mời về, ông lại chịu? Tại sao Kim Hoa bà bà biết được chỗ ở của nghĩa phụ ta?” Chỉ giây lát trong óc chàng nảy ra nhiều nghi hoặc.
Bốn người đang đấu nghe chủ nhân hòn đảo đã tới, chỉ mong sớm thanh toán Tạ Tốn cho xong chuyện, nên tấn công thật gấp rút. Họ đâu ngờ làm thế là phạm vào điều đại kỵ trong võ học. Tạ Tốn hai mắt bị mù, hoàn toàn căn cứ vào tiếng gió do binh khí của địch phát ra mà xác định phương vị đối phó. Bốn kẻ kia ra tay càng nhanh, tiếng gió càng mạnh. Tạ Tốn cười một tràng, giáng một quyền trúng ngực một tên, tên đó rú lên một tiếng thảm thiết, từ triền núi lăn xuống, vỡ đầu, óc văng tung tóe.
Một trong ba kẻ đứng ngoài tiếp ứng quát to:
– Lui ra!
Y nhẹ nhàng đấm ra một quyền, quyền lực như có như không, khiến Tạ Tốn không thể nhận ra đường đến của đòn. Quả nhiên quyền đến cách thân hình Tạ Tốn chỉ còn vài tấc ông mới biết, vội ra chiêu ứng phó, chân tay luống cuống, lúng túng rõ rệt. Ba kẻ đấu lúc trước đều lùi ra, thêm một lão già đứng ngoài nhập cuộc, cũng dùng cách đánh như kẻ vừa rồi, xuất chưởng rất nhẹ; chỉ qua vài chiêu, Tạ Tốn chống đỡ loạng quạng, suýt trúng đòn hiểm.
Kim Hoa bà bà quát:
– Quý trưởng lão, Trịnh trưởng lão, Kim Mao Sư Vương mắt bị lòa, hai vị giở thủ đoạn đê hèn như thế, uổng cho hai tiếng anh hùng trên chốn giang hồ.
Bà lão vừa nói vừa chống gậy chạy lên triền núi. Trông thân hình bà lão run rẩy như thế, cứ tưởng gió thổi bay xuống vực đến nơi, vậy mà bà di động cực nhanh; chỉ thấy mỗi lần chống gậy xuống đất một cái, thân hình bà lại vọt lên như bay, sau vài lần nhún nhảy đã tới lưng chừng núi. Thù Nhi vội bám theo, nhưng cách một quãng xa.
Trương Vô Kỵ lo cho an nguy của nghĩa phụ, vội chạy lên núi. Triệu Mẫn chạy theo bên cạnh, nói nhỏ:
– Có lão bà tử đó rồi, Kim Mao Sư Vương sẽ không bị nguy hiểm; công tử đừng ra tay, giấu lai lịch mình thì hơn.
Trương Vô Kỵ gật đầu, chạy đằng sau Thù Nhi. Lúc này nếu chỉ thấy thân hình Thù Nhi ở sau lưng mà không nhìn mặt, thì ai cũng phải nói là một giai nhân tuyệt sắc, chẳng kém Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược, Tiểu Chiêu chút nào. Chàng nghĩ thế, rồi tự trách mình: “Trương Vô Kỵ ơi là Trương Vô Kỵ, nghĩa phụ mi đang gặp nguy nan, mi lại chăm chăm ngắm con gái nhà người, bình phẩm thân hình xấu đẹp của họ là sao?”
Thoáng chốc bốn người đã tới chỗ triền núi bằng phẳng. Chỉ thấy Tạ Tốn hai tay ra chiêu cực ngắn, chỉ thủ mà không công, chờ khi quyền cước của kẻ địch tới thật gần, mới dùng tiểu cầm nã thủ chiết giải. Lối đánh này tuy nhất thời có thể tự phòng vệ, nhưng muốn thắng địch thì quá khó. Trương Vô Kỵ đứng dưới gốc một cây tùng cổ thụ, thấy nghĩa phụ mặt đầy nếp nhăn, tóc bạc quá nửa, so với khi chia tay thì già hẳn đi, chắc là hơn chục năm qua trơ trọi trên hoang đảo, sống lay lắt qua ngày, thì trong lòng chàng trào lên nỗi chua xót, ngực chợt nóng ran, chàng muốn chạy ra thay ông đánh bại kẻ địch, cha con nhận nhau. Triệu Mẫn biết tâm ý chàng, khẽ cào cào lòng bàn tay chàng, lắc lắc đầu.
Bỗng nghe Kim Hoa bà bà nói:
– Quý trưởng lão, “Âm sơn chưởng đại cửu thức” của các hạ lừng danh giang hồ, hà tất phải lén lút ma mãnh giả làm chiêu thức “Miên chưởng”? Còn Trịnh trưởng lão nữa, sao lại đem “Hồi phong phất liễu quyền”[116] giấu trong “Bát quái quyền” là thế nào? Kim Mao Sư Vương Tạ đại hiệp đâu có nhìn thấy… khụ khụ…
Tạ Tốn không nhìn thấy chiêu thức của đối phương; Quý, Trịnh hai lão lại vô cùng xảo quyệt, khi xuất chiêu lại cố ý biến thức khiến ông không biết đằng nào mà lần. Nghe Kim Hoa bà bà mách nước như thế, Tạ Tốn đã có chủ định, nhân lúc quyền pháp của Trịnh trưởng lão sắp biến đổi, liền đánh ra một quyền, trúng ngay quyền của Trịnh trưởng lão đang đánh tới, Trịnh trưởng lão phải lùi hai bước mới đứng lại được. Quý trưởng lão ở bên cạnh vung chưởng tiếp cứu, khiến Tạ Tốn không thể truy kích.
Trương Vô Kỵ nhìn kỹ hai vị trưởng lão Cái Bang, thấy Quý trưởng lão mập lùn, mặt đỏ, trông như một gã đồ tể; còn Trịnh trưởng lão thì gầy khô, mặt xanh như tàu lá, trông đúng một gã ăn mày. Hai trưởng lão lưng đều đeo tám cái túi vải. Đứng cách xa là một thanh niên trạc ba mươi tuổi, cũng trang phục theo lối Cái Bang, nhưng áo quần sạch sẽ tươm tất, lưng cũng đeo tám cái túi vải. Tuổi y còn trẻ như thế mà đã giữ chức trưởng lão tám túi của Cái Bang, thực là hiếm có. Đột nhiên nghe gã nói:
– Kim Hoa bà bà, bà đã nói trước là không giúp Tạ Tốn, vừa rồi lại lên tiếng mách nước là thế nào?
Kim Hoa bà bà lạnh lùng nói:
– Các hạ cũng là trưởng lão trong Cái Bang ư? Lão bà tử này mắt kém, chưa từng biết đến.
Người kia nói:
– Tại hạ mới gia nhập Cái Bang chưa lâu, bà bà dĩ nhiên không biết. Tại hạ họ Trần, thảo tự Hữu Lượng.
Kim Hoa bà bà lẩm bẩm một mình:
– Trần Hữu Lượng? Trần Hữu Lượng? Chưa nghe bao giờ.
Chợt có tiếng quát to, cánh tay trái của Trịnh trưởng lão lại bị trúng một quyền của Tạ Tốn, ba gã đệ tử Cái Bang đứng ngoài lại cầm binh khí xông vào vây đánh Tạ Tốn. Võ công ba tên này thấp hơn hai lão Quý, Trịnh, thực ra chỉ làm vướng víu chân tay. Nhưng Tạ Tốn từ khi bị mù chưa giao đấu với ai, không có kinh nghiệm lâm trận, hôm nay lần đầu gặp cường địch, kẻ địch ngoài quyền cước lại có kẻ sử dụng binh khí, âm thanh hỗn tạp, khó bề phân biệt phương vị, trong phút chốc đã trúng một quyền vào vai.
Trương Vô Kỵ thấy tình thế nguy cấp, toan ra tay, thì Triệu Mẫn nói nhỏ:
– Chẳng lẽ Kim Hoa bà bà không cứu?
Trương Vô Kỵ hơi chần chừ, thấy Kim Hoa bà bà đứng chống gậy, nhếch mép cười, không có vẻ gì ra tay cứu viện. Ngay lúc đó, đùi bên trái của Tạ Tốn lại trúng một cú đá rất mạnh của Trịnh trưởng lão. Tạ Tốn loạng choạng suýt ngã.
Trương Vô Kỵ đã cầm sẵn trong tay bảy viên sỏi, lúc này chàng không nhịn thêm được nữa, tay phải vung lên, bảy viên sỏi chia ra bắn tới năm người. Các viên sỏi chưa tới đích, bỗng thấy một làn hắc quang loáng lên, soạt một tiếng, ba món binh khí lập tức gãy đôi, bốn trong năm tên đã bị chém ngang lưng đứt thành tám khúc, bắn văng tứ phía; chỉ riêng Trịnh trưởng lão bị chém đứt cánh tay phải, nằm lăn ra đất, trên lưng bị hai viên sỏi bắn trúng. Bốn tên bị chém chết kia cũng mỗi tên trúng một viên sỏi, nhưng là đao chém trước, sỏi bắn tới sau, nên việc Trương Vô Kỵ xuất thủ là thừa.
Biến cố diễn ra quá nhanh, ai nấy cả kinh, chỉ thấy trong tay Tạ Tốn là một cây đại đao đen sì, chính là thanh đao Đồ Long được người đời xưng là “võ lâm chí tôn”. Tạ Tốn cầm đao đứng sừng sững giữa triền núi, uy phong lẫm liệt, y như tướng nhà trời.
Trương Vô Kỵ từ nhỏ đã nhìn thấy thanh bảo đao này, nhưng cũng không ngờ nó lại sắc bén, uy mãnh đến thế.
Kim Hoa bà bà lẩm bẩm:
– Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long! Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long!
Trịnh trưởng lão bị đứt một cánh tay, cứ rống lên như heo bị chọc tiết. Trần Hữu Lượng mặt trắng bệch, lớn tiếng nói:
– Tạ đại hiệp võ công cái thế, bội phục, bội phục. Vị Trịnh trưởng lão này xin cho xuống núi, tại hạ nguyện thế mạng cho ông ấy, xin Tạ đại hiệp cứ việc ra tay!
Lời này nói ra, ai nấy cảm động, không ngờ người này nghĩa khí sâu nặng đến thế. Trương Vô Kỵ bất giác thầm kính phục.
Tạ Tốn nói:
– Trần Hữu Lượng, ồ, ngươi là một trang hảo hán, cứ khiêng lão họ Trịnh xuống núi, ta không làm gì ngươi đâu!
Trần Hữu Lượng nói:
– Tại hạ cảm tạ đại ân tha chết, nhưng Cái Bang đã có năm người bỏ mạng bởi tay Tạ đại hiệp, trong vòng mười năm nếu tại hạ học võ thành công, tại hạ sẽ đến báo ân trả oán hôm nay.
Tạ Tốn nghĩ thầm, mình chỉ cần tiến lên một bước, vung đao ra thì Trần Hữu Lượng khó bề thoát chết, giữa lúc cực kỳ nguy hiểm như thế mà y vẫn dám nói đến chuyện sau này tìm đến báo thù, thì quả là người can đảm, bèn nói:
– Lão phu nếu sống thêm mười năm, sẵn lòng lĩnh giáo.
Trần Hữu Lượng ôm quyền hành lễ với Kim Hoa bà bà, nói:
– Cái Bang xâm nhập quý đảo, xin tạ tội!
Y cúi xuống ôm Trịnh trưởng lão lên, hiên ngang đi xuống núi.
Kim Hoa bà bà trừng mắt nhìn Trương Vô Kỵ, lạnh lùng nói:
– Gã kia, khá khen cho thủ pháp đả huyệt của ngươi. Tại sao ngươi lại bắn ra những bảy viên sỏi? Có phải một viên định bắn Trần Hữu Lượng, một viên nhắm vào ta phải không?
Trương Vô Kỵ thấy bà lão nhận ra ý định bắn bảy viên sỏi của mình, song không nhận ra mình là ai, thì chỉ mỉm cười, không trả lời. Kim Hoa bà bà xẵng giọng nói:
– Gã kia, quý tính đại danh của ngươi là gì? Sao lại giả làm thủy thủ đi theo lão bà bà làm gì? Trước mặt Kim Hoa bà bà mà ngươi dám giở trò quỷ, bộ không thiết sống nữa hả?
Trương Vô Kỵ không quen nói dối, cứ ngẩn ra chưa biết trả lời thế nào.
Triệu Mẫn giả giọng ồm ồm của nam giới, nói:
– Chúng vãn bối thuộc bang Cự Kình kiếm ăn trên biển, lâu nay làm nghề buôn bán không dùng vốn. Lão bà bà chịu trả giá cao, nên đành chở khách một chuyến. Vị huynh đệ này thấy bọn Cái Bang cậy đông hà hiếp người khác, nên ra tay giúp người thế cô, không ngờ Tạ đại hiệp võ công cao cường đến thế, chúng vãn bối hóa thành kẻ đa sự.
Nàng giả giọng nam giới, nhưng nghe vẫn cứ the thé, may là hóa trang kỹ lưỡng, mặt mũi vàng vọt, già hẳn đi, nên Kim Hoa bà bà không nhận ra.
Tạ Tốn tay trái xua xua, nói:
– Đa tạ! Ồ, Kim Mao Sư Vương hóa ra hổ xuống đồng bằng, hôm nay phải nhờ đến sự trợ giúp của cả bang Cự Kình. Ta xa cách giới giang hồ hơn hai mươi năm, trong võ lâm xuất hiện bao nhiêu người tài giỏi, ta còn quay về làm gì nữa kia chứ?
Câu cuối cùng, giọng Tạ Tốn vô cùng chán chường, nghe cảm khái thương tâm hết sức. Vừa rồi Trương Vô Kỵ bắn bảy viên sỏi, kình lực mạnh hiếm có, Tạ Tốn nghe rất rõ, kinh hãi không ngờ trong võ lâm nay lại có cao thủ ghê gớm thế, lại tự nghĩ hôm nay mình toàn phải nhờ thanh đao Đồ Long mới thoát nổi cuộc vây đánh của lũ chuột nhắt; nhớ lại hơn hai mươi năm về trước, ở Vương Bàn sơn đảo, ông một mình làm cho cả quần hùng khiếp sợ, mà tưởng như ở kiếp nào.
Kim Hoa bà bà nói:
– Tạ tam ca, muội biết tam ca không muốn người ngoài trợ giúp, nên không ra tay. Tam ca không trách chứ?
Trương Vô Kỵ nghe bà lão gọi nghĩa phụ là tam ca, thì hơi ngạc nhiên, không biết rằng Tạ Tốn đứng hàng thứ ba, chỉ nhìn tuổi tác, thì rõ ràng Kim Hoa bà bà già hơn. Chỉ nghe Tạ Tốn nói:
– Có gì mà trách với chả móc? Lần này bà về Trung nguyên, có nghe ngóng được tin tức gì về hài nhi Vô Kỵ của ta chăng?
Trương Vô Kỵ xúc động, cảm thấy có một bàn tay mềm mại bóp chặt tay chàng, biết rằng Triệu Mẫn không muốn chàng nhận cha con vào lúc này. Vừa nãy chàng đã không nghe lời nàng, cứ bắn sỏi cứu viện; tuy là mạo muội, song vì quá lo cho sự an nguy của nghĩa phụ; còn bây giờ có nhịn một chút cũng chả ngại.
Kim Hoa bà bà đáp:
– Không có gì.
Tạ Tốn thở dài, lát sau mới nói:
– Hàn phu nhân, hai ta vốn là huynh muội thân tình, mong bà đừng lừa dối kẻ mù lòa này. Hài nhi Vô Kỵ của ta có đúng là còn sống trên đời hay chăng?
Kim Hoa bà bà do dự chưa trả lời, Thù Nhi bỗng nói:
– Tạ đại hiệp…
Kim Hoa bà bà giơ tay trái nắm chặt cổ tay nàng, trừng mắt một cái, khiến Thù Nhi không dám nói nữa. Tạ Tốn hỏi:
– Ân cô nương, nói đi, nói đi! Có phải bà bà của cô nương đánh lừa ta hay không?
Thù Nhi nước mắt ròng ròng. Kim Hoa bà bà giơ tay phải để trên đỉnh đầu nàng, Thù Nhi chỉ cần nói ra một lời trái ý bà, bà ta sẽ lấy mạng nàng tức thì. Thù Nhi nói:
– Tạ đại hiệp, bà bà không lừa Tạ đại hiệp đâu. Lần này trở về Trung nguyên, không nghe được tin tức gì của Trương Vô Kỵ.
Kim Hoa bà bà nghe nàng nói vậy, mới bỏ tay ra khỏi đầu nàng, nhưng tay trái vẫn nắm chặt cổ tay nàng.
Tạ Tốn nói:
– Vậy hai người nghe được tin tức gì? Minh giáo ra sao? Những người cũ của chúng ta bây giờ thế nào?
Kim Hoa bà bà nói:
– Không biết nữa. Chuyện trên giang hồ, muội không hỏi tới. Muội chỉ đi tìm tên đầu đà đã hại chết phu quân muội để thanh toán, rồi tìm Diệt Tuyệt sư thái để báo thù một kiếm năm trước; còn mọi chuyện khác, muội chẳng quan tâm.
Tạ Tốn giận dữ nói:
– Giỏi nhỉ, Hàn phu nhân, ngày ở Băng Hỏa đảo, bà nói với ta những gì? Bà bảo vợ chồng Trương ngũ đệ vì không chịu thổ lộ nơi ta đang ẩn cư, mà cả hai bị người ta ép phải tự vẫn trên núi Võ Đang; hài nhi Vô Kỵ của ta thành kẻ mồ côi không ai trông nom, lưu lạc giang hồ, đến đâu cũng bị người ta làm nhục, thê thảm hết mức, có phải thế không?
Kim Hoa bà bà nói:
– Đúng thế!
Tạ Tốn nói:
– Bà bảo Vô Kỵ bị trúng “Huyền Minh thần chưởng”, ngày ngày bị chất âm độc hành hạ khổ sở, chính bà đã gặp nó ở Hồ Điệp cốc, định đem nó đi đảo Linh Xà, nhưng nó nhất quyết không chịu, có phải thế không?
Kim Hoa bà bà đáp:
– Đúng thế, nếu muội lừa dối huynh, thì trời tru đất diệt, Kim Hoa bà bà sẽ không bằng bọn hạ lưu trên giang hồ, phu quân muội ở dưới mồ cũng chẳng được yên.
Tạ Tốn gật đầu, nói:
– Ân cô nương, còn cô nương thì sao?
Thù Nhi nói:
– Điệt nhi bảo rằng hôm ấy điệt nhi đã cố khuyên Vô Kỵ đi ra đảo Linh Xà, y chẳng những không chịu, còn cắn điệt nhi một cái, mu bàn tay điệt nhi vẫn còn vết răng đây, lời đó quyết không sai. Điệt nhi… điệt nhi vẫn nhớ y vô cùng.
Bàn tay Triệu Mẫn đang nắm tay Trương Vô Kỵ bỗng bóp mạnh một cái, mắt thì lườm chàng, ánh mắt vừa có vẻ giễu cợt, vừa có vẻ giận dỗi, tựa hồ muốn nói: “Công tử giấu ta giỏi thật! Thì ra cô nương kia quen công tử từ hồi nào, giữa hai người còn nhiều chuyện với nhau”. Trương Vô Kỵ đỏ mặt, nghĩ đến mối tình kỳ dị của Thù Nhi đối với chàng, trong lòng vừa êm đềm vừa chua xót.
Bỗng nhiên Triệu Mẫn cầm tay Trương Vô Kỵ đưa lên miệng cắn mu bàn tay một cái khá mạnh. Mu bàn tay chàng ứa máu tươi. “Cửu dương thần công” trong cơ thể chàng tự động tạo ra sức chế ngự, lập tức khiến khóe miệng nàng bật máu. Hai người cùng cố nhịn đau, không kêu.
Trương Vô Kỵ nhìn Triệu Mẫn, không hiểu tại sao đột nhiên nàng lại cắn mình, chỉ thấy ánh mắt nàng tươi cười, đôi má ửng hồng, đẹp như hoa xuân; tuy miệng có gắn bộ râu giả, song vẫn không giấu được vẻ xinh tươi duyên dáng, thì lòng chàng đầy nghi hoặc.
Tạ Tốn nói:
– Được lắm! Hàn phu nhân, ta chỉ vì lo lắng cho hài nhi Vô Kỵ cô khổ, nên mới từ Băng Hỏa đảo vạn dặm xa xôi trở về Trung nguyên. Bà đã nhận lời đi nghe ngóng tin tức Vô Kỵ, sao không giữ lời?
Trương Vô Kỵ hai hàng nước mắt lã chã tuôn rơi, bây giờ mới biết, nghĩa phụ tuy đâu đâu cũng có kẻ thù, song vẫn không nề nguy hiểm trở về Trung nguyên, tất cả chỉ là vì chàng.
Kim Hoa bà bà nói:
– Bấy giờ hai ta đã nói rõ, muội sẽ đi tìm Trương Vô Kỵ cho tam ca, tam ca thì cho muội mượn thanh đao Đồ Long. Tạ tam ca, nếu tam ca cho muội mượn thanh bảo đao, lời của lão bà tử này nặng như núi, nhất định sẽ đi dò hỏi tin tức xác thực về gã thiếu niên ấy cho tam ca.
Tạ Tốn lắc đầu:
– Bà hãy tìm Vô Kỵ đưa về đây, ta sẽ cho bà mượn đao.
Kim Hoa bà bà lạnh lùng nói:
– Tam ca không tin muội ư?
Tạ Tốn đáp:
– Chuyện đời khó nói lắm. Thân thiết như phụ tử, huynh đệ, cũng có khi không tin nổi nhau nữa là.
Trương Vô Kỵ biết ông đang nhớ đến vụ Thành Côn, trong lòng lại chua xót.
Kim Hoa bà bà nói:
– Vậy là tam ca nhất quyết không chịu cho mượn đao trước?
Tạ Tốn nói:
Ta đã tha cho gã Trần Hữu Lượng của Cái Bang xuống núi, từ nay đảo Linh Xà sẽ không một ngày nào được yên, biết bao nhiêu kẻ thù trong võ lâm sẽ tới đây tìm ta gây sự. Kim Mao Sư Vương đâu còn như thuở xưa, ngoài thanh đao Đồ Long này, ta đâu còn gì để nương tựa, hì hì…
Ông bỗng dưng cười nhạt, rồi nói:
– Hàn phu nhân, ban nãy năm kẻ vây đánh ta, ngay đến vị hảo hán của bang Cự Kình còn phải cầm sẵn đến bảy viên sỏi, hẳn là bà rắp tâm hại ta chứ gì? Bà chỉ mong ta mất mạng dưới tay bọn Cái Bang, thế là bà tiến lên thu lợi. Tạ Tốn mắt mù, chứ lòng chưa mù. Hàn phu nhân, ta hỏi thêm bà câu này, Tạ Tốn đến đảo Linh Xà của bà, việc đó vô cùng bí mật, tại sao người của Cái Bang lại hay biết?
