Hồi 26: Tay không bắt cọp

Hồi 26: Tay không bắt cọp

Tiêu Phong thoát hiểm chỉ trong đường tơ kẽ tóc, bất giác kêu thầm: “Thật là hú vía”. Thoạt đầu thì chàng nghĩ: “Con tiểu yêu nữ này tâm địa độc ác, dám hạ độc thủ ám toán ta.” Chàng biết ám khí phái Tinh Tú độc địa vô cùng, lợi hại cực điểm, nếu như trúng phải thì khó mà sống được nên không khỏi tim đập thình thình. Nhưng khi nghĩ đến A Tử bị đánh văng xa hơn chục trượng, lại giật bắn người: “Trời ơi! Làm sao cô ta chịu nổi phát chưởng đó, chắc bị mình đánh chết rồi”. Chàng nhảy vọt tới, thấy nàng hai mắt nhắm nghiền, khóe miệng ứa máu tươi, mặt vàng khè, phen này thì ngưng thở thật rồi chứ không phải giả vờ nữa.

Tiêu Phong thẫn thờ nghĩ bụng: “Ta đã đánh chết A Châu, bây giờ lại đánh chết luôn cả muội tử của nàng. Nàng… nàng lúc lâm tử đã dặn ta chiếu cố cho muội muội, ngờ đâu… ngờ đâu… ta lại đánh chết.” Ý nghĩ đó chỉ thoáng qua, nhưng chàng đang hoảng hốt nên cảm thấy rất nặng nề. Tiêu Phong lắc đầu, vội đè bàn tay vào sau lưng A Tử, hết sức dồn chân khí sang. Một lúc sau, A Tử hơi nhúc nhích, Tiêu Phong cả mừng gọi rối rít: “A Tử! A Tử! Muội đừng chết! Bằng giá nào ta cũng nhất định cứu muội.”

Thế nhưng A Tử chỉ khẽ cựa một cái rồi lại nằm ngay đơ. Tiêu Phong lại càng bồn chồn, liền ngồi xếp bằng xuống tuyết, khẽ đỡ A Tử dậy đặt ngồi trước mặt, áp cả song chưởng vào hậu tâm, từ từ truyền chân lực vào người cô gái. Chàng biết A Tử bị thương rất nặng, hiện giờ chỉ giữ nàng thoi thóp, tạm thời không chết là may, rồi tìm cách cứu chữa sau, thành thử truyền chân khí vào người nàng cũng hết sức chậm rãi. Trong khoảng thời gian chừng ăn xong bữa cơm, trên đầu chàng bốc lên những làn bạch khí, chứng tỏ đã vận dụng toàn lực rồi.

Tiêu Phong liên tục vận công tới nửa giờ, A Tử mới hơi động đậy, phều phào gọi: “Tỉ phu!” Tiêu Phong cả mừng, tiếp tục truyền chân khí nhưng không dám nói chuyện với nàng. Một lúc nữa đã thấy thân thể cô nàng dần dần ấm lại, mũi đã có hơi thở thoang thoảng. Tiêu Phong vẫn sợ nàng bất ngờ tắt thở nên không dám ngừng vận công, đến mãi giữa trưa, hơi thở của A Tử mới đều đặn, nhưng mặt vẫn trắng bệch không một chút huyết sắc.

Tiêu Phong liền bế nàng dậy, rảo bước chạy đi. Chàng càng chạy càng nhanh nhưng vẫn cố giữ cho êm ái, tay trái vẫn đặt sau lưng A Tử, không ngừng truyền khí vào. Hơn một giờ mới đến một tiểu thị trấn, nơi đó lại không có quán xá gì, chàng phải tiếp tục chạy về hướng bắc hơn hai chục dặm nữa mới gặp một khách điếm tồi tàn không có cả tiểu nhị, chính chủ nhân trực tiếp phục vụ khách hàng. Tiêu Phong gọi một bát cháo nóng, dùng thìa đút vào mồm A Tử. Thế nhưng nàng mới nuốt được ba thìa lại nôn hết ra, trong nước cháo có lẫn máu bầm.

Tiêu Phong cực kỳ lo lắng, nghĩ bụng A Tử bị thương nặng thế này khó lòng chữa được. Chẳng biết Diêm vương địch Tiết Thần Y đang ở nơi nào, mà dẫu có ở ngay đây cũng vì tất đã làm được gì. Hôm trước A Châu bị phương trượng chùa Thiếu Lâm đả thương gián tiếp, lại được bôi linh dược của Đàm Công ở Thái Hàng Sơn, tình trạng nhẹ hơn nhiều nên Tiết Thần Y mới chữa khỏi. Tuy chàng biết rõ không thể cứu sống được A Tử, nhưng cũng không chịu xuôi tay, chỉ nghĩ: “Ta phải hết lòng hết sức, dù cho chân khí bản thân kiệt quệ cũng phải còn nước còn tát. Không phải ta quyết cứu con bé này, mà là ta quyết không phụ lời trăn trối của A Châu.”

Kể ra thì A Tử ám toán chàng trước, khiến chàng vào tình trạng không phóng chưởng hất mũi độc châm đi thì mất mạng ngay. Người võ công cao cường như chàng, khi gặp nguy biến không kịp suy nghĩ, thì xuất thủ theo phản xạ là lẽ đương nhiên. Giả tỉ A Châu có mặt nơi đây thì chắc nàng cũng không trách cứ gì, vì chính A Tử tự rước vạ vào mình chứ không phải do Tiêu Phong có chủ ý. Nhưng A Châu không biết, nên chàng mới cảm thấy có lỗi với nàng.

Tiêu Phong thức trắng đêm, không ngừng truyền chân khí để giữ mạng cho A Tử. Hôm trước A Châu bị thương, lúc nào nàng tuyệt khí Tiêu Phong mới phải ra tay, còn lần này bàn tay chàng không lúc nào rời khỏi lưng A Tử, vì chỉ nhấc tay ra một cái là nàng tắt thở ngay lập tức.

Đêm hôm sau cũng y vậy. Tiêu Phong công lực thâm hậu thật, nhưng phải vận công hai ngày hai đêm liên tiếp cũng mệt mỏi vô cùng. Khách điếm nhỏ này chỉ có hai vò rượu đã bị chàng uống sạch không còn một giọt, muốn nhờ mua thêm nhưng túi đã cạn tiền. Chàng không ăn cơm một ngày cũng chẳng thấy đói, nhưng một buổi không có rượu thì thật là khó chịu. Lúc này chàng đang bải hoải lại càng cần rượu cho tỉnh táo. Đang vô vọng thì một ý nghĩ chợt lóe lên: “Trên người A Tử chắc là có tiền”.

Chàng tháo cái bọc của A Tử ra, quả nhiên có ba đĩnh vàng nhỏ và mấy nén bạc lẻ. Chàng lấy ra một đĩnh bạc, buộc cái túi lại, thấy ngoài túi có một sợi dây lụa màu tím, một đầu buộc vào ngang lưng. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Cô bé này cẩn thận quá, không biết buộc cái gì vào người chặt thế này, chắc là sợ rơi mất.” Đầu dây buộc vào lưng có thắt nút thật chặt, chàng hí hoáy hồi lâu mới gỡ ra được. Dây lụa vừa tuột ra, dường như đầu kia còn có vật gì giắt vào trong quần.

Tiêu Phong kéo sợi dây, vật đó rơi xuống sàn nghe cạch một tiếng, thì ra là một cái đỉnh nhỏ bằng gỗ màu vàng sậm. Tiêu Phong thở dài, cúi xuống nhặt để lên bàn. Cái đỉnh đó làm bằng một loại gỗ bóng loáng như ngọc, thớ gỗ thấp thoáng những vân màu đỏ, được điêu khắc hết sức tinh vi. Tiêu Phong biết ngay đây là vật mà phái Tinh Tú dùng để luyện Hóa Công Đại Pháp, cảm thấy ghê tởm nên chỉ liếc qua rồi nghĩ thầm: “Con bé này giảo hoạt thật, một hai cứ bảo là giao Thần Mộc Vương Đỉnh cho ta rồi, không ngờ vẫn giắt trong quần. Chắc là bạn đồng môn của nó tưởng là ta đang giữ thật, lại không tiện tra xét nữ nhân nên không khám phá ra. Hỡi ơi! bây giờ tính mạng nàng còn chẳng giữ được, cái thứ thân ngoại chi vật này còn để làm gì?”.

Chàng gọi chủ quán vào, đưa bạc cho y đi mua rượu thịt, còn mình tiếp tục vận công duy trì tính mạng cho A Tử.

Đến ngày thứ tư thì chàng không chịu nổi nữa, đành phải ngả lưng xuống, hai tay nắm một bàn tay A Tử, đặt nàng dựa vào người mình, truyền nội lực theo lòng bàn tay. Tiêu Phong nằm được một lát, hai mắt nhắm ghiền, thiếp đi. Nhưng chàng vẫn khắc khoải về tính mạng A Tử, nên mới chợp mắt một chút đã giật mình tỉnh giấc. May mà trong lúc chàng ngủ, chân khí vẫn lưu chuyển, miễn sao lòng bàn tay còn áp vào A Tử là hơi thở của nàng chưa tuyệt.

Tình trạng này lại kéo dài hai ngày nữa. A Tử vẫn chưa chết nhưng không khả quan hơn chút nào, nếu chàng nằm trong tiểu điểm này đến hết đời thì e rằng vẫn thế. Thỉnh thoảng A Tử cũng mở mắt ra nhưng thần thái lờ đờ, rõ ràng không hay biết gì cả, mà cũng không nói được tiếng nào. Tiêu Phong nghĩ hoài chẳng ra cách gì, đành quyết định: “Ta đành bế nàng đi, may ra gặp được cơ hội gì. Nếu cứ ở trong khách điếm này thì thật sự vô phương.”

Chàng bàn tay trái ôm A Tử, tay phải cầm cái túi của nàng nhét vào bọc, thấy cái đỉnh trên bàn liền nghĩ thầm: “Cái vật hại người này để làm gì, đập nát đi cho rồi.” Chàng giơ chưởng định đánh xuống, bỗng nghĩ lại: “A Tử khó khăn lắm mới lấy cắp được vật này. Xem ra thương thế nàng không chữa được nữa, không chừng đến lúc lâm chung, hồi quang phản chiếu mà tỉnh táo lại giây lát, hỏi đến cái mộc đỉnh. Ta phải giữ lại để đưa cho nàng xem, yên tâm mà chết.”

