Hồi 21: Nghìn dặm đường trường, mơ hồ mộng ảo

Hồi 21: Nghìn dặm đường trường, mơ hồ mộng ảo

Hai người trở về hướng nam, lại đi vòng qua Nhạn Môn Quan đến một thị trấn nhỏ, tìm một khách điếm. A Châu không chờ