Hồi 26 : Mặt hoa da phấn nỡ hủy sao ?
Chiều hôm đó, ba con ngựa, một cỗ xe cùng chạy lên phía bắc; ít ngày sau đã tới kinh thành Đại Đô của triều Nguyên. Thời đó vó ngựa người Mông Cổ chinh phục ra ngoài mấy vạn dặm, thành một đế quốc rộng lớn không đâu bằng. Đại Đô tức là Bắc Kinh sau này, là nơi hoàng đế ở, sứ thần của các tiểu quốc, các bộ tộc đến đây triều cống đông vô kể. Bọn Trương Vô Kỵ vừa vào qua cổng thành, đã thấy trên đường phố người qua lại tấp nập, có khá nhiều người tóc vàng mắt xanh.
Bốn người đi tới phía tây, tìm một khách điếm nghỉ ngơi. Dương Tiêu chi tiêu rộng rãi, đóng vai một thương gia giàu có, gọi ba phòng hạng nhất. Điếm tiểu nhị thấy vậy xun xoe, phục vụ ân cần.
Dương Tiêu hỏi thăm xem trong thành Đại Đô có những danh lam thắng cảnh nào, trò chuyện một hồi, làm như vô tình hỏi đến đền chùa. Ngôi chùa đầu tiên điếm tiểu nhị kể ra là chùa Vạn An:
– Chùa Vạn An có một cánh rừng lớn, trong chùa có ba bức tượng Phật bằng đồng, dù có đi khắp thiên hạ cũng không tìm ra pho tượng nào lớn hơn, ai cũng nên đến xem cho biết. Tiếc rằng quan khách không gặp may, chừng nửa năm nay trong chùa có các Phật gia Tây phiên đến ở, thường dân không dám vào nữa.
Dương Tiêu hỏi:
– Có phiên tăng ở ư? Ngay cả vào xem cũng không được ư?
Điếm tiểu nhị lè lưỡi, nhìn quanh bốn phía, nói nhỏ:
– Không phải tiểu nhân bép xép, nhưng quan khách mới tới kinh đô lần đầu, nói năng nên cẩn thận. Các Phật gia Tây phiên kia gặp người, muốn đánh là đánh, muốn giết là giết, gặp gái đẹp là bắt mang vào chùa. Đấy là do thánh chỉ của hoàng thượng cho phép như vậy. Đâu có ai dám vuốt râu hùm mà lại gần các Phật gia Tây phiên ấy làm chi?
Các phiên tăng Tây Vực ỷ thế người Mông Cổ, hoành hành ngang ngược, áp bức khinh rẻ người Hán, chuyện đó Dương Tiêu biết từ lâu, không ngờ ngay giữa kinh thành mà bọn chúng chẳng e dè gì hết, nên cũng không nói thêm với điếm tiểu nhị.
Ăn tối xong, mọi người chợp mắt dưỡng thần một lát, đợi đến canh hai, Trương Vô Kỵ, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, ba người mới nhảy qua cửa sổ, đi về phía tây tìm kiếm.
Chùa Vạn An có bốn tầng lầu cao, sau chùa có một tòa bảo tháp mười ba tầng bậc, nên có thể nhìn thấy từ xa.
Trương Vô Kỵ, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu thi triển khinh công, trong giây lát đã tới trước cổng chùa. Ba người dùng tay ra hiệu cho nhau, lẻn qua phía bên trái chùa, toan leo lên tòa bảo tháp, để từ trên cao dễ quan sát toàn cảnh bên trong chùa. Không ngờ khi đến cách bảo tháp chừng hai chục trượng, thì thấy trên tháp thấp thoáng bóng người qua lại, mỗi tầng tháp đều có người đi tuần, dưới chân tháp có tới hai ba chục người canh giữ.
Ba người thấy vậy thì vừa mừng vừa lo; bảo tháp được canh phòng nghiêm mật như thế, hẳn là các cao thủ của hai phái Thiếu Lâm, Võ Đang đang bị nhốt ở đây, đỡ tốn công đi do thám. Nhưng đối phương canh giữ nghiêm mật như thế, muốn cứu người quả không dễ dàng. Huống hồ các vị như Không Văn, Không Trí, Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Trương Tòng Khê, ai ai cũng võ công cao cường mà còn bị bắt giữ, thì chẳng cần nói cũng biết đối phương phải có rất nhiều cao thủ và thủ đoạn phải hết sức lợi hại. Trước khi tới chùa Vạn An, ba người đã xác định không được hành sự cẩu thả, bèn lặng lẽ rút lui.
Đột nhiên ở tầng thứ sáu của tòa bảo tháp có ánh lửa lấp loáng, tám chín người cầm đuốc thong thả đi xuống tầng thứ năm, rồi từ tầng thứ năm đi xuống tầng thứ tư, đến tầng trệt thì theo cửa chính của tòa bảo tháp mà ra phía sau chùa. Dương Tiêu vẫy vẫy tay, từ bên hông men lại gần. Phía sau chùa Vạn An toàn là các cây cổ thụ cao chọc trời. Ba người nấp sau gốc cây, cứ mỗi khi nghe tiếng gió thổi xao động lại chạy lên vài trượng. Ba người khinh công tuy cao siêu, nhưng cũng sợ bị người ta phát giác, nên phải lợi dụng tiếng gió lay, lá rụng mới dám di chuyển.
Cứ thế đi lên phía trước hơn hai chục trượng, thì đã thấy rõ hơn chục hoàng y hán tử tay lăm lăm binh khí, áp giải một ông già mặc trường bào, tay áo thụng. Ông già tình cờ ngoảnh lại, Trương Vô Kỵ nhìn rõ mặt, chính là chưởng môn phái Côn Luân Thiết Cầm tiên sinh Hà Thái Xung. Chàng không khỏi kinh hãi: “Ngay cả Hà Thái Xung cũng bị giam tại đây”.
Bọn người kia đi vào chùa Vạn An bằng cổng hậu. Ba người chờ một lúc, thấy bốn bề quả thực không có ai, mới theo cổng hậu lẻn vào. Ngôi chùa này rất nhiều phòng ốc, quy mô rộng lớn, giống như chùa Thiếu Lâm. Thấy bên trong cửa sổ một tòa đại điện đèn sáng trưng, có lẽ Hà Thái Xung bị giải vào đó. Ba người lẻn tới bên ngoài đại điện. Trương Vô Kỵ nằm dán mình sát đất, nhìn qua kẽ cửa. Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu canh chừng hai bên, đề phòng bị đánh trộm. Ba người tuy võ công cao cường, to gan lớn mật, nhưng lúc này lọt vào đầm rồng hang hổ, cũng không khỏi phập phồng lo ngại.
Khe cửa rất hẹp, Trương Vô Kỵ chỉ nhìn thấy nửa thân dưới của Hà Thái Xung, chứ không thể biết trong điện còn có những ai. Nghe tiếng Hà Thái Xung xẵng giọng nói:
– Ta trúng phải gian kế, đã sa vào tay bọn ngươi, muốn giết thì cứ việc giết. Còn muốn cưỡng bức ta làm ưng khuyển cho triều đình, thì nhất định không xong, dẫu có nói ba năm, năm năm cũng chỉ phí lời mà thôi.
Trương Vô Kỵ thầm gật đầu, nghĩ: “Hà tiên sinh tuy không phải là bậc chính nhân quân tử, nhưng trong lúc nguy nan vẫn vững lòng, không đánh mất khí phách của một vị chưởng môn”.
Giọng một hán tử lạnh lùng nói:
– Ngươi khăng khăng cố chấp, chủ nhân cũng không ép, thế quy củ ở đây, ngươi đã biết rồi chứ?
Hà Thái Xung nói:
– Dù cả mười ngón tay của ta bị chặt đứt, ta cũng không đầu hàng.
Người kia nói:
– Được, để ta nhắc lại một lượt. Nếu ngươi thắng được ba người chúng ta ở đây, bọn ta sẽ lắc đầu thả ngươi ra. Còn nếu ngươi thua, sẽ bị chặt mất một ngón tay, bị nhốt một tháng, rồi hỏi tiếp ngươi có chịu hàng hay không.
Hà Thái Xung đáp:
– Ta đã bị chặt mất hai ngón tay, có mất thêm một ngón nữa cũng chẳng sao. Đưa kiếm cho ta.
Người kia cười khẩy:
– Đợi đến lúc cả mười ngón tay của ngươi bị chặt đứt, lúc ấy mới đầu hàng, thì bọn ta cũng chả cần đến kẻ bỏ đi như ngươi nữa. Đưa kiếm cho y. Ma Ha Ba Tư, hãy đấu với y đi!
Một kẻ giọng ồm ồm đáp:
– Vâng.
Trương Vô Kỵ ngầm vận thần công vào đầu ngón tay, moi khe cửa rộng ra thêm một chút, thấy Hà Thái Xung cầm một thanh kiếm gỗ, mũi kiếm bọc vải, mềm và không sắc, không thể đả thương người khác. Còn trước mặt Hà Thái Xung là một phiên tăng cao to, tay cầm một thanh giới đao sáng loáng. Binh khí đôi bên kẻ sắc người cùn như vậy, khỏi cần tỷ thí cũng đã biết ngay ai mạnh ai yếu. Song Hà Thái Xung không sợ hãi chút nào, vung thanh kiếm gỗ, nói:
– Xin mời!
Rồi đâm tới một kiếm, khí thế rất lợi hại. Kiếm pháp của phái Côn Luân quả có chỗ độc đáo. Gã phiên tăng Ma Ha Ba Tư kia thân hình cao to, nhưng hành động rất nhanh nhẹn, vung giới đao nhằm vào toàn những nơi yếu hại của Hà Thái Xung mà đánh. Trương Vô Kỵ xem vài chiêu đã thầm kinh hãi: “Sao Hà tiên sinh cước bộ lại chông chênh, hơi thở hổn hển, dường như mất hết cả nội lực thế kia?”
Hà Thái Xung kiếm pháp tuy tinh diệu, nhưng nội lực đã mất, bây giờ hầu như không hơn gì người bình thường, thì làm sao có thể thi thố các chiêu thức lợi hại? May mà gã phiên tăng võ công kém ông ta đến hai bậc, nên mấy lần tấn công mãnh liệt đều bị Hà Thái Xung dùng kiếm thuật tinh diệu chiếm lấy tiên cơ. Đôi bên đấu hơn năm mươi chiêu, Hà Thái Xung quát:
– Trúng này!
Thanh kiếm gỗ từ đông đâm sang tây rồi ngoặt xéo lên, “bộp” một tiếng, đã đâm trúng vào nách gã phiên tăng. Nếu đó là một thanh kiếm sắt thông thường, hoặc Hà Thái Xung không bị mất nội lực, thì mũi kiếm đã ngập sâu vào da thịt rồi.
Chỉ nghe giọng nói lạnh lùng lúc nãy vang lên:
– Ma Ha Ba Tư lui ra, Ôn Ngọa Nhi lên thay!
Trương Vô Kỵ nhìn kẻ vừa nói, thấy mặt hắn ta như phủ một lớp khói đen, chòm râu bạc lưa thưa, chính là một trong Huyền Minh nhị lão. Lão ta khoanh tay đứng, mắt lim dim, tựa hồ chẳng bận tâm lắm về chuyện xảy ra trước mắt.
Chàng đưa mắt nhìn tiếp, thấy trên một cái đôn thấp phủ gấm có một đôi bàn chân đi hài lụa màu vàng, mũi hài có đính một hạt minh châu. Trương Vô Kỵ chợt rung động trong lòng, nhận ra hai bàn chân xinh xắn, mắt cá chân tròn tròn kia rất quen thuộc, chính là hai bàn chân của Triệu Mẫn mà chàng đã nắm được hôm ở Lục Liễu trang. Hôm gặp Triệu Mẫn trên núi Võ Đang, đôi bên là kẻ thù, nhưng lúc này nhìn thấy hai bàn chân nhỏ nhắn của nàng, không hiểu sao chàng tự dưng đỏ bừng cả mặt, tim đập thình thịch.
Chỉ thấy Triệu Mẫn khẽ đung đưa bàn chân bên phải, hình như nàng đang để hết tâm trí theo dõi trận đấu giữa Hà Thái Xung với Ôn Ngọa Nhi. Chừng uống xong một tách trà nóng, Hà Thái Xung lại quát một tiếng “Trúng này!” Triệu Mẫn giậm chân trên cái đôn, Ôn Ngọa Nhi cũng thua rồi. Lão già mặt đen thuộc Huyền Minh nhị lão nói:
– Ôn Ngọa Nhi lui, Hắc Lâm Bát Phu ra thay!
Trương Vô Kỵ nghe tiếng thở hổn hển của Hà Thái Xung, nghĩ chắc ông ta liên tiếp đấu với hai người nên tốn quá nhiều sức. Trong giây lát, một trận đấu ác liệt lại nổ ra, Hắc Lâm Bát Phu sử một cây thiền trượng bằng sắt vừa to vừa nặng, khi múa thì gió thổi ù ù trong điện, làm cho đèn nến trong điện phập phù lúc tỏ lúc mờ, bóng người cứ như mây bay thấp thoáng qua lại chỗ chân Triệu Mẫn. Chợt trong điện tối sầm, mấy ngọn nến hồng bị gió phát ra từ cây thiết trượng thổi tắt ngúm, nghe “rắc” một cái, thanh kiếm gỗ gãy làm đôi. Hà Thái Xung thở dài, vứt kiếm xuống đất, trận này thế là thua.
Huyền Minh lão nhân hỏi:
– Thiết Cầm tiên sinh, đã chịu đầu hàng hay chưa?
Hà Thái Xung ngang nhiên đáp:
– Ta không chịu hàng, cũng không phục. Nếu ta còn nội lực, thì gã phiên tăng kia đâu có địch nổi ta?
Huyền Minh lão nhân lạnh lùng nói:
– Chặt ngón vô danh bên trái của y, dẫn trở lại tháp.
Trương Vô Kỵ quay đầu lại, Dương Tiêu xua xua tay, ngụ ý: “Bây giờ mà xông vào cứu người, có thể làm hỏng đại sự”. Chỉ nghe bên trong điện có tiếng chặt ngón tay, rịt thuốc, cầm máu, buộc vết thương, còn Hà Thái Xung thì rất cứng cỏi, không hé răng rên một tiếng. Bọn áo vàng lại cầm đuốc giải Hà Thái Xung lại chỗ giam ở tòa tháp. Bọn Trương Vô Kỵ nép mình trong góc tường, dưới ánh đuốc thấy Hà Thái Xung mặt tái nhợt, nghiến răng bậm môi, hầm hầm tức giận.
*
* *
Bọn kia đi xa rồi, bỗng nghe một giọng thanh thoát yểu điệu ở trong điện:
– Lộc Trượng tiên sinh, kiếm pháp phái Côn Luân quả là cao siêu, y đâm trúng Ma Ha Ba Tư một chiêu, thoạt tiên y chém bên trái, rồi ngoặt chuyển sang bên phải…
Trương Vô Kỵ ghé mắt nhòm vào, thấy người nói chính là Triệu Mẫn. Nàng vừa nói vừa đi ra giữa điện, tay cầm một thanh kiếm gỗ, bắt chước kiếm pháp của Hà Thái Xung. Phiên tăng Ma Ha Ba Tư tay múa song đao, luyện chiêu với nàng.
Huyền Minh lão nhân mặt đen mà Triệu Mẫn gọi là Lộc Trượng tiên sinh, tức Lộc Trượng Khách, tán thưởng:
– Chủ nhân quá ư thông minh, chiêu đó sử không sai chút nào.
Triệu Mẫn luyện đi luyện lại chiêu đó, lần nào mũi kiếm của nàng cũng đâm trúng nách Ma Ha Ba Tư. Tuy là kiếm gỗ, nhưng bị đâm mấy lần, lần nào cũng trúng vào một chỗ, chắc là khá đau, nhưng Ma Ha Ba Tư không dám kêu đau hoặc tránh né, vẫn tập trung chú ý ra chiêu cho nàng luyện kiếm.
Nàng luyện thành thạo vài chiêu rồi, lại gọi Ôn Ngọa Nhi ra, tập lại chiêu mà Hà Thái Xung đã sử để đánh bại tên này. Trương Vô Kỵ bây giờ đã rõ, thì ra Triệu Mẫn bắt nhốt cao thủ các phái ở đây, cho họ uống một loại thuốc làm mất hết nội lực, buộc họ đầu hàng triều đình. Bọn họ tất nhiên không đầu hàng; Triệu Mẫn bèn sai thuộc hạ ra đấu với họ, nàng ngồi một bên quan sát, học lỏm chiêu số tinh diệu của các môn phái. Dụng ý nham hiểm, mưu mô tàn ác, khiến người ta phải kinh hãi.
Sau đó Triệu Mẫn lại cùng Hắc Lâm Bát Phu tập luyện, đến chiêu cuối cùng, nàng hơi chần chừ, hỏi:
– Lộc Trượng tiên sinh, có phải thế này không?
Lộc Trượng Khách ngẫm nghĩ, rồi quay sang hỏi:
– Hạc huynh đệ, đệ có nhìn rõ không?
Từ bên góc trái có tiếng đáp lời:
– Khổ đại sư thể nào cũng nhớ rõ.
Triệu Mẫn cười, nói:
– Khổ đại sư, phiền ra chỉ điểm cho ta một chút.
Chỉ thấy từ bên phải bước ra một đầu đà tóc xõa xuống vai, thân thể cao lớn, trên mặt có bảy, tám vết sẹo dài ngang dọc, khiến người ta khó lòng nhận ra bộ mặt thật của hắn. Tóc hắn màu hung, dĩ nhiên không phải người Trung thổ. Hắn không nói một lời, nhận lấy thanh kiếm gỗ từ tay Triệu Mẫn, đâm luôn mấy nhát về phía Hắc Lâm Bát Phu, chính là sử dụng kiếm pháp của phái Côn Luân.