Tiêu Phong cầm cái đỉnh gỗ lên, cảm thấy bên trong có cái gì cựa quậy, kinh ngạc nhìn kỹ mới biết chung quanh đỉnh, có năm cái lỗ to bằng đồng tiền, còn ở cổ đỉnh có đường nối, tựa hồ có thể tháo ra. Chàng dùng ngón út và ngón vô danh kẹp chiếc đỉnh, ngón cái và ngón trỏ xoay phần nắp qua bên trái, quả nhiên chuyển động được. Chàng xoay mấy vòng, mở nắp nhìn vào không khỏi vừa ngạc nhiên, vừa kinh tởm. Thì ra bên trong có một con rết và một con bò cạp, đang cắn nhau kịch liệt.

Mấy hôm trước, khi chàng đặt chiếc đỉnh lên bàn, rõ ràng trong đỉnh không có gì, thế thì hai con độc trùng này mới ở đâu bò vào. Tiêu Phong đoán chừng phái Tinh Tú dùng những trùng độc này luyện một môn tà pháp quái đản, nên nghiêng chiếc đỉnh đổ hai con vật xuống đất dẫm chết, rồi đậy nắp lại, cất vào túi vải. Tiêu Phong thanh toán tiền khách điếm rồi ôm A Tử lên, đội tuyết mà đi về hướng bắc.

Nhân vật võ lâm Trung Nguyên đều kết thâm thù với Tiêu Phong, mà đường đi càng lúc càng gần kinh đô Biện Lương nhà Đại Tống, thể nào cũng đụng đầu. Chàng không muốn cải trang, lại không muốn giết người kết thêm thù oán, hơn nữa trên tay ôm A Tử, nếu phải động thủ thực là bất tiện, nên tránh đường lớn, chỉ tìm những đường mòn hẻo lánh mà đi. Suốt mấy trăm dặm vẫn bình an vô sự.

Một hôm đến một thị trấn lớn, chàng thấy một hiệu thuốc có treo bảng: “Nho y gia truyền Vương Thông Trị chẩn bệnh miễn phí”, nghĩ bụng: “Địa phương nhỏ chắc không có danh y, nhưng ta cứ vào xem thử cũng chẳng hề gì.” Ông liền ôm A Tử vào xin chữa trị.

Nho y Vương Thông Trị cầm tay A Tử, đưa mắt nhìn Tiêu Phong, lại bắt mạch A Tử, lại nhìn Tiêu Phong bằng cặp mắt khác lạ, đột nhiên đưa tay bắt mạch Tiêu Phong. Tiêu Phong tức mình nói: “Tiên sinh! Ta nhờ tiên sinh chữa bệnh cho muội tử chứ có nhờ chữa cho ta đâu?” Vương Thông Trị lắc đầu nói: “Ta xem lão huynh có bệnh, đầu óc điên khùng, tâm thần rối loạn cần phải chữa trị ngay.” Tiêu Phong đáp: “Ta làm gì mà đầu óc điên khùng?” Vương Thông Trị đáp: “Cô nương này mạch đã ngừng đập, chết lâu rồi, có điều người chưa cứng lại mà thôi. Lão huynh còn ôm cô ta đi chữa trị cái gì nữa? Thế chẳng phải tâm thần rối loạn hay sao? Này lão huynh, người chết không thể sống lại, cũng chẳng nên quá thương tâm, nên đem thi thể lệnh muội mà mai táng cho người chết được yên nghỉ.”

Tiêu Phong dở khóc dở mếu nhưng nghĩ lại thì y nói cũng có lý. Đúng là A Tử chết rồi, chỉ nhờ chân khí của mình mà thoi thóp, thầy lang tầm thường làm sao biết được? Nghĩ vậy chàng bèn đứng dậy trở gót đi ra.

Bỗng thấy một người ăn mặc ra lối quản gia chạy vào tiệm thuốc hốt hoảng la lên: “Mau lên! Lấy lão sơn nhân sâm loại tốt nhất. Lão thái gia nhà ta trúng phong sắp tắt thở, cần nhân sâm để giữ cho khỏi chết.” Gã chưởng quý trong tiệm thuốc vội đáp: “Có đây! Có lão sơn nhân sâm thượng hảo hạng đây!”

Tiêu Phong nghe nói “cần nhân sâm để giữ cho khỏi chết” liền nhớ ra từng nghe người sắp tắt thở mà cho uống mấy ngụm sâm thang thì có thể cầm hơi, sống thêm một lúc để trối vài lời. Gã chưởng quĩ lấy ra một cái hộp gỗ quý, trịnh trọng mở nắp ra, bên trong có ba củ sâm to bằng ngón tay. Tiêu Phong cũng nghe nói nhân sâm càng to càng tốt, da càng nhăn càng quí, nếu thành hình người đủ cả đầu mình chân tay là loại cực phẩm. Ba củ sâm này chỉ là loại thường, trông chẳng có gì đặc biệt. Gã quản gia chọn một củ rồi lật đật đi ngay.

Tiêu Phong lấy một đĩnh vàng mua luôn hai củ còn lại. Trong tiệm thuốc có sẵn dụng cụ sắc thuốc, ông liền nhờ nấu sâm thang đút cho A Tử mấy thìa. Lần này nàng không nôn ra. Lại đút được mấy thìa nữa, Tiêu Phong thấy mạch nàng đã hơi chuyển động, hơi thở cũng khá hơn một chút, trong bụng không khỏi mừng thầm.

Gã nho y Vương Thông Trị đứng bên vẫn lắc đầu quầy quậy nói: “Lão huynh ơi! Nhân sâm không phải dễ tìm, dùng phí phạm thì uổng lắm. Đó cũng chẳng phải linh chi tiên thảo gì, giả tỉ nhân sâm cứu người chết sống lại được, thì những người giàu chắc sống đời đời.”

Mấy bữa nay Tiêu Phong không dám rời A Tử một bước, trong lòng bực bội, nghe gã Vương Thông Trị cứ lải nhải bàn ra, bất giác điên tiết lên, vung tay toan đánh cho y một chưởng. Thế nhưng chàng vừa đưa tay lên chợt nghĩ: “Đả thương kẻ không biết võ công thì đâu phải anh hùng hảo hán?”, bèn rụt tay về, bế A Tử ra khỏi hiệu thuốc, nghe văng vẳng tiếng Vương Thông Trị nói theo: “Thằng cha này hồ đồ quá, ôm cái xác chết chạy tới chạy lui. Xem chừng cái mạng của gã cũng chẳng được lâu dài.” Y có biết đâu mình đã đến Quỉ Môn Quan rồi quay trở lại? Giả tỉ Tiêu Phong không nén giận được, phóng chưởng đánh ra thì dẫu có mười Vương Thông Trị cũng thành Vương …Bất Trị.

Tiêu Phong ra khỏi hiệu thuốc rồi nghĩ thầm: “Nghe nói lão sơn nhân sâm chỉ có ở vùng giá rét trong dãy Trường Bạch, chi bằng mình lên đó cầu may. Cứu sống A Tử thì khó lắm, nhưng giữ cho nàng ở lại nhân gian được ít lâu, A Châu ở trên trời có linh thiêng cũng vui vẻ được chút ít.” Chàng nghĩ thế, bèn tìm đường đi về phía đông bắc, dọc đường mỗi khi gặp tiệm thuốc liền vào mua nhân sâm. Đến khi hết cả tiền bạc, chàng chẳng nể nang gì nữa, cứ thò tay ra lấy, mấy tên làm công làm sao ngăn nổi? A Tử uống một lượng lớn nhân sâm rồi, thỉnh thoảng cũng có thể mở mắt ra khẽ gọi: “Tỉ phu!”, đêm đến cũng tự mình thoi thóp ngủ được vài giờ không cần tiếp chân khí.

Càng đi trời càng lạnh, sau cùng hai người cũng đến được núi Trường Bạch. Tuy nói là nơi này có nhiều nhân sâm, nhưng nếu không phải là người lâu năm quen thuộc địa thế, chuyên môn trong nghề, thì tìm một năm sáu tháng chưa chắc được một củ. Tiêu Phong tiếp tục theo hướng đông bắc mà tiến, quang cảnh càng lúc càng hoang vắng. Về sau chung quanh chỉ thấy bốn bề cỏ hoang mờ mịt, núi cao đồi tuyết, đi mấy ngày đường không gặp một người. Trong lòng chàng không khỏi kêu khổ: “Hỏng bét! Thật là hỏng bét! Chỗ nào cũng thấy toàn là tuyết, làm sao mà tìm được nhân sâm? Thôi đành trở về, tìm chỗ nào có phố chợ, còn tiền thì mua, hết tiền thì cướp.” Chàng nghĩ thế lại ôm A Tử quay về.

Khi đó vào đúng tiết đại hàn, khí trời lạnh ngắt, mặt đất đầy băng, tuyết đóng dày mấy thước thật là khó đi. Nếu chàng không phải là người võ công trác tuyệt thì dù không chết rét cũng bị sa lầy vào tuyết không thoát ra được.

Đến ngày thứ ba, trời ảm đạm như sắp có bão tuyết, chàng đưa mắt nhìn tứ phía thấy chỗ nào cũng trắng xóa, mặt đất không một dấu chân người, đến vết dã thú cũng không. Tiêu Phong hoang mang, thấy mình cô độc khác nào con thuyền đang ở giữa biển khơi bao la không bờ không bến, chỉ nghe tiếng gió rít từng hồi bên tai.

Tiêu Phong biết mình đã bị lạc, mấy lần nhảy lên cây cao nhìn ra xung quanh chỉ thấy cây cối rậm rạp, tuyết phủ trắng xóa, chẳng còn phân biệt đâu là đông tây nam bắc nữa. Chàng sợ A Tử bị lạnh, bèn cởi trường bào ra quấn nàng lại. Tuy chàng là người chẳng biết sợ trời sợ đất, nhưng lúc này ở chốn thiên địa mang mang, tưởng như chỉ còn một mình sống trên thế giới, không khỏi chột dạ. Giả tỉ chàng chỉ có một mình thì không sao, giữa biển tuyết bao la cũng không tuyệt vọng, nhưng khổ nỗi trong tay lại ôm cô bé A Tử đang mê man, sống dở chết dở.

Đã ba hôm nay Tiêu Phong không được ăn uống gì, muốn bắt một con gà rừng hay thỏ hoang mà cũng không thấy. Chàng nghĩ thầm: “Mình chạy lung tung cũng chẳng tới đâu, chi bằng nghỉ một đêm trong rừng, đợi tuyết ngừng rơi, nhìn trăng sao mà nhận định phương hướng.” Tiêu Phong bèn tìm một chỗ khuất gió, gom ít củi khô đốt một đống lửa. Lát sau, thân thể đã ấm áp nhưng bụng đói như cào, chàng nhìn dưới gốc cây có nhiều nấm dại màu xám hình như không độc, liền nhổ lên nướng ăn.

Tiêu Phong ăn hơn hai chục tai nấm, tinh thần đã có vẻ phấn chấn, bèn đặt A Tử nằm tựa vào ngực mình ngồi sưởi, đang định chợp mắt ngủ bỗng nghe một tiếng gầm thật lớn, chính là tiếng hổ. Tiêu Phong cả mừng lẩm bẩm: “Dã thú đến đây, mình có thịt ăn rồi”. Chàng lắng tai nghe, rồi thấy hai con hổ đang chạy trên mặt tuyết, kế đó có tiếng lao xao, chừng như có người đang đuổi theo.

Nghe thấy tiếng người quát tháo, lòng chàng vô cùng mừng rỡ. Lại nghe tiếng hai con dã thú hình như đang chạy về hướng. tây, chàng liền đặt A Tử xuống cạnh đống lửa, thi triển khinh công chạy ra đón đường. Lúc này tuyết xuống càng nhiều, gió bấc rít lên từng cơn, trời đất mù mịt.

Tiêu Phong mới chạy chừng mười trượng đã thấy hai con hổ vằn thật lớn đang chạy thục mạng, phía sau là một đại hán khoác áo da thú, tay cầm đinh ba đang rượt theo. Được một quãng, một con gầm lên quay ngoắt lại, nhảy chồm vào người thợ săn. Y liền giơ đinh ba lên, nhắm thẳng cổ họng mãnh hổ mà đâm. Con cọp hết sức nhanh nhẹn, nghiêng đầu qua tránh khỏi mũi đinh ba, cùng lúc đó con hổ kia cũng xông tới.

Người thợ săn lập tức trở cán đinh ba lại, quật ngang bụng con vật nghe bịch một tiếng. Nó bị đau, rống lên một tiếng, cụp đuôi bỏ chạy. Con hổ còn lại cũng chạy trốn theo. Tiêu Phong thấy người thợ săn chân tay mau lẹ, sức mạnh vô cùng, nhưng dường như chẳng biết võ công. Y quen tập tính dã thú nên hổ chưa vồ y đã dựng đinh ba đón trước, chính là cách tốt nhất. Nhưng gã muốn đâm chết hai con cọp thì không phải dễ.

Tiêu Phong lớn tiếng kêu lên: “Lão huynh, có ta đến giúp đây!” Chàng lạng người xông ra đón đầu hai con hổ. Người thợ săn thấy Tiêu Phong đột ngột xông ra, kinh hãi la lối om sòm, nghe ra không phải tiếng Hán. Tiêu Phong chẳng hiểu y nói gì nên không để ý nữa, giờ tay phải nhắm ngay đầu một con cọp phóng chưởng nghe đến “bình” một tiếng, con vật tung lên không, lăn đi mấy vòng, rống lên rồi lại phóng thẳng vào chàng.

Phát chưởng đó Tiêu Phong sử dụng đến bảy thành công lực, nếu là người thì võ công cao cường đến đâu cũng vỡ đầu nát óc, nhưng mãnh hổ sọ cứng xương dày, chưởng lực vỡ đá tan bia cũng chỉ khiến nó ngã lăn đi, lại xông vào được, Tiêu Phong khen thầm: “Ngươi quả là ghê gớm!”, rồi nghiêng người né tránh, tay phải chém xéo xuống trúng ngay sườn con vật nghe “chát” một tiếng. Phát trảm này chàng lại tăng thêm công lực, con mãnh hổ loạng choạng rồi bỏ chạy. Tiêu Phong tiến lên, tay phải vươn ra chộp trúng đuôi con cọp, tay trái cũng nắm vào, quát lên một tiếng, thi triển thần lực kéo ghì lại. Con hổ đang phóng về phía trước bị Tiêu Phong giật ngược, hai luồng lực đạo hợp lại khiến nó bị hất tung lên không.

Người thợ săn cầm đinh ba đang đấu với con hổ kia, thấy Tiêu Phong giật con cọp tung lên thì kinh hãi vô cùng. Mãnh hổ đang lơ lửng trên không, lại nhe nanh múa vuốt vồ từ trên xuống. Tiêu Phong lại quát lên một tiếng, song chưởng cùng tung ra, trúng ngay bụng dưới con vật. Đó là chỗ thịt mềm, chiêu Bài Vân Song Chưởng lại chính là công phu đắc ý của Tiêu Phong, ngũ tạng con cọp tan nát hết, nó lăn lộn một hồi trên mặt tuyết rồi chết thẳng cẳng.

Người thợ săn thấy Tiêu Phong tay không đánh chết hổ trong lòng kính phục vô cùng, nghĩ thầm “Người ta tay không, mình dùng đinh ba giết một con cũng không xong, hóa ra để bị coi thường ư?” Y bèn đem hết sức bình sinh, đâm tả đâm hữu, nhát nào cũng trúng vào mình cọp. Con cọp bị đau nổi hung lên, nhe hàm răng nhọn hoắt, tung mình vồ tới.

Gã thợ săn nghiêng qua né được, vung đinh ba đâm ngang, trúng vào cổ con thú nghe “phụp” một tiếng, hai tay lại nhấn mạnh vào, con vật rống lên thảm thiết té lăn ra đất. Gã vận sức lên cánh tay, đè chặt con cọp xuống mặt tuyết. Nghe tiếng roạt roạt, cái áo da thú trên người y rách toạc một mảng lớn, để lộ cái lưng trần, bắp thịt cuồn cuộn trông thật hùng vĩ. Tiêu Phong nhìn thấy bất giác khen thầm: “Hảo hán tử!”. Con hổ chổng bốn chân lên trời, giãy giụa một lát rồi nằm yên không nhúc nhích nữa.

Người thợ săn nhổ cây đinh ba ra, đắc chí cười ha hả, quay người lại nhìn Tiêu Phong giơ hai ngón tay cái lên nói xì xồ mấy câu. Tiêu Phong không hiểu y nói gì nhưng trông vẻ mặt cũng biết đại khái gã tán dương mình là bậc anh hùng, bèn bắt chước giơ hai ngón tay cái lên nói: “Hảo hán! Hảo hán!”

Gã ra vẻ thích chí, chỉ vào đầu mũi mình nói: “Hoàn Nhan A Cốt Đả!” Tiêu Phong đoán chừng đây là tên y, cũng chỉ vào đầu mũi mình nói: “Tiêu Phong!” Người kia hỏi lại: “Tiêu Phong? Khất Đan?” Tiêu Phong gật đầu hỏi lại:“Khất Đan! Huynh?” Rồi đưa tay chỉ vào y để hỏi. Người kia đáp: “Hoàn Nhan A Cốt Đả! Nữ Chân!”

Tiêu Phong đã từng nghe ở phía đông nước Liêu, phía bắc nước Cao Ly có bộ tộc Nữ Chân dũng mãnh thiện chiến, thì ra gã Hoàn Nhan A Cốt Đả thuộc giống người này. Tuy ngôn ngữ bất đồng nhưng giữa cảnh tuyết trắng mịt mùng mà gặp được đồng loại cũng vui mừng khôn xiết, bèn hoa chân múa tay ra hiệu là còn một người nữa, rồi vác con hổ chết lên, đi lại phía A Tử đang nằm. A Cốt Đả cũng vác con hổ của y đi theo.

Hổ mới chết máu chưa kịp đông, Tiêu Phong lật con thú lại, cắt cổ cho máu chảy vào mồm A Tử. A Tử không mở mắt nhưng vẫn nuốt, hơn mười ngụm mới thôi. Tiêu Phong cả mừng, xé lấy hai đùi cọp nướng vào lửa. A Cốt Đả thấy chàng dùng tay không xé con hổ như người ta xé thịt gà, kình lực như thế y chưa từng thấy cũng chưa từng nghe. Gã ngẩn ngơ nhìn hai cánh tay Tiêu Phong một hồi rồi khẽ sờ thử cổ tay chàng, nét mặt đầy vẻ kính trọng.

Thịt hổ nướng chín rồi, Tiêu Phong và A Cốt Đả ăn một bữa no, A Cốt Đả ra hiệu hỏi chàng đến đây làm gì, Tiêu Phong cũng dùng hai tay ra hiệu đào đất tìm nhân sâm để trị bệnh cho A Tử nhưng bị lạc đường. A Cốt Đả cười ha hả, múa tay lung tung ý nói là nhân sâm rất dễ tìm, đi theo y bao nhiêu cũng có. Tiêu Phong mừng quá, đứng dậy, tay trái bồng A Tử, tay phải xách một con hổ chết. A Cốt Đả lại giơ ngón tay lên ra hiệu khâm phục thần lực của Tiêu Phong.

A Cốt Đả rất quen thuộc địa thế vùng này, trời bão tuyết mịt mùng mà không nhầm lẫn chút nào. Hai người đi đến tối thì ngủ lại trong rừng, sáng hôm sau lại đi. Cứ như thế đi về hướng tây hai ngày, đến trưa ngày thứ ba trên mặt tuyết đã thấy rất nhiều dấu chân, A Cốt Đả ra hiệu là đã đến gần bộ tộc rồi. Quả nhiên đi qua hai thung lũng, thấy bên triền núi phía đông nam lấm chấm mấy trăm mái lều bằng da thú. A Cốt Đả chúm môi huýt một tiếng, lập tức có người chạy ra đón.

Tiêu Phong theo A Cốt Đả lại gần, thấy trước căn lều nào cũng có một đống lửa, vô số phụ nữ ngồi chung quanh, người thì khâu da thú, người thì sấy thịt khô. A Cốt Đả dẫn Tiêu Phong đến căn lều to nhất ở chính giữa, vén màn đi vào, Tiêu Phong cũng đi theo y. Bên trong lều có chừng mươi người đàn ông ngồi thành vòng tròn đang uống rượu, vừa thấy A Cốt Đả đã lớn tiếng reo mừng. A Cốt Đả chỉ vào Tiêu Phong, nói liến thoắng một hồi, nhìn bộ dạng tựa hồ đang kể lại chuyện ông tay không đánh chết hổ. Cả đám liền vây quanh Tiêu Phong, ai nấy giơ ngón tay cái lên, không ngớt trầm trồ khen ngợi.

Đang lúc xôn xao, một người Hán ăn mặc theo kiểu thương gia bước vào, hỏi Tiêu Phong: “Huynh đài có biết tiếng Hán không?” Tiêu Phong mừng rỡ đáp: “Biết chứ! Biết chứ!”

Chàng hỏi ra mới biết căn lều này là của tộc trưởng Nữ Chân, người râu đen ngồi giữa là tộc trưởng, tên gọi Hòa Lý Bố. Ông ta có mười một người con, toàn là anh hùng hảo hán, A Cốt Đả là con trai thứ. Người Hán đó tên là Hứa Trác Thành, mùa đông năm nào cũng tới đây mua nhân sâm, da thú, sang xuân mới quay về. Hứa Trác Thành hiểu tiếng Nữ Chân, bèn làm phiên dịch cho Tiêu Phong. Người Nữ Chân hay đánh nhau với người Khất Đan, nhưng rất kính trọng những bậc anh hùng hảo hán. Hoàn Nhan A Cốt Đả là người thông minh nhanh nhẹn, rất được phụ thân yêu mến, mọi người trong bộ lạc đều kính trọng. Y luôn mồm ca ngợi Tiêu Phong nên mọi người đều coi chàng như khách quí, không còn dị ứng với cái gốc gác Khất Đan của chàng nữa.

A Cốt Đả nhường căn lều của mình cho Tiêu Phong và A Tử ở. Tiêu Phong từ chối mấy lần không được, thấy y thành thực bèn bế A Tử vào trong lều nghỉ ngơi.

Tối hôm đó người Nữ Chân mở đại tiệc để đón tiếp Tiêu Phong, thịt hai con mãnh hổ được nấu thành món ăn trân quí. Đã nửa tháng nay Tiêu Phong không đụng tới một giọt rượu, bây giờ người Nữ Chân đem ra hết túi da này đến túi da khác, chàng uống một bữa thỏa thuê. Rượu của người Nữ Chân vị không ngon nhưng cực mạnh, người thường chỉ cần uống nửa túi đã say, nhưng Tiêu Phong uống luôn một chục túi mà sắc mặt vẫn như không. Xưa nay dân Nữ Chân vẫn xem ai có tửu lượng giỏi là bậc hảo hán. Chuyện chàng tay không đánh cọp thì họ mới nghe kể chưa thấy tận mắt, nhưng xem chàng uống rượu thì mười hảo hán Nữ Chân cộng lại cũng chưa bằng, tất cả đều phục sát đất.

Hứa Trác Thành thấy người Nữ Chân trọng vọng chàng nên cũng hết sức cung kính. Tiêu Phong lúc này nhàn rỗi không biết làm gì, ban ngày đi săn với A Cốt Đả, tối về lại nhờ Hứa Trác Thành dạy tiếng Nữ Chân. Chàng học được bốn năm phần, nghĩ bụng mình là người Khất Đan, không biết nói tiếng Khất Đan thì có điều bất tiện, nên lại nhờ y dạy. Hứa Trác Thành đi buôn nhiều nơi, bất luận tiếng Nữ Chân, tiếng Tây Hạ, tiếng Khất Đan gã cũng nói lưu loát. Tiêu Phong học ngôn ngữ thì không thông minh lắm, nhưng vì tiếng Nữ Chân và tiếng Khất Đan giản dị hơn tiếng Hán nhiều nên chẳng bao lâu đã có được chút vốn liếng, đủ nói cho người ta hiểu, không cần phải phiên dịch nữa.

Ngày tháng thoi đưa, đông đi xuân tới. A Tử ngày ngày ăn nhân sâm, thương thế giảm dần. Người Nữ Chân ở nơi hoang sơn dã lĩnh, đào được lão sâm hạng nhất, quí hơn cả hoàng kim. Lần nào Tiêu Phong đi săn cũng giết được nhiều dã thú, đem đổi lấy nhân sâm cho A Tử dùng. Giả tỉ là nhà phú hộ mà có một tiểu thư dùng nhân sâm nhiều như thế, e rằng đến tán gia bại sản. Bây giờ mỗi ngày Tiêu Phong chỉ phải vận khí dồn lực vào cho A Tử hai lần là đủ, không như trước đây phải đặt tay lên lưng nàng suốt ngày đêm. A Tử đôi lúc cũng nói được vài câu, nhưng chân tay tê bại không cử động được, mọi chuyện ăn ngủ, đi đứng, nằm ngồi, đều do Tiêu Phong lo liệu cả. Chàng nhớ tới thâm tình của A Châu, dù mệt nhọc cũng vui lòng, nghĩ rằng chăm sóc A Tử một lần là báo đáp A Châu một chút nên cảm thấy an ủi trong lòng.

Một hôm A Cốt Đả dẫn mươi người trong bộ tộc lên miền tây bắc săn gấu, rủ Tiêu Phong đi cùng. Gã nói loài gấu da dày lông rậm, bàn tay gấu là món sơn hào, mật gấu lại trị thương rất linh nghiệm. Tiêu Phong thấy A Tử đã khá nhiều, cũng vui vẻ nhận lời đi theo. Đoàn người ra đi từ lúc trời chưa sáng, tiến thẳng về hướng bắc.

Lúc đó đã vào đầu mùa hạ, băng tuyết tan thành bùn trơn trượt, trong rừng đầy cành lá mục cực kỳ khó đi, nhưng người Nữ Chân đi đứng vẫn nhẹ nhàng nhanh nhẹn như thường. Đến khoảng giờ ngọ, một lão thợ săn già kêu lên: “Gấu kìa! Gấu kìa!” Mọi người nhìn theo hướng tay lão chỉ, thấy ở xa xa trên đất lầy có những dấu chân gấu rất lớn. Mọi người đều phấn khởi, lập tức theo vết chân đuổi theo.

Vết chân gấu dẫm xuống bùn sâu đến mấy tấc, dù là trẻ con cũng lần theo được. Cả đoàn người vừa đuổi vừa reo, theo vết chân đi về hướng tây. Sau khi ra khỏi cánh rừng bùn lầy, đến thảo nguyên mọi người đuổi càng nhanh.

Bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập, xa xa phía trước bụi bay mù mịt, một đại đội nhân mã đang phóng tới. Một con gấu đen thật lớn đang chạy ngược về hướng Tiêu Phong, đằng sau là bảy tám kỵ sĩ hò hét đuổi theo, kẻ cầm trường mâu, kẻ cầm cung tên coi bộ rất hung hăng.

A Cốt Đả kêu lớn: “Bọn Khất Đan! Chúng đông người, ta chạy đi thôi.” Tiêu Phong nghe nói là người đồng tộc với mình, trong lòng cảm thấy thân cận, tuy bọn A Cốt Đả đã quay đầu bỏ chạy nhưng chàng chưa chạy theo mà đứng lại xem cho rõ.

Bỗng bọn Khất Đan hô lớn: “Mọi Nữ Chân! Bắn tên! Bắn tên!” Nghe tiếng rít lên liên tiếp, những mũi tên đuôi có tra lông bắn tới như mưa. Tiêu Phong trong bụng bực tức, nghĩ thầm: “Sao chẳng có lý do gì, vừa thấy mặt đã bắn ngay?”. Mấy mũi tên bắn đến đều bị chàng đưa tay gạt ra hết. Bỗng nghe một tiếng rú thê thảm, một lão già Nữ Chân trúng tên vào lưng, gục xuống chết ngay.

A Cốt Đả dẫn cả bọn chạy qua một ngọn đồi, nằm mọp xuống, cũng lắp tên vào cung bắn gục hai gã Khất Đan. Tiêu Phong đứng giữa, không biết giúp bên nào cho phải.

Vũ tiễn của bọn Khất Đan vẫn tiếp tục bắn như mưa bấc, Tiêu Phong thuận tay bắt lấy một mũi vung lên, bao nhiêu tên bắn tới đều bị gạt ra. Chàng lớn tiếng quát hỏi: “Các ngươi làm gì vậy? Sao chưa hỏi han gì đã ra tay giết người?” A Cốt Đả từ sau mô đất lớn tiếng gọi: “Tiêu Phong! Tiêu Phong! Chạy lại đây mau! Bọn chúng không biết huynh là người Khất Đan đâu!”

Lúc đó hai tên Khất Đan cầm trường mâu giục ngựa xông vào Tiêu Phong, chia ra đâm hai bên tả hữu. Tiêu Phong không muốn giết người đồng tộc, hai tay chộp hai cán giáo khẽ giật một cái, hai gã Khất Đan ngã lăn xuống ngựa, Tiêu Phong lại dùng cán mâu hất hai gã bay trở về, chúng kêu rú lên rồi rơi phịch xuống, một hồi lâu không bò dậy được. A Cốt Đả cùng bọn người Nữ Chân liền lớn tiếng hoan hô.

Trong bọn Khất Đan có một người trung niên mặc hồng bào ra vẻ oai vệ, y lớn tiếng ra lệnh gì đó. Mấy chục tên Khất Đạn liền chia thành hai cánh, bao vây bọn A Cốt Đả lại để chặn đường rút lui, vẫn còn mấy chục tên đứng bảo vệ chung quanh người áo đỏ.

A Cốt Đả xem chừng bất ổn, lớn tiếng kêu gọi tộc nhân và Tiêu Phong bỏ chạy. Bọn Khất Đan bắn tên ra như mưa, lại giết thêm hai người Nữ Chân nữa. Người Nữ Chân cung mạnh tên cứng bắn không trật mũi nào, chốc lát đã bắn hạ khoảng chục kỵ sĩ Khất Đan, có điều ít người hơn nhiều nên phải vừa bắn vừa chạy trốn.

Tiêu Phong thấy bọn Khất Đan ngang ngược không biết phải trái, tuy là người cùng bộ tộc cũng không thể nhường nhịn được nữa. Chàng cướp lấy một cây cung, bắn vùn vụt bốn mũi tên, phát nào cũng trúng vai hay đùi một gã Khất Đan, cả bốn rơi xuống ngựa nhưng không ai chết. Người mặc đồng bào lại quát tháo, lập tức có mấy tên phóng ngựa xông ra cực kỳ dũng mãnh.

Tiêu Phong thấy phe ta chỉ còn A Cốt Đả và năm thanh niên đang vừa bắn trả vừa chạy trốn, còn bao nhiêu đã trúng tên chết cả rồi. Trên thảo nguyên không có chỗ nấp, xem chừng nếu kéo dài thì ngay A Cốt Đả cũng sẽ bị giết. Chàng nghĩ người Nữ Chân đối xử với mình như thượng khách, nếu không ra tay bảo vệ bằng hữu thì sao phải anh hùng hảo hán? Nhưng ra tay đại sát người Khất Đan cùng chủng tộc thì cũng không đành lòng. Chàng thấy chỉ còn cách bắt lấy tên thủ lĩnh áo đỏ kia, buộc y ra lệnh lui quân thì mới đình chiến được.

Nghĩ vậy, Tiêu Phong lớn tiếng quát: “Này! Này! Bọn ngươi mà không lui binh thì ta không nể nang nữa đâu.” Chàng chưa dứt lời, ba cây trường mâu đã phóng tới vù vù. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Bọn bay không biết phải quấy chút nào.” Chàng hạ thấp người, xông thẳng về phía người mặc hồng bào.

A Cốt Đả thấy bằng hữu mạo hiểm liền kêu lên: “Tiêu Phong! Không được đâu, mau quay lại!” Tiêu Phong không đáp, cứ phóng tới thật nhanh. Bọn Khất Đan nhốn nháo cả lên, trường mâu vũ tiễn đều nhắm chàng bay đến tới tấp. Tiêu Phong chụp lấy một thanh trường mâu bẻ gãy đôi, cầm thanh mâu gãy vung lên như trường kiếm để gạt hết tên, vẫn chạy như bay, xông đến trước người áo đỏ.

Người đó râu ria tua tủa trông rất oai phong, thấy Tiêu Phong xông đến vẫn không hoang mang, giựt lấy ba cây lao của bọn hộ vệ chung quanh, phóng vùn vụt vào Tiêu Phong. Tiêu Phong vung tay bắt được ngay mũi lao, mũi thứ hai bay đến cũng bắt nốt. Chàng lại vung tay một cái phóng hai mũi lao bay ra, trúng luôn hai gã hộ vệ lăn xuống ngựa. Người mặc hồng bào quát lớn: “Giỏi lắm!”, ném nốt mũi lao thứ ba. Tiêu Phong giơ tay trái lên dùng thủ pháp tá lực đả lực, đẩy mũi lao bay ngược lại cắm thẳng vào ức con ngựa y đang cưỡi.

Người áo đỏ la lên: “Úi chà!”, vội vàng nhảy khỏi lưng ngựa. Tiêu Phong tung mình xông tới, vươn tay trái ra nắm lấy vai bên phải của y. Bỗng nghe phía sau có tiếng gió thổi tới, lập tức chàng nhún chân nhảy vọt ra trước hơn một trượng, nghe phập phập, hai thanh trường mâu cắm sâu xuống đất. Tiêu Phong ôm người áo đỏ vọt sang bên tả, tới sau lưng một kỵ sĩ Khất Đan, phóng chưởng hất gã này xuống rồi nhảy phốc lên lưng ngựa.

Người áo đỏ vung quyền lên đấm vào mặt Tiêu Phong, chàng kẹp mạnh tay trái lại khiến y không nhúc nhích được nữa. Tiêu Phong quát lên: “Ngươi bảo bọn chúng rút lui ngay, không thì ta kẹp chết ngươi tức khắc.” Người mặc hồng bào bất đắc dĩ phải la lên: “Tất cả lui ngay, không được đánh nữa!”

Bọn Khất Đan tới tấp xông đến trước mặt Tiêu Phong, toan ra tay cứu viện. Tiêu Phong dí mũi giáo gãy vào mặt người áo đỏ, quát lớn: “Các ngươi có muốn ta đâm chết y không?”

Một lão già Khất Đan quát lên: “Ngươi muốn tốt thì thả thủ lĩnh bọn ta ra ngay, nếu không sẽ bị ngũ mã phân thây lập tức.” Tiêu Phong cười ha hả, phóng chưởng cách không đánh vào lão. Chàng muốn thị uy, dọa cho chúng sợ để đỡ phải giết người. Nghe ầm một tiếng, lão già Khất Đan kia từ lưng ngựa văng ra mấy trượng, miệng hộc máu tươi chết ngay lập tức.

Xưa nay bọn Khất Đan chưa thấy ai lợi hại đến thế, cách không đánh chết người chẳng khác gì yêu pháp. Chúng hoảng hốt ghìm cương lùi lại, vẻ mặt kinh hoàng, chỉ sợ chưởng phong quét trúng mình. Tiêu Phong quát lớn: “Các ngươi không mau lui ra, ta phóng chưởng đánh y chết trước.” Chàng vừa nói vừa giơ tay lên dọa đánh xuống đầu người áo đỏ. Y liền la hoảng: “Các ngươi lui đi! Lui mau đi!” Cả bọn Khất Đan lùi ra mấy bước nhưng không chịu bỏ đi.

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Khu này toàn là đồng cỏ mênh mông, nếu mình thả tên này về, chúng cưỡi ngựa đuổi theo thì mình không chạy thoát được”. Chàng liền bảo người áo đỏ: “Bảo chúng đem tám con ngựa lại đây.” Y vâng lời ra lệnh, bọn Khất Đan liền dắt đến tám con tuấn mã giao cho đám người Nữ Chân.

A Cốt Đả căm hận bọn này sát hại đồng bọn mình, phóng quyền ra đánh binh một tiếng, một tên dắt ngựa lăn đi mấy vòng. Bọn Khất Đan tuy đông người nhưng không dám đánh trả.

Tiêu Phong lại tiếp: “Ngươi ra lệnh cho thuộc hạ giết hết ngựa đang cưỡi, không chừa con nào.” Người mặc hồng bào tính tình dứt khoát, không tranh luận gì, lớn tiếng truyền lệnh: “Các ngươi xuống ngựa, giết hết ngựa đi.” Bọn kỵ sĩ không do dự chút nào, lập tức nhảy xuống, người dùng đao, kẻ dùng mâu giết ngay con ngựa đang cưỡi.

Tiêu Phong không ngờ bọn chúng tuân lệnh mau lẹ đến thế, trong lòng cảm phục nghĩ thầm: “Gã mặc áo đỏ này xem ra địa vị tôn cao, chỉ nói một tiếng là bọn kỵ sĩ không dám trái lệnh. Quân lệnh của người Khất Đan nghiêm minh như vậy, hèn gì đánh nhau với người Tống thắng nhiều thua ít.” Chàng bèn nói: “Ngươi bảo chúng quay về hết, không được đuổi theo. Một người đuổi theo thì ta chặt ngươi một cánh tay, hai người đuổi theo ta chặt hai cánh tay, bốn người đuổi theo thì chặt hết tứ chi.”

Gã áo đỏ tức giận, râu ria dựng ngược lên, nhưng đang bị kẹp chặt không làm gì được, bất đắc dĩ phải ra lệnh: “Các ngươi quay về, điều động nhân mã kéo đến sào huyệt bọn Nữ Chân.” Bọn võ sĩ hô to: “Tuân lệnh!”, rồi khom lưng hành lễ.

Tiêu Phong dắt ngựa, đợi cho bọn A Cốt Đả sáu người lên yên hết, rồi cùng theo đường cũ trở về. Đi được mấy dặm, chàng thấy bọn Khất Đan không đuổi theo thật, bèn nhảy lên yên một con ngựa, để cho người áo đỏ tự cưỡi một con.

Tám con ngựa chạy thẳng về đại trại không dừng bước, A Cốt Đả bẩm lại cho phụ thân là Hòa Lý Bố việc gặp địch như thế nào, Tiêu Phong bắt được thủ lĩnh Khất Đan ra sao. Hòa Lý Bố cả mừng nói: “Tuyệt diệu! Đem con chó Khất Đan vào đây ta xem!”.

Người áo đỏ bước vào trong trướng, thần thái vẫn uy nghi, đứng hiên ngang không chịu quỳ, Hòa Lý Bố biết y là người tôn quý bên Khất Đan, liền hỏi: “Ngươi tên gì? Làm chức gì bên Liêu quốc?” Gã kia ngang nhiên đáp: “Có phải người bắt ta đâu mà được phép hỏi ta?” Thì ra người Khất Đan và người Nữ Chân đều có tập quán như nhau, tù binh là nô lệ của người bắt được. Hòa Lý Bố cười ha hả nói: “Ngươi nói đúng lắm!”

Người áo đỏ đi đến trước mặt Tiêu Phong, quì một chân xuống, tay phải đưa lên trán rồi nói: “Chủ nhân quả thực là anh hùng, ta đánh không lại, đông người mà vẫn thua. Ta bị ông bắt cũng không oán hận gì. Nếu ông chịu thả ta về, ta sẽ trả cho năm mươi lượng vàng, năm trăm lượng bạc, ba chục con tuấn .”

Thúc phụ của A Cốt Đả là Phả Lạp Tô nói: “Ngươi là bậc đại quí của Khất Đan, tiền chuộc như thế ít quá. Tiêu huynh đệ! Ngươi bắt y đem đến năm trăm lượng vàng, năm nghìn lượng bạc, ba trăm con tuấn mã.” Phả Lạp Tô là người lanh lợi khôn ngoan, hét giá lên gấp mười, để bên kia trả giá là vừa. Thật ra thì người Nữ Chân sống giản dị đã quen, cái giá năm mươi lượng vàng, năm trăm lượng bạc, ba chục con tuấn mã đã là to lắm rồi. Hai bên Nữ Chân và Khất Đan giao chiến mấy chục năm qua, chưa có món tiền chuộc nào lớn đến thế. Giả tỉ người áo đỏ không chịu cứ theo đúng con số y đưa ra lúc đầu đã là một tài sản ít thấy. Ai dè người áo đỏ không cần suy nghĩ, đáp ngay: “Thế cũng được!”

Những người Nữ Chân trong trường nghe vậy không khỏi giật mình, tưởng chừng tai nghe không rõ. Người Nữ Chân và Khất Đan cũng có khi lập kế đánh lừa nhau, nhưng khi đã giao ước thì một là một, hai là hai không bao giờ nuốt lời. Hơn nữa, hai bên đang thảo luận về tiền chuộc, giả tỉ bên Khất Đan không giao đủ thì người áo đỏ không trở về được, hứa bậy lại càng có hại. Phả Lạp Tô nghi ngờ y bị bắt rồi sợ hãi quá độ, thần trí mê man, liền nhắc lại: “Ngươi nghe rõ chưa? Ta nói là hoàng kim năm trăm lượng, bạch ngân năm nghìn lượng, tuấn mã ba trăm con!”.

Người áo đỏ trả lời đầy vẻ ngạo mạn: “Hoàng kim năm trăm lượng, bạch ngân năm nghìn lượng, tuấn mã ba trăm con có chi đáng kể? Nước Đại Liêu chúng ta giàu có nhất thiên hạ, con số đó chẳng thấm vào đâu.” Y quay sang Tiêu Phong, đổi giọng cung kính nói: “Chủ nhân! Ta chỉ nghe lệnh một mình ông thôi, người khác nói ta không thèm trả lời nữa đâu.” Phả Lạp Tô nói: “Tiêu huynh đệ! Huynh đệ thử hỏi xem y ở nước Liêu làm tới chức gì?” Tiêu Phong chưa kịp hỏi, người kia đã nói: “Giả tỉ chủ nhân gạn hỏi thân thế lai lịch, ta sẽ đặt điều nói láo, ông không thể biết là thật hay giả. Thế nhưng ông là anh hùng hảo hán, ta cũng là anh hùng hảo hán, ta không muốn lừa ông, xin đừng hỏi làm gì.”

Tiêu Phong xoay tay trái rút phắt thanh đao đeo nơi hông, tay phải vỗ vào sống đao nghe cách một tiếng, lưỡi đao cong oằn lại. Chàng lớn tiếng quát: “Ngươi dám to gan không nói chăng? Bàn tay ta mà vỗ xuống đầu ngươi thì sẽ ra sao?”

Người áo đỏ vẫn thản nhiên không sợ hãi gì, đưa ngón tay cái lên, khen: “Bản lĩnh tuyệt vời! Công lực ghê gớm! Hôm nay ta được gặp đệ nhất anh hùng trên thế gian, quả là không uổng. Tiêu anh hùng! Nếu ông cậy mạnh uy hiếp, bắt ta khuất phục thì không được đâu. Ông muốn giết thì cứ giết, người Khất Đan tuy đánh không lại nhưng cốt cách cứng cỏi quyết không chịu kém.”

Tiêu Phong cười ha hả nói: “Hay lắm! Hay lắm! Ta không giết ngươi tại đây. Giả tỉ ta chém ngươi một nhát, chắc ngươi không tâm phục. Chi bằng mình ra chỗ xa xa, tỉ thí một trận.”

Hòa Lý Bố và Phả Lạp Tô cùng lên tiếng can ngăn: “Tiêu huynh đệ! Giết tên này đi thì thực là đáng tiếc, để y sống lấy tiền chuộc tốt hơn. Nếu huynh đệ bực mình, chỉ cần xách côn gỗ roi da đánh cho quắn đít là được.”

Tiêu Phong đáp: “Không được! Y muốn làm anh hùng hảo hán, ta cho y toại nguyện.” Chàng quay sang mượn người Nữ Chân hai cây trường mâu, hai bộ cung tên, nắm tay người áo đỏ kéo ra khỏi trướng, nhảy lên ngựa rồi ra lệnh: “Lên ngựa mau!” Người mặc hồng bào biết chắc đấu với Tiêu Phong thì chỉ có chết, ông muốn tỉ thí chẳng qua là chơi trò mèo vờn chuột, đùa giỡn một hồi rồi mới giết mình. Nhưng y vẫn ngang nhiên chẳng sợ hãi gì, lập tức lên ngựa chạy về hướng bắc.

Tiêu Phong cưỡi ngựa theo sau. Hai người chạy được mấy dặm, Tiêu Phong nói: “Bây giờ rẽ sang hướng tây!” Người áo đỏ đáp: “Chỗ này phong cảnh tuyệt đẹp, ta muốn chết tại đây.” Tiêu Phong nói: “Đón lấy!” Chàng ném trường mâu và cung tên qua, người kia đón bắt lấy rồi lớn tiếng nói: “Tiêu anh hùng! Ta không phải là đối thủ của ông, nhưng người Khất Đan thà chết không chịu nhục. Ta động thủ đây!” Tiêu Phong đáp: “Khoan đã!” Chàng ném trường mâu và cung tên xuống, chỉ còn hai tay không, miệng tủm tỉm cười. Người áo đỏ cực kỳ giận dữ, thét lên: “Hừ! Thế ra ngươi định tay không đấu với ta, khinh người đến thế ư?” Tiêu Phong lắc đầu: “Không phải! Tiêu mỗ bình sinh kính trọng anh hùng, yêu thích hảo hán. Võ công ngươi tuy không bằng ta, nhưng cũng là một tay đại anh hùng, đại hảo hán, xứng đáng là bằng hữu. Tiêu mỗ để cho ngươi về nước.”

Người áo đỏ hết sức kinh ngạc, hỏi lại: “Thế là thế nào?” Tiêu Phong mỉm cười lập lại: “Tiêu mỗ coi ngươi là một hảo bằng hữu, để cho người bình an về nước”. Người mặc hồng bào khác nào đến Quỉ Môn Quan lại được quay về, mừng rỡ khôn xiết, hỏi lại: “Ngươi thả ta về thật chăng? Chẳng hay ngươi muốn gì? Ta sẽ đem tiền chuộc gấp mười, gửi sang cho ngươi.” Tiêu Phong hiên ngang đáp: “Ta coi ngươi là bằng hữu, sao ngươi lại không coi ta là bằng hữu? Tiêu Phong này đường đường một đấng anh hào, lẽ đâu còn đi tham tiền bạc là vật ngoại thân hay sao?”

Người áo đỏ đáp: “Đúng lắm!” Y vứt binh khí rồi nhảy xuống ngựa, quì xuống đất nói: “Đa tạ ân công tha mạng!” Tiêu Phong cũng quì xuống đáp lễ, nói: “Nếu là kẻ nô lệ lạy lục Tiêu mỗ, Tiêu mô cũng chẳng tha đâu. Nhưng Tiêu mỗ không giết bằng hữu, sao lại dám nhận lạy của bằng hữu?”. Người áo đỏ lại càng mừng rỡ, đứng lên nói: “Tiêu anh hùng! Ông cứ luôn miệng gọi ta là bằng hữu, vậy chúng ta kết làm huynh đệ có được không?”

Nhớ lại năm xưa Tiêu Phong học nghệ xong liền gia nhập Cái Bang. Địa vị trong bang phân biệt rất nghiêm minh, trên có bang chủ, phó bang chủ, dưới có truyền công, chấp pháp và tứ đại trưởng lão. Sau nữa có đà chúa các đà, rồi đến đệ tử tám túi, bảy túi, cho đến kẻ mới nhập bang chưa có túi nào. Tại Cái Bang thì Tiêu Phong chuyên tâm lập những công trạng vẻ vang, chưa từng kết nghĩa anh em với ai. Sau này ở thành Vô Tích ông đấu tửu với Đoàn Dự, đem lòng cảm mến mới kết nghĩa kim lan lần đầu. Bây giờ nghe người áo đỏ đề cập đến việc này, chàng bỗng nhớ lại những năm ở Trung Nguyên giao thiệp với vô số anh hùng thiên hạ, hôm nay lưu lạc đến đất man di ăn nhờ ở đậu, quả thực nghĩ lại tủi thân. Chàng không khỏi cảm khái, lại thấy người áo đỏ khí độ anh hùng đáng là một trang hảo hán, liền đáp: “Hay lắm! Hay lắm! Tại hạ là Tiêu Phong, năm nay ba mươi mốt tuổi. Chẳng hay huynh đài niên kỷ bao nhiêu?” Người kia cười đáp: “Tại hạ là Gia Luật Cơ, nhiều hơn ân công mười ba tuổi.” Tiêu Phong nói: “Sao huynh trưởng còn kêu tiểu đệ bằng ân công? Huynh trưởng là đại ca, xin nhận một lạy của đệ.” Chàng nói xong phục xuống lạy, Gia Luật Cơ vội vàng hoàn lễ.

Hai người lấy ba mũi tên cắm xuống đất, đốt cháy lông đuôi tên làm nhang, hướng lên trời cùng lạy tám lạy, kết bái anh em.

Gia Luật Cơ cả mừng nói: “Hiền đệ họ Tiêu, chẳng khác gì người Khất Đan chúng ta.” Tiêu Phong đáp: “Chẳng giấu gì đại ca, tiểu đệ chính là người Khất Đan.” Nói xong chàng cởi áo ra, để lộ hình xăm chiếc đầu sói xanh trên ngực.

Gia Luật Cơ lại càng mừng rỡ, nói: “Đúng rồi! Hiền đệ thuộc dòng họ hoàng hậu Khất Đan, Hiền đệ ơi, đất Nữ Chân rét lắm, chi bằng theo ta về Thượng Kinh chung hưởng phú quí.” Tiêu Phong đáp: “Đa tạ hảo ý của ca ca. Có điều tiểu đệ trước nay nghèo hèn, không hợp kiểu sống phú quí. Tiểu đệ ở lại Nữ Chân săn bắn uống rượu làm vui, thấy tiêu dao khoái hoạt hơn. Sau này nhớ tới ca ca, thể nào cũng qua nước Liêu thăm hỏi.” Tiêu Phong rời A Tử đã lâu, sực nhớ đến thương thế nàng bèn nói: “Ca ca nên sớm quay về, để người nhà và bộ thuộc khỏi trông đợi.” Rồi hai người hành lễ cáo biệt.

Tiêu Phong vừa quay đầu ngựa đã thấy A Cốt Đả dẫn hơn chục người nghênh tiếp. Thì ra A Cốt Đả thấy Tiêu Phong đi lâu không về, sợ chàng trúng phải ngụy kế của người áo đỏ, trong lòng hồi hộp liền đến tiếp ứng. Tiêu Phong kể cho gã nghe mình đã thả người áo đỏ về nước Liêu rồi. A Cốt Đả là người hiểu biết, thấy Tiêu Phong khinh tài trọng nghĩa, khoan hồng đại lượng như thế lại càng kính phục.

Một hôm, Tiêu Phong cùng A Cốt Đả nhàn rỗi ngồi nói chuyện chơi, kể lại A Tử thụ thương là do chưởng lực của mình lỡ tay đánh phải, tuy dùng nhân sâm duy trì được tính mạng nhưng thương thế đã lâu vẫn không giảm, trong lòng phiền muộn. A Cốt Đả nói: “Tiêu đại ca! Thì ra lệnh muội bị ngoại thương, người Nữ Chân chúng tôi trị gãy xương sai khớp xưa nay vẫn dùng gân hổ, xương hổ và mật gấu làm thuốc rất hiệu nghiệm. Đại ca thử xem thế nào.” Tiêu Phong cả mừng nói: “Gân hổ, xương hổ thì ở đây không thiếu. Để ta ráng đi kiếm mấy con gấu lấy mật là xong.” Chàng hỏi kỹ cách dùng, rồi lấy gân hổ, xương hổ nấu thành cao cho A Tử uống.

Sáng hôm sau, Tiêu Phong một mình đi vào núi hoang đầm lớn tìm gấu. Chàng đi một mình nên có thể thi triển khinh công, mau lẹ hơn đi cả đoàn nhiều. Ngày đầu không tìm thấy dấu vết gấu, đến ngày thứ hai săn được một con. Chàng mổ lấy mật, chạy về trại đút cho A Tử uống. Gân hổ, xương hổ, mật gấu và nhân sâm lâu năm nơi rừng sâu núi thẳm đều là những dược phẩm trân quí để trị thương, nhất là mật gấu còn tươi lại càng khó kiếm. Tiết Thần Y tuy y đạo như thần, nhưng không có thuốc thì cũng bó tay, nếu phải dùng nhân sâm già cho bệnh nhân ăn thay cơm thì lão cũng không làm nổi. Đằng này Tiêu Phong cứ vài ngày lại đánh chết một con gấu lấy mật tươi cho A Tử uống, mười lão Tiết Thần Y cũng không bì kịp.

Một hôm Tiêu Phong đang ngồi nấu xương gân hổ làm cao, có một người Nữ Chân hấp tấp chạy đến gọi: “Tiêu đại ca! Có hơn chục tên Khất Đan đem lễ vật đến cho đại ca.” Tiêu Phong gật đầu, đoán là nghĩa huynh Gia Luật Cơ sai người tới. Chỉ nghe tiếng vó ngựa dồn dập, một đoàn ngựa từ từ tiến vào, trên lưng ngựa chất đầy phẩm vật.

Tên đội trưởng Khất Đan đi đầu đã nghe Gia Luật Cơ mô tả diện mạo Tiêu Phong, nên từ xa vừa trông thấy đã vội vàng nhảy xuống ngựa, chạy tới trước mặt ông, lạy phục xuống đất nói: “Từ khi chủ nhân từ biệt Tiêu đại gia đến nay, mong nhớ đêm ngày, nay sai tiểu nhân là Thất Lý đem chút lễ mọn sang mời Tiêu đại gia đến Thượng Kinh hàn huyên cho thỏa tình khát vọng.” Y nói xong dập đầu mấy cái, hai tay trình lễ đơn lên, cực kỳ cung kính.

Tiêu Phong đón lấy, cười nói: “Đại ca quả là có lòng. Thôi, ngươi đứng dậy đi.” Chàng mở tờ lễ đơn ra thấy toàn là chữ Khất Đan, liền nói: “Ta không biết chữ, xem chẳng hiểu gì.” Thất Lý nói: “Chút lễ mọn này gồm năm nghìn lượng hoàng kim, năm vạn lượng bạch ngân, một nghìn súc gấm, một nghìn thạch lúa mạch thượng phẩm, một nghìn con bò, năm nghìn con cừu, ba nghìn con tuấn mã, ngoài ra còn một số quần áo đồ dùng.”

Tiêu Phong càng nghe càng kinh ngạc, lễ vật còn nhiều gấp mười khoản tiền chuộc Phả Lạp Tô đòi hôm trước. Lúc đầu chàng thấy hơn chục con ngựa chở phẩm vật đến đã cho là quá nhiều, té ra theo danh sách này thì không biết bao nhiêu ngựa xe mới chất hết.

Thất Lý khom lưng nói: “Chủ nhân còn sợ gia súc đi đường xa mất mát, cho nên cừu bò ngựa đều đem dư một số để bù trừ hao hụt. May nhờ hồng phúc của chủ nhân và Tiêu đại gia, bọn tiểu nhân đi đường không bị gió bão hay dã thú chi hết, tổn thất rất ít.” Tiêu Phong thở dài nói: “Gia Luật ca ca thật là chu đáo. Nếu ta không nhận thì phụ hảo tâm của ca ca, còn nhận thì thật chẳng yên tâm chút nào.” Thất Lý nói: “Chủ nhân dặn đi dặn lại, nếu Tiêu đại gia khách sáo không nhận, tiểu nhân trở về sẽ bị trọng phạt.”

Bỗng nghe tiếng tù và nổi lên inh ỏi, người Nữ Chân trong các lều đều xách đao thương cung tên nhốn nháo chạy ra. Có tiếng hô lớn: “Quân địch đến tấn công, mọi người chuẩn bị nghênh chiến.” Tiêu Phong nhìn về phía có hiệu tù và thì thấy cát bụi mù trời, tựa hồ vô số binh mã đang kéo đến.

Thất Lý lớn tiếng gọi to: “Xin các vị chớ có hoang mang, đó là đoàn gia súc của Tiêu đại gia.” Y dùng tiếng Nữ Chân kêu gọi liên tiếp, nhưng chẳng ai chịu tin. Hòa Lý Bố, Phả Lạp Tô, A Cốt Đả chia nhau ra chỉ huy người trong bộ lạc dàn thành trận thế ở phía tây doanh trại.

Đây là lần đầu Tiêu Phong thấy người Nữ Chân bố trí trận mạc, nghĩ thầm: “Bộ tộc Nữ Chân ít người, nhưng ai cũng nhanh nhẹn dữ dằn. Bọn kỵ sĩ Khất Đan của Gia Luật ca ca xem chừng không hung hãn bằng, còn quan binh nhà Đại Tống thì lại tệ hơn nữa”.

Thất Lý kêu lên: “Để tiểu nhân đi bảo thuộc hạ dừng lại, không tiến lên vội để khỏi hiểu lầm.” Y nhảy vọt lên ngựa, chạy về hướng tây. A Cốt Đả vẫy tay một cái, bốn người Nữ Chân liền đuổi theo sau. Năm kỵ sĩ tiến tới chỗ bụi mù, thấy trên đồng cỏ toàn là bò cừu ngựa, hơn một trăm dân Khất Đan cầm roi dài lùa gia súc, tuyệt không có tên quân nào.

Bốn người Nữ Chân bật cười, quay ngựa về báo với Hòa Lý Bố. Chẳng bao lâu, đoàn gia súc đã đến gần, bò kêu ngựa hí ầm ầm át cả tiếng người, không ai nói chuyện với ai được.

Tối hôm đó Tiêu Phong nhờ dân Nữ Chân giết bò mổ cừu để đãi khách phương xa. Hôm sau, chàng lấy một ít vàng bạc gấm vóc thưởng cho bọn người Khất Đan đưa lễ vật đến. Khi chúng từ biệt ra về rồi, chàng đem toàn bộ gia súc cùng vàng bạc giao lại cho A Cốt Đả, bảo y chia cho người trong bộ tộc. Người Nữ Chân vốn dĩ tụ tập sống chung với nhau, không có của riêng, một người được thì cả bộ tộc hưởng chung, thấy Tiêu Phong hào hiệp như thế cũng coi là chuyện bình thường. Thế nhưng tự nhiên được vô số tài vật trên trời rơi xuống như thế, mọi người đều vui vẻ.

Toàn bộ tộc ăn uống vui chơi mấy ngày liền, ai nấy đều cảm kích lòng tốt của Tiêu Phong.

Hết hạ sang thu, bệnh tình A Tử cũng đỡ được vài phần. Nàng đã hơi tỉnh táo, suốt ngày phải nằm trong lều dưỡng thương sinh ra chán ngán, thường bảo Tiêu Phong đưa ra ngoài cưỡi ngựa rong chơi cho khuây khỏa. Hai người cưỡi chung một con ngựa, A Tử ngồi trước dựa vào ngực Tiêu Phong, không tốn một chút hơi sức nào. Tiêu Phong chiều chuộng nàng hết mực, suốt mấy tháng liền ngày nào cũng lên ngựa rong chơi, chỉ trừ những khi gió to tuyết lớn. Về sau, đi mãi những vùng lân cận cũng chán, hai người mang theo cả lều chăn dựng trại ngủ ở bên ngoài, có khi mấy ngày liền không về. Tiêu Phong cũng nhân đó mà đánh hổ, săn gấu, đào nhân sâm. Chỉ vì A Tử bắn lén một mũi độc châm mà gấu cùng hổ ở dãy Trường Bạch hao hụt khá nhiều, không biết bao nhiêu con đã táng mạng dưới tay Tiêu Phong.

Tiêu Phong vì muốn kết hợp đào sâm nên lần đi chơi nào cũng theo hướng đông hoặc hướng bắc. Một hôm A Tử bảo rằng phong cảnh phía đông phía bắc coi đã nhiều, nay muốn qua phía tây du ngoạn, Tiêu Phong nói: “Phía tây chỉ có một thảo nguyên thật rộng, chẳng có núi non sông ngòi gì đáng xem hết.” A Tử đáp:”Cánh đồng cỏ bát ngát cũng thích chứ, chẳng khác gì biển cả. Tiểu muội chưa thấy biển thật bao giờ. Tinh Tú Hải tuy gọi là biển, nhưng vẫn còn thấy bờ thấy bến.”

Tiêu Phong nghe nàng nhắc đến Tinh Tú Hải cũng thấy chột dạ. Một năm qua sống chung với người Nữ Chân, những chuyện võ lâm đã quên dần, A Tử không cử động được, muốn làm chuyện tàn nhẫn cũng chẳng có cách gì. Còn chàng thì ra sức trị thương cứu mạng, bây giờ mới sợ rằng một khi bệnh tình nàng thuyên giảm thì ác tính lại phát tác, lúc đó biết làm thế nào?

Chàng quay lại nhìn A Tử, thấy khuôn mặt trắng bệch không chút huyết sắc, má hóp lại, đôi mắt to đen sâu hoắm, dung nhan tiều tụy, người gầy tong teo như cái túi da. Tiêu Phong không khỏi chua xót trong lòng, thầm nghĩ: “Nàng vốn dĩ là một cô bé lanh lợi khả ái, bị ta đánh chết đi sống lại đến nỗi thân tàn ma dại thế này. Sao ta lại nỡ nghĩ đến những điều xấu của nàng?” Chàng bèn mỉm cười nói: “Cô đã muốn đi về phía tây thì mình qua đó xem sao. A Tử! Khi nào cô khỏe hẳn, ta sẽ đưa cô đến biên giới nước Cao Ly để xem đại dương thực sự, nước biếc mênh mông, nhìn không thấy bờ, cảnh tượng đó mới thật là hùng vĩ.”

A Tử đột nhiên vỗ tay reo lên: “Hay quá! Hay quá! Chẳng cần phải đợi nữa, bây giờ mình đi cũng được.” Tiêu Phong kêu lên một tiếng, vừa vui mừng vừa kinh ngạc hỏi: “A Tử: Thì ra hai tay của cô cử động được như thường rồi.” A Tử cười đáp: “Hai tay tiểu muội cử động được đã nửa tháng nay, bây giờ linh hoạt lắm rồi.” Tiêu Phong cả mừng nói: “Thế thì tuyệt diệu! Con bé cứng đầu này lại giấu giếm ta nữa.” Đôi mắt A Tử ánh lên một vẻ tinh quái, mỉm cười đáp: “Muội chỉ mong vĩnh viễn không cử động được, thì tỉ phu mới ngày ngày ngồi cạnh muội. Giả tỉ thương thế muội khỏi rồi, tỉ phu lại đuổi đi mất.”

Tiêu Phong nghe thanh âm nàng đầy vẻ chân thành, không khỏi sinh lòng ái ngại, bèn nói: “Ta là người lỗ mãng, hôm đó sơ ý đánh cô tới nông nỗi này. Cô ngày ngày ở bên cạnh ta thì có gì vui thú đâu?” A Tử không trả lời, hồi lâu mới khẽ hỏi: “Tỉ phu ơi! Sao hôm đó tỉ phu phóng chưởng đánh muội mạnh đến thế?” Tiêu Phong không muốn nhắc lại chuyện cũ, lắc đầu đáp: “Chuyện qua rồi, nhắc lại làm gì? A Tử! Ta đánh cô trọng thương, trong lòng rất hối hận. Cô có giận ta không?” A Tử đáp: “Dĩ nhiên là tiểu muội không giận tỉ phu, có gì để giận đâu? Muội chỉ mong được kề cận bên mình tỉ phu, bây giờ thỏa nguyện rồi còn gì? Muội còn hết sức sung sướng là khác.”

Tiêu Phong nghe nàng nói như thế, tuy quan niệm của tiểu cô nương này thật là cổ quái, nhưng thấy nàng tử tế hơn, liền cho rằng vì mình quan tâm lo lắng nên ác tính của nàng đã giảm đi nhiều. Chàng quay về chuẩn bị ngựa xe, lều trại, lương khô các thứ.

Sáng hôm sau, hai người đi về hướng tây. Đi được chục dặm, A Tử bỗng hỏi: “Tỉ phu đã đoán ra chưa?” Tiêu Phong hỏi lại: “Đoán cái gì?” A Tử nói: “Hôm đó muội đột nhiên phóng độc châm ám toán, tỉ phu có biết vì lý do gì không?” Tiêu Phong lắc đầu nói: “Ý nghĩ của cô trời không biết, quỉ không hay, làm sao ta đoán nổi?” A Tử thở dài nói: “Tỉ phu đã không đoán ra, thì đừng nghĩ tới nữa. Ô kìa! Tỉ phu xem đàn chim nhạn kia, chúng bay về hướng nam làm gì nhỉ?”

Tiêu Phong ngửng đầu lên, thấy hai đàn chim nhạn xếp thành hình chữ nhân trên trời, đang bay về phương nam, bèn nói: “Trời sắp sang đông, chim nhạn sợ lạnh nên bay về phương nam trốn tuyết.” A Tử hỏi: “Thế sao đến mùa xuân, chúng lại bay trở về phương bắc? Mỗi năm bay đi bay về chẳng vất vả lắm sao? Nếu chúng sợ lạnh sao không ở luôn phương nam, quay lại làm gì?”

Tiêu Phong trước nay chuyên tâm học võ, chưa bao giờ suy nghĩ đến tập tính các loài cầm thú, nghe nàng hỏi không sao trả lời được, lắc đầu cười nói: “Ta cũng chẳng hiểu. Chúng không ngại gian khổ, có lẽ là do sinh nơi phương bắc, lưu luyến cố hương đấy thôi.”

A Tử gật đầu nói: “Nhất định là thế rồi. Tỉ phu xem kìa, con nhạn sau cùng còn nhỏ xíu mà cũng ráng bay về phương nam. Sau này gia gia, má má, tỉ nương cùng tỉ phu nó bay về phương bắc, dĩ nhiên nó cũng theo về.”

Tiêu Phong nghe nàng nói đến tỉ nương cùng tỉ phu, chợt động lòng đưa mắt nhìn thấy cô bé đang mơ màng nhìn theo đàn chim phía chân trời, hiển nhiên câu đó là nàng không cố ý nói ra. Chàng liền nghĩ thầm: “Nàng ngẫu nhiên mà xếp ta cùng với song thân một chỗ, đủ biết trong lòng đã coi mình là người thân thiết, thế thì từ nay ta không nên bỏ rơi nàng nữa. Đến khi nàng khỏi bệnh rồi, ta sẽ đưa nàng về Đại Lý giao lại cho song thân, lúc đó mới trút được trách nhiệm.”

Hai người vừa đi đường vừa chuyện trò vui vẻ. Lúc nào A Tử mệt mỏi, Tiêu Phong liền bế nàng xuống ngựa, đặt vào thùng xe cho nàng ngủ. Đến tối, chàng lại tìm rừng cây để dựng lều. Đi như thế mấy ngày, đã đến thảo nguyên.

A Tử đưa mắt nhìn quanh thấy đồng cỏ mênh mông không bờ bến, cao hứng nói: “Giả tỉ mình cứ đi tiếp về hướng tây thì chẳng khác gì lạc vào giữa biển, nhìn bốn bề đông tây nam bắc chỗ nào cũng không bờ không bến.” Tiêu Phong biết A Tử muốn đi sâu vào giữa thảo nguyên, liền chiều ý giơ roi lên quất một cái, giục ngựa đi tiếp về hướng tây.

Hai người đi trong đại thảo nguyên mấy ngày liền, quả nhiên nhìn khắp chung quanh đã không còn thấy ranh giới đồng cỏ đâu nữa. Khi đó trời vào thu khí hậu mát mẻ, nghe tiếng cỏ rì rào xào xạc thật là dễ chịu. Trong đồng có rất nhiều thú nhỏ, Tiêu Phong bắt lấy mà ăn, trong lòng lâng lâng chẳng lo nghĩ chi hết.

Lại đi thêm mấy ngày nữa, một buổi trưa chàng nhìn xa xa thấy vô số lều trại, cờ xí rất nhiều, không hiểu là chỗ đóng quân hay là một bộ lạc lớn. Tiêu Phong nói: “Trước mặt có đông người lắm, không biết họ là ai, mình quay về để khỏi bị rắc rối.” A Tử nói: “Đừng quay về vội, muội muốn đến đó xem. Hai chân muội vẫn cứng đơ, đâu có làm gì được mà tỉ phu sợ bị rắc rối?” Tiêu Phong cười nói: “Những chuyện rắc rối đâu phải chỉ do mình cô gây ra, có khi người khác gây sự, chúng ta muốn tránh cũng không được.” A Tử cười nói: “Thế thì mình cứ đến xem, chẳng sao đâu.”

Tiêu Phong biết nàng còn tính trẻ con, thích coi những nơi náo nhiệt, bèn giục ngựa tiến chầm chậm. Trên thảo nguyên địa thế bằng phẳng, những lều trại đó đã nhìn thấy rõ, nhưng không phải là gần. Đi được chừng bảy tám dặm, bỗng nghe tù và thổi u u, sau đó bụi bay mù mịt. Hai đại đội nhân mã xông ra, một đội lên phía bắc, một đội xuống phía nam.

Tiêu Phong hơi e ngại, nói: “Không xong rồi! Đây là kỵ binh Khất Đan.” A Tử nói: “Họ là đồng tộc của tỉ phu, thế thì hay quá, tỉ phu còn ngại cái gì?” Tiêu Phong đáp: “Nhưng ta chưa quen biết họ. Mình quay về thôi.” Chàng ghìm cương ngựa, quay về theo đường cũ. Mới được mấy bước, bỗng nghe tiếng trống thúc liên hồi, lại thêm mấy đội kỵ binh Khất Đan nữa xông ra. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Chung quanh chẳng thấy địch nhân đâu cả, chắc là họ đang tập trận.”

Bỗng nghe tiếng reo hò vang dội: “Có hươu kìa! Bắn đi!” Cả ba phía tây nam bắc, chỗ nào cũng nghe tiếng người giục bắn hươu, Tiêu Phong nói: “Té ra họ bao vây để săn thú, thanh thế cuộc đi săn này không phải nhỏ.” Chàng bèn ôm A Tử đặt lên yên ngựa, ghìm cương đứng ở phía đông nhìn xem.

Kỵ binh Khất Đan trong mặc thiết giáp, ngoài khoác cẩm bào. Đội thì cẩm bào màu đỏ, đội màu xanh, đội màu vàng, đội màu tím, cờ hiệu cũng cùng màu với áo. Binh cường mà tráng, lui tới nhịp nhàng trông rất oai hùng, Tiêu Phong cùng A Tử trầm trồ khen ngợi. Quân kỵ Khất Đan tung hoành tiến thoái theo đúng quân lệnh, giơ trường mâu ra để xua hươu, trông thấy Tiêu Phong và A Tử cũng chỉ liếc một cái chứ chẳng hỏi han gì. Bốn đội kỵ binh chia ra bao vây bốn mặt, dồn mấy chục con hươu vào giữa. Thỉnh thoảng có một con lọt qua chỗ trống chạy ra ngoài, thì lại có một toán quân nhỏ ra cản, vây đuổi trở lại vào trong.

comments

THIÊN LONG BÁT BỘ