Kim Hoa bà bà nói:
– Chính muội cũng đang muốn tra xét xem tại sao lại thế.
Tạ Tốn giơ tay búng vào thanh đao Đồ Long một cái, cất vào trường bào, nói:
– Bà không chịu đi tìm Vô Kỵ cho ta, cái đó tùy bà. Tạ Tốn này sẽ trở lại giang hồ, lại gây nên một phen nghiêng trời lệch đất cho coi.
Nói đoạn ông ngẩng mặt lên trời hú một tiếng dài, từ triền núi phía tây chạy xuống. Chỉ thấy bước chân ông chạy nhanh, thẳng tới một ngọn núi phía bắc đảo.
Trên đỉnh núi ấy có một cái lều cỏ trơ trọi, chắc là nơi ở của ông.
*
* *
Kim Hoa bà bà chờ Tạ Tốn đi rồi, quay lại trừng mắt nhìn Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn, quát:
– Cút đi!
Triệu Mẫn kéo tay Trương Vô Kỵ, lập tức xuống núi, trở lên thuyền. Trương Vô Kỵ nói:
– Ta muốn đi gặp nghĩa phụ.
Triệu Mẫn nói:
– Khi nghĩa phụ công tử bỏ đi, mắt Kim Hoa bà bà lộ hung quang, công tử không thấy ư?
Trương Vô Kỵ nói:
– Ta chẳng sợ gì bà lão ấy.
Triệu Mẫn nói:
– Ta nghĩ hòn đảo này còn chứa chất nhiều điều ngụy bí. Bọn Cái Bang tại sao tụ tập ở đây? Kim Hoa bà bà làm cách nào biết được chỗ ẩn cư của nghĩa phụ công tử? Làm sao bà ta tìm đến Băng Hỏa đảo? Bên trong quả có nhiều điều chưa rõ. Công tử đánh chết Kim Hoa bà bà, việc đó không khó, nhưng sẽ không thể hiểu rõ ra nhiều việc.
Trương Vô Kỵ nói:
– Ta cũng chưa định giết Kim Hoa bà bà; chỉ vì nghĩa phụ nhớ ta quá, ta phải đến gặp ông mới được.
Triệu Mẫn lắc đầu, nói:
– Hai người xa cách hơn mười năm, đợi thêm một, hai ngày đã sao? Trương công tử, ta nói để công tử biết, chúng ta phải đề phòng Kim Hoa bà bà là điều dĩ nhiên, song cũng phải đề phòng cả cái gã Trần Hữu Lượng nữa đó.
Trương Vô Kỵ nói:
– Trần Hữu Lượng ư? Đó là một trang hảo hán rất trọng nghĩa khí.
Triệu Mẫn nói:
– Công tử tưởng thế thật ư? Công tử không nói dối ta đấy chứ?
Trương Vô Kỵ lấy làm lạ, nói:
– Nói dối cô nương? Trần Hữu Lượng chịu chết thay cho Trịnh trưởng lão, thật là một người hiếm có.
Đôi mắt đẹp của Triệu Mẫn chăm chú nhìn chàng, nàng thở dài, nói:
– Trương công tử ơi là Trương công tử, công tử là giáo chủ Minh giáo, phải thống suất bao nhiêu anh hùng hào kiệt ghê gớm, mưu tính bao nhiêu việc lớn, mà lại dễ bị kẻ khác đánh lừa như thế, thì làm sao được?
Trương Vô Kỵ ngạc nhiên hỏi:
– Bị kẻ khác đánh lừa ư?
Triệu Mẫn nói:
– Gã Trần Hữu Lượng ấy hiển nhiên đánh lừa Tạ đại hiệp, công tử chứng kiến rõ ràng, tại sao lại nhìn không ra?
Trương Vô Kỵ bật dậy, hỏi:
– Gã đánh lừa nghĩa phụ ta ư?
Triệu Mẫn nói:
– Khi Tạ đại hiệp vung đao một cái, bốn cao thủ chết tươi, một tên bị thương, gã Trần Hữu Lượng cao mấy cũng khó thoát một nhát chém của thanh đao Đồ Long. Ở tình cảnh đó, nếu không xông tới đánh thí mạng, thì chỉ còn cách quỳ xin tha mạng… Nhưng công tử thử nghĩ xem, nếu Tạ đại hiệp không muốn cho người ta biết hành tung của mình, thì dù Trần Hữu Lượng có rập đầu ba trăm cái van xin, cũng chẳng thể làm cho Tạ đại hiệp mềm lòng. Trừ việc giả vờ nhân hiệp trọng nghĩa, làm gì còn cách nào khác?
Nàng vừa nói, vừa thoa lên vết thương trên mu bàn tay Trương Vô Kỵ một chút thuốc cao, rồi dùng khăn tay của nàng buộc lại.
Trương Vô Kỵ nghe nàng giải thích cảnh ngộ của Trần Hữu Lượng, quả không sai chút nào, nhưng nghĩ lúc ấy Trần Hữu Lượng nói năng khảng khái, không có chút gì giả dối, thì chàng cảm thấy bán tín bán nghi.
Triệu Mẫn nói tiếp:
– Thôi được, ta hỏi thêm công tử: khi Trần Hữu Lượng nói mấy câu ấy với Tạ đại hiệp, thì hai tay và hai chân gã làm gì?
Trương Vô Kỵ lúc nghe Trần Hữu Lượng nói, thì chàng hoặc nhìn mặt gã, hoặc nhìn mặt nghĩa phụ, đâu có để ý tay chân gã ra sao; song chàng vẫn quan sát toàn thân gã, người ngoài không nhắc đến, thì chàng cũng chẳng lưu tâm. Bây giờ nghe Triệu Mẫn hỏi thế, chàng liền nhớ lại tình cảnh lúc đó, nói:
– Ồ, Trần Hữu Lượng hơi giơ tay phải, tay trái đặt ngang, là chiêu “Sư tử bác thố”[117], còn hai chân gã ư? À phải rồi, chính là “Hàng ma thích đẩu thức”. Hai chiêu ấy đều là quyền pháp của phái Thiếu Lâm, cũng đâu có gì là tệ hại. Chẳng lẽ gã giả vờ cầu tình với nghĩa phụ ta, kỳ thực có ý đánh lén hay sao? Chuyện đó không đúng, hai chiêu kia đâu có tác dụng gì.
Triệu Mẫn cười nhạt, nói:
– Trương công tử, về chuyện lòng dạ hiểm ác của người đời, công tử còn biết quá ít. Cái gã Trần Hữu Lượng kia dẫu võ công cao mấy, đánh lén Tạ đại hiệp đâu dễ thành công? Hắn là kẻ thông minh cơ trí, là nhân tài hạng nhất, dĩ nhiên thừa hiểu điều đó. Giả dụ cái trò giả vờ nhân nghĩa thâm trọng kia bị Tạ đại hiệp phát hiện, không chịu tha mạng cho gã, thì từ vị trí gã đang đứng, chiêu “Hàng ma thích đẩu thức” sẽ đá vào ai? Chiêu “Sư tử bác thố” sẽ chộp người nào?
Trương Vô Kỵ chỉ nghĩ tốt cho người khác, không hề nghĩ rằng Trần Hữu Lượng có gian kế, nay nghe Triệu Mẫn nhắc nhở, trong óc chợt lóe lên, lưng toát mồ hôi, run giọng nói:
– Thì gã… gã sẽ đá Trịnh trưởng lão đang nằm dưới đất, và sẽ thộp Ân cô nương.
Triệu Mẫn mỉm cười, nói:
– Đúng thế! Trần Hữu Lượng sẽ đá Trịnh trưởng lão văng về phía Tạ đại hiệp, rồi sẽ chộp Ân cô nương, cô nàng có tình thanh mai trúc mã với công tử, được công tử cắn tay ước hẹn, gã sẽ đẩy Ân cô nương về phía Tạ đại hiệp, làm như thế sẽ hoãn lại một chút, để gã có cơ hội thoát thân. Tuy Tạ đại hiệp thần công cái thế, lại có bảo đao trong tay, kế đó của gã chưa chắc thành công; song trừ cách đó ra, không còn cách nào khác. Nếu là ta, lúc ấy ta cũng sẽ làm như gã. Đến lúc này ta cũng chưa nghĩ ra được cách nào khác. Trần Hữu Lượng chỉ trong khoảnh khắc đã cơ biến như thế, quả là một nhân vật ghê gớm.
Nàng nói rồi cứ tấm tắc khen. Trương Vô Kỵ càng nghĩ càng lo ngại trên đời này lòng người hiểm độc, chàng từ bé đã trải qua không ít, nhưng lợi hại như Trần Hữu Lượng quả là ít thấy; một lát sau, chàng nói:
– Triệu cô nương, cô nương vừa nhìn đã nhận ra mưu mô của gã, chỉ e cô nương còn lợi hại hơn cả Trần Hữu Lượng.
Triệu Mẫn sa sầm mặt, nói:
– Công tử mỉa mai ta đấy chăng? Nói để công tử hay, nếu công tử sợ ta lòng dạ hiểm ác, thì hãy tránh cho xa là hơn.
Trương Vô Kỵ cười, nói:
– Chả cần phải thế. Cô nương đã sử dụng ngụy kế với ta nhiều lần, mọi việc ta cứ đề phòng là được.
Triệu Mẫn mỉm cười, nói:
– Công tử đề phòng có nổi không kia chứ? Ban nãy ta bôi thuốc độc lên vết thương ở bàn tay, sao công tử không đề phòng?
Trương Vô Kỵ kinh hãi, quả nhiên chỗ vết thương hơi ngứa, có vẻ khác lạ, vội cởi khăn buộc ra, đưa tay lên mũi ngửi ngửi, không khỏi kêu lên:
– Ối chao!
Chàng biết là Triệu Mẫn đã bôi “Khử hủ tiêu cơ cao” lên tay chàng. Đó là loại thuốc tiêu độc, trừ thịt thối, dùng trong ngoại khoa, tuy không phải là thuốc độc, nhưng bôi lên vết thương, sẽ làm cho vết cắn bị loét rộng thêm. Loại cao này vốn có mùi hăng hăng, Triệu Mẫn lại trộn lẫn với chút son môi, sau đó dùng khăn tay băng lại, mùi thơm át mùi thuốc, khiến Trương Vô Kỵ không nhận ra được. Trương Vô Kỵ vội chạy ra đuôi thuyền lấy nước rửa thật sạch. Triệu Mẫn theo sau, vừa cười khúc khích vừa giúp chàng rửa vết thương. Trương Vô Kỵ đẩy vai nàng ra, hậm hực nói:
– Đừng lại gần ta! Nghịch kiểu gì ác thế? Làm như người ta không biết đau hay sao?
Triệu Mẫn cười khanh khách, nói:
– Thật đúng là lấy oán trả ơn, ta sợ công tử bị đau nhức, nên mới bôi thuốc cao đó.
Trương Vô Kỵ không thèm để ý đến nàng, hầm hầm đi vào khoang thuyền, nhắm mắt lại. Triệu Mẫn cũng theo vào, gọi khẽ:
– Trương công tử!
Trương Vô Kỵ giả vờ ngủ. Triệu Mẫn gọi thêm hai lần, chàng vẫn làm thinh. Triệu Mẫn thở dài:
– Biết thế ta bôi thuốc độc thật cho công tử chết luôn, còn hơn là để công tử không thèm ngó ngàng gì đến ta thế này.
Trương Vô Kỵ mở mắt ra, nói:
– Thế nào là lấy oán báo ơn, cô nương nói ta nghe thử?
Triệu Mẫn cười, nói:
– Nếu ta giải thích đúng, công tử phải phục thì sao đã?
Trương Vô Kỵ nói:
– Cô nương quen cưỡng từ đoạt lý, ta dĩ nhiên cãi không lại với cô nương.
Triệu Mẫn cười, nói:
– Công tử còn chưa nghe ta giải thích mà đã không tin, nên nhớ ta hoàn toàn chỉ có thiện ý với công tử mà thôi.
Trương Vô Kỵ nói:
– Hừ, thiên hạ lại có thứ thiện ý kiểu đó ư? Tự dưng cắn chảy máu tay người ta, đã không đền lại còn bôi thuốc độc lên, ta thà không nhận thứ thiện ý ấy của cô nương còn hơn.
Triệu Mẫn nói:
– Được, ta hỏi công tử: ta cắn công tử đau hơn hay công tử cắn Ân cô nương đau hơn?
Trương Vô Kỵ đỏ mặt, nói:
– Chuyện đó… lâu quá rồi, nhắc lại làm gì?
Triệu Mẫn nói:
– Ta cứ thích nhắc đấy. Ta hỏi công tử, công tử đừng có đánh trống lảng.
Trương Vô Kỵ nói:
– Thì cứ coi như ta cắn Ân cô nương đau hơn đi. Hồi ấy cô ta nắm chặt tay ta, võ công ta không bằng, chẳng có cách gì thoát ra, trẻ con lúc cuống lên đành cắn một cái. Còn bây giờ cô nương đâu phải là trẻ con, ta cũng đâu có nắm tay cô nương bắt đi ra đảo Linh Xà?
Triệu Mẫn cười, nói:
– Kể cũng lạ. Hồi trước nàng ta nắm tay công tử, muốn công tử đi theo ra đảo Linh Xà, công tử nhất định không chịu đi. Vậy mà vừa rồi người ta không mời công tử, công tử lại vui vẻ đi theo là sao? Hay là người lớn rồi, lòng cũng lớn, mọi thứ đều thay đổi?
Trương Vô Kỵ lại đỏ mặt, cười nói:
– Chuyến này là cô nương rủ ta đi đấy chứ!
Triệu Mẫn nghe vậy cũng đỏ mặt, trong lòng cảm thấy ngọt ngào, tựa hồ Trương Vô Kỵ vừa nói rằng “Cô ta bắt ta đi, ta thà chết không đi; còn nàng rủ thì ta theo ngay”.
Hai người im lặng hồi lâu, ánh mắt vừa chạm nhau, đã vội vàng ngoảnh đi.
Triệu Mẫn cúi đầu, nói nhỏ:
– Thôi được, để ta nói công tử nghe, năm xưa công tử cắn Ân cô nương một cái, bấy nhiêu năm cô ấy vẫn nhớ thương công tử. Ta nghe khẩu khí của cô ấy, chỉ e suốt đời cô ấy cũng không quên được công tử. Bởi vậy ta cũng cắn công tử một cái, để công tử suốt đời không thể quên được ta.
Trương Vô Kỵ nghe thế thì hiểu ngay thâm ý của Triệu Mẫn, trong lòng cảm kích không nói nên lời.
Triệu Mẫn nói tiếp:
– Ta nhìn vết sẹo ở mu bàn tay cô ấy, thấy công tử cắn rất sâu. Ta nghĩ vết cắn càng sâu, thì càng nhớ lâu. Ta cũng định cắn công tử một cái thật sâu, nhưng rồi không nỡ; mà cắn nhẹ, thì lại sợ công tử sẽ mau quên ta. Ngẫm đi nghĩ lại, chỉ còn cách cắn một cái vừa phải, rồi bôi thuốc “Khử hủ tiêu cơ cao” cho vết thương loét sâu hơn.
Trương Vô Kỵ thoạt nghe thấy tức cười, nhưng nghĩ lại, nàng làm thế cũng chỉ vì cảm tình sâu xa đối với chàng, nên thở dài, nói:
– Ta không trách cô nương đâu. Cứ coi như ta lấy oán báo ơn, không biết thiện ý của người khác. Cô nương đối với ta như thế, dẫu gì ta cũng không thể quên cô nương.
Triệu Mẫn đang dịu dàng e thẹn, nghe chàng nói vậy, ánh mắt liền lộ vẻ tinh quái, cười cười, hỏi:
– Công tử bảo “cô nương đối với ta như thế”, là bảo ta đối xử tử tế hay không tử tế với công tử? Trương công tử, ta đối xử xấu với công tử thì đã nhiều, còn đối xử tốt với công tử, thì chưa được lần nào cả.
Trương Vô Kỵ nói:
– Từ nay trở đi, cô nương đối xử tốt với ta là được.
Chàng cầm tay trái nàng đưa lên môi, cười nói:
– Để ta cắn cho cô nương một cái, khiến cô nương suốt đời không quên ta.
Triệu Mẫn bỗng thẹn thùng, rút tay lại, chạy ra khỏi khoang thuyền. Vừa mở cửa khoang thì đụng ngay Tiểu Chiêu đứng đó, giật mình nghĩ thầm: “Hỏng rồi, những gì ta nói với chàng, con tiểu a hoàn này đã nghe thấy cả, xấu hổ muốn chết được!” Bất giác nàng đỏ mặt, chạy lên khoang trên.
*
* *
Tiểu Chiêu tới trước mặt Trương Vô Kỵ, nói:
– Công tử gia, tiểu nữ vừa thấy Kim Hoa bà bà cùng cô nương xấu xí đi ra, mỗi người vác một cái bọc to, không biết họ muốn giở trò gì.
Trương Vô Kỵ ậm ừ, từ nãy chàng và Triệu Mẫn cười đùa với nhau toàn chuyện riêng tư, giờ thấy Tiểu Chiêu, chàng không khỏi có chút ngượng ngập, ngẩn ra một lát, mới nói:
– Có phải họ đi tới căn lều cỏ trên đỉnh núi phía bắc hay không?
Tiểu Chiêu nói:
– Không phải, hai người đi về hướng bắc thật, nhưng không leo lên núi, hình như đang tranh cãi điều gì. Kim Hoa bà bà có vẻ rất tức giận.
Trương Vô Kỵ đi ra đuôi thuyền, thấy Triệu Mẫn đứng ở mũi thuyền thẫn thờ nhìn ra biển. Chàng nghe tiếng sóng vỗ vào mạn thuyền, cũng thấy trong lòng như có từng đợt sóng trào lên không dứt. Hồi lâu, nhìn vầng dương lặn xuống dưới các con sóng phía tây, cây cối, núi non trên đảo dần dần sẫm lại, chàng mới đi vào trong khoang.
Ăn tối xong, Trương Vô Kỵ nói với Triệu Mẫn và Tiểu Chiêu:
– Ta đi thăm nghĩa phụ, hai người ở lại giữ thuyền, khỏi đông người, khiến Kim Hoa bà bà phát giác.
Triệu Mẫn nói:
– Thì công tử cứ đợi một lúc nữa, trời tối hẳn hãy đi.
Trương Vô Kỵ nói:
– Phải.
Chàng mong nhớ nghĩa phụ, nóng lòng sốt ruột, sự chờ đợi thực cứ dài đằng đẵng. Đến khi trời đã tối đen, chàng đứng dậy, mỉm cười với Triệu Mẫn và Tiểu Chiêu, đi ra cửa khoang.
Triệu Mẫn cởi thanh kiếm Ỷ Thiên đeo bên hông ra, nói:
– Trương công tử hãy mang thanh kiếm này phòng thân.
Trương Vô Kỵ ngẩn người, nói:
– Cô nương cứ giữ nó thì hơn.
Triệu Mẫn nói:
– Không, công tử đi thế này, ta cảm thấy không yên tâm.
Trương Vô Kỵ cười, hỏi:
– Có gì mà không an tâm?
Triệu Mẫn nói:
– Ta cũng không nói ra được. Kim Hoa bà bà kỳ bí khó lường, Trần Hữu Lượng quỷ kế đa đoan, không biết nghĩa phụ của công tử có tin công tử là “hài nhi Vô Kỵ” của ông hay chăng… Ôi, hòn đảo này tên là “Linh Xà”, không chừng còn có các loài vật độc địa, huống hồ…
Nàng nói tới đó thì ngừng lại. Trương Vô Kỵ hỏi:
– Huống hồ cái gì?
Triệu Mẫn đưa tay mình lên, làm điệu bộ cắn một cái, cười hì hì, đỏ mặt. Trương Vô Kỵ biết nàng muốn nói tới biểu muội Ân Ly, bèn khoát tay, bước ra. Triệu Mẫn gọi:
– Đón lấy này!
Nàng thảy thanh kiếm Ỷ Thiên về phía chàng. Trương Vô Kỵ đón lấy thanh kiếm, trong lòng bồi hồi: “Nàng tin ta, ngay cả kiếm Ỷ Thiên cũng đưa cho mượn”.
Chàng giắt kiếm sau lưng, đề khí chạy tới ngọn núi phía bắc. Nhớ tới lời Triệu Mẫn, chàng sợ trong cỏ có rắn rết, trùng độc, chỉ đặt chân xuống những chỗ trống trải, những tảng đá nhẵn nhụi. Chừng uống hết một chén trà nóng, chàng đã đến chân núi, ngẩng lên, thấy căn lều cỏ tối om, không đèn nến gì, nghĩ thầm: “Nghĩa phụ đã ngủ rồi ư?” nhưng lại nghĩ ngay: “Lão nhân gia hai mắt đã mù, cần gì đèn đóm?” Đúng lúc đó, từ lưng chừng núi phía trái loáng thoáng vọng xuống tiếng nói chuyện rì rầm. Chàng nép mình, lần tới chỗ phát ra tiếng nói, nhưng không nghe thấy gì nữa.
Vừa lúc ấy có một luồng gió bấc thổi tới, khiến cỏ cây xào xạc. Trương Vô Kỵ lợi dụng tiếng gió, vọt lên thật nhanh, nghe thấy phía trước mặt chừng dăm trượng có tiếng nói rất nhỏ của Kim Hoa bà bà:
– Sao chưa ra tay? Chần chừ gì nữa?
Ân Ly nói:
– Bà bà làm thế này… dường như không nên không phải với bằng hữu cũ. Tạ đại hiệp có giao tình với bà bà mấy chục năm, mới tin bà bà mà rời Băng Hỏa đảo về Trung nguyên.
Kim Hoa bà bà cười khẩy, nói:
– Lão tin ta ư? Ngươi nói thật tức cười. Lão tin ta, sao không chịu cho ta mượn thanh đao? Lão trở về Trung nguyên chỉ cốt tìm nghĩa tử của lão, chẳng liên can gì tới ta.
Trong bóng đêm, chỉ thấy lờ mờ cái bóng còng còng của Kim Hoa bà bà, bỗng nhiên nghe “keng” một tiếng nhỏ, phía trước mặt Kim Hoa bà bà, là tiếng sắt nhọn cắm xuống đá núi, lát sau lại một tiếng như thế. Trương Vô Kỵ lấy làm lạ, nhưng sợ bị phát giác, nên chàng không dám lại gần thêm để nhìn cho rõ.
Chỉ nghe Ân Ly nói:
– Bà bà muốn đoạt thanh bảo đao, nên công khai giao chiến để khỏi mất tư cách anh hùng. Việc đang làm này nếu bị truyền ra giang hồ, chẳng sợ hảo hán thiên hạ chê cười hay sao? Diệt Tuyệt sư thái chết rồi, bà bà còn cần đến thanh đao Đồ Long làm gì nữa?
Kim Hoa bà bà cả giận, đứng thẳng dậy, xẵng giọng:
– Con nhãi kia, năm xưa ai cứu mạng mi thoát khỏi tay cha mi? Bây giờ mi lớn rồi, không vâng lời bà bà sai bảo nữa phải không? Lão Tạ Tốn kia không bà con thân thích gì với mi, sao mi cứ bênh lão chầm chập như thế? Mi thử nói duyên cớ bà bà nghe coi.
Giọng chì chiết đay nghiến, nhưng âm thanh rất nhỏ, tựa hồ sợ bị Tạ Tốn ở trên đỉnh núi nghe thấy. Thực ra khoảng cách từ đây lên đỉnh núi rất xa, nếu không dùng nội lực truyền tiếng nói đi, thì có lớn tiếng kêu gào, trên kia cũng chưa chắc đã nghe thấy.
Ân Ly lấy từ trong bao ra vật gì đó, ném xuống đất, nghe keng keng một chập, rồi lùi lại ba bước.
Kim Hoa bà bà gắt lên:
– Gì thế? Mi đủ lông đủ cánh rồi, muốn bay đi phải không?
Trương Vô Kỵ tuy qua bóng đêm, vẫn nhìn thấy mục quang bà ta quắc lên như tia chớp đầy vẻ hăm dọa. Ân Ly nói:
– Bà bà, con không dám quên đại ân bà bà đã cứu mạng và truyền thụ võ công cho con. Nhưng Tạ đại hiệp là… là nghĩa phụ của y.
Kim Hoa bà bà cười khan vài tiếng, nói:
– Sao trên đời lại có kẻ ngu si như mi không biết! Gã tiểu tử họ Trương ấy đã rơi xuống vực sâu vạn trượng ở Tây Vực, chính tai mi đã nghe Võ Liệt, Võ Thanh Anh kể lại. Mi vẫn chưa tin hẳn, còn bắt cha con chúng mang về đây khảo vấn, chúng nói rõ ra hết cả rồi, không lẽ còn là giả hay sao? Giờ đây xương cốt của gã tiểu tử họ Trương cũng đã hóa thành tro bụi, vậy mà mi vẫn không quên được y hay sao?
Ân Ly nói:
– Bà bà, lòng con sao không thể nào quên y được. Chắc đúng như bà bà nói, là oan nghiệt kiếp trước đó chăng?
Kim Hoa bà bà thở dài, nói:
– Đừng nói năm xưa gã tiểu tử ấy không chịu theo mi ra đảo Linh Xà, dẫu có cùng mi nên vợ nên chồng, thì gã cũng đã chết rồi, còn chờ đợi gã làm gì nữa? Cũng may gã chết sớm, nếu còn sống đến hôm nay, thấy mi mặt mũi thế này, liệu gã có yêu thương mi hay không? Mi phải giương mắt nhìn gã yêu thương đứa con gái khác, trong lòng mi sẽ nghĩ sao?
Mấy câu này, giọng nói của Kim Hoa bà bà đã hoàn toàn trở lại ôn tồn.
Ân Ly lặng thinh, rõ ràng chưa biết trả lời thế nào. Kim Hoa bà bà nói tiếp:
– Chả nói đâu xa, ngay Chu cô nương phái Nga Mi mà chúng ta bắt mang về đây, xinh đẹp như thế, tên tiểu tử họ Trương nhìn thấy lẽ nào không động lòng? Khi đó, mi sẽ giết Chu cô nương hay giết tiểu tử họ Trương? Hừ, nếu mi không luyện môn “Thiên thù vạn độc thủ”, thì mi cũng là một giai nhân tuyệt sắc nhưng hiện tại thì mọi thứ đâu vào đấy cả rồi.
Ân Ly nói:
– Người ấy chết rồi, diện mạo con cũng đã hủy, còn gì đáng nói? Nhưng Tạ đại hiệp là nghĩa phụ của y. Bà bà, mình nhất quyết không nên động chạm tới ông ấy. Bà bà, con chỉ cầu xin bà bà một việc đó thôi, còn việc gì con cũng vâng lời bà bà.
Nói đoạn liền quỳ xuống.
Trương Vô Kỵ lấy làm lạ: “Việc ta lên làm giáo chủ Minh giáo, đã gây chấn động cả võ lâm, sao hai người này lại không biết gì cả? À phải rồi, chắc họ đi lên Băng Hỏa đảo đón nghĩa phụ ta, đi về mất một thời gian dài; vừa rồi họ tới Đại Đô rồi trở về đảo ngay, không lai vãng với bất cứ đâu, nên không nghe nhắc đến tên ta”.
Kim Hoa bà bà ngẫm nghĩ một hồi, nói:
– Thôi được, mi đứng lên đi!
Ân Ly mừng rỡ:
– Đa tạ bà bà!
Kim Hoa bà bà nói:
– Ta nhận lời mi không giết Tạ Tốn, nhưng thanh đao Đồ Long thì không lấy không được… Ân
– Ân Ly nói:
– Nhưng mà…
Kim Hoa bà bà cắt ngang lời nàng, quát:
– Không lôi thôi gì nữa, đừng có làm cho ta bực mình.
Nói xong vung tay, nghe “keng” một tiếng nhỏ. Bà ta cứ vung tay liên tiếp, đi xa dần, tiếng keng keng vang không ngớt. Ân Ly ngồi trên một tảng đá, ôm mặt khóc tấm tức.
Trương Vô Kỵ thấy nàng đối với mình sâu nặng như thế, trong lòng vô cùng cảm kích.
Một lát sau, Kim Hoa bà bà từ xa hơn mười trượng quát:
– Mang lại đây!
Ân Ly không còn cách nào khác, đành xách hai cái túi đi về phía Kim Hoa bà bà.
Trương Vô Kỵ tiến lên mấy bước, cúi xuống nhìn, kinh hãi thấy dưới đất cứ cách hai, ba thước lại cắm một cái chông sắt dài bảy, tám tấc, mũi nhọn hoắt chĩa lên sáng loáng. Chàng càng nghĩ càng ghê người, Kim Hoa bà bà hẳn là sẽ đến khiêu chiến với Kim Mao Sư Vương, sợ không địch nổi, nếu bắn ám khí thì lo Tạ Tốn nghe tiếng gió mà tránh được; đằng này cắm chông dưới đất, vô thanh vô tức, chỉ cần dụ ông đi vào bãi chông, người mù cả hai mắt làm sao có thể đề phòng? Chàng không nén được lửa giận, định nhổ các cây chông để phá vỡ âm mưu của bà ta, nhưng lại nghĩ thầm: “Mụ ác bà này gọi nghĩa phụ ta là Tạ tam ca, giao tình giữa hai người ngày xưa hẳn vô cùng thân thiết. Chờ khi mụ ta đoạn tình với nghĩa phụ ta trước, ta sẽ phá quỷ kế của mụ ta. Hôm nay trời cho Trương Vô Kỵ ta ở đây, quyết không để nghĩa phụ bị thương tổn”.
Nghĩ vậy, chàng bèn ngồi bó gối sau một tảng đá, chờ xem biến chuyển. Bỗng trong tiếng gió núi có gì như tiếng lá rơi, một kẻ khinh công cao cường đang lẳng lặng tiến tới. Trương Vô Kỵ ngoảnh nhìn, thấy kẻ đó chính là trưởng lão Cái Bang Trần Hữu Lượng, tay cầm loan đao, song dùng vải bọc đao lại cho khỏi sáng. Chàng nghĩ bụng Triệu Mẫn định liệu quả không sai, người này quả không phải là người tốt.
Chỉ nghe Kim Hoa bà bà thở dài, gọi:
– Tạ tam ca, có tên cẩu tặc không sợ chết đến tìm ông kìa!
Trương Vô Kỵ giật mình, không ngờ Kim Hoa bà bà lợi hại đến thế, không lẽ mụ ta đã phát hiện ra tung tích của mình chăng? Về lý mà xét, không thể có chuyện đó. Chỉ thấy Trần Hữu Lượng nằm phục xuống đám cỏ cao, không dám động đậy. Trương Vô Kỵ men lên phía trước thêm vài trượng nữa. Chàng muốn càng gần nghĩa phụ càng tốt, đề phòng Kim Hoa bà bà đột nhiên giở quỷ kế, chàng không kịp cứu viện.
Lát sau, một bóng người cao lớn từ trong căn lều cỏ trên đỉnh núi bước ra, chính là Tạ Tốn. Ông thong thả đi xuống, cách Kim Hoa bà bà vài trượng thì dừng lại, không nói một lời.
Kim Hoa bà bà nói:
– Tạ tam ca, ông đối với cố nhân thì đề phòng từng tí một, trong khi đối với người ngoài lại quá cả tin. Cái gã Trần Hữu Lượng mà Tạ tam ca tha cho đi, bây giờ lại đến tìm ông đấy.
Tạ Tốn cười khẩy, nói:
– Giáo đâm công khai dễ tránh, mũi tên bắn lén khó phòng, Tạ Tốn này cả đời luôn luôn bị người ta lợi dụng. Gã Trần Hữu Lượng ấy lại đến tìm ta ư, để làm gì kia chứ?
Kim Hoa bà bà nói:
– Hạng tiểu nhân gian xảo đó, thiếu gì mưu mẹo? Sáng nay, khi Tạ tam ca tha mạng cho hắn, tam ca có biết chân tay hắn chuẩn bị sẵn chiêu thức gì không? Hai tay hắn thành thế “Sư tử bác thố”, còn chân thì dợm sức ra chiêu “Hàng ma thích đẩu thức”, ha ha, ha ha!
Bà ta nói thì giọng thanh tao dễ nghe, nhưng tiếng cười thì như cú rúc trong đêm, nghe đáng sợ.
Tạ Tốn ngẩn người, biết lời của Kim Hoa bà bà là thật; chỉ vì mù nên ông không thể nhìn thấy hành vi của Trần Hữu Lượng. Ông thản nhiên nói:
– Tạ Tốn này bị người ta lừa dối đâu phải lần đầu. Hạng tiểu nhân như hắn trên giang hồ thiếu gì, giết bớt thêm một đứa hay để lại thêm một đứa thì có khác gì đâu? Hàn phu nhân, nếu bà còn là hảo bằng hữu của ta, sao lúc sáng thấy lại chẳng nói ngay, bây giờ mới nói cho ta biết, có phải muốn chọc tức ta hay không?
Nói xong, Tạ Tốn đột nhiên tung mình nhanh như chớp, nhảy đến ngay trước mặt Trần Hữu Lượng.
Trần Hữu Lượng cả kinh, vung đao chém. Tạ Tốn tay trái đoạt luôn thanh loan đao của hắn, tay phải tát “bốp bốp bốp” ba cái liền, rồi thộp cổ hắn giơ lên, nói:
– Lúc này ta giết ngươi, có khác gì giết gà; nhưng Tạ Tốn đã nói trước, cho phép ngươi mười năm sau trở lại tìm ta. Nếu ngươi còn để ta gặp lần nữa trên hòn đảo này, ta sẽ lấy cái mạng chó của ngươi.
Rồi Tạ Tốn quẳng hắn ra xa.
Nơi Trần Hữu Lượng sắp rơi xuống chính là bãi chông mà Kim Hoa bà bà dày công bố trí cả đêm. Sợ gian kế của mình bại lộ, Kim Hoa bà bà liền phi thân tới, dùng cây gậy đẩy vào lưng Trần Hữu Lượng ra xa mấy trượng, miệng quát:
– Ngươi mà còn đặt chân lên đảo Linh Xà này một bước, ta sẽ giết một trăm tên ăn mày của Cái Bang. Kim Hoa bà bà ta nói sao làm vậy, hôm nay ban cho ngươi một bông kim hoa trước.
Mụ vung tay trái, một điểm vàng loáng qua, “bộp” một tiếng, một bông kim hoa đã trúng ngay huyệt Giáp Xa trên má trái Trần Hữu Lượng, khiến hắn nhất thời không thể nói gì để khỏi tiết lộ bí mật của mụ. Trần Hữu Lượng đưa tay ôm má, vội bỏ chạy xuống núi.
Lúc này Tạ Tốn cách bãi chông chỉ vài trượng, thành ra Trương Vô Kỵ lại ở sau lưng ông. Nội công của Trương Vô Kỵ cao hơn hẳn Trần Hữu Lượng, chàng nín thở, nên Tạ Tốn và Kim Hoa bà bà đều không phát hiện chàng đang nằm phục ngay bên cạnh.
Kim Hoa bà bà quay người lại, khen:
– Tạ tam ca, ông dùng tai thay mắt không kém chút nào, từ nay trùng chấn hùng phong, tam ca lại có thể tung hoành trên giang hồ hai chục năm nữa đấy.
Tạ Tốn nói:
– Ta đâu có nghe được “Sư tử bác thố” và “Hàng ma thích đẩu thức”, chỉ cần biết tin về hài nhi Vô Kỵ, là ta chết có thể nhắm mắt được rồi. Tạ Tốn này nợ máu ngập đầu, chắc sẽ phải chết thảm, nói gì chuyện tung hoành giang hồ?
Kim Hoa bà bà cười, nói:
– Hộ giáo pháp vương của Minh giáo, giết vài mạng người đáng kể gì đâu? Tạ tam ca, cho muội mượn thanh đao Đồ Long đi nào.
Tạ Tốn lắc đầu không trả lời.
Kim Hoa bà bà lại nói:
– Nơi đây hình tích đã lộ, ông không thể ở lại nữa. Để muội đi tìm một nơi kín đáo, đưa tam ca đến trú vài tháng, chờ muội mang thanh đao Đồ Long đi đánh thắng đại địch là phái Nga Mi rồi, sẽ tận lực tìm kiếm Trương công tử. Với bản lĩnh của muội, việc đem Trương công tử đến gặp tam ca không có gì khó.
Tạ Tốn lại lắc đầu. Kim Hoa bà bà nói:
– Tạ tam ca, ông còn nhớ tám chữ “Tứ đại pháp vương, Tử Bạch Kim Thanh” chứ? Ông còn nhớ năm xưa chúng ta cùng ở dưới trướng Dương giáo chủ chứ, Ưng Vương Ân nhị ca, Bức Vương Vi tứ ca, thêm tam ca và muội, bọn ta tung hoành thiên hạ, nào ai dám cản? Nay hổ có già, nhưng hùng tâm còn đó, sao tam ca nỡ để cho người ta khinh thường đứa em gái Tử Sam này, không chịu giúp là sao?
Trương Vô Kỵ cả kinh: “Nghe lời bà ta, không lẽ bà ta chính là Tử Sam Long Vương, người đứng đầu Tứ đại pháp vương của bản giáo? Trên đời lại có chuyện lạ thế ư? Tại sao ngay cả Vi Bức Vương, bà ta cũng gọi là Tứ ca?”
Chỉ nghe Tạ Tốn bùi ngùi nói:
– Chuyện cũ, nhắc lại làm chi nữa? Già hết, ai cũng già hết rồi.
Kim Hoa bà bà nói:
– Tạ tam ca, muội già nhưng mắt chưa hoa, vẫn nhận thấy hai mươi năm qua võ công của tam ca đại tiến. Tam ca chẳng cần phải khiêm tốn. Mình còn sống đâu được nhiều nhặn gì trên cõi đời này? Theo ý muội, nhân khi Tứ đại pháp vương của Minh giáo chưa ai chết, lại liên thủ làm nên một sự nghiệp oanh liệt trên giang hồ.
Tạ Tốn thở dài:
– Ân nhị ca và Vi tứ đệ bây giờ chắc gì còn sống. Nhất là Vi tứ đệ, chất hàn độc trong cơ thể khó trừ, chỉ e đã lìa trần rồi.
Kim Hoa bà bà cười, nói:
– Tam ca nhầm rồi. Muội nói thực ông nghe, Bạch Mi Ưng Vương và Thanh Dực Bức Vương hiện đang ở trên đỉnh Quang Minh đó.
Tạ Tốn ngạc nhiên hỏi:
– Họ lại trở về đỉnh Quang Minh ư? Để làm gì vậy?
Kim Hoa bà bà nói:
– Chuyện đó chính mắt Ân Ly nhìn thấy. Con bé Ân Ly là cháu ngoại của Ân nhị ca, nó đắc tội với cha nó, cha nó định giết nó. Lần thứ nhất nó được muội cứu thoát; lần thứ hai thì Vi tứ ca cứu nó. Vi tứ ca mang nó lên đỉnh Quang Minh, giữa đường thì bị muội lẻn bắt đi. Ân Ly, ngươi hãy kể lại chuyện sáu đại môn phái vây đánh đỉnh Quang Minh cho Tạ công công nghe đi nào.
Ân Ly bèn kể lại sơ qua chuyện nàng thấy ở Tây Vực, nhưng vì chưa lên tới đỉnh Quang Minh đã bị Kim Hoa bà bà bắt đi, nên nàng không thể biết những gì xảy ra trên đỉnh Quang Minh.
Tạ Tốn càng nghe càng nóng ruột, hỏi dồn:
– Sau đó thế nào? Sau đó thế nào?
Cuối cùng ông tức giận, nói:
– Hàn phu nhân, tuy bà vì chuyện hôn nhân mà bất hòa với các huynh đệ, nhưng khi bản giáo bị nạn, sao bà có thể tụ thủ bàng quan? Dương giáo chủ là nghĩa phụ của bà, năm xưa đãi bà thế nào, bà quên hết cả rồi ư? Bà không thấy là Ân nhị ca, Vi tứ đệ, Ngũ tản nhân và Ngũ Hành kỳ đều lên đỉnh Quang Minh cứu viện đó ư?
Kim Hoa bà bà lạnh lùng nói:
– Muội không mượn được thanh đao Đồ Long, rốt cuộc chỉ là bại tướng dưới tay Diệt Tuyệt lão ni phái Nga Mi, dù có lên đỉnh Quang Minh, cũng đâu còn mặt mũi nào động thủ với mụ ta, chẳng lẽ tới đó xin tha?
Hai người im lặng, lát sau Tạ Tốn hỏi:
– Hồi đó làm cách nào bà biết chỗ ở của ta, sao trước giờ vẫn không chịu nói ra? Là người của phái Võ Đang cho bà biết ư?
Kim Hoa bà bà nói:
– Người của phái Võ Đang làm sao biết được? Vợ chồng Trương Thúy Sơn bị các môn phái ép buộc, thà tự vẫn chứ không chịu tiết lộ chỗ ẩn cư của ông, người của phái Võ Đang dĩ nhiên không thể biết. Thôi được, hôm nay muội cũng chả giấu tam ca nữa. Ở Tây Vực muội có gặp một kẻ tên là Võ Liệt, vốn là con cháu của Võ Tam Thông, truyền nhân của Đoàn gia nước Đại Lý năm xưa. Trời xui đất khiến thế nào, muội nghe được câu chuyện y nói với con gái y. Muội bèn bắt cha con hắn, dùng cực hình ép y phải khai ra chỗ ở của ông.
Tạ Tốn ngẫm nghĩ một hồi, mới nói:
– Gã họ Võ đó có gặp hài nhi Vô Kỵ của ta phải không? Chắc là gã đánh lừa trẻ con nên mới moi ra bí mật đó.
Trương Vô Kỵ nghe tới đây, trong lòng vô cùng hổ thẹn, nhớ năm xưa ở Chu gia trang mình bị lừa, bị hai cha con Chu Trường Linh, Chu Cửu Chân dùng hàng loạt ngụy kế nói thật ra cả; giả dụ nghĩa phụ vì thế mà bị rơi vào tay kẻ gian, thì chàng có chết vạn lần cũng không chuộc hết tội. Nghĩa phụ tuy mù lòa, nhưng suy xét sự việc thì cứ y như chính mắt trông thấy vậy.
Lại nghe Tạ Tốn nói:
– Sáu đại môn phái vây đánh Minh giáo, không phải chuyện thường, cuối cùng bản giáo thế nào?
Kim Hoa bà bà nói:
– Minh giáo hưng suy tồn vong, từ lâu đã chẳng còn liên quan gì tới muội nữa. Năm xưa trên đỉnh Quang Minh, ai ai cũng gây khó dễ với muội, Tạ tam ca quên rồi ư? Muội thì còn nhớ như in. Hồi đó chỉ có Dương giáo chủ và Tạ tam ca đối tốt với muội thôi, muội không quên đâu.
Tạ Tốn nói:
– Ồ, tư oán là chuyện nhỏ, hộ giáo là đại sự. Hàn phu nhân, lòng dạ bà như thế hẹp hòi quá.
Kim Hoa bà bà giận, nói:
– Tạ tam ca là nam tử hán đại trượng phu, còn muội là đàn bà lòng dạ hẹp hòi. Hồi đó muội đã phá môn xuất giáo, thề không dính dáng tới Minh giáo nữa. Nếu không thế, gã Hồ Thanh Ngưu làm sao có thể coi muội là người ngoài? Gã đòi muội phải quay về với Minh giáo, gã mới chịu trị độc cho Ngân Diệp tiên sinh. Hồ Thanh Ngưu là do muội giết đó. Tử Sam Long Vương đã phạm một đại giới của Minh giáo rồi. Muội đâu còn dính dáng gì tới Minh giáo nữa?
Tạ Tốn lắc đầu, nói:
– Hàn phu nhân, ta thừa hiểu bụng dạ bà. Bà đòi mượn thanh đao Đồ Long, miệng bảo là để đối phó với phái Nga Mi, thực ra là để đối phó với Dương Tiêu, Phạm Dao. Bà lúc nào cũng chăm chăm lẻn vào đường hầm bí mật lên đỉnh Quang Minh. Bởi thế ta càng không thể cho bà mượn đao.
Kim Hoa bà bà ho mấy tiếng, nói:
– Tạ tam ca, năm xưa võ công giữa muội và tam ca, ai cao hơn ai?
Tạ Tốn nói:
– Tứ đại pháp vương, mỗi người có sở trường riêng.
Kim Hoa bà bà nói:
– Hiện nay ông đã mù hai mắt, so với lão bà tử này thì thế nào?
Tạ Tốn hiên ngang nói:
– Bà định cậy mạnh đoạt đao phải không? Tạ Tốn có thanh đao Đồ Long trong tay cũng đủ thay thế đôi mắt.
Tạ Tốn thở một hơi dài, bước lên một bước, cặp mắt mù hướng thẳng về phía Kim Hoa bà bà, thần uy lẫm liệt.
Ân Ly thấy vậy sợ hãi, lùi mấy bước về phía sau. Kim Hoa bà bà vẫn khom lưng đứng đó, tay chống gậy, thi thoảng ho vài tiếng, xem chừng Tạ Tốn chỉ cần vung đao lên là bà ta sẽ đứt làm đôi. Song bà ta vẫn đứng bất động, tựa hồ không sợ gì Tạ Tốn cả. Trương Vô Kỵ đã thấy bà ta ra tay mấy lần, quả là nhanh nhẹn tuyệt luân, lại có phần kỳ bí hơn cả Vi Nhất Tiếu, cứ y như yêu ma vậy. Lúc này bà ta đứng đối diện với Tạ Tốn, một người thì căng thẳng như kiếm tuốt cung giương; một người thì thản nhiên đứng chờ, như đã tính sẵn tất cả.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Bà ta còn được xếp hạng trên cả ông ngoại ta, nghĩa phụ và Vi Bức Vương, võ công tất phải vô cùng lợi hại”, nên chàng rất lo cho nghĩa phụ. Chỉ nghe bốn bề tiếng gió ù ù, lẫn với tiếng sóng biển từ xa vọng tới, trong tình thế hung hiểm này nghe càng thê lương. Hai người đứng cách nhau chỉ hơn một trượng, song không ai ra tay trước.
Qua một hồi lâu, Tạ Tốn bỗng nói:
– Hàn phu nhân, hôm nay bà ép ta phải động thủ, vi phạm lời thề kết nghĩa năm xưa giữa bốn đại pháp vương chúng ta, Tạ Tốn này thật khó xử.
Kim Hoa bà bà nói:
– Tạ tam ca, tam ca bản tính hiền lành, hồi ấy muội quả không thể nào ngờ rất nhiều nhân vật anh hùng hào kiệt thành danh trong võ lâm lại do một tay ông giết.
Tạ Tốn thở dài, nói:
– Ta vì quá thương cha mẹ vợ con chết thảm, muốn trả thù nên bất chấp hết thảy. Trong đời ta, việc không nên làm, việc tệ hại nhất là đã đánh liên tiếp mười ba chiêu Thất Thương Quyền, khiến cho Không Kiến thần tăng phái Thiếu Lâm bỏ mạng.
Kim Hoa bà bà cả kinh, nói:
– Không Kiến thần tăng quả thật bị Tạ tam ca đánh chết ư? Ông luyện thành môn võ công lợi hại ấy khi nào vậy?
Bà ta vốn tự tin mình đủ tài đối phó với Tạ Tốn, nhưng bây giờ bắt đầu thấy sợ.
Tạ Tốn nói:
– Bà đừng sợ. Không Kiến thần tăng chỉ chịu đòn chứ không đánh lại; ông ấy muốn dùng Phật pháp quảng đại vô biên để độ hóa ngoại đạo tà ma.
Kim Hoa bà bà nói:
– Hừ, có thế chứ, muội đây không bằng được Không Kiến thần tăng, ông mười ba quyền đánh chết Không Kiến thần tăng, thì chỉ cần chín mười quyền là giết lão bà tử này thôi.
Tạ Tốn lùi một bước, giọng nói đột nhiên trở nên nhẹ nhàng:
– Hàn phu nhân, ngày xưa trên đỉnh Quang Minh, bà đối với ta hết sức tử tế. Hồi ấy ta bị bệnh, vợ ta thì mới sinh con sức còn yếu, chưa dậy nổi. Bà đã chu đáo săn sóc ta hơn một tháng, ta vẫn ghi nhớ trong lòng.
Ông giơ tay phủi bụi trên tấm áo bông, nói tiếp:
– Ở hải ngoại ta lấy da thú thay áo, bà đã may cho ta bộ quần áo bông này, vừa vặn hết sức, đủ biết tình nghĩa với nhau trên đỉnh Quang Minh vẫn còn. Thôi bà hãy đi đi! Từ rày chúng ta đừng gặp nhau nữa là xong. Ta chỉ xin bà hãy loan tin ra ngoài, bảo hài nhi Vô Kỵ của ta tới đây gặp ta một chuyến, thì ca ca đội ơn muội muội lắm lắm.
Kim Hoa bà bà cười buồn, nói:
– Tạ tam ca vẫn còn nhớ tình cũ nghĩa xưa. Chẳng giấu gì ông, từ khi Ngân Diệp đại ca mất đi, lão bà tử này đã coi nhân tình thế thái nhẹ lắm rồi, chỉ vì còn vài món oán thù chưa trả xong, nên không đành lòng xuôi tay về nơi chín suối với Ngân Diệp đại ca đó thôi. Tạ tam ca, đỉnh Quang Minh có một số nhân vật, dù võ công, cơ mưu hơn người, nhưng muội chẳng coi ra gì, chỉ nể trọng một mình Tạ tam ca, ông có biết là vì sao hay không?
Tạ Tốn ngẩng nhìn trời, ngẫm nghĩ một lát, lắc đầu nói:
– Tạ Tốn tầm thường kém cỏi, không đáng được hiền muội nể trọng như vậy.
Kim Hoa bà bà tiến lên vài bước, phủi bụi một tảng đá, thong thả ngồi xuống, nói:
– Năm xưa trên đỉnh Quang Minh chỉ có Dương giáo chủ và Tạ tam ca là muội thấy không chướng mắt thôi. Khi muội gá nghĩa với Ngân Diệp đại ca, chỉ có hai vị không trách muội lấy lầm người.
Tạ Tốn cũng ngồi xuống, nói:
– Hàn đại ca tuy không phải là người trong bản giáo, nhưng là bậc anh hùng. Các huynh đệ cứ điều ong tiếng ve, lòng dạ hẹp hòi. Ôi, sáu đại môn phái vây đánh đỉnh Quang Minh, không biết các huynh đệ có sao không?
Kim Hoa bà bà nói:
– Tạ tam ca, ông ở hải ngoại mà lòng vẫn hướng về Trung thổ, khắc khoải không quên các huynh đệ cũ. Đời người mấy chục năm trôi qua trong chớp mắt, hà tất phải lo cho kẻ khác làm chi?
Hai người lúc này chỉ cách nhau vài thước, nghe rõ cả hơi thở của người kia. Tạ Tốn thấy Kim Hoa bà bà mỗi lần nói lại húng hắng ho, bèn hỏi:
– Năm xưa ở đầm lạnh Bích Thủy hiền muội bị viêm phổi, dây dưa đến tận bây giờ vẫn chưa khỏi hẳn ư?
Kim Hoa bà bà đáp:
– Mỗi lần trời lạnh lại ho nhiều. Ôi dào, ho mấy chục năm, rồi cũng quen đi. Tạ tam ca, muội nghe tam ca thở không đều, có phải vì luyện “Thất Thương Quyền” mà bị tổn thương nội tạng hay chăng? Tam ca nên cố bảo trọng.
Tạ Tốn nói:
– Đa tạ hiền muội quan hoài.
Đột nhiên ông ngẩng lên, nói với Ân Ly:
– Ân Ly, hãy tới đây!
Ân Ly đến trước mặt Tạ Tốn, nói:
– Tạ công công!
Tạ Tốn nói:
– Ngươi hãy dùng toàn lực đâm ta một chỉ coi!
Ân Ly ngạc nhiên nói:
– Hài nhi không dám.
Tạ Tốn cười nói:
– Thiên thù vạn độc thủ của ngươi đâu có thể làm ta bị thương, cứ việc vận sức mà đâm. Ta chỉ muốn thử xem công lực của ngươi tới đâu thôi.
Ân Ly vẫn nói:
– Hài nhi không dám. Tạ công công, công công với bà bà ngày xưa đã kết nghĩa hữu hảo, có việc gì mà chẳng thỏa thuận êm đẹp với nhau được? Hai người chả nên tranh giành thanh đao làm gì.
Tạ Tốn cười buồn, nói:
– Ngươi cứ đâm ta một chỉ coi.
Ân Ly không còn cách nào khác, đành rút khăn bọc đầu ngón tay trỏ, rồi mới chọc một cái vào vai Tạ Tốn. Chỉ nghe nàng kêu “Ối” một tiếng, văng ra đằng sau đến hơn một trượng, rơi phịch xuống đất, xương cốt toàn thân như muốn gãy rời.
Kim Hoa bà bà thản nhiên như không, chậm rãi nói:
– Tạ tam ca, sao bụng dạ ông hiểm độc thế, ông sợ lão bà tử có thêm trợ thủ, nên ra tay khử trước đi phải không?
Tạ Tốn không đáp, ngẫm nghĩ một lát, nói:
– Hài nhi này bụng dạ thật tốt, nó đâm ta chỉ dùng hai, ba thành lực, lại bọc đầu ngón tay, không dùng “Thiên thù vạn độc thủ” để đả thương ta. Nếu không thế, “Thiên thù vạn độc thủ” đã trở ngược về tim nó, lúc này nó đã bỏ mạng rồi.
Trương Vô Kỵ nghe vậy thì toát mồ hôi lạnh; thấy nghĩa phụ rõ ràng bảo là muốn thử công lực của Ân Ly, nếu nàng dùng toàn lực đâm vào thì đã mất mạng. Người trong Minh giáo tâm địa hiểm ác, người hiền như nghĩa phụ ta mà cũng thế. Chàng đâu biết rằng Tạ Tốn và Kim Hoa bà bà biết nhau bao nhiêu năm, không lạ gì bụng dạ nhau, sau vài câu thăm hỏi thông thường là sẽ bắt đầu ác đấu không chút nương tay; nếu Kim Hoa bà bà có thêm Ân Ly làm trợ thủ, thì Tạ Tốn sẽ hết sức bất lợi, nên ông dùng kế trừ trước đi.
Tạ Tốn hỏi:
– Ân Ly, tại sao ngươi lại có thiện ý đối với ta như vậy?
Ân Ly đáp:
– Công công là nghĩa phụ của chàng, lại cũng là… vì chàng mà đến đây; trên đời này chỉ có hai người là công công và hài nhi là nhớ đến chàng mà thôi.
Tạ Tốn nói:
– Ồ, không ngờ ngươi lại tốt với hài nhi Vô Kỵ của ta như vậy, thế mà ta lại định lấy mạng ngươi. Ngươi hãy ghé tai lại đây nào.
Ân Ly gượng đứng dậy, đi tới gần Tạ Tốn, Tạ Tốn ghé miệng sát tai nàng, nói:
– Để ta truyền cho con một pho tâm pháp nội công, do ta tham ngộ ở Băng Hỏa đảo mà có, có thể nói là tập đại thành võ công của cả đời ta.
Không đợi Ân Ly trả lời, Tạ Tốn liền đọc một lượt từ đầu chí cuối pho tâm pháp đó cho nàng nghe. Ân Ly nhất thời khó hiểu cho rõ, chỉ cố ghi nhớ. Tạ Tốn sợ nàng không nhớ nổi, lại đọc thêm hai lần nữa, rồi hỏi:
– Con nhớ hết chưa?
Ân Ly đáp:
– Hài nhi nhớ rồi.
Tạ Tốn nói:
– Con tu tập dăm năm sẽ đạt tiểu thành. Con có biết ta truyền thụ cho con là có dụng ý gì không?
Ân Ly đột nhiên khóc òa lên, nói:
– Hài nhi… hài nhi biết. Nhưng… hài nhi không thể.
Tạ Tốn xẵng giọng:
– Con biết cái gì nào? Tại sao lại không thể?
Nói đoạn ông giơ tay trái lên, chỉ cần Ân Ly nói sai một câu, ông sẽ giáng chưởng giết nàng ngay. Ân Ly hai tay ôm mặt, nói:
– Hài nhi biết công công muốn hài nhi đi tìm Vô Kỵ, đem công phu này truyền thụ cho chàng. Hài nhi biết công công muốn hài nhi luyện thành võ công thượng thừa để còn che chở cho chàng, để chàng khỏi bị người đời hãm hại, thế nhưng… thế nhưng…
Nàng lại khóc òa lên.
Tạ Tốn đứng dậy, quát:
– Thế nhưng làm sao? Có phải hài nhi Vô Kỵ của ta đã gặp chuyện chẳng lành hay không?
Ân Ly sà vào lòng Tạ Tốn, nức nở:
– Chàng… chàng từ sáu năm trước, ở Tây Vực đã rơi xuống vực sâu… chết rồi.
Tạ Tốn rùng mình, run giọng, hỏi:
– Có… có thật không?
Ân Ly khóc nói:
– Thật ạ. Hai cha con gã Võ Liệt chính mắt nhìn thấy chàng mất mạng. Hài nhi đã dùng “Thiên thù vạn độc thủ” chọc lên người họ bảy lần, rồi bảy lần cứu họ tỉnh lại, lần nào họ cũng nói như thế, chắc là họ nói thật.
Lúc Ân Ly bắt đầu nhắc đến cái chết của Trương Vô Kỵ, Kim Hoa bà bà đã định ngăn cản, song lại nghĩ, Tạ Tốn sau khi nghe tin nghĩa tử bị chết, tâm thần sẽ rối loạn; giao đấu sẽ hung hãn hơn, nhưng cũng sẽ kém thận trọng hơn, càng dễ dụ ông vào bãi chông gài sẵn, nên bà ta chỉ đứng một bên mỉm cười, không nói gì.
Tạ Tốn ngẩng mặt lên trời hú một tiếng dài, hai hàng nước mắt chảy xuống má. Trương Vô Kỵ thấy nghĩa phụ và biểu muội vì chàng mà đau lòng như thế, không nỡ, chỉ muốn nhảy ra giải thích, bỗng nghe Kim Hoa bà bà nói:
– Tạ tam ca, cậu con nuôi Trương công tử của ông đã chết rồi, ông còn giữ thanh đao Đồ Long làm gì kia chứ? Chi bằng cho lão bà tử này mượn đi.
Tạ Tốn nghẹn ngào nói:
– Bà đánh lừa ta quá thể. Muốn có bảo đao, hãy lấy mạng ta trước.
Ông đẩy nhẹ Ân Ly sang một bên, soạt một tiếng, xé rách vạt áo ném về phía Kim Hoa bà bà, việc đó gọi là “Cắt bào đoạn nghĩa”[118].
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Mình nên bước ra, nói rõ sự việc, để hai người khỏi mất tình nghĩa một cách không đâu vào đâu”. Đúng lúc ấy, chàng bỗng nghe thấy từ đám cỏ rậm xa xa phía bên trái, có tiếng thở của ai đó, tiếng thở rất nhẹ, nhưng Trương Vô Kỵ thính tai vẫn nghe thấy. Chàng nghĩ thầm: “Thì ra Kim Hoa bà bà còn ngầm mai phục trợ thủ kia đấy, đã thế, mình chưa nên ra mặt vội”.
Chỉ nghe tiếng đao vù vù, Tạ Tốn đã đấu với Kim Hoa bà bà.
Tạ Tốn múa đao, thanh bảo đao chẳng khác gì một con rồng đen uốn lượn quanh thân hình ông, khi nhanh khi chậm, biến hóa thần kỳ. Kim Hoa bà bà sợ thanh đao sắc bén, chỉ chạy lòng vòng xa xa, khi nào Tạ Tốn tỏ ra sơ hở, bà ta lập tức xông vào tấn công không chút sợ hãi; khi ông thu đao về chém, bà ta lại khéo léo tránh vụt ra ngoài. Hai người biết quá rõ võ công của nhau, trong một hai trăm hiệp chưa thể phân cao thấp. Tạ Tốn dựa vào thanh đao sắc bén, Kim Hoa bà bà thì coi thường đối phương bị mù không nhìn thấy; mỗi người đều sử dụng sở trường của mình hòng thủ thắng, coi nhẹ chiêu số và nội lực.
Đột nhiên chíu chíu hai tiếng, hai điểm vàng lấp loáng, Kim Hoa bà bà phóng ra hai bông kim hoa. Tạ Tốn múa thanh đao Đồ Long, hai bông kim hoa dính luôn vào đao. Nguyên bông kim hoa đúc bằng thép, bên ngoài mạ vàng, còn thanh đao Đồ Long được đúc bằng huyền thiết có từ tính cực mạnh, gặp sắt sẽ hút liền. Bông kim hoa chính là ám khí thành danh của Kim Hoa bà bà, khi phóng ra sẽ biến ảo đa đoan, Tạ Tốn dù mắt còn tinh, cũng phải dốc toàn lực mới tránh được; ai ngờ thanh đao Đồ Long lại chính là khắc tinh của loại ám khí này. Kim Hoa bà bà phóng ra liên tiếp hai bên phải trái tám bông kim hoa, đều bị thanh đao hút lấy. Trong bóng đêm mờ mờ, tám bông kim hoa dính trên thanh đao đen sì khi múa lên trông cứ như một bầy đom đóm hàng trăm con lập lòe bay lượn.
Đột nhiên Kim Hoa bà bà ho một tiếng, phóng ra một nắm ám khí, phải tới mười bảy, mười tám bông kim hoa, để thanh đao Đồ Long của Tạ Tốn dù hút được các bông kim hoa bên đông, thì cũng không hút nổi các bông kim hoa bên tây. Tạ Tốn vung tay áo lên, cuốn được bảy tám bông, tám bông khác thì dính vào thanh đao. Ông quát:
– Hàn phu nhân, ngoại hiệu Tử Sam Long Vương của bà rất kỵ với thanh đao này, nếu bà còn ham đánh, càng bất lợi cho bà đó.
Kim Hoa bà bà cảm thấy lạnh người, phàm người võ học, tính mạng treo trên đầu đao mũi kiếm, rất kiêng những gì húy kỵ; ngoại hiệu của bà là “Long Vương”, mà thanh đao kia lại tên là “Đồ Long”[119], thì quả thật không hay chút nào. Bà ta cười khẩy, nói:
– Không chừng “Sát sư trượng”[120] của lão bà tử lại giết sư tử mù trước đó.
Nghe “vù” một tiếng, Kim Hoa bà bà đã vung gậy đánh ra. Tạ Tốn trầm vai né tránh, đột nhiên bước hụt, kêu “Ôi” một tiếng, cây gậy đã đánh trúng vai trái, lực đạo tuy đã giảm quá nửa, song cũng không phải nhẹ.
Trương Vô Kỵ cả mừng, reo thầm. Chàng thấy Tạ Tốn cố ý giả vờ không tránh kịp, để bị trúng một gậy; nghĩ bụng: “Nghĩa phụ chỉ cần vung các bông kim hoa trong tay áo trái ra, tiếp đó thanh đao Đồ Long sử chiêu Thiên sơn vạn thủy, chém liên tiếp, thì Kim Hoa bà bà không dám chống đỡ thế đao sắc bén, ắt phải né sang bên trái, liên tiếp lùi hai lần, bấy giờ nghĩa phụ sẽ dùng nội lực hất các bông hoa dính trên thanh đao bắn thẳng ra, thì Kim Hoa bà bà không thể tránh xa, chắc chắn sẽ bị trọng thương”.
Chàng vừa nghĩ thế, quả nhiên thấy hàn quang loang loáng, Tạ Tốn đã vung các bông kim hoa trong tay áo trái ra, Kim Hoa bà bà vội lùi sang trái. Trương Vô Kỵ đột nhiên lại nghĩ ra một chuyện, kêu thầm: “Ôi, không xong rồi, Kim Hoa bà bà sẽ tương kế tựu kế”. Lúc này trong óc chàng kiến thức võ học bao la, mọi hành vi công thủ tiến thoái của hai đại cao thủ kia đều nằm trong dự tính của chàng; chỉ thấy Tạ Tốn xuất chiêu “Thiên sơn vạn thủy” chém liên tiếp, còn Kim Hoa bà bà tiếp tục lùi sang bên trái. Tạ Tốn quát to một tiếng, hất mạnh mười bông kim hoa dính trên bảo đao ra. Kim Hoa bà bà kêu “Ối chà”, chân loạng choạng lùi lại mấy bước.
Tạ Tốn đã cắt áo đoạn tuyệt tình nghĩa, ra tay không nể nang gì nữa; ông tung mình nhảy lên, vung đao chém về phía Kim Hoa bà bà, chợt nghe tiếng kêu thảng thốt của Ân Ly:
– Cẩn thận, có chông nhọn dưới chân!
Tạ Tốn nghe tiếng gọi, giật mình, nhưng thu về không kịp nữa, chỉ nghe nghe tiếng chíu chíu, hơn chục bông kim hoa đã bắn tới. Kim Hoa bà bà muốn rằng ông đang ở lưng chừng trên không sẽ không cách gì né tránh, lúc đáp xuống hai chân sẽ đạp phải chông nhọn. Tạ Tốn không biết tính sao, chỉ còn cách vung đao hút các bông kim hoa, bỗng nghe dưới đất có mấy tiếng canh cách, hai chân ông chạm xuống đất an toàn.
Ông cúi người sờ thử, thấy bốn phía chỗ nào cũng cắm các cây chông sắt dài sáu bảy tấc, nhọn hoắt; chỉ riêng chỗ ông đặt chân xuống thì bốn cây chông đã bị ai đó dùng đá bắn văng đi, nghe kình lực ném đá gạt chông thì chính là của chàng thanh niên bang Cự Kình đã búng bảy viên sỏi ban sáng. Chàng ta ở bên cạnh coi trộm hai người đấu, mà ông không hề phát giác, nếu không được chàng ta ra tay cứu giúp, thì hai chân ông đã dẫm phải chông, chỉ còn nước nằm đó cho Kim Hoa bà bà băm vằm mà thôi. Nghĩ thế, Tạ Tốn không khỏi toát mồ hôi hột.
Hai người cùng thực hiện khổ nhục kế, Tạ Tốn bị một gậy vào vai, Kim Hoa bà bà cũng bị trúng hai bông kim hoa, tuy vết thương đều không phải là yếu hại, song cũng không dễ gì chịu đựng kình lực của đối phương. Kim Hoa bà bà ho mấy tiếng rất to, hướng tới chỗ Trương Vô Kỵ đang ẩn nấp, nói:
– Tên tiểu tử bang Cự Kình kia, ngươi lại nhúng tay vào việc lớn của lão bà tử, mau để lại họ tên.
Trương Vô Kỵ chưa kịp trả lời, đột nhiên hàn quang loáng lên, Ân Ly kêu hự một tiếng, đã bị ba bông kim hoa bắn trúng vào nơi yếu hại ở ngực. Nguyên Kim Hoa bà bà thấy Trương Vô Kỵ võ công cao cường, nếu bà ta trừng trị Ân Ly, chàng thể nào cũng phải ngăn trở, nên bèn dùng cách nói chuyện với chàng để chàng không phòng bị mà bất ngờ phóng kim hoa.
Trương Vô Kỵ cả kinh, phi thân nhảy tới, còn đang ở trên không đã chộp luôn hai bông kim hoa, khi đáp xuống liền ôm lấy Ân Ly vào lòng. Ân Ly thần trí còn tỉnh táo, thấy một chàng trai để râu quai nón ôm mình, vội giơ tay đẩy ra, vừa dùng sức liền ộc ra mấy ngụm máu tươi. Trương Vô Kỵ chợt hiểu, vội lau mặt, vứt bộ râu hóa trang, để lộ diện mạo thật của mình. Ân Ly kinh ngạc, ngẩn người, thốt lên:
– A Ngưu ca ca, là chàng đó ư?
Trương Vô Kỵ mỉm cười:
– Phải, ca ca đây.
Ân Ly bấy giờ mới cảm thấy yên tâm, tức thì ngất đi. Trương Vô Kỵ thấy nàng bị trọng thương, chưa dám nhổ mấy bông kim hoa cắm trên ngực nàng, chỉ điểm các huyệt Thần Phong, Linh Khư, Bộ Lang, Thông Cốc để bảo vệ tâm mạch cho nàng.
Chỉ nghe Tạ Tốn nói to:
– Các hạ hai lần ra tay giúp đỡ, Tạ Tốn đa tạ đại đức.
Trương Vô Kỵ nghẹn ngào, nói:
– Nghĩa… nghĩa… hà tất…