Khổ đầu đà được gọi là “Khổ đại sư” kia mô phỏng kiếm chiêu của Hà Thái Xung, cũng không dùng chút nội lực nào, còn gã Hắc Lâm Bát Phu thì giở toàn lực ra đấu, lúc sau cùng gã vung thiết trượng tạt ngang, các ngọn nến lại bị gió thổi tắt ngúm. Ban nãy ở chiêu này Hà Thái Xung không tránh được, buộc phải giơ kiếm gỗ cản thiết trượng, bị gãy kiếm mà thua. Đằng này thanh kiếm gỗ trong tay Khổ đầu đà đổi phương vị, lách qua, y như một con nhạn sà xuống chạm mặt nước, né theo thiết trượng mà bay vút lên.
Ngón tay Hắc Lâm Bát Phu cầm thiết trượng bị kiếm róc trúng, huyệt đạo ở hổ khẩu tê dại, hắn buông rơi cây thiết trượng xuống nền điện, làm cho mấy mảnh gạch xanh văng tung tóe.
Hắc Lâm Bát Phu đỏ mặt, biết rằng kiếm gỗ mà thay bằng kiếm thật, thì tám ngón tay của hắn đã đứt lìa, bèn cúi mình nói:
– Bái phục, bái phục!
Hắn cúi nhặt thiết trượng lên. Khổ đầu đà hai tay đưa kiếm gỗ trả lại Triệu Mẫn. Triệu Mẫn cười, nói:
– Khổ đại sư, chiêu sau cùng tinh diệu tuyệt luân, cũng là kiếm pháp phái Côn Luân phải không?
Khổ đầu đà lắc đầu. Triệu Mẫn nói:
– Thảo nào Hà Thái Xung không biết. Khổ đại sư dạy cho ta đi!
Khổ đầu đà dùng tay không đấu với kiếm của Triệu Mẫn. Luyện tới lần thứ ba, Khổ đầu đà động tác nhanh như chớp, Triệu Mẫn theo không kịp, kiếm chiêu của nàng tuy chậm lại, song theo đúng cách thức. Khổ đầu đà xoay người qua, hai tay tống về phía trước, giữ tư thế bất động. Trương Vô Kỵ khen thầm: “Hay thật, quả là cao minh!”
Triệu Mẫn nhất thời vẫn chưa hiểu, nghiêng đầu nhìn tư thế của Khổ đầu đà nghĩ một lát rồi mới rõ, nói:
– Khổ đại sư, nếu trong tay đại sư có thiền trượng, thì đã đánh trúng vai ta phải không? Chiêu đó hóa giải cách nào?
Khổ đầu đà đưa tay làm tư thế cầm trượng, chân trái đá lên, đầu ngẩng cao, ra điều đã đoạt được thiền trượng của đối phương, đồng thời đá đối phương bay đi. Chiêu này tưởng vụng mà khéo, là công phu ngoại môn cực kỳ cương mãnh. Triệu Mẫn cười, nói:
– Hảo sư phụ, mau dạy cho ta đi nào!
Thần tình của nàng rất kiều mị. Trương Vô Kỵ tim đập mạnh, nghĩ thầm: “Nàng nội lực chưa đủ, làm sao học nổi chiêu này? Nhưng dáng dấp nũng nịu thế kia, ai mà từ chối nàng cho được?” Khổ đầu đà giơ tay làm hiệu hai lần, chính là ngụ ý bảo nàng chưa đủ nội lực, không thể học chiêu này, rồi quay mình đi, bỏ mặc nàng.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Khổ đầu đà võ công cao cường, xem chừng chẳng kém Huyền Minh nhị lão, không biết nội lực đến đâu, nhưng chiêu số thần diệu, quả là một kình địch. Lão chỉ ra hiệu, không nói năng, chẳng lẽ là câm? Tai lão thì chưa điếc. Triệu Mẫn đối với lão tỏ ra kính trọng, chắc lão là một nhân vật rất lớn”.
Triệu Mẫn thấy Khổ đầu đà không chịu dạy cho nàng nữa, thì mỉm cười, không hề tức giận, nói:
– Gọi Đường Văn Lượng của phái Không Động lên đây.
Lát sau Đường Văn Lượng bị áp giải tới điện. Lộc Trượng Khách lại sai ba người ra đấu. Đường Văn Lượng không chịu đấu nếu đối phương dùng binh khí, trong khi mình tay không. Đôi bên đấu chưởng, Đường Văn Lượng thắng được hai tên, đến trận thứ ba, Đường Văn Lượng không địch nổi nội lực cao hơn của đối phương, cũng bị chặt mất một ngón tay.
Lần này Triệu Mẫn luyện chiêu kiếm do Lộc Trượng Khách đứng bên chỉ điểm. Bây giờ Trương Vô Kỵ đã hiểu ngọn nguồn, Triệu Mẫn rõ ràng vì nội lực chưa đủ, biết phải luyện lâu mới thành, nên muốn học hết sở trường của các môn phái, để trở thành một đại cao thủ. Cách đó kể cũng có thể được, khi chiêu số luyện đến mức thật tinh diệu, thì có thể bù cho nội lực chưa đủ.
*
* *
Triệu Mẫn luyện xong chưởng pháp, nói:
– Đưa Diệt Tuyệt lão ni lên đây.
Một tên áo vàng bẩm:
– Diệt Tuyệt lão ni tuyệt thực đã năm ngày nay, hôm nay mụ ta lại cứng đầu lạ thường, không chịu tuân lệnh.
Triệu Mẫn cười, nói:
– Đã thế mặc cho mụ ta chết đói! À, gọi tiểu cô nương Chu Chỉ Nhược phái Nga Mi lên đây.
Bọn thuộc hạ vâng lệnh, quay mình ra khỏi điện.
Trương Vô Kỵ vẫn cảm kích tấm lòng Chu Chỉ Nhược năm xưa ân cần săn sóc cho chàng trên sông Hán Thủy. Trên đỉnh Quang Minh, Chu Chỉ Nhược lại chỉ điểm cho chàng phương vị Dịch số, nhờ thế chàng phá được sự liên thủ đao kiếm giữa hai phái Hoa Sơn và Côn Luân. Sau đó nàng đâm chàng một kiếm, song chẳng qua đó là do nghiêm lệnh của sư phụ, nên chàng không để bụng oán trách. Lúc này nghe Triệu Mẫn cho gọi Chu Chỉ Nhược lên, chàng không khỏi chấn động trong lòng.
Lát sau bọn áo vàng áp giải Chu Chỉ Nhược tới điện. Trương Vô Kỵ thấy nàng vẫn xinh đẹp như xưa, song có vẻ tiều tụy so với khi ở trên đỉnh Quang Minh; tuy bị kẻ địch bắt giữ, song vẻ mặt vẫn bình thản, tựa hồ không coi chuyện sống chết là gì cả. Lộc Trượng Khách theo lệ, hỏi nàng có chịu đầu hàng hay không, Chu Chỉ Nhược lắc đầu, không nói.
Lộc Trượng Khách đang định sai người ra đấu kiếm với nàng, thì Triệu Mẫn nói:
– Chu cô nương, cô nương còn trẻ thế mà đã là cao đệ của phái Nga Mi, thực đáng khen ngợi. Nghe nói cô nương là đệ tử đắc ý của Diệt Tuyệt sư thái, nắm vững tuyệt học kiếm chiêu của lão nhân gia, có phải vậy chăng?
Chu Chỉ Nhược đáp:
– Gia sư võ công bác đại tinh thâm, nói về tuyệt học kiếm chiêu của lão nhân gia, tiểu nữ ít tuổi, học vấn nông cạn, còn xa mới với tới được.
Triệu Mẫn cười, nói:
– Quy củ ở đây, ai thắng được ba người bọn ta, sẽ được thả đi yên lành, không ai gây khó dễ gì hết. Tôn sư sao lại quá cao ngạo, không chịu tỷ thí võ công với bọn ta là sao?
Chu Chỉ Nhược nói:
– Gia sư thà chết chứ không chịu nhục. Đường đường là chưởng môn phái Nga Mi, đời nào thèm sợ hãi cầu sống với bọn thuộc hạ các người? Cô nương nói không sai, gia sư quả thật coi khinh bọn tiểu nhân âm độc hèn hạ, nên không đời nào động thủ quá chiêu với chúng.
Triệu Mẫn không giận, cười nói:
– Còn Chu cô nương thì sao?
Chu Chỉ Nhược đáp:
– Tiểu nữ còn ít tuổi, làm sao có thể tự mình quyết định? Sư phụ bảo sao thì cứ theo thế mà làm thôi.
Triệu Mẫn nói:
– Tôn sư bảo cô nương cũng không thèm động thủ với bọn ta phải không? Vì cớ gì vậy?
Chu Chỉ Nhược đáp:
– Kiếm pháp của phái Nga Mi tuy không dám nói là tuyệt học gì cả, nhưng cũng là võ công của một đại danh môn chính phái ở Trung nguyên, không thể để cho bọn phiên bang Hồ Lỗ vô liêm sỉ học lỏm.
Nàng nói câu này với thần thái rất nhu mì, nhưng lời lẽ sắc bén, không nể nang gì hết.
Triệu Mẫn sững người, không ngờ dụng tâm của mình lại bị Diệt Tuyệt sư thái đoán biết, nghe Chu Chỉ Nhược nói nào là “bọn tiểu nhân âm độc”, nào là “bọn Hồ Lỗ vô liêm sỉ”, thì không thể nhịn được, soẹt một tiếng, kiếm Ỷ Thiên đã cầm trong tay, nói:
– Sư phụ ngươi chửi bọn ta là hạng vô liêm sỉ. Được, vậy ta hỏi ngươi, thanh kiếm Ỷ Thiên này rõ ràng là báu vật gia truyền của nhà bổn cô nương, tại sao phái Nga Mi lại lấy trộm?
Chu Chỉ Nhược thản nhiên đáp:
Kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long xưa nay là hai đại lợi khí của võ lâm Trung nguyên, chưa hề nghe nói liên quan gì tới nữ nhân phiên bang cả.
Triệu Mẫn đỏ mặt, tức giận nói:
– Hừ, xem ra miệng lưỡi ngươi đáo để lắm. Ngươi quyết ý không động thủ phải không?
Chu Chỉ Nhược lắc đầu. Triệu Mẫn nói:
– Kẻ khác tỷ thí mà thua, hoặc không chịu tỷ thí, thì ta chặt một ngón tay. Còn cô ả này tự cho mình là hoa nhường nguyệt thẹn, đã kiêu ngạo như thế, thì ta cũng không thèm chặt ngón tay ngươi.
Nói rồi chỉ tay về phía Khổ đầu đà, nói:
– Để ta làm cho giống vị đại sư phụ kia, rạch vài ba chục nhát kiếm trên mặt ngươi, xem có còn kiêu ngạo nữa không?
Triệu Mẫn phất tay một cái, hai tên áo vàng xông tới, mỗi tên giữ chặt một cánh tay của Chu Chỉ Nhược.
Triệu Mẫn mỉm cười, nói:
– Muốn rạch nát mặt ngươi, cho nó biến thành tổ ong, đâu cần đến kiếm pháp tinh diệu của phái Nga Mi. Ngươi tưởng vài miếng võ mèo quào của ta không đủ làm cho người xấu như ma được sao?
Chu Chỉ Nhược nước mắt lưng tròng, thân hình run rẩy, thấy mũi kiếm Ỷ Thiên chỉ còn cách mặt mình vài tấc, con ác ma kia chỉ cần nhấn tay một cái, thì trong nháy mắt mặt nàng sẽ chẳng khác gì lão đầu đà đáng sợ kia. Triệu Mẫn cười nói:
– Ngươi sợ chưa hả?
Chu Chỉ Nhược không còn dám ương ngạnh, gật gật đầu. Triệu Mẫn nói:
– Tốt! Vậy là ngươi chịu hàng rồi chứ?
Chu Chỉ Nhược nói:
– Ta không đầu hàng! Ngươi cứ việc giết ta đi!
Triệu Mẫn cười:
Ta trước nay chưa hề giết người. Ta chỉ rạch mặt ngươi thôi.
Hàn quang loáng lên, trường kiếm trong tay Triệu Mẫn rạch vào mặt Chu Chỉ Nhược, đột nhiên “keng” một tiếng, từ bên ngoài điện có một vật ném vào, đẩy kiếm Ỷ Thiện chệch sang một bên. Cùng lúc đó, cửa sổ vỡ tung, một người phi thân nhảy vào. Hai kẻ mặc áo vàng đang nắm cánh tay Chu Chỉ Nhược tự dưng bay văng đi. Người kia dùng tay trái đỡ ngang lưng Chu Chỉ Nhược, tay phải đối chưởng với Lộc Trượng Khách nghe bốp một tiếng, đôi bên đều lùi lại hai bước.
Mọi người nhìn kỹ, hóa ra chính là giáo chủ Minh giáo Trương Vô Kỵ.
Chàng xuất hiện y như tướng nhà trời giáng trần, bọn kia cả kinh, ngay cả hai cao thủ như Huyền Minh nhị lão cũng không phát giác được. Lộc Trượng Khách nghe tiếng song cửa bị vỡ, vội nhảy tới che cho Triệu Mẫn, đối chưởng với Trương Vô Kỵ, chân không đứng vững phải lùi hai bước, toan đề khí tiến lên, bỗng thấy toàn thân nóng ran như rơi vào trong lò lửa.
Chu Chỉ Nhược thấy đại họa lâm đầu, không ngờ lại có người ra tay cứu giúp. Nàng được Trương Vô Kỵ ôm lấy, áp vào bộ ngực rộng săn chắc, lại ngửi thấy mùi đàn ông đậm đà, vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, trong sát-na ấy cảm thấy nhẹ nhàng bửng lửng, tưởng như muốn lịm đi. Trương Vô Kỵ dùng Cửu dương thần công đối địch với Huyền Minh thần chưởng của Lộc Trượng Khách, chân khí toàn thân trào lên bừng bừng. Chu Chỉ Nhược trước nay chưa từng đụng chạm da thịt nam giới, huống chi đây lại là trang nam nhi mà nàng ngày đêm ao ước trong mộng. Trong lòng chỉ cảm thấy sung sướng vô bờ, dù kẻ địch tứ phía có xông tới chém xuống ngàn vạn nhát đao, nàng cũng chẳng sợ.
Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu thấy giáo chủ xông vào cứu người, lập tức cũng nhảy vào, đứng hai bên chàng. Đám thủ hạ của Triệu Mẫn thấy biến cố bất ngờ, thoạt tiên cũng hơi hoảng, nhưng rồi thấy bên địch chỉ có ba người, các võ sĩ canh gác trong ngoài điện nghe tiếng hô ứng, biết không còn ai khác nữa, bèn chia nhau trấn giữ mọi cửa nẻo, lẳng lặng chờ lệnh Triệu Mẫn.
Triệu Mẫn không tỏ ra sợ hãi, cũng không tức giận, chỉ ngẩn ngơ nhìn Trương Vô Kỵ hồi lâu, rồi đưa mắt nhìn hai mảnh vàng lấp lánh ở góc điện. Nguyên lúc nàng dùng kiếm Ỷ Thiên rạch mặt Chu Chỉ Nhược, vật mà Trương Vô Kỵ ném vào, đẩy chệch mũi kiếm đi, chính là cái hộp bằng vàng mà nàng đã tặng cho chàng. Kiếm Ỷ Thiên quá sắc bén, vừa đụng cái hộp bằng vàng, đã chặt nó đứt đôi.
Triệu Mẫn nhìn hai mảnh hộp một lát, nói:
– Công tử ghét cái hộp ấy đến mức cứ phải làm hỏng nó đi mới được hay sao?
Trương Vô Kỵ thấy ánh mắt nàng đầy vẻ u oán, hoàn toàn không có ý trách cứ tức tối, chỉ là đượm buồn, thì chàng cảm thấy ân hận, dịu dàng nói:
– Ta không mang ám khí, lúc vội vàng thò tay vào túi, chỉ có cái hộp đó thôi, thực không có ý coi nhẹ, mong cô nương đừng trách.
Ánh mắt Triệu Mẫn sáng lên, nàng hỏi:
– Công tử vẫn luôn mang theo bên người cái hộp kia ư?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Đúng thế.
Chàng thấy đôi mắt rất đẹp của Triệu Mẫn chăm chăm nhìn mình, còn mình tay trái vẫn ôm Chu Chỉ Nhược, thì hơi đỏ mặt, vội buông tay ra.
Triệu Mẫn thở dài, nói:
– Ta không biết Chu cô nương là… là hảo bằng hữu của công tử, nếu biết đã không đối xử với cô ta như vậy. Thì ra hai người…
Nói tới đây nàng quay mặt đi. Trương Vô Kỵ nói:
– Chu cô nương và ta… cũng chưa có gì… chỉ là… chỉ là…
Sau hai tiếng “chỉ là”, chàng không biết nói gì thêm. Triệu Mẫn lại đưa mắt nhìn hai mảnh cái hộp bằng vàng ở dưới đất, không nói gì, nhưng ánh mắt và thần sắc thì nói lên ngàn lời.
Chu Chỉ Nhược trong bụng lo ngại: “Con nữ ma đầu này hiển nhiên quá si mê chàng, chẳng lẽ…”
Trương Vô Kỵ bụng dạ đâu có tinh tế sâu xa như hai thiếu nữ, thần sắc của Triệu Mẫn chàng cũng lờ mờ hiểu được đôi phần, song không thể hiểu hết thâm ý bên trong. Chàng chỉ nghĩ rằng Triệu Mẫn tặng chàng cái hộp ấy để chữa cho Du Đại Nham và Ân Lê Đình khỏi tàn phế, nay chàng làm hỏng nó đi, xem ra không phải với người ta, thế là chàng bèn đi tới góc điện, cúi nhặt hai mảnh hộp lên, nói:
– Ta sẽ nhờ thợ giỏi ghép nó lại.
Triệu Mẫn mừng rỡ, nói:
– Thật vậy ư?
Trương Vô Kỵ gật đầu, nghĩ thầm, ta và nàng cùng thống lĩnh vô số anh hùng hào kiệt, sao lại quá coi trọng một cái hộp chẳng hệ trọng gì là sao? Cái hộp bằng vàng này tuy rất xinh xắn, nhưng chẳng phải là kỳ trân bảo vật, thuốc cao cất kín bên trong đã dùng hết, cái hộp chẳng còn dùng vào việc gì nữa, có hỏng cũng không đáng tiếc; có ghép lại được thì cũng là việc nhỏ; trước mắt còn bao nhiêu việc lớn phải làm, vậy mà nàng cứ hỏi đi hỏi lại chuyện cái hộp, đúng là bụng dạ đàn bà con gái chuyên để tâm các vật nhỏ mọn; chàng bèn bỏ luôn hai mảnh hộp vào trong bọc.
Triệu Mẫn nói:
– Thế thì công tử đi đi!
Trương Vô Kỵ nghĩ chưa cứu nhóm Tống sư bá, làm sao có thể bỏ đi; nhưng bên địch cao thủ đông như kiến, bên mình chỉ có ba người, nói chuyện cứu người, thật chẳng phải dễ. Bèn hỏi:
– Triệu cô nương, cô nương bắt giữ các vị sư bá sư thúc của ta là muốn gì?
Triệu Mẫn cười, đáp:
– Bổn cô nương vốn có thiện chí, muốn khuyên họ góp sức với triều đình, cùng hưởng vinh hoa phú quý. Nào ngờ họ cố chấp không nghe, bổn cô nương ép họ không được, đành để khuyên giải từ từ vậy.
Trương Vô Kỵ hừ một tiếng, đến bên cạnh Chu Chỉ Nhược. Ở giữa đám cao thủ bên địch vây quanh, mà chàng cúi xuống nhặt hai mảnh hộp vỡ, rồi điềm nhiên trở lại chỗ cũ, tưởng như ở chỗ không người. Chàng lạnh lùng nhìn quét cả đám một lượt, nói:
– Đã thế, bọn ta cáo từ!
Nói rồi cầm tay Chu Chỉ Nhược, xoay mình định bước ra.
Triệu Mẫn khó chịu, nói:
– Công tử muốn đi, bổn cô nương không giữ. Nhưng công tử muốn đem Chu cô nương đi theo, cũng chẳng buồn nói với bổn cô nương một tiếng, thì công tử coi bổn cô nương là hạng người nào đây?
Trương Vô Kỵ nói:
– Điều này tại hạ quả thật khiếm lễ. Triệu cô nương, xin hãy thả Chu cô nương để cô ấy đi theo tại hạ.
Triệu Mẫn không trả lời, đưa mắt cho Huyền Minh nhị lão.
Hạc Bút Ông tiến lên một bước, nói:
– Trương giáo chủ đến là đến, nói đi là đi, muốn cứu ai thì cứu, thế thì cánh già chúng tôi còn chút thể diện gì nữa? Trương giáo chủ không lưu lại một tuyệt kỹ, thì huynh đệ lão phu không thể tâm phục.
Trương Vô Kỵ nhận ra giọng nói của Hạc Bút Ông, thì lửa giận bừng bừng, quát:
– Năm xưa ta còn nhỏ, bị ngươi bắt đi, tính mệnh tưởng chẳng còn. Hôm nay ngươi còn dám vác mặt lên gây chuyện với ta nữa sao? Tiếp chiêu!
“Vù” một tiếng, chàng đã giáng cho Hạc Bút Ông một chưởng.
Lộc Trượng Khách vừa nãy bị chàng cho nếm mùi đau khổ, biết rằng một mình Hạc Bút Ông không địch nổi chàng, bèn tiến tới đánh ra một chưởng. Trương Vô Kỵ tay phải còn bận đánh Hạc Bút Ông, bèn luồn tay trái dưới tay phải mà đánh trả Lộc Trượng Khách một chưởng. Đây là chân lực đấu với chân lực, không có chuyện khôn khéo né tránh gì hết. Ba người bốn chưởng đụng nhau, cả ba cùng loạng choạng.
Hôm nào trên núi Võ Đang, Huyền Minh nhị lão từng dùng song chưởng đối chưởng với Trương Vô Kỵ, còn hai tay kia thì đánh ngay vào người chàng; lần này họ cũng giở ngón cũ, lại đánh thêm hai chưởng ra. Trương Vô Kỵ đã dính đòn một lần, lẽ nào đi theo vết xe cũ? Cùi chỏ hơi trầm xuống, chàng thi triển tâm pháp “Càn khôn đại na di”, nghe bốp một tiếng lớn, tả chưởng của Hạc Bút Ông đã đụng vào hữu chưởng của Lộc Trượng Khách.
Hai lão này võ công cùng học một thầy, chưởng pháp tương đồng, công lực ngang nhau, lập tức cùng cảm thấy hai cánh tay bị chấn động đến tê dại; còn việc tại sao mà hai huynh đệ lại giáng đòn vào nhau, thì tuy võ công cao siêu, họ vẫn không tài nào hiểu nguyên do bí ẩn. Hai lão còn đang kinh hãi và tức tối, thì song chưởng của Trương Vô Kỵ lại đánh tới. Huyền Minh nhị lão mỗi người đánh ra hai chưởng, một thủ một công, chưởng pháp đã khác hẳn ban nãy, nhưng bị Trương Vô Kỵ một dẫn một kéo, tả chưởng của Lộc Trượng Khách lại đánh trúng hữu chưởng của Hạc Bút Ông. Thủ pháp “Càn khôn đại na di” thật khéo léo, được tính toán chuẩn xác tới mức không ai ngờ nổi.
Huyền Minh nhị lão kinh hãi thất sắc, thấy Trương Vô Kỵ tung chưởng ra lần thứ ba, không hẹn nhưng lần này hai lão cùng đưa đơn chưởng ra chống đỡ. Chân lực ba người đụng nhau, Huyền Minh nhị lão chỉ cảm thấy chưởng lực của đối phương có một luồng khí thuần dương cuồn cuộn tràn tới, khó mà đỡ nổi. Trương Vô Kỵ phóng chưởng như gió, nhớ đến năm xưa còn nhỏ bị Hạc Bút Ông đánh cho một “Huyền Minh thần chưởng”, khiến chàng khổ sở cùng cực trong mấy năm liền, cho nên chưởng lực giáng vào Lộc Trượng Khách còn nhẹ tay, còn đối với Hạc Bút Ông thì chẳng nể nang chút nào.
Hơn hai mươi chưởng đánh ra, bộ mặt xanh của Hạc Bút Ông biến thành đỏ rực, lão ta lại thấy đối phương đánh tới, bèn nhứ tay trái để hóa giải, còn tay phải thì đánh chéo ra thật mạnh. Chỉ nghe hai tiếng “bốp bốp”, hữu chưởng của Hạc Bút Ông đã giáng trúng vai Lộc Trượng Khách, còn chưởng của Trương Vô Kỵ thì lão ta không hóa giải được, đã đánh trúng vào ngực lão. Trương Vô Kỵ chưa tính lấy mạng lão, chưởng này mới dùng ba thành chân lực. Hạc Bút Ông lảo đảo, ọe một cái, hộc ra một ngụm máu tươi, mặt từ màu đỏ chuyển sang màu tím. Nếu Trương Vô Kỵ thừa thế giáng thêm một chưởng, thì lão ta sẽ chết ngay tại chỗ. Lộc Trượng Khách thì vai bị trúng đòn, đau tái cả mặt, cắn môi đến bật máu.
Huyền Minh nhị lão là hai thuộc hạ võ công cao cường nhất của Triệu Mẫn, ai ngờ chưa tới ba mươi chiêu cả hai lão đều bị thương. Đám thuộc hạ còn lại của Triệu Mẫn dĩ nhiên cả kinh thất sắc; ngay cả Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu cũng quá đỗi kinh ngạc. Hai người từng chính mắt thấy Huyền Minh nhị lão ra tay trên núi Võ Đang, khiến Trương Vô Kỵ trúng chưởng bị thương, ai ngờ chỉ sau vài tháng, võ công của chàng lại tiến triển nhanh đến thế. Nhưng rồi hai người cũng nghĩ ngay, trong mấy tháng ở trên núi Võ Đang, Trương Vô Kỵ một mặt trị thương cho Du Đại Nham và Ân Lê Đình, một mặt thỉnh giáo Trương Tam Phong những điều tinh vi huyền diệu trong võ học, thành thử “Cửu dương thần công”, “Càn khôn đại na di” cuối cùng dung hợp thành một với Thái cực quyền và Thái cực kiếm của phái Võ Đang. Hai người càng nghĩ càng khâm phục Trương Tam Phong quả là bậc võ học kỳ tài, đúng với bốn chữ “uyên thâm khôn lường”.
Huyền Minh nhị lão đấu chưởng thất bại, cùng hú lên một tiếng, rút binh khí ra. Chỉ thấy Lộc Trượng Khách cầm một cây đoản trượng đen nhánh, đầu gậy phân nhánh như cái sừng hươu, không biết được đúc bằng chất liệu gì; còn Hạc Bút Ông tay cầm song bút, đầu bút nhọn như mỏ chim hạc, sáng loáng như gương. Hai người này đi theo Triệu Mẫn đã lâu, vậy mà nàng chưa thấy họ sử dụng binh khí lần nào cả. Ba món binh khí đó đánh ra, chỉ thấy một luồng hắc khí, hai luồng bạch quang quấn quanh Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ không mang binh khí, tay không quả có bất lợi, song chàng chẳng hề sợ hãi, muốn thử xem võ công của mình liệu có thể tay không đấu với hai đại cao thủ dùng binh khí vây đánh được chăng.
Huyền Minh nhị lão tự cho mình nội lực thâm hậu, “Huyền Minh thần chưởng” là tuyệt học trong thiên hạ, nên vừa lâm trận liền cùng chàng đối chưởng, nào ngờ không loại nội công nào sánh kịp “Cửu dương thần công”, sau vài chục chưởng hai lão đã thua. Binh khí của hai lão thì dựa vào chiêu số kỳ bí để thủ thắng, ngoại hiệu của hai lão chính là do tên gọi binh khí mà họ sử dụng tạo nên, đoản trượng sừng hươu và song bút mỏ hạc, chiêu nào chiêu nấy lợi hại hiếm thấy trên đời. Trương Vô Kỵ tập trung tinh thần, len lách giữa khoảng trống sơ hở của ba món binh khí, công thủ dễ dàng, nhưng nhất thời chưa tìm ra lối đánh của đối phương, nên cũng không dễ gì thủ thắng. Cũng may là Hạc Bút Ông đã bị thương, nên ra chiêu có phần chậm chạp.
Triệu Mẫn vỗ tay ba cái, binh khí loang loáng trong đại điện, ba tên tấn công Dương Tiêu, bốn tên vây đánh Vi Nhất Tiếu, còn hai tên khác cầm binh khí khống chế Chu Chỉ Nhược. Dương Tiêu lập tức cướp được một thanh kiếm, múa nhanh như chớp, thoáng chốc đã đâm trúng một tên. Vi Nhất Tiếu sử khinh công tuyệt đỉnh, “Hàn băng miên chưởng” đánh gục hai tên. Nhưng bên địch quá đông, đánh ngã một tên thì có hai tên tức thời thay thế.
Trương Vô Kỵ bị Huyền Minh nhị lão vây đánh, không thể phân thân cứu viện. Chàng và Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu muốn thoát thân cũng không khó, nhưng muốn cứu Chu Chỉ Nhược thì quả thật không làm nổi. Tình thế đang gấp gáp, bỗng nghe Triệu Mẫn nói:
– Tất cả dừng tay!
Nàng nói không to, nhưng tất cả mọi người đều tuân theo, tức thời lùi ra.
Dương Tiêu ném thanh kiếm xuống đất. Vi Nhất Tiếu vừa đoạt được một thanh đơn đao, liền thuận tay ném trả nguyên chủ, cười lên ha hả. Trương Vô Kỵ thấy một tên cầm dao nhọn gí sau lưng Chu Chỉ Nhược, thì không khỏi lộ vẻ lo sợ.
Chu Chỉ Nhược buồn rầu nói:
– Trương công tử, xin ba vị cứ tự nhiên. Tâm ý của ba vị, tiểu nữ vô cùng cảm kích.
Triệu Mẫn cười, nói:
– Trương công tử, cô nàng hoa nhường nguyệt thẹn này, đến bổn cô nương còn thấy thích. Cô nàng có phải là ý trung nhân của công tử hay không?
Trương Vô Kỵ đỏ mặt, nói:
– Chu cô nương và ta biết nhau từ nhỏ. Hồi bé ta trúng phải Huyền Minh thần chưởng của vị này… Chàng chỉ Hạc Bút Ông, nói tiếp:
– Khí âm độc xâm nhập cơ thể, toàn thân khó bề cử động, may nhờ Chu cô nương săn sóc, cho ăn cho uống, ân đức ấy ta không dám quên.
Triệu Mẫn nói:
– Như thế là hai người có cái tình thanh mai trúc mã. Công tử định lấy nàng làm giáo chủ phu nhân chứ gì?
Trương Vô Kỵ lại đỏ mặt, đáp:
– Hung Nô chưa diệt, nói gì đến chuyện gia thất!
Triệu Mẫn sầm mặt, nói:
– Công tử nhất định cứ phải chống bổn cô nương tới cùng, không diệt bổn cô nương thì không xong ư?
Trương Vô Kỵ lắc đầu, nói:
– Đến nay ta vẫn chưa hề biết lai lịch của cô nương, tuy có vài lần tranh chấp nhưng lần nào cũng là do cô nương tìm đến gây sự với Trương Vô Kỵ, đâu phải là ta tìm cô nương sinh sự. Chỉ cần cô nương thả các vị sư bá sư thúc của ta cùng nhân sĩ các môn phái võ lâm, thì ta vô cùng cảm kích, không dám có ý đối địch với cô nương. Huống hồ cô nương còn có thể sai ta làm ba việc, ta sẽ tận tâm tận lực mà làm, quyết không quấy quá cho xong.
Triệu Mẫn nghe chàng nói rất thành thực, thì lộ vẻ mặt vui mừng, như bông hoa tươi hé nở, mỉm cười:
– Thì ra công tử vẫn chưa quên.
Nàng quay sang liếc Chu Chỉ Nhược một cái, nói với Trương Vô Kỵ:
– Cô nương này đã không phải là ý trung nhân của công tử, cũng chẳng phải sư huynh sư muội, vị hôn thê gì cả, thì bổn cô nương dẫu có hủy dung mạo cô ta, cũng đâu có dính dáng gì tới công tử…
Nàng đưa mắt một cái, Lộc Trượng Khách và Hạc Bút Ông lập tức cầm binh khí đứng chắn ngay trước mặt Chu Chỉ Nhược, một hán tử khác kề con dao sắc vào bên má nàng, Trương Vô Kỵ dù muốn xông tới cứu người, cái cửa ải Huyền Minh nhị lão dễ gì qua nổi. Triệu Mẫn lạnh lùng nói:
– Trương công tử, công tử có chịu nói thực hay không thì bảo?
Vi Nhất Tiếu đột nhiên ngửa bàn tay ra, nhổ mấy bãi nước miếng vào lòng bàn tay, xoa xoa mấy cái vào gót giày, cười ha hả, mọi người chưa hiểu lão giở trò quỷ gì, bỗng thấy cái bóng xanh loáng một cái, Triệu Mẫn chợt cảm thấy hai bên má của mình như bị ai đó chạm vào, nhìn lại Vi Nhất Tiếu, thì thấy lão đã trở về chỗ cũ, hai tay cầm hai thanh đoản đao, chẳng hiểu vừa đoạt được của ai. Triệu Mẫn chợt động tâm, biết là có chuyện không hay, vội lấy khăn lên lau má, quả nhiên khăn có vệt bùn đất, đúng là nước bọt mà Vi Nhất Tiếu nhổ ra, xoa gót giày rồi quệt lên má nàng, nghĩ mà lợm giọng quá chừng.
Vi Nhất Tiếu cười nói:
– Triệu cô nương, cô nương muốn hủy dung mạo của Chu cô nương, việc đó tùy ý cô nương. Nhưng cô nương lòng dạ hiểm độc như thế Vi mỗ chẳng thể bỏ qua cho cô nương. Hôm nay nếu cô nương rạch một đường trên mặt Chu cô nương, Vi mỗ sẽ trả lại gấp đôi, rạch mặt cô nương hai nhát. Cô nương rạch hai đường, Vi mỗ ta rạch lại bốn nhát; cô nương chặt một ngón tay, Vi mỗ chặt của cô nương hai ngón.
Lão nói tới đây, cầm hai thanh đoản đao gõ vào nhau keng một tiếng, nói tiếp:
– Vi mỗ ta nói sao làm vậy, bình sinh chưa một lần nói ngoa. Cô nương có thể đề phòng Vi mỗ sáu tháng một năm, làm sao có thể đề phòng tám năm, mười năm. Muốn sai người giết ta ư, chắc gì đuổi kịp ta. Cáo từ!
Chữ “từ” vừa dứt, bóng lão đã biến đi, chỉ nghe hai tiếng phập phập, hai thanh đoản đao đã cắm vào cây cột, tiếp đến hai tiếng “Ối chao!” hai gã phiên tăng chẳng hiểu sao đã bị Vi Nhất Tiếu đoạt mất trường kiếm và điểm trúng huyệt đạo trên người.
Mấy câu vừa rồi Vi Nhất Tiếu nói ra rất thản nhiên, song ai cũng biết lão không hề dọa suông. Họ thấy đôi má có nước da trắng hồng của Triệu Mẫn bị Vi Nhất Tiếu bôi mấy vết bẩn. Giả dụ trong tay Vi Nhất Tiếu là một con dao, thì dung mạo của nàng đã bị hủy hoại rồi. Thân pháp của lão ta nhanh như chớp, quỷ mị đến thế, dẫu là đại cao thủ như Trương Vô Kỵ cũng chẳng đề phòng nổi. Nếu chạy đường dài, Trương Vô Kỵ còn có thể dựa vào nội lực thủ thắng, chứ còn ở trong một gian nhà mà tiến thoái nhanh như thế, chắc thiên hạ chỉ có một mình lão ta mà thôi.
Trương Vô Kỵ cúi chào, nói:
– Triệu cô nương, hôm nay đắc tội rồi, xin cáo từ.
Nói xong dắt tay Dương Tiêu, quay mình ra khỏi đại điện, biết rằng Triệu Mẫn bị Vi Nhất Tiếu dọa cho như thế, sẽ không dám hành hạ Chu Chỉ Nhược.
Triệu Mẫn nhìn theo hai người, vừa xấu hổ vừa tức giận, nhưng không dám hạ lệnh ngăn chặn.
Trương Vô Kỵ cùng Dương Tiêu về tới khách điếm, Vi Nhất Tiếu đã ngồi chờ sẵn. Trương Vô Kỵ cười nói:
– Vi Bức Vương tối nay làm cho bọn chúng kiêng dè, biết rằng Minh giáo không phải tầm thường.
Vi Nhất Tiếu cười, nói:
– Dọa một tiểu cô nương thì có gì là khó. Cô nàng sắm vai hung thần ác sát, nhưng nghe lão phu bảo sẽ hủy hoại dung mạo, bảo đảm ba ngày ba đêm cô nàng lo mất ngủ cho mà xem.
Dương Tiêu cũng cười, nói:
– Cô nàng không ngủ thì hỏng, chúng ta càng khó cứu người.
Trương Vô Kỵ nói:
– Dương tả sứ, nói đến chuyện cứu người, tả sứ có diệu kế gì chăng?
Dương Tiêu lưỡng lự, đáp:
– Bên mình chỉ có ba người, hình tích lại bại lộ, việc này đến phải bó tay.
Trương Vô Kỵ ngượng ngùng nói:
– Bản nhân thấy Chu cô nương bị nguy, không trấn tĩnh được, nhảy vào, làm lỡ cả đại sự.
Dương Tiêu nói:
– Đã đến nước đó, ai cũng không nhịn nổi. Giáo chủ một mình đánh bại Huyền Minh nhị lão, làm mất hết uy phong của địch, cũng là hay lắm. Huống chi bọn địch biết chúng ta đã tới đây, sẽ không dám vô lễ làm càn với nhóm Tống đại hiệp.
Trương Vô Kỵ nghĩ đến bọn Tống đại bá, Du nhị bá đang nằm trong tay địch, Triệu Mẫn đối với bọn Hà Thái Xung, Đường Văn Lượng làm nhục như thế, thì trong lòng vô cùng lo lắng. Ba người bàn bạc hồi lâu, chưa tìm ra cách gì, đành chia tay đi ngủ.
*
* *
Sáng sớm hôm sau, Trương Vô Kỵ còn đang ngủ, nghe ngoài song có tiếng động nhẹ, lập tức tỉnh giấc, vừa mở mắt thì thấy cánh cửa từ từ mở ra, có kẻ thò đầu vào chăm chú nhìn chàng. Chàng kinh ngạc, vén màn coi, thấy bộ mặt kia chằng chịt vết sẹo, chính là gã Khổ đầu đà. Chàng càng kinh ngạc hơn, từ trên giường nhảy xuống, chỉ thấy Khổ đầu đà cứ ngẩn ngơ nhìn chàng, xem chừng không có ý làm hại. Chàng gọi to:
– Dương tả sứ! Vi Bức Vương!
Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu ở hai phòng bên lên tiếng trả lời. Chàng cảm thấy yên tâm, bộ mặt của Khổ đầu đà đã biến mất bên ngoài cửa sổ. Chàng vội nhảy ra, thấy Khổ đầu đà đang vội vã đi ra cổng khách điếm. Lúc này Dương, Vi hai người cũng đã ra, thấy bên ngoài không có kẻ địch nào khác, bèn cùng đuổi theo Khổ đầu đà. Khổ đầu đà đợi ở góc đường, thấy ba người đi tới, bèn rảo bước về hướng bắc. Ba người ra hiệu cho nhau, bám theo đằng sau.
Lúc này trời mới sáng, trên đường ít người qua lại, chẳng mấy chốc họ ra khỏi cửa bắc. Khổ đầu đà đi tiếp, rẽ sang một con đường nhỏ, lại đi bảy, tám dặm nữa, đến một cái gò lổn nhổn đá, mới dừng chân, ngoảnh lại, vẫy tay làm hiệu bảo Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu tách ra một bên, rồi ôm quyền hành lễ với Trương Vô Kỵ.
Trương Vô Kỵ đáp lễ, nghĩ thầm: “Gã đầu đà này dẫn bọn ta tới đây, không biết có dụng ý gì? Quanh đây không có ai, nếu muốn động thủ, y một địch ba, hoàn toàn bất lợi cho y. Xem cung cách của y, dường như không có ý đối địch”.
Chàng đang suy tính, Khổ đầu đà đã gầm gừ, song trảo vồ tới. Y tay trái dùng hổ trảo, tay phải dùng long trảo, mười ngón tay thành mười cái móc câu, thế công cực kỳ hung dữ.
Trương Vô Kỵ vung tay trái hóa giải chiêu đó, nói:
– Thượng nhân muốn gì? Xin hãy thể hiện tôn ý trước, sau đó động thủ cũng chưa muộn.
Khổ đầu đà tựa hồ không nghe thấy lời chàng, tay trái của y từ hổ trảo biến thành ưng trảo, tay phải từ long trảo biến thành hổ trảo, một tay đánh vào vai trái, tay kia đánh vào sườn phải, ra đòn hiểm độc. Trương Vô Kỵ nói:
– Không lẽ cứ phải đánh nhau mới được hay sao?
Khổ đầu đà lại biến đổi chiêu thức, ưng trảo biến thành sư chưởng[107], hổ trảo biến thành hạc chủy[108], bên vỗ bên mổ, trong ba chiêu, hai tay đã biến sáu thức tư thế.
Trương Vô Kỵ không dám xem thường, bèn thi triển “Thái cực quyền pháp”, thân hình cứ như nước chảy mây trôi, tỷ thí với Khổ đầu đà trên gò đá ngổn ngang. Chỉ thấy Khổ đầu đà chiêu số rất phức tạp, khi thì y sử dụng võ công hoàn toàn quang minh chính đại, đột nhiên lại sử dụng võ công tà phái quái dị, rõ ràng là chính tà kiêm tu, uyên bác vô cùng. Trương Vô Kỵ thi triển “Thái cực quyền” đối phó, đến bảy, tám chục chiêu, thì Khổ đầu đà đánh thẳng một quyền vào trung cung; Trương Vô Kỵ dùng chiêu “Như phong tự bế” vây chặt lấy quyền lực của y, tiếp đến chiêu “Đơn tiên”, tay trái đánh vào lưng y, song chưởng này không dùng nội lực, chỉ đụng tới liền thu về.
Khổ đầu đà biết chàng nương tay, bèn nhảy về phía sau, nghiêng đầu nhìn chàng một lát, đột nhiên giơ tay ra hiệu cho Dương Tiêu, muốn mượn thanh kiếm đang đeo. Dương Tiêu cởi dây, ném cả bao kiếm cho y. Trương Vô Kỵ hơi ngạc nhiên, tự hỏi: “Tại sao Dương tả sứ lại cho kẻ địch mượn binh khí?”
Khổ đầu đà rút kiếm khỏi bao, ra hiệu cho Trương Vô Kỵ hãy mượn kiếm của Vi Nhất Tiếu. Trương Vô Kỵ lắc đầu, chỉ nhận cái bao kiếm trên tay y, sử chiêu “Thỉnh thủ”, dùng bao kiếm làm kiếm, tay trái trình kiếm quyết, bao kiếm đặt ngang trước mặt. Khổ đầu đà đâm chéo tới một nhát. Trương Vô Kỵ đã thấy y dạy kiếm cho Triệu Mẫn, biết y kiếm thuật cực kỳ cao minh, bèn sử dụng môn võ công mà chàng nghiền ngẫm mấy tháng qua trên đỉnh núi Võ Đang, là môn Thái cực kiếm, tập trung tinh thần tiếp chiến. Chỉ thấy kiếm chiêu của đối thủ chợt nhanh chợt chậm, chỗ nào cũng chứa đựng ngón đòn lợi hại, Trương Vô Kỵ vừa ra chiêu hóa giải là y lập tức thu hồi, biến sang chiêu khác, tựa hồ không sử chiêu nào đến cùng cả.
Trương Vô Kỵ khen thầm: “Nếu sáu tháng trước ta gặp người này, thì về kiếm pháp, ta không phải là đối thủ của y. So với Bát tí thần kiếm Phương Đông Bạch, gã Khổ đầu đà còn cao hơn một bậc”.
Chàng nổi lòng quý trọng tài nghệ, không muốn thắng y bằng chiêu số. Thấy trường kiếm của Khổ đầu đà múa tít, sử thế “Loạn phi phong”, lưỡi kiếm dưới ánh nắng cứ như hàng vạn con kim xà đang lồng lộn; chàng bèn nhắm kỹ, xoay ngược cái bao kiếm, nghe xoẹt một tiếng, lưỡi kiếm của đối phương đã chui tọt vào trong bao kiếm, hai tay chàng xoay một vòng, nhẹ nhàng nắm hai cổ tay của Khổ đầu đà, mỉm cười nhảy lùi về sau. Vừa rồi tay chàng chỉ cần hơi dùng sức, thì đã đoạt được trường kiếm. Chiêu đoạt kiếm này cực hiểm, song cũng khéo léo vô cùng.
Chàng nhảy ra sau, chân chưa chấm đất, Khổ đầu đà đã vứt kiếm, đánh ngay một chưởng. Trương Vô Kỵ nghe tiếng gió, biết chưởng này chân lực sung mãn, mạnh mẽ vô cùng, chàng có ý muốn biết đối thủ có nội lực tới mức nào, bèn xoay hữu chưởng lại tiếp chưởng đánh tới của y, chân trái chàng lúc ấy mới chạm đất. Trong giây lát, chân lực của Khổ đầu đà tuôn ra ào ào. Trương Vô Kỵ vận công phu “Càn khôn đại na di” cấp thứ bảy, đem chân lực của y tích dần lại, rồi đột nhiên quát to một tiếng, hất ngược trở lại, không khác gì hồ nước quá đầy bất ngờ vỡ đập chắn, nước cuồn cuộn băng băng tràn đi, đem bao nhiêu chưởng lực Khổ đầu đà đánh tới trả lại tất cả.
Chiêu này đem lực của hơn mười chưởng đối phương tụ lại thành một chưởng mà trả lại, trên đời nào ai có được lực mạnh đến thế? Nếu Khổ đầu đà bị trúng chưởng này, thì xương cổ tay, xương cánh tay, xương vai, xương sườn sẽ tức thời gãy hết, đến máu cũng không ọc ra được, sẽ biến thành một khối máu thịt bầy nhầy, chết thảm tận cùng.
Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu thấy tình thế đó cùng kêu lên kinh hãi. Họ tưởng rằng Khổ đầu đà và giáo chủ tỷ thí nội lực với nhau, ít ra cũng phải bằng thời gian uống xong một chén trà nóng mới phân cao thấp, không ngờ chỉ trong giây lát đã tới thời khắc sinh tử. Hai người trong bụng tuy có điều muốn nói, song chưa kịp nói ra, đến khi thấy Khổ đầu đà rớt xuống bình an, lòng bàn tay họ đều toát mồ hôi lạnh.
Khổ đầu đà hai chân vừa chạm đất, thì đặt hai tay lên ngực thành hình ngọn lửa đang bốc cháy, cúi mình chào Trương Vô Kỵ, nói:
– Tiểu nhân Quang Minh hữu sứ Phạm Dao, tham kiến giáo chủ. Kính tạ ân đức không giết. Tiểu nhân vô lễ mạo phạm, xin được tha tội.
Phạm Dao mười mấy năm qua đóng vai câm, không mở miệng, bây giờ nói lại nghe rất ngọng nghịu.
Trương Vô Kỵ nửa kinh ngạc, nửa vui mừng. Gã câm Khổ đầu đà này không chỉ biết nói, mà còn là Quang Minh hữu sứ của bản giáo, chuyện này thật không sao ngờ nổi. Chàng vội giơ tay đỡ y dậy, nói:
– Thì ra là Phạm hữu sứ của bản giáo, thật mừng quá, người một nhà khỏi cần đa lễ.
Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu khi đi theo đến cái gò này đã đoán ra ba phần, chỉ hiềm diện mạo của Phạm Dao thay đổi quá nhiều, chưa tiện hỏi han. Đến khi Phạm Dao thi triển võ công, họ đoán biết bảy, tám phần; lúc này nghe y xưng danh, hai người bèn ùa tới, nắm chặt tay y. Dương Tiêu chăm chú nhìn mặt Phạm Dao một hồi, chảy nước mắt, nói:
– Phạm hiền đệ, huynh đâu ngờ hiền đệ đến nông nỗi này.
Phạm Dao ôm ngang người Dương Tiêu, nói:
– Đại ca, đa tạ đức Minh Tôn phù hộ, ban cho chúng ta một vị giáo chủ tài ba, huynh đệ mình mới có dịp trùng phùng hôm nay.
Dương Tiêu hỏi:
– Hiền đệ sao lại biến ra thế này?
Phạm Dao đáp:
– Tiểu đệ không tự hủy diện mạo, thì làm sao có thể lừa nổi tên gian tặc Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn?
Ba người nghe vậy, mới biết Phạm Dao cố ý hủy hoại diện mạo để trà trộn vào phe địch nhân. Dương Tiêu càng thêm thương cảm, nói:
– Hiền đệ, làm thế thật khổ cho hiền đệ.
Dương Tiêu và Phạm Dao hồi xưa được giới giang hồ gọi là “Tiêu Dao nhị tiên”, là hai chàng trai vô cùng anh tuấn. Vậy mà Phạm Dao lại tự hủy hoại diện mạo tới mức ấy, hẳn phải đau lòng quyết chí tới mức nào, người thường khó có ai làm nổi. Vi Nhất Tiếu vốn không mấy hòa thuận với Phạm Dao, bây giờ trong lòng hết sức cảm động, chắp tay lạy, nói:
– Phạm hữu sứ, Vi Nhất Tiếu này đến hôm nay đã thật sự kính phục Phạm hữu sứ.
Phạm Dao quỳ xuống đáp lễ, nói:
– Vi Bức Vương khinh công độc bộ thiên hạ, thần diệu còn hơn cả hồi trước, Khổ đầu đà tối qua quả thật được sáng mắt ra.
Dương Tiêu nhìn bốn phía, nói:
– Nơi này cách kinh thành không xa, tai mắt kẻ địch rất nhiều, chúng ta tới vùng núi phía trước trò chuyện.
Bốn người chạy hơn mười dặm, tới sau một quả đồi, từ đây nhìn quanh vài dặm, không sợ có người ẩn ở đâu đó nghe trộm hoặc nhìn thấy. Bốn người ngồi xuống, kể lại đầu đuôi sự tình.
*
* *
Năm xưa, lúc Dương Đính Thiên đột nhiên mất tích, các cao thủ trong Minh giáo tranh chấp ngôi giáo chủ, không ai chịu ai, thành thế chia năm xẻ bảy. Phạm Dao thì cho rằng giáo chủ hoàn toàn chưa chết, nên một mình lê bước giang hồ, đi tìm tung tích Dương Đính Thiên. Mấy năm liền không tìm được chút dấu vết gì, lại nghĩ hay là giáo chủ bị bọn Cái Bang hãm hại; bèn bắt cóc một vài nhân vật trọng yếu của Cái Bang để khảo tra, cũng không tìm ra manh mối nào, mà giết chết không ít bang chúng Cái Bang vô tội. Sau đó nghe tin người trong Minh giáo phân tranh ngày càng ác liệt, có người chính đang tìm Phạm Dao, muốn y đứng ra hiệu triệu. Phạm Dao tuyệt nhiên không muốn tranh ngôi giáo chủ, cũng không muốn bị lôi kéo vào vòng tranh chấp, bèn lánh đi một nơi thật xa, lại ngại chạm trán với huynh đệ Minh giáo, nên để râu thật dài, làm một thư sinh già ngao du đây đó, tiêu dao tự tại.
Một hôm ở Đại Đô, giữa chốn đông người, Phạm Dao gặp một người, nhận ra chính là Thành Côn, sư huynh của phu nhân giáo chủ, thì không khỏi kinh hãi. Thời gian ấy trong võ lâm loan truyền tin tức chấn động, không ít hảo thủ bị giết chết, trên tường đều để lại dòng chữ Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn. Phạm Dao muốn tìm ra thực hư, lại vừa muốn qua Thành Côn dò xét tung tích của của Dương giáo chủ, bèn bám theo hắn. Thấy Thành Côn đến một tửu lâu, trong đó có hai lão già đợi sẵn, chính là Huyền Minh nhị lão.
Phạm Dao biết Thành Côn võ công cao cường, nên ngồi ở bàn xa xa, giả vờ uống rượu, chỉ nghe loáng thoáng câu được câu chăng, nhưng sáu tiếng “Phải hủy diệt Quang Minh đỉnh” thì nghe rất rõ. Thấy bản giáo sắp lâm nạn, Phạm Dao không thể khoanh tay bỏ mặc. Y ngầm bám theo, thấy ba tên kia đi vào trong phủ Nhữ Dương Vương. Sau đó dò biết Huyền Minh nhị lão là hai cao thủ đứng đầu các võ sĩ của vương phủ.
Nhữ Dương Vương Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ giữ chức quan Thái úy, chấp chưởng đại quyền binh mã thiên hạ, trí dũng song toàn, là bậc kỳ tài trong triều đình. Nghĩa quân vùng Giang Hoài khởi sự mấy phen, phen nào cũng đều bị Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ điều binh tiễu trừ cả.
Bọn Trương Vô Kỵ nghe danh Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ từ lâu, nay mới biết Huyền Minh nhị lão là thủ hạ của phủ Nhữ Dương Vương, tuy không kinh ngạc lắm, song đều ngẩn cả ra.
Dương Tiêu hỏi:
– Thế Triệu cô nương nọ là thế nào?
Phạm Dao hỏi lại:
– Đại ca thử đoán xem.
Dương Tiêu nói:
– Chẳng lẽ Triệu cô nương là con gái Nhữ Dương Vương?
Phạm Dao vỗ tay:
– Không sai, đoán một lần đúng ngay. Nhữ Dương Vương sinh được một trai một gái, con trai tên là Khố Khố Đặc Mục Nhĩ, con gái chính là cô nương đó. Tên Mông Cổ của nàng ta là Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ. Khố Khố Đặc Mục Nhĩ là thế tử của Nhữ Dương Vương, sau này sẽ hưởng tước vương. Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ thì được phong là Thiệu Mẫn quận chúa. Cả hai người con của Nhữ Dương Vương đều thích võ, đã học nhiều môn võ công. Cả hai lại thích trang phục như người Hán, nói tiếng Hán, lấy tên Hán, anh con trai lấy tên Vương Bảo Bảo, cô con gái lấy tên là Triệu Mẫn. Hai chữ Triệu Mẫn chính là bắt nguồn từ tước hiệu “Thiệu Mẫn quận chúa” mà ra.
Vi Nhất Tiếu cười, nói:
– Huynh muội nhà ấy kể cũng kỳ quái, lại lấy hai họ khác nhau của người Hán chúng ta, là họ Vương, họ Triệu, thật nực cười.
Phạm Dao nói:
– Thật ra họ đều mang họ “Đặc Mục Nhĩ”, nhưng phong tục của phiên bang lại đưa tên lên trước họ. Nhữ Dương Vương Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ cũng có một cái họ người Hán, là họ Lý.
Nói tới đó, cả bốn người cùng cười ồ lên.
Dương Tiêu nói:
– Triệu cô nương hình dáng, dung mạo có thể nói là một mỹ nữ người Hán. Thế nhưng xem cô nàng hành sự, thì sẽ thấy ngay cái tính dã man của nữ nhân phiên bang.
Trương Vô Kỵ đến giờ mới biết lai lịch của Triệu Mẫn; tuy vẫn đoán nàng là quý nhân trong triều đình, song không ngờ nàng lại là quận chúa, con gái vị đại nguyên soái Nhữ Dương Vương thống lĩnh binh mã thiên hạ. Mấy lần chàng đụng cô nàng, lần nào cũng có phần bị lép vế, tuy võ công cô ta không bằng chàng, nhưng tâm cơ mưu lược biến hóa vô cùng, chàng quả thực không phải là đối thủ của nàng.
Phạm Dao kể tiếp:
– Thuộc hạ vẫn ngầm dò xét, biết Nhữ Dương Vương quyết ý diệt trừ các môn phái bang hội trên giang hồ. Nhữ Dương Vương nghe theo mưu kế của Thành Côn, bước thứ nhất là muốn diệt trừ bản giáo. Thuộc hạ suy nghĩ kỹ, nội bộ bản giáo đang không ngừng phân tranh, ngoại địch lại mạnh như thế, đại họa diệt vong sờ sờ trước mắt, muốn cứu vãn, chỉ có cách trà trộn vào vương phủ, dò xét mưu hoạch của Nhữ Dương Vương, rồi tùy cơ giải cứu chứ không còn cách nào hay hơn. Còn điều thuộc hạ lấy làm lạ, Thành Côn vốn là sư huynh của Dương giáo chủ phu nhân, lại là sư phụ của Tạ pháp vương, vì sao hắn lại đối đầu với bản giáo tàn độc như vậy? Nguyên do bên trong, nghĩ mãi không ra, chỉ đoán là hắn mưu đồ phú quý, muốn diệt bản giáo để lập công với triều đình. Số huynh đệ trong bản giáo biết Thành Côn không nhiều, thuộc hạ thì đã gặp hắn rồi, chỉ sợ hắn nhận ra thuộc hạ; muốn không bại lộ, phải tìm cách giết hắn.
Vi Nhất Tiếu nói:
– Lẽ ra phải thế.
Phạm Dao nói:
– Nhưng hắn vô cùng xảo quyệt, võ công lại cao cường, thuộc hạ ám toán hắn ba lần đều không thành. Lần thứ ba tuy đâm được hắn một kiếm, song cũng bị hắn giáng cho một chưởng, may mà chạy thoát, tuy không bị lộ hình tích, nhưng bị trọng thương, phải dưỡng thương hơn một năm mới khỏi. Bấy giờ phủ Nhữ Dương Vương mưu toan gấp rút diệt trừ các môn phái; thuộc hạ nghĩ mình có cải trang, thì cũng chỉ giấu được một thời gian ngắn. Hồi trước thuộc hạ cùng Dương huynh nổi danh, số người biết mặt “Tiêu Dao nhị tiên” không phải là ít, nếu để lâu thể nào cũng lộ chân tướng, đành nghiến răng hủy hoại dung mạo của mình, giả làm một đầu đà để tóc, dùng thuốc nhuộm tóc, rồi đi sang nước Hoa Thích Tử Mô bên Tây Vực.
Vi Nhất Tiếu ngạc nhiên, hỏi:
– Sang nước Hoa Thích Tử Mô ư? Đường xa vạn dặm, mà có liên can gì tới việc này?
Phạm Dao mỉm cười, đang định trả lời, thì Dương Tiêu vỗ tay, nói:
– Kế đó quá hay. Vi huynh, Phạm hiền đệ sang nước Hoa Thích Tử Mô tìm cơ hội bộc lộ tài năng, các vương công Mông Cổ nhất định sẽ thu nạp. Nhữ Dương Vương đang chiêu mộ võ sĩ bốn phương, vương công nước Hoa Thích Tử Mô muốn lấy lòng Nhữ Dương Vương, ắt sẽ đưa Phạm hiền đệ sang phủ Nhữ Dương Vương; thế là Phạm hiền đệ trở thành võ sĩ sắc mục do nước Hoa Thích Tử Mô hiến, diện mạo lại đã thay đổi hẳn, lại là người câm, Thành Côn có tài thánh cũng chẳng nhận ra.
Vi Nhất Tiếu thở dài, nói:
– Dương giáo chủ xếp “Tiêu Dao nhị tiên” đứng trên Tứ đại pháp vương, quả có con mắt tinh đời. Mưu kế như thế, Bạch Mi Ưng Vương, Bức Vương không thể nghĩ ra được.
Phạm Dao nói:
– Vi huynh quá khen. Đúng như Dương tả sứ dự đoán, thuộc hạ ở nước Hoa Thích Tử Mô săn bắn sư tử, hổ báo, có chút uy danh, vương công nước ấy liền đem thuộc hạ cống cho phủ Nhữ Dương Vương; nhưng khi đó Thành Côn đã không còn ở trong vương phủ nữa, đi đâu không rõ.
Dương Tiêu liền thuật sơ qua cho Phạm Dao nghe, Thành Côn kết thù oán với Minh giáo như thế nào, lén lên đỉnh Quang Minh đánh trộm ra sao, mưu gian bị Trương Vô Kỵ nói toạc ra, rồi đấu nội lực với Ân Dã Vương, hắn đã chết như thế nào.
Phạm Dao nghe xong, ngẩn ngơ một hồi, mới hay bên trong có nhiều điều uẩn khúc; y đứng dậy, cung kính nói với Trương Vô Kỵ:
– Giáo chủ, có một việc thuộc hạ cần thú tội với giáo chủ.
Trương Vô Kỵ nói:
– Phạm hữu sứ hà tất quá khiêm tốn.
Phạm Dao nói:
– Khi thuộc hạ đến phủ Nhữ Dương Vương, để làm cho vương gia tin tưởng, giữa đường phố Đại Đô này đã tự tay đánh chết ba hương chủ của bản giáo, cốt tỏ ra là thuộc hạ với Minh giáo từng có thù oán sâu xa.
Trương Vô Kỵ im lặng, nghĩ thầm: “Tàn sát huynh đệ bản giáo là một trong năm điều đại kỵ của bản giáo. Dương tả sứ, Tứ đại pháp vương, Ngũ Hành kỳ tranh đoạt ngôi giáo chủ, dù đánh nhau dữ dội, song không một ai dám giết hại huynh đệ bản giáo. Tội này của Phạm hữu sứ quả không nhẹ. Nhưng chủ tâm của y là muốn hộ giáo, không phải do tư thù, về lý cũng không thể trách phạt y”, bèn nói:
– Phạm hữu sứ khổ tâm hộ giáo, bản nhân không trách cứ.
Phạm Dao cúi mình nói:
– Đa tạ giáo chủ tha tội.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Phạm hữu sứ hành sự tàn nhẫn cũng ít ai dám làm. Y có thể rạch lên mặt mình bảy, tám nhát dao, thế thì việc giết vài gã hương chủ vô tội của bản giáo y có coi ra gì. Minh giáo bị người ta coi là tà giáo, ma giáo, cũng có nguyên do của nó, không biết rồi đây y có bỏ được cái tà khí đó đi chăng?”
Phạm Dao thấy Trương Vô Kỵ tuy miệng nói “không trách cứ”, nhưng mặt lại có vẻ bất bình, liền rút phắt thanh kiếm Dương Tiêu đeo bên hông, tay trái vung kiếm chặt luôn hai ngón tay phải. Trương Vô Kỵ cả kinh, giữ lại thanh kiếm, nói:
– Phạm hữu sứ, hữu sứ làm… làm sao vậy?
Phạm Dao nói:
– Tàn sát huynh đệ bản giáo là một trọng tội. Đại sự chưa thành, Phạm Dao này chưa thể tự tận, tạm chặt hai ngón tay trước, sau này sẽ chặt nốt cái đầu.
Trương Vô Kỵ nói:
– Bản nhân đã bỏ qua lỗi lầm cũ của Phạm hữu sứ, đâu cần phải khổ như thế? Thân đang gánh vác đại sự, cần được tòng quyền. Phạm hữu sứ, chuyện này về sau không nên nhắc đến nữa.
Chàng vội lấy thuốc rịt vết thương và tự xé vạt áo mình băng lại cho Phạm Dao; biết người này tính khí quật cường, đừng nói lời lẽ không được xúc phạm đến y, mà ngay cả vẻ mặt cũng đừng tỏ ra khó chịu. Y nói sao làm vậy, chỉ e mai sau y sẽ cắt đầu tạ tội thật. Chàng nghĩ Phạm Dao đã vì bản giáo mà chịu đựng thiệt thòi lớn, trong lòng rất cảm động, liền quỳ xuống, nói:
– Phạm hữu sứ có công lớn với bản giáo, xin hãy nhận một lạy này. Nếu Phạm hữu sứ còn tự hủy hoại thân thể, tức là bảo bản nhân vô đức vô năng, không xứng gánh vác trọng nhiệm giáo chủ. Phạm hữu sứ còn tự đâm mình một kiếm, bản nhân sẽ tự đâm mình hai kiếm. Bản nhân ít tuổi, kiến thức nông cạn, chỉ biết như thế thôi.
Phạm Dao, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu thấy giáo chủ quỳ xuống, cũng vội vàng quỳ lạy.
Dương Tiêu gạt lệ, nói:
– Phạm hiền đệ không nên làm thế. Bản giáo hưng suy trông đợi vào một mình giáo chủ. Chỉ lệnh của giáo chủ, hiền đệ không được vi phạm.
Phạm Dao lạy tạ, nói:
– Thuộc hạ hôm nay tỷ kiếm thí chưởng, đã vô cùng bái phục giáo chủ. Khổ đầu đà tính nết ngang ngạnh, mong giáo chủ tha tội cho.
Trương Vô Kỵ hai tay đỡ Phạm Dao đứng dậy. Sau chuyện này, hai người trong lòng càng hiểu nhau hơn, không còn sự ngăn cách nữa.
Phạm Dao kể tiếp những điều tai nghe mắt thấy trong phủ Nhữ Dương Vương.
Nhữ Dương Vương Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ quả là người có tài dùng binh, tuy nắm binh quyền, song ở trong triều lại bị bọn gian thần kèn cựa, đương kim hoàng đế thì hôn quân vô đạo, khiến cho thiên hạ đại loạn, lòng dân căm phẫn; triều đình hoàn toàn trông cậy vào Nhữ Dương Vương đông chinh tây thảo, đánh dẹp nghĩa quân. Nhưng dẹp được nơi này thì nơi khác nổi lên, không có ngày nào yên; Nhữ Dương Vương bận bịu với việc điều binh khiển tướng, nên phải tạm gác sang một bên việc trừ diệt các môn phái bang hội trong giang hồ.
Mấy năm sau, hai người con của Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ khôn lớn. Thế tử Khố Khố Đặc Mục Nhĩ theo cha cầm quân; con gái Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ thì thống suất các võ sĩ Mông-Hán, các phiên tăng Tây Vực, tiến hành đại công kích các môn phái bang hội. Thành Côn đứng đằng sau ngầm giúp nàng phương lược; nhân lúc sáu đại môn phái vây đánh đỉnh Quang Minh, Triệu Mẫn liền đem theo hàng loạt cao thủ, toan thừa cơ ngư ông đắc lợi, trừ diệt luôn cả Minh giáo lẫn sáu đại môn phái. Vụ hạ độc ở Lục Liễu trang chính là từ đó mà ra. Khi đó Phạm Dao phụng mệnh bảo vệ, không tham gia chuyến đi Tây Vực, nên mãi về sau mới biết. Phạm Dao nói rằng y tuy ở trong phủ Nhữ Dương Vương, nhưng là người từ Tây Vực đến, nên Triệu Mẫn không cho y tham gia chiến dịch Tây Vực, không chừng đó cũng là chủ ý của Thành Côn.
Triệu Mẫn dùng độc dược mà các phiên tăng hiến cho nàng, gọi là “Thập hương nhuyễn cân tán”, bỏ vào đồ ăn thức uống của các cao thủ sáu đại môn phái khi họ rời đỉnh Quang Minh trở về. “Thập hương nhuyễn cân tán” là thứ thuốc độc không màu, không mùi, cho lẫn vào đồ ăn thức uống thì không ai có thể nhận biết. Độc dược này một khi phát tác, lập tức gân cốt toàn thân yếu ớt, vài ngày sau tuy có thể cử động như thường, song nội lực thì hoàn toàn không thể phát huy; bởi vậy các cao thủ sáu đại môn phái viễn chinh đỉnh Quang Minh, trong vòng một tháng đều bị sa lưới.
Riêng với nhóm người thứ ba của phái Thiếu Lâm do Không Tính chỉ huy, kẻ hạ độc khi hành động đã bị phát giác, đôi bên xảy ra giao tranh. Không Tính bị A Tam đánh chết, những người còn lại không địch nổi Huyền Minh nhị lão, Thần tiễn bát hùng và ba gã A Đại, A Nhị, A Tam; chết mất hơn chục người, số còn lại đều bị bắt.
Tiếp đó chúng tiến đánh các căn cứ địa của từng môn phái, nơi đầu tiên chúng chọn là chùa Thiếu Lâm. Thiếu Lâm tự phòng vệ nghiêm mật, muốn lẻn vào chùa hạ độc chẳng dễ chút nào, khó hơn hẳn việc hạ độc ở trong khách điếm, trong thị trấn hoặc trên đường đi. Đã không hạ độc được, thì chỉ còn cách lấy thịt đè người, ỷ vào số đông mà tấn công vào.
Phạm Dao nói tiếp:
– Quận chúa Triệu Mẫn muốn hạ thủ chùa Thiếu Lâm, sợ chưa đủ người, nên mới điều từ Đại Đô tới một đội tiếp viện, chính do thuộc hạ dẫn đầu, rất hay là đi vây bắt các nhà sư Thiếu Lâm tự. Phái Thiếu Lâm bao lâu nay vẫn vô lễ với bản giáo, cho bọn họ nếm mùi đau khổ thật không gì sướng bằng. Nếu cần đem giết sạch đám hòa thượng thối tha của phái Thiếu Lâm, Khổ đầu đà này cũng chẳng cần nhíu mày. Giáo chủ, chắc giáo chủ cũng muốn thế phải không? Ha ha!
Dương Tiêu xen vào:
– Hiền đệ, các pho tượng La Hán được xoay lại là do hiền đệ làm phải không?
Phạm Dao cười, đáp:
– Đệ thấy quận chúa sai đục mười sáu chữ sau lưng các pho tượng La Hán, toan giá họa cho bản giáo, nên sau đó đệ lẻn quay trở lại, xoay tượng đi. Đại ca, các vị tinh thật, việc như thế mà cũng nhận biết được. Khi biết, đại ca có nghĩ là do đệ làm hay không?
Dương Tiêu nói:
– Bọn ta nghĩ rằng trong hàng ngũ kẻ thù, hình như có một cao thủ ngầm bảo vệ bản giáo, nhưng đâu có ngờ cao thủ ấy lại chính là Phạm hiền đệ của ta!
Bốn người cùng cười ầm lên. Dương Tiêu liền nói rõ sơ qua cho Phạm Dao biết, rằng Minh giáo từ nay quyết ý bỏ hết hiềm khích cũ với sáu đại môn phái, để cùng chung sức chống Mông Cổ, do đó cần phải cứu các cao thủ ra.
Phạm Dao nói:
– Địch đông ta ít, chỉ trông vào bốn người mình thì khó xong việc này. Chi bằng tìm kiếm thuốc giải “Thập hương nhuyễn cân tán” cho bọn hòa thượng thối tha, ni cô khắm khú, chờ bọn khốn kiếp ấy phục hồi nội lực, cùng xông ra mà đánh cho bọn Thát tử trở tay không kịp; cuối cùng tất cả chạy khỏi Đại Đô.
Minh giáo bao năm nay vốn thù nghịch với các danh môn chính phái Thiếu Lâm, Nga Mi, Võ Đang… cho nên khi nói về các cao thủ của sáu môn phái, Phạm Dao dùng lời lẽ chẳng nể nang chút nào. Dương Tiêu cứ liên tục nháy mắt với y, song Phạm Dao chẳng buồn để ý. Trương Vô Kỵ cũng không coi trọng tiểu tiết, vỗ tay, nói:
– Phạm tả sứ nói không sai, nhưng tìm đâu ra thuốc giải “Thập hương nhuyễn cân tán” bây giờ?
Phạm Dao nói:
– Thuộc hạ giả câm, nên quận chúa đối với thuộc hạ tuy có phần kính nể, song không hề bàn chuyện gì hệ trọng cả. Chỉ một mình nàng nói, đối phương ú ớ chẳng hé miệng nửa lời thì còn gì thú vị nữa? Huống hồ thuộc hạ lại từ một nước nhỏ bên Tây Vực sang đây, cô nàng không coi thuộc hạ là kẻ tâm phúc, thành thử thuốc giải “Thập hương nhuyễn cân tán” thế nào, thuộc hạ không hề biết. Thuộc hạ chỉ biết chuyện đó rất hệ trọng, nên ngầm lưu tâm. Nếu thuộc hạ không lầm thì thuốc độc, thuốc giải “Thập hương nhuyễn cân tán” do Huyền Minh nhị lão chia nhau nắm giữ, một lão cầm thuốc độc, một lão cầm thuốc giải và cứ luôn luôn đổi qua đổi lại.
Dương Tiêu thở dài:
– Cô nàng quận chúa nương nương quả là lắm mưu mẹo, giới mày râu khó mà sánh kịp. Chẳng lẽ ngay cả Huyền Minh nhị lão, Triệu cô nương cũng chưa tin hay sao?
Phạm Dao đáp:
– Một là cô ta không yên tâm; hai là làm như thế càng thận trọng, chắc chắn. Chẳng hạn như lúc này, mình định lấy trộm thuốc giải, mình không thể biết nó đang do Lộc Trượng Khách hay do Hạc Bút Ông nắm giữ. Đã thế nghe đâu thuốc độc, thuốc giải có mùi vị, màu sắc y hệt nhau, ngoài người giữ thuốc ra, không ai hay biết. Người ngoài lấy trộm thuốc giải, không chừng lại vớ phải thuốc độc. “Thập hương nhuyễn cân tán” lại ghê gớm ở chỗ, sau khi trúng độc rồi, gân cốt bủn rủn, song vẫn sống; nhưng chỉ cần uống thêm một chút xíu thuốc độc nữa thôi, lập tức máu chạy ngược lên, tắt thở luôn, hết bề cứu chữa.
Vi Nhất Tiếu lè lưỡi:
– Như thế thì nhất thiết không được lấy trộm nhầm phải thuốc độc.
Phạm Dao nói:
– Tuy vậy, nhưng cũng không phải là hết cách. Mình cứ lấy trộm thuốc của cả hai lão, rồi tìm một tên đệ tử phái Hoa Sơn hoặc phái Không Động gì đó cho nó uống thử, nếu nó chết thì là thuốc độc, vậy là xong.
Trương Vô Kỵ biết tà tính của Phạm Dao rất nặng, y chẳng coi tính mạng người khác ra gì, chỉ mỉm cười, nói:
– Như thế không ổn. Lỡ mình tốn bao nhiêu công sức lại chỉ lấy trộm được toàn là thuốc độc thì sao?
Dương Tiêu vỗ đùi, nói:
– Giáo chủ nói có lý. Đêm qua mình quấy rối như thế, làm cho quận chúa sợ rồi, không chừng cô nàng giữ luôn thuốc giải trong người. Theo ý tại hạ, chúng ta cần dò xét biết ai giữ thuốc giải cái đã, rồi hãy tính cách hành sự.
Sau một hồi ngẫm nghĩ, hỏi:
– Hiền đệ, Huyền Minh nhị lão bình sinh thích thứ gì hơn cả?
Phạm Dao cười đáp:
– Lộc hiếu sắc, Hạc mê rượu, còn gì khác thì không rõ.
Dương Tiêu bèn hỏi Trương Vô Kỵ:
– Giáo chủ, có loại thuốc gì làm cho gân cốt bủn rủn gần giống như “Thập hương nhuyễn cân tán” hay không?
Trương Vô Kỵ nghĩ một lát, cười đáp:
– Nếu muốn làm cho toàn thân uể oải mất sức, mơ màng buồn ngủ, cũng chẳng khó gì; có điều là dùng cho các cao thủ thì sau nửa canh giờ đã hết tác dụng. Muốn duy trì lâu dài như “Thập hương nhuyễn cân tán” thì chịu, không có cách nào cả.
Dương Tiêu cười, nói:
– Được nửa giờ cũng đủ rồi. Tại hạ có một kế này, không biết có dùng được chăng, nhờ giáo chủ định liệu. Gọi là kế, thực không bõ cười. Phạm hiền đệ cố tìm cách rủ Hạc Bút Ông đi uống rượu, lén bỏ thứ thuốc do giáo chủ phối chế vào trong rượu. Sau đó hiền đệ giả bộ làm dữ, nói là trúng phải “Thập hương nhuyễn cân tán” của Hạc Bút Ông, khi đó thuốc giải ở trong tay ai, mình biết liền, sẽ thừa cơ đoạt lấy để cứu người.
Trương Vô Kỵ nói:
– Kế ấy có đắc dụng hay không, còn tùy tính nết của Hạc Bút Ông. Phạm hữu sứ thấy thế nào?
Phạm Dao thử diễn trong óc sự việc từ đầu đến cuối một lần, thấy kế đó tuy đơn giản, song cũng không hề có gì sơ hở, bèn nói:
– Thuộc hạ nghĩ có thể làm theo kế của Dương đại ca. Hạc Bút Ông tính nết tàn bạo, nhưng không mưu mẹo nham hiểm bằng Lộc Trượng Khách. Nếu thuốc giải ở trong người Hạc Bút Ông, thì thuộc hạ tuy võ công thua kém hắn, song cũng đối phó được.
Dương Tiêu nói:
– Nhỡ thuốc giải do Lộc Trượng Khách nắm giữ thì sao?
Phạm Dao cau mày, nói:
– Nếu thế thì khó thật.
Y đứng dậy, đi đi lại lại hồi lâu, rồi vỗ tay một cái, nói:
– Có cách rồi. Lộc Trượng Khách khôn ngoan hơn người, muốn đánh lừa hắn, phần lớn hắn nhìn ra được, khó xong. Chỉ còn cách đánh vào chỗ yếu của hắn, dùng cái đó để uy hiếp hắn; hắn sẽ phải suy tính thiệt hơn, hắn có chịu khuất phục hay không, cũng khó đoán. Dĩ nhiên, chuyện lớn thế này rất có thể không thành, mạo hiểm không nhỏ, nhưng ngoài cách đánh vào chỗ yếu, không còn cách nào khác.
Dương Tiêu hỏi:
– Lộc Trượng Khách thân già nhưng tâm chưa già, Phạm hiền đệ có nắm được cái thóp nào của lão ta chăng?
Phạm Dao nói:
– Mùa xuân vừa rồi, Nhữ Dương Vương nạp thiếp, có mời mấy người chúng tại hạ đến hoa sảnh dự tiệc. Nhữ Dương Vương muốn khoe người thiếp mới xinh đẹp, nên sai tân nương nương ra chuốc rượu. Tại hạ thấy Lộc Trượng Khách cứ nhìn nàng ta hau háu, nuốt nước bọt mấy lần, tựa như thèm muốn vô cùng.
Vi Nhất Tiếu hỏi:
– Rồi thế nào?
Phạm Dao đáp:
– Chẳng thế nào cả. Nàng ta là ái thiếp của vương gia, Lộc Trượng Khách to gan đến mấy cũng chẳng dám giở trò gì.
Vi Nhất Tiếu nói:
– Chỉ nhìn hau háu thì đâu đã tội vạ gì.
Phạm Dao nói:
– Chưa tội vạ thì mình làm cho thành tội vạ. Việc này phải phiền Vi huynh thi triển khinh công, cướp ái thiếp của Nhữ Dương Vương, đem đặt vào giường của Lộc Trượng Khách. Con dê cụ ấy mười phần đến bảy, tám không nhịn được, thể nào cũng sẽ giở trò bậy bạ. Còn giả dụ hắn quả có thể gò cương bên miệng vực, thì tại hạ sẽ xông vào buồng hắn, làm cho hắn có đến trăm cái mồm cũng không cãi nổi, có rửa cũng chẳng sạch tội, chỉ còn cách hai tay dâng thuốc giải cho ta.
Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu cùng vỗ tay cười, nói:
– Cái kế bắt quả tang ấy quả là cao minh. Lộc Trượng Khách dù gian ngoan như quỷ, cũng đành cứng họng bẽ mặt.
Trương Vô Kỵ vừa bực vừa buồn cười, nghĩ thầm các thuộc hạ của mình hành sự gian trá hiểm độc chẳng khác gì thủ hạ của Triệu Mẫn; chỉ là một bên thiện, một bên ác, đôi bên cách biệt nhau rất xa; dùng cách hiểm độc đối phó với kẻ hiểm độc, gọi là lấy độc trị độc. Nghĩ thế, chàng cảm thấy yên tâm, mỉm cười, nói:
– Chỉ có điều làm lụy đến nàng ái thiếp của Nhữ Dương Vương thôi.
Phạm Dao cười, nói:
– Thuộc hạ sẽ xông vào buồng hắn sớm một chút, không để cho hắn xơ múi gì cả, thế là xong.
Bốn người bàn tính tỉ mỉ, sau khi lấy được thuốc giải, Phạm Dao sẽ mang tới bảo tháp chia cho cao thủ các môn phái uống ngay. Trương Vô Kỵ và Vi Nhất Tiếu ở bên ngoài tiếp ứng, một khi thấy Phạm Dao nổi lửa trong chùa Vạn An, sẽ lập tức phóng hỏa đốt nhà dân quanh chùa; quần hiệp sẽ thừa cơ hỗn loạn mà chạy ra ngoài. Dương Tiêu thì mua xe ngựa, chờ sẵn ở ngoài cửa tây, những người chạy ra sẽ lên xe chạy đi, hẹn hội ngộ tại Xương Bình. Trương Vô Kỵ nghĩ việc đốt nhà dân chúng không khỏi giáng họa cho người vô tội, thì Dương Tiêu nói:
– Giáo chủ, sự đời thường khó vẹn cả đôi đường. Chúng ta cứu được quần hiệp sáu đại môn phái, sau này nếu đánh đuổi bọn Thát tử, tức là tạo phúc cho muôn vạn dân lành, hôm nay có gây thiệt hại cho vài trăm gia đình, cũng không đáng gì.
Bốn người phương sách đã định, chia nhau đi vào thành lo liệu. Dương Tiêu đi mua xe ngựa. Trương Vô Kỵ phối chế một liều thuốc mê; để bớt mùi thuốc, chàng phải thêm ba loại hương liệu, khi hòa vào rượu, uống vẫn thấy thơm ngon. Vi Nhất Tiếu thì ra chợ mua một cái bao vải lớn, chờ trời tối sẽ lẻn vào phủ Nhữ Dương Vương để cướp nàng ái thiếp của vương gia.
*
* *
Phạm Dao và Huyền Minh nhị lão có nhiệm vụ canh giữ các cao thủ sáu đại môn phái, nên ở luôn trong chùa Vạn An. Triệu Mẫn thì ở vương phủ, buổi tối mới đi xe tới chùa học võ. Phạm Dao mang thuốc mê về chùa Vạn An, nghĩ hơn hai mươi năm qua Minh giáo chia năm xẻ bảy, bây giờ mới có cơ trung hưng, không uổng công mình chịu đựng muôn vàn khổ sở, trong lòng như được an ủi rất nhiều. Trương giáo chủ võ công cao cường, lại là người vô cùng nhân nghĩa, khiến ai cũng phải khâm phục; chỉ tiếc là giáo chủ thiếu cái tính quyết liệt tàn nhẫn, hơi có vẻ ủy mị của nữ giới, quả là mỹ trung bất túc.
Phạm Dao trú ở sương phòng phía tây, Huyền Minh nhị lão thì trú ở Bảo Tương tinh xá nơi hậu viện. Bình thời y rất ngán hai lão già này, lại sợ bại lộ chân tướng, nên ít qua lại với nhau, thành thử đôi bên ở xa nhau; lúc này nghĩ đến việc làm cách nào mời Hạc Bút Ông uống rượu mà không để lộ hình tích, thật không phải dễ.
Y nhìn về phía hậu viện, thấy mặt trời đã ngả về tây, nửa dưới của tòa bảo tháp mười ba tầng đã khuất nắng, mái ngói lưu li trên đỉnh tháp cũng nhạt dần. Nhất thời chưa biết tính sao, y chắp hai tay sau lưng lững thững đi về phía hậu viện, bỗng ngửi thấy mùi thịt rất thơm từ một sương phòng đối diện với Bảo Tương tinh xá tỏa ra, chính là nơi ở của hai người trong “Thần tiễn bát hùng” là Tôn Tam Hủy và Lý Tứ Thôi. Phạm Dao chợt nghĩ ra một kế. Y tới sương phòng hai gã, vừa đẩy cửa mùi thịt đã xộc ngay vào mũi. Chỉ thấy Lý Tứ Thôi đang ngồi xổm dưới nền quạt gió vào bếp lò cho đượm lửa; trên bếp đặt một cái nồi sành lớn đang sôi, mùi thịt thơm nức từ đó bay ra. Tôn Tam Hủy thì đang xếp mâm bát, rõ ràng hai gã sắp sửa đánh chén.
Hai gã thấy Khổ đầu đà đẩy cửa bước vào thì giật mình, nhìn sắc mặt không khỏi chột dạ. Hai gã mới rồi đánh chết một con chó vàng ở bên ngoài, chặt lấy bốn đùi mang về phòng làm món nhậu. Chùa Vạn An là nơi sư sãi thanh tu, nấu thịt chó trong chùa quả là sai trái, người ngoài nhìn thấy cũng không đến nỗi nào, đằng này Khổ đầu đà là đệ tử cửa Phật, lão mà nổi nóng, nện cho một trận, hai gã chẳng thể nào địch lại. Khổ đầu đà võ công rất cao cường, huống hồ lỗi lại thuộc về hai gã, có bị đòn cũng đáng.
Hai gã đang lo lắng, thấy Khổ đầu đà tới bên bếp lò, mở vung, nhòm vào trong nồi, hít một hơi dài, như muốn nói: “Thơm quá, ngon quá!” rồi đột nhiên thò luôn tay vào nồi, bất kể đang sôi sùng sục, nhón ra một miếng thịt chó, bỏ vào mồm nhai ngồm ngoàm, loáng một cái đã hết miếng thịt to, đoạn liếm môi, tựa hồ ngon lành hết sức. Tôn Tam Hủy và Lý Tứ Thôi cả mừng, vội nói:
– Mời Khổ đại sư ngồi xuống đây, bọn này đâu có biết lão nhân gia cũng khoái món thịt cầy.
Khổ đầu đà chưa ngồi xuống, đã lại thò tay nhón một miếng thịt chó nữa, ngồi chồm hổm ngay bên bếp lò mà nhai. Tôn Tam Hủy muốn lấy lòng y, rót ngay một bát rượu đem tới. Khổ đầu đà nhận bát rượu, uống một ngụm, đột nhiên nhổ toẹt xuống đất, tay trái giơ lên ngang mũi xua xua, ngụ ý rượu chua quá, uống không nổi, đứng lên rảo bước ra khỏi phòng.
Tôn, Lý hai gã thấy y hầm hầm bỏ đi, lại lo lo, nhưng chỉ một lát đã thấy Khổ đầu đà bưng một bầu rượu lớn trở lại, thì mừng rơn, nói:
– Đúng, đúng lắm. Rượu của bọn này không phải loại ngon, Khổ đại sư có mỹ tửu đem tới thì còn gì bằng.
Hai gã vội bày bàn, mời Khổ đầu đà ngồi ở đầu bàn, bày món thịt chó đầy mâm. Khổ đầu đà võ công cao siêu, thuộc hàng đệ nhất trong đám thủ hạ của Triệu Mẫn, bình thời “Thần tiễn bát hùng” đâu dám với cao, hôm nay lại mời được y ăn thịt chó, không chừng lão nhân gia vui lòng truyền cho một vài tuyệt chiêu, tha hồ mà dùng cả đời.
Khổ đầu đà mở nút bầu rượu, rót ra ba bát. Rượu này màu vàng ánh, sánh như mật ong, vừa rót ra đã tỏa mùi thơm nức. Tôn, Lý hai gã cùng thốt lên:
– Rượu ngon quá, ngon quá!
Phạm Dao nghĩ thầm: “Không biết Huyền Minh nhị lão có nhà hay không, nếu hai lão đi vắng thì mình thật uổng công”. Y đặt bát rượu vào cái nồi nước sôi nhỏ để hâm nóng, mùi rượu bốc lên càng ngào ngạt. Hai gã Tôn Lý định bưng rượu uống, Khổ đầu đà giơ tay ngăn lại, chỉ vào nồi, ngụ ý hâm nóng rồi hãy uống. Ba người thay phiên nhau hâm rượu, mùi rượu bốc lên thơm lừng. Hạc Bút Ông không ở nhà thì thôi, đã ở nhà thể nào cũng sẽ ngửi thấy mùi rượu.
Quả nhiên từ bên phía Bảo Tương tinh xá có tiếng kẹt cửa, rồi giọng của Hạc Bút Ông:
– Rượu thơm thế, thơm thế, hà hà!
Hắn chẳng khách khí gì, đi qua sân sang bên này, đẩy cửa bước vào, thấy Khổ đầu đà cùng với hai gã Tôn, Lý ngồi bên bếp lửa nhắm rượu, đang lúc thích chí. Hạc Bút Ông ngạc nhiên cười, rồi nói:
– Khổ đại sư, hóa ra đại sư cũng khoái món này, đâu ngờ chúng mình là đồng đạo với nhau.
Tôn Tam Hủy và Lý Tứ Thôi vội đứng dậy mời:
– Hạc công công, mời công công uống vài bát, đây là mỹ tửu của Khổ đại sư, hiếm khi có được.
Hạc Bút Ông ngồi đối diện với Khổ đầu đà, hai người là khách mà lấn cả chủ, ăn uống tự nhiên, còn Tôn Tam Hủy và Lý Tứ Thôi biến thành kẻ hầu bưng rượu gắp thịt.
Bốn người cao hứng ngồi ăn uống một hồi, đều đã ngà ngà say. Phạm Dao nghĩ thầm: “Mình hạ độc là vừa”. Liền tự rót cho mình một bát đầy, tiện tay đặt cái bầu rượu nằm ngang xuống. Cái nút đậy bầu rượu, y đã khoét rỗng, đổ bột thuốc Trương Vô Kỵ phối chế vào đó, bên ngoài bọc hai lần vải. Bầu rượu nếu đặt đứng, bột thuốc không xuống được, thứ rượu bốn người uống sẽ đúng là mỹ tửu; nhưng một khi đặt nằm ngang, rượu sẽ ngấm qua lớp vải, làm tan thuốc, rượu trong bầu biến thành rượu độc. Đáy cái bầu rượu vốn tròn, đặt đứng đặt nằm chẳng ai để ý, huống hồ bốn người đã uống một lúc lâu, đã bắt đầu chếnh choáng say.
Phạm Dao thấy bát rượu trước mặt Hạc Bút Ông đã cạn, bèn mở nút, đưa bầu rượu cho hắn. Hạc Bút Ông tự rót đầy bát của mình, rồi tiện tay rót luôn đầy bát cho Tôn, Lý hai gã. Vì bát của Khổ đầu đà vẫn đầy, nên hắn không rót. Bốn người cùng bưng bát rượu lên uống ừng ực.
Trừ Phạm Dao, ba kẻ kia đều uống phải rượu độc. Hai gã Tôn, Lý nội lực kém, rượu độc vừa vào bụng, đã cảm thấy chân tay rã rời, toàn thân bải hoải không còn chút hơi sức nào. Tôn Tam Hủy nói nhỏ:
– Tứ Thôi, bụng huynh lục bục làm sao ấy.
Lý Tứ Thôi cũng nói:
– Đệ… đệ hình như bị trúng độc.
Lúc này Hạc Bút Ông cũng đã cảm thấy khác, vội vận khí, nhưng nội lực không đưa lên được, mặt liền biến sắc.
Phạm Dao đứng bật dậy, mặt hầm hầm, thộp ngực Hạc Bút Ông, miệng ú ớ gầm gừ, chỉ có điều là không nói được. Tôn Tam Hủy sợ hãi nói:
– Khổ đại sư, chuyện gì vậy?
Phạm Dao chấm ngón tay vào rượu, viết trên bàn năm chữ “Thập hương nhuyễn cân tán”.
Tôn, Lý hai gã đều biết “Thập hương nhuyễn cân tán” do Huyền Minh nhị lão nắm giữ, hiện tại rõ ràng là Khổ đầu đà và hai gã đều trúng loại độc đó. Hai gã liền đưa mắt cho nhau, cúi mình nói với Hạc Bút Ông:
– Hạc công công, huynh đệ chúng tôi không dám mạo phạm với công công, xin công công nương tay cho.
Hai gã nghĩ rằng Hạc Bút Ông chắc chỉ muốn đối phó với Khổ đầu đà; còn hai gã chẳng may bị vạ lây, chứ để đối phó với hai gã, Hạc Bút Ông đâu cần dùng đến độc dược.
Hạc Bút Ông kinh ngạc vạn phần, “Thập hương nhuyễn cân tán” tháng này do hắn giữ, rõ ràng cất bên trong cây bút mỏ hạc dùng bên tay trái; hai cây bút – binh khí này là vật bất li thân, không kẻ nào có thể lấy trộm được của hắn. Nhưng hắn vừa thử vận khí, thấy không có sức lực gì cả, hiển nhiên là đã trúng độc “Thập hương nhuyễn cân tán” thật rồi. Thực ra thuốc mê do Trương Vô Kỵ phối chế tuy có mạnh, nhưng thua xa “Thập hương nhuyễn cân tán”; cảm giác sau khi uống vào cũng khác hẳn. Nhưng Hạc Bút Ông chỉ nghe là trúng “Thập hương nhuyễn cân tán” thì gân cốt bủn rủn, người mất sức lực, chứ hắn đâu đã thử qua, thành thử tuy hai loại khác nhau xa, nhưng hắn chẳng thể phân biệt. Chỉ thấy Khổ đầu đà vừa hoảng hốt vừa tức giận; còn Tôn, Lý hai gã ở hai bên cứ luôn miệng van xin, nên hắn không nghi ngờ gì, nói:
– Khổ đại sư đừng nóng, chúng ta là hảo huynh đệ, tại hạ sao lại hãm hại huynh kia chứ? Tại hạ cũng bị trúng độc đây này, không biết kẻ nào giở trò ma mãnh, quái lạ thật!
Phạm Dao lại chấm ngón tay vào rượu, viết trên bàn mấy chữ “Lấy thuốc giải mau”. Hạc Bút Ông gật đầu, nói:
– Đúng, mình uống thuốc giải đã, sau đó sẽ tìm tên gian tặc giở trò ma để tính sổ với nó sau. Thuốc giải do Lộc sư ca giữ, Khổ đại sư hãy cùng đi với tại hạ.
Phạm Dao mừng thầm, không ngờ kế của Dương Tiêu lại đắc dụng đến thế, có thể dễ dàng biết được thuốc giải ở trong tay ai. Y giơ tay trái nắm lấy cổ tay phải của Hạc Bút Ông, giả bộ chệnh choạng đi qua sân sang Bảo Tương tinh xá. Hạc Bút Ông thấy Khổ đầu đà dường như đi không nổi, thì mừng thầm, nghĩ bụng: “Khổ đầu đà võ công cực cao, nhưng chưa có dịp nào huynh đệ mình so tài cao thấp với y; nay sau khi trúng độc y lại như thế này, chứng tỏ nội lực thua xa huynh đệ mình”.
Hai người tới trước cửa Bảo Tương tinh xá, gian phòng phía nam là của Hạc Bút Ông, gian phía bắc là của Lộc Trượng Khách. Chỉ thấy cửa phòng phía bắc cửa đóng kín, Hạc Bút Ông gọi to:
– Sư ca có nhà không?
Có tiếng Lộc Trượng Khách từ bên trong trả lời. Hạc Bút Ông giơ tay đẩy cửa, nhưng có cài then bên trong. Hạc Bút Ông kêu lên:
– Sư ca, mở cửa mau, có việc gấp.
Lộc Trượng Khách nói:
– Gấp với chả gáp cái gì? Ta đang luyện công, đệ đừng có tới quấy rầy ta.
Hạc Bút Ông và Lộc Trượng Khách cùng học võ một thầy, không phân hơn kém, nhưng Lộc Trượng Khách là sư huynh, lại mưu trí hơn hẳn, nên Hạc Bút Ông vẫn tôn kính, nay nghe giọng sư huynh có vẻ khó chịu, thì không dám gọi nữa.
Phạm Dao nghĩ việc này không thể dây dưa, nếu đến lúc thuốc mê hết tác dụng thì mình lộ tẩy, nên chẳng nói chẳng rằng dùng vai đẩy một cái, then cửa gãy luôn, cánh cửa mở toang ra, chỉ nghe có tiếng phụ nữ rú lên.
Lộc Trượng Khách đang đứng bên giường, nghe tiếng cửa mở, ngoảnh ra, vẻ mặt hết sức ngượng ngùng. Phạm Dao thấy nằm trên giường có một nữ nhân, toàn thân được quấn trong một tấm chăn mỏng, chỉ hở cái đầu, ngoài tấm chăn có buộc dây, trông như cuộn mành mành. Nữ nhân tóc xõa tung, nước da trắng ngần, dung nhan cực kỳ diễm lệ, nhìn ra chính là ái thiếp họ Hàn của Nhữ Dương Vương. Phạm Dao nghĩ thầm: “Vi Bức Vương giỏi thật, một mình lọt vào vương phủ, đã cướp được nàng Hàn cơ rồi”.
Thực ra, phủ Nhữ Dương Vương tuy được canh phòng rất cẩn mật, nhưng đám vệ sĩ chủ yếu bảo vệ ba người là vương gia, thế tử và quận chúa, còn cơ thiếp của Nhữ Dương Vương quá đông, chả ai nghĩ sẽ có kẻ đến cướp mang đi. Huống hồ Vi Nhất Tiếu đến nhanh như chớp, linh hoạt khôn lường, vừa vào phủ đã vác ngay Hàn cơ đi, thật là xuất quỷ nhập thần. Còn về chuyện làm sao đặt Hàn cơ vào giường của Lộc Trượng Khách, thì phải đợi chán chê, thừa lúc Lộc Trượng Khách ra đi cầu, mới lẻn vác Hàn cơ đặt vào giường, rồi lặng lẽ bỏ đi.
Lộc Trượng Khách trở vào nhà, thấy có một nữ nhân nằm trên giường, vội chạy ra, nhảy lên mái nhà nhìn tứ phía. Lúc này Vi Nhất Tiếu đã cao chạy xa bay; ngoài tiếng ăn uống lè nhè phát ra từ phòng của hai gã Tôn, Lý, không có gì khác lạ. Lộc Trượng Khách cảm thấy việc này quái lạ, bèn lẳng lặng trở về phòng, nhìn kỹ nữ nhân kia, thì không khỏi trố mắt, há hốc mồm. Hôm vương gia nạp thiếp có mở tiệc đãi một số cao thủ hữu danh, nàng Hàn cơ này khi chuốc rượu cứ tủm tỉm cười, Lộc Trượng Khách tuy đã nhiều tuổi, cũng không khỏi mê mẩn. Lão tham dâm hiếu sắc, bình sinh đã làm hại không biết bao nhiêu con gái nhà lành, nay thấy nàng Hàn cơ xinh đẹp, không khỏi thở dài tiếc rẻ, sao không sớm gặp mỹ nhân. Nếu trước khi nàng vào vương phủ mà lão trông thấy, thì nàng có chạy đằng trời cũng không thoát khỏi tay lão. Sau bữa đó lão từng nghĩ đến nàng mấy lần, nhưng vì đã tìm được người mới, nên cũng quên đi. Không ngờ bây giờ tự dưng nàng Hàn cơ lại như từ trên trời rơi xuống giường lão thế này.
Lộc Trượng Khách nửa ngạc nhiên nửa vui mừng, đoán chắc là đại đệ tử Ô Vượng A Phổ biết được tâm ý sư phụ, nên đã rước trộm nàng Hàn cơ về đây. Lão thấy nàng nằm thò đầu ra ngoài tấm chăn mỏng, nước da mặt và cổ trắng muốt, lấp ló bờ vai trần, dường như trên người không mặc quần áo, lão hồi hộp hỏi nhỏ, vì sao nàng lại tới đây. Hỏi mấy câu, Hàn cơ không hề trả lời, Lộc Trượng Khách đoán nàng đã bị điểm huyệt, toan giơ tay giải huyệt cho nàng, thì đột nhiên Hạc Bút Ông tới ngoài cửa, rồi Khổ đầu đà phá cửa vào.
Sự việc diễn ra bất ngờ, Lộc Trượng Khách tuy vô cùng xảo quyệt, nhưng muốn che giấu cũng không được nữa rồi. Lão chợt nghĩ, hay là vương gia phát giác ái thiếp bị cướp, sai Khổ đầu đà đến bắt lão; đã vậy, chỉ còn cách bỏ chạy là hơn cả. Tay phải chộp ngay cây trượng, tay trái cắp Hàn cơ, Lộc Trượng Khách định phá cửa sổ chạy đi.
Hạc Bút Ông kinh ngạc nói:
– Sư ca, mau đưa thuốc giải cho tiểu đệ.
Lộc Trượng Khách hỏi:
– Cái gì?
Hạc Bút Ông nói:
– Tiểu đệ và Khổ đại sư chẳng hiểu sao bị trúng độc “Thập hương nhuyễn cân tán”.
Lộc Trượng Khách hỏi lại:
– Đệ bảo sao kia?
Hạc Bút Ông nhắc lại lần nữa. Lộc Trượng Khách lấy làm lạ, hỏi:
– “Thập hương nhuyễn cân tán” chẳng phải do đệ giữ kia mà?
Hạc Bút Ông nói:
– Tiểu đệ cũng chả hiểu ra sao, bốn người đang ngồi nhắm rượu, bỗng dưng cả bọn bị trúng độc. Lộc sư ca mau đưa thuốc giải cho bọn đệ uống.
Lộc Trượng Khách nghe vậy thì trấn tĩnh lại, đặt nàng Hàn cơ xuống giường, quay mặt vào tường, Hạc Bút Ông vốn biết vị sư ca này trăng hoa thành tính, trong phòng lão có đàn bà con gái cũng chẳng lấy làm lạ, huống hồ Hạc Bút Ông đã trúng độc, đang hoảng hồn, hơi đâu để ý xem nữ nhân kia là ai. Dẫu lúc bình thường Hạc Bút Ông cũng chẳng nhận ra nữ nhân kia là ai, bởi trong bữa tiệc rượu nọ, nàng Hàn cơ chỉ ra chuốc rượu một lần rồi lui vào, Hạc Bút Ông chỉ chăm chăm uống rượu, đâu có để ý nhìn mặt mũi nàng đẹp hay xấu thế nào.
Lộc Trượng Khách nói:
– Mời Khổ đại sư sang phòng Hạc đệ nghỉ ngơi, tại hạ sẽ mang thuốc giải sang ngay.
Lão vừa nói vừa giơ tay đẩy nhẹ hai người ra khỏi phòng. Cái đẩy ấy khiến Hạc Bút Ông lảo đảo suýt ngã. Phạm Dao cũng loạng choạng theo, giả bộ mất hết nội lực. Tuy nhiên do nội lực thâm hậu, nên khi y bị ngoại lực tác động tới liền tự nhiên sinh ra sức kháng cự. Lộc Trượng Khách vừa đẩy nhẹ, thì biết Hạc Bút Ông đã mất hết nội lực, còn Phạm Dao thì giả vờ. Lão sợ mình đánh nhầm, lại dùng lực đẩy thêm một cái nữa. Lần này cả hai đều lảo đảo, nhưng một người thì chân nam đá chân chiêu, còn người kia thì vững hơn.
Lộc Trượng Khách vờ như không, cười nói:
– Khổ đại sư, thật là đắc tội.
Nói rồi lão giơ tay ra gọi là đỡ, nhưng thực chất là nắm ngay hai huyệt Hội Tông và Ngoại Quan ở cổ tay Phạm Dao. Phạm Dao thấy y ra tay như thế, biết mình đã bại lộ, bèn vung tay trái đánh mạnh vào huyệt Hồn Môn ở sau lưng Hạc Bút Ông, để lão ta toàn thân rã rời, nhất thời chưa cử động được. Tạm loại trừ một trong hai đại cao thủ, còn một đấu một với Lộc Trượng Khách thì không có gì sợ. Phạm Dao cười khẩy, nói:
– Ngươi không muốn sống nữa hay sao mà dám đi cướp cả ái thiếp của vương gia?
Phạm Dao vừa mở miệng nói, thì Huyền Minh nhị lão kinh ngạc ngớ người ra. Hai lão biết Khổ đầu đà mười lăm mười sáu năm nay, chưa từng nghe y nói nửa lời, vẫn cứ tưởng rằng bẩm sinh y là người câm. Lộc Trượng Khách tuy đã biết Phạm Dao như vậy là không có ý định tốt lành gì, y đã đóng vai câm ngần ấy năm, thì tình cảnh của lão bây giờ rõ ràng rất nguy hiểm, bèn nói:
– Thì ra Khổ đại sư không phải câm thật, mười mấy năm nay khổ công che giấu như thế là để làm gì?
Phạm Dao đáp:
– Vương gia biết tiên sinh tâm địa đáng ngờ, sai ta đóng giả vai người câm để tiện giám sát tiên sinh.
Câu này thực ra có nhiều sơ hở, nhưng lúc này nàng Hàn cơ đang nằm trên giường, Lộc Trượng Khách vốn có tà ý, không thể không tin, huống hồ lão biết Nhữ Dương Vương rất giỏi ràng buộc chồng chéo đối với thuộc cấp, nên vừa nghe câu đó của Phạm Dao thì Lộc Trượng Khách chột dạ, nói:
– Vương gia sai đại sư đến bắt ta ư? Võ nghệ của đại sư tuy cao, nhưng chắc đã làm gì nổi ta?
Nói xong vung trượng lên toan động thủ.
Phạm Dao cười, nói:
– Lộc tiên sinh, Khổ đầu đà võ công tuy chưa bằng tiên sinh, nhưng đôi bên chẳng thua kém bao nhiêu. Tiên sinh muốn đánh bại ta, e rằng trong một vài trăm chiêu chưa chắc làm nổi. Tiên sinh thắng vài chiêu không khó, nhưng vừa muốn cắp nàng Hàn cơ đi, vừa muốn cứu sư đệ, thì Lộc Trượng Khách đừng có hòng.
Lộc Trượng Khách đưa mắt nhìn sư đệ, biết lời nói của Khổ đầu đà quả không ngoa. Lão và sư đệ từ nhỏ đồng môn học nghệ, cùng lớn lên cho đến già, mấy chục năm chưa từng rời nhau một ngày. Hai lão đều không vợ không con, có thể nói coi nhau hơn cả ruột thịt, bảo lão bỏ sư đệ trốn đi một mình thì không nỡ lòng nào.
Phạm Dao thấy lão có vẻ do dự, liền quát gọi Tôn Tam Hủy và Lý Tứ Thôi vào phòng, đóng chặt cửa lại, nói:
– Lộc tiên sinh, việc này chưa bại lộ, hãy cứ tin vào Khổ đầu đà này nhất định sẽ che giấu cho tiên sinh đến cùng.
Lộc Trượng Khách lấy làm lạ, hỏi:
– Làm thế nào che giấu được?
Phạm Dao không thèm quay đầu, đưa tay ngược ra đằng sau điểm huyệt Tôn, Lý hai gã, thủ pháp nhanh nhẹn, chuẩn xác, khiến cả hai không nói và cử động được. Lộc Trượng Khách cũng phải thầm thán phục. Phạm Dao nói:
– Chính tiên sinh không mang chuyện này đi kể, thì sư đệ cũng chẳng làm khó với tiên sinh. Khổ đầu đà vốn là người câm, thì từ nay cũng tiếp tục làm người câm. Còn hai gã này, Khổ đầu đà sẽ giúp tiên sinh bằng cách điểm vào tử huyệt để diệt khẩu, đâu có ngại gì.
Tôn, Lý hai gã cả kinh thất sắc, nghĩ bụng chuyện này vốn chẳng dính dáng gì tới mình, ngờ đâu chỉ vì vài miếng thịt chó mà đại họa giáng xuống đầu, muốn ngỏ lời cầu xin nhưng đã bị điểm huyệt không nói ra được.
Phạm Dao chỉ về phía nàng Hàn cơ, nói:
– Còn về nàng ái thiếp này, ta có hai cách. Một là phủi tay, đem nàng ta cùng hai gã Tôn, Lý đến chỗ nào vắng vẻ, cho mỗi đứa một dao rồi về báo với vương gia rằng nàng cùng Lý Tứ Thôi tằng tịu với nhau, rủ nhau bỏ trốn, bị Khổ đầu đà tóm được, nổi giận chém chết gian phu dâm phụ, giết lây cả gã Tôn Tam Hủy. Cách thứ hai là tiên sinh mang nàng giấu kín ở một nơi nào đó, còn chuyện sau đó có bại lộ hay không thì tùy ở tiên sinh cả.
Lộc Trượng Khách bất giác ngoảnh lại nhìn nàng Hàn cơ, thấy ánh mắt nàng đầy vẻ khẩn cầu, rõ ràng muốn lão làm theo cách thứ hai. Lộc Trượng Khách thấy khuôn mặt xinh xắn trời cho kia mà đem giết đi thì đáng tiếc vô cùng, chợt xúc động nói:
– Đa tạ đại sư đã sắp đặt cho ta chu đáo như thế. Vậy đại sư muốn ta làm việc gì đây?
Lão thừa biết Khổ đầu đà ắt có chuyện phải nhờ lão, nếu không đã chẳng tử tế như thế.
Phạm Dao nói:
– Việc ta nhờ quá dễ. Chưởng môn phái Nga Mi Diệt Tuyệt sư thái và ta có giao tình sâu xa, cô nương họ Chu là con riêng của ta với Diệt Tuyệt lão ni. Ta xin tiên sinh cho thuốc giải và thả hai người đó ra. Trước mặt quận chúa, ta sẽ nhận tất cả; nếu để liên lụy đến tiên sinh, thì gia đình Khổ đầu đà và Diệt Tuyệt lão ni sẽ bị trai trộm cắp, gái đĩ điếm, chết mất xác, mãi mãi không được trở lại kiếp người.
Phạm Dao nghĩ Lộc Trượng Khách là kẻ lẳng lơ, nếu dùng ngay chuyện trai gái tằng tịu thì lão ta sẽ dễ tin hơn. Y nghe Dương Tiêu kể ra rất nhiều huynh đệ Minh giáo bỏ mạng dưới kiếm của Diệt Tuyệt sư thái, nên bịa luôn ra câu chuyện hòa thượng ni cô kia. Một đời y tà tính thành thói, nói năng hành sự quyết không thể giống như một chính nhân quân tử thông thường, về chuyện thề thốt cái kiểu “trai trộm cắp, gái đĩ điếm, chết mất xác”, thì y chẳng buồn để tâm.
Lộc Trượng Khách nghe xong ngẩn ra, rồi mỉm cười, nghĩ thì ra Khổ đầu đà gây chuyện bức bách lão cốt để cứu mụ tình nhân già cùng đứa con gái của lão, âu cũng là chuyện thường tình, việc này tuy khá nguy hiểm, nhưng đổi lại được một giai nhân tuyệt sắc thì cũng đáng. Lão thấy Khổ đầu đà có việc cầu đến mình, thì bớt hẳn được mối lo, cười hỏi:
– Việc cướp ái thiếp của vương gia mang tới đây cũng là do Khổ đại sư làm phải không?
Phạm Dao đáp:
– Nhờ người một việc lớn như thế, đâu có thể tay không đến cầu? Cũng phải có gì đền đáp.
Lộc Trượng Khách cả mừng, chỉ là sợ bên ngoài có người nên chưa dám cười thành tiếng. Đột nhiên lão nghĩ lại, hỏi thêm:
– Còn sư đệ của ta tại sao lại trúng phải “Thập hương nhuyễn cân tán”? Thứ độc dược ấy đại sư kiếm đâu ra?
Phạm Dao đáp:
– Việc đó khó gì? Lệnh sư đệ hiện đang giữ thứ độc dược ấy, y là người mê rượu, uống say rồi thì không lẽ Khổ đầu đà này không lấy trộm được của y hay sao?
Lộc Trượng Khách không còn nghi ngại nữa, nói:
– Hay lắm! Khổ đại sư, hai ta kết giao bằng hữu với nhau, ta quyết không bán rẻ Khổ đại sư, mong Khổ đại sư cũng đừng đẩy ta vào chỗ khó thế này.
Phạm Dao chỉ Hàn cơ, nói:
– Lần sau nếu còn một giai nhân tuyệt sắc khác như thế kia, Lộc tiên sinh hãy cứ sắp đặt đưa ta vào tròng, ta vui lòng chui vào ngay.
Hai người nhìn nhau cười, nhưng trong thâm tâm mỗi người một chủ ý. Lộc Trượng Khách ngầm tính toán, sau khi xong xuôi sẽ xuất kỳ bất ý đánh chết Khổ đầu đà. Còn Phạm Dao thừa biết Lộc Trượng Khách tuy nhất thời bị mình ép buộc, nhưng Huyền Minh nhị lão đâu phải là hạng người sau khi bị một vố như hôm nay lại chịu bỏ qua; chỉ cần đưa Hàn cơ đến chỗ an toàn, giải huyệt cho Hạc Bút Ông rồi, lão ta sẽ sờ đến mình ngay nhưng khi đó thì các cao thủ sáu đại môn phái đã được cứu ra, mình đã phủi đít biến đi rồi.
Phạm Dao thấy Lộc Trượng Khách cứ chần chừ chưa chịu đưa thuốc giải ra, nghĩ bụng nếu thúc giục, lão sẽ càng làm khó thêm, bèn ngồi xuống, cười nói:
– Lộc huynh sao không giải huyệt cho nàng Hàn cơ, rồi ta cùng uống vài chén cho vui? Dưới đèn ngắm mỹ nhân, cái diễm phúc ấy phải tu mấy kiếp mới có đấy!
Lộc Trượng Khách biết rằng trong chùa Vạn An người qua kẻ lại, Hàn cơ ở đây thêm khắc nào nguy hiểm thêm khắc đó, bèn lấy cây gậy sừng hươu, mở một nhánh, đổ từ đó ra chén một chút bột, nói:
– Khổ đại sư, đại sư quả là thần cơ diệu toán, huynh đệ cam chịu lép vế; thuốc giải đây, nhận lấy đi.
Phạm Dao lắc đầu:
– Cho một chút bột như thế thì làm được gì?
Lộc Trượng Khách nói:
– Đừng nói cứu hai người, dùng cho sáu, bảy người cũng đủ.
Phạm Dao nói:
– Tiên sinh hà tất quá keo kiệt, cho xin thêm một chút nữa đi có sao? Thú thực, tiên sinh túc trí đa mưu lắm, Khổ đầu đà ta chỉ sợ bị tiên sinh lừa cho thôi.
Lộc Trượng Khách thấy Phạm Dao đòi cho thêm thuốc giải, thì sinh nghi, hỏi:
– Khổ đại sư định cứu không chỉ Diệt Tuyệt sư thái và lệnh ái phải không?
Phạm Dao đang định nghĩ cách trả lời cho khéo, bỗng nghe ngoài sân có tiếng chân rầm rập, phải bảy, tám người chạy tới, một người nói:
– Dấu chân tới đây, chẳng lẽ Hàn cơ lại đang ở trong chùa Vạn An hay sao?
Lộc Trượng Khách mặt biến sắc, chộp cái chén đựng thuốc giải cất vào bọc, nghĩ rằng Khổ đầu đà cho người phục sẵn ở bên ngoài, lấy được thuốc giải rồi sẽ phản mình ngay.
Phạm Dao xua xua tay, ngụ ý đừng kinh hoảng, lấy một tấm chăn mỏng phủ lên người Hàn cơ kín từ chân lên đầu, buông màn xuống. Lại nghe bên ngoài một người hỏi:
– Lộc tiên sinh có nhà hay không?
Phạm Dao chỉ vào miệng mình, ngụ ý mình câm, bảo Lộc Trượng Khách lên tiếng trả lời. Lộc Trượng Khách quát to:
– Cái gì thế?
Người ngoài kia nói:
– Vương phủ có một người thiếp bị kẻ gian cướp đi, theo dấu chân của kẻ gian thì tới đây.
Lộc Trượng Khách tức giận nhìn Phạm Dao, ngụ ý nói, nếu không phải ngươi cố ý giá họa, thì với tài nghệ của mình, ngươi làm sao lại để dấu vết như thế? Phạm Dao nhếch mép cười, giơ tay ra hiệu bảo lão ta đuổi bọn kia đi, trong bụng nghĩ thầm: “Vi Bức Vương vu vạ tài thật, để dấu chân từ vương phủ đến tận đây”.
Lộc Trượng Khách lạnh lùng nói to:
– Các người không biết chia nhau đi mà tìm, còn đứng đó léo nhéo gì nữa?
Với địa vị võ công như lão, ai ai cũng phải kiêng nể; bọn bên ngoài không dám nói gì thêm, chỉ vâng dạ chia nhau đi lùng xung quanh. Lộc Trượng Khách biết lúc này xung quanh chùa Vạn An đều có nhiều người truy tìm; tuy họ không dám vào phòng lão lục soát, nhưng ôm được Hàn cơ đi chỗ khác giấu thật khó vô cùng; lão bất giác cau mày khó chịu nhìn Khổ đầu đà.
Phạm Dao chợt nghĩ ra một cách, hạ giọng, nói:
– Lộc huynh, chùa Vạn An có một nơi kín đáo, có thể giấu tạm mỹ nhân của huynh, chờ một hai ngày việc lùng sục đỡ gắt gao, lúc đó mang đi nơi khác cũng chưa muộn.
Lộc Trượng Khách giận dữ nói:
– Trừ phi giấu ngay trong phòng của đại sư.
Phạm Dao cười nói:
– Mỹ nhân thế kia giấu vào buồng của ta, chỉ e ta không kìm được thôi. Lộc huynh có ghen không đã?
Lộc Trượng Khách hỏi:
– Thế đại sư bảo nên giấu ở đâu?
Phạm Dao giơ tay chỉ ngọn tháp ở bên ngoài cửa sổ, mỉm cười.
Lộc Trượng Khách thông minh cơ trí, thoáng cái hiểu ngay, giơ một ngón tay cái lên khen:
– Ý rất hay!
Tòa bảo tháp hiện đang nhốt các cao thủ sáu đại môn phái, tổng quản canh chừng chính là Ô Vượng A Phổ, đại đệ tử của Lộc Trượng Khách. Người ta có thể nghi mọi chỗ, nhưng không ai ngờ ái thiếp của vương gia lại được giấu ở chính nơi đang canh giữ tối nghiêm mật này. Phạm Dao nói nhỏ:
– Hiện giờ ngoài sân không có ai, chẳng nên chần chừ, ta làm ngay thôi.
Đoạn cuốn nàng Hàn cơ trong tấm chăn, nhấc lên giao cho Lộc Trượng Khách.
Lộc Trượng Khách nghĩ bụng, ngươi đừng hòng lừa ta, ta mà ôm Hàn cơ bước ra, ngươi sẽ kêu toáng lên, lúc ấy tang chứng rành rành, hết bề chối cãi. Nghĩ thế, lão bất giác mặt biến sắc, không giơ tay ra nhận. Phạm Dao đoán được bụng dạ lão, bèn nói:
– Đã giúp thì giúp cho trót, tiễn Phật tiễn tận Tây Thiên. Khổ đầu đà ta hôm nay làm thêm việc đưa dâu nữa vậy. Ai bảo mình có việc phải cầu người làm chi?
Nói xong ôm cái bọc chăn, đẩy cửa bước ra, nói nhỏ:
– Tiên sinh đi trước dẹp đường, kẻ nào ngăn cản truy hỏi, cứ giết quách nó đi.
Lộc Trượng Khách nghiêng mình lách ra trước, chứ không dám giơ lưng ngay trước mặt Phạm Dao, sợ Phạm Dao đánh lén phía sau. Phạm Dao đưa tay khép cửa lại, vác nàng Hàn cơ đi lên bảo tháp.
Lúc này đã cuối giờ Tuất[109], ngoài các võ sĩ canh gác bảo tháp, không có ai khác. Bọn họ trông thấy Lộc Trượng Khách và Phạm Dao, đều nhất tề cúi mình hành lễ, kính cẩn nép sang một bên. Hai người chưa đến chân tháp, Ô Vượng A Phổ được thủ hạ báo tin, đã chạy ra đón, nói:
– Sư phụ, hôm nay lão nhân gia nổi hứng lên tháp ngồi chơi ư?
Lộc Trượng Khách gật đầu, cùng Phạm Dao đang định đi lên tháp, đột nhiên từ cái cửa tròn ở phía đông bảo tháp có một người bước tới, chính là Triệu Mẫn.
Lộc Trượng Khách có tật giật mình, cả kinh, cứ tưởng Triệu Mẫn đích thân dẫn thủ hạ đến bắt lão, chưa biết sao đành cứ cùng Phạm Dao và Ô Vượng A Phổ tiến lên vái chào.
Đêm qua Trương Vô Kỵ đến quấy rối, Triệu Mẫn không biết Minh giáo chỉ có ba người, chỉ sợ họ đem lực lượng lớn đến tấn công, nên nàng thân chinh tới đây xem xét, thấy Phạm Dao cũng đang có mặt, thì mỉm cười, nói:
– Khổ đại sư, ta đang tìm đại sư đây.
Phạm Dao gật đầu, thản nhiên như không. Triệu Mẫn nói:
– Ta cần đại sư cùng ta đến một nơi.
Phạm Dao thầm kêu khổ: “Mãi mới dụ được Lộc Trượng Khách lên tháp, mình ra tay lấy được thuốc giải, thế là đại thành công, ai ngờ con nhãi này lại đến đây tìm mình”. Phạm Dao toan tìm cớ thoái thác, nhưng chưa nghĩ ra cách gì, huống hồ y giả câm, muốn thoái thác cũng không thể nói, bèn nghĩ thầm: “Cứ để cho Lộc Trượng Khách nghĩ cách vậy”. Bèn chỉ cái bọc chăn đang ôm, ra hiệu với Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách hoảng hồn, chửi thầm Khổ đầu đà hại mình.
Triệu Mẫn hỏi:
– Lộc tiên sinh, Khổ đại sư ôm cái bọc gì vậy?
Lộc Trượng Khách đáp:
– À, ờ, là chăn gối của Khổ đầu đà.
Triệu Mẫn ngạc nhiên:
– Chăn gối ư? Khổ đại sư mang chăn gối đi làm gì? Nàng tủm tỉm cười, nói tiếp:
– Khổ đại sư thấy ta tối dạ quá, không chịu nhận ta làm đệ tử, tức mình ôm chăn gối bỏ đi phải không?
Phạm Dao lắc đầu, tay phải chỉ trỏ lung tung, nghĩ thầm: “Cứ mặc cho Lộc Trượng Khách tìm cách nói láo, mình giả câm cũng có cái hay của kẻ câm”. Triệu Mẫn không hiểu điệu bộ của Phạm Dao nghĩa là gì, cứ nhìn Lộc Trượng Khách chờ lão ta giải thích.
Lộc Trượng Khách nghĩ ra một cớ, nói:
– Chuyện là thế này, tối qua bọn Ma giáo đến phá rối, thuộc hạ sợ chúng có mưu đồ lớn, không chừng… không chừng chúng đến tháp cứu người. Cho nên huynh đệ thuộc hạ cùng với Khổ đại sư quyết định ở ngay trên tháp, đích thân canh giữ, để khỏi hỏng đại sự của quận chúa. Vì thế Khổ đại sư mang chăn gối lên đây.
Triệu Mẫn cả mừng, vui vẻ nói:
– Ta vẫn có ý nhờ Lộc tiên sinh và Hạc tiên sinh đích thân canh giữ, nhưng lại sợ phiền hai vị quá nên không tiện nói ra. Không ngờ cả ba vị lại chia sẻ mối lo với ta, thật không gì quý bằng. Có Lộc, Hạc hai vị tiên sinh ở đây trấn giữ, mấy tên ma đầu sẽ chẳng dám tới, ta không cần lên tháp xem xét nữa. Khổ đại sư hãy theo ta đi đằng này.
Nói xong nàng giơ tay kéo tay Phạm Dao. Phạm Dao không còn cách nào khác, nghĩ thầm lúc này có bịa ra âm mưu của Lộc Trượng Khách thì cũng vô ích, thứ nữa Hàn cơ đang do chính mình ôm theo, đổ cho Lộc Trượng Khách thì vị tất Triệu Mẫn đã tin, đành giao cái bọc chăn cho Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách đỡ lấy, nói:
– Khổ đại sư, huynh đệ chờ đại sư ở trên tháp đó.
Ô Vượng A Phổ nói:
– Sư phụ, để đệ tử mang cái bọc chăn cho.
Lộc Trượng Khách cười, nói:
– Không sao, đây là đồ của Khổ đại sư, ta đang muốn lấy lòng đại sư, phải tự mang giùm mới được.
Phạm Dao nhếch mép cười, giơ tay vỗ vào cái bọc, trúng ngay mông nàng Hàn cơ. Cũng may nàng ta đã bị điểm huyệt, không kêu lên được, song Lộc Trượng Khách cũng sợ tái cả mặt, không dám dây dưa nữa, vội cúi mình chào Triệu Mẫn, ôm cái bọc đi lên tháp. Lão đã tính sẵn, một khi vào trong tháp, sẽ lập tức lấy một bọc chăn gối thật thay thế, để dẫu Phạm Dao có tố giác với Triệu Mẫn, thì lão cũng sẽ chối phắt đi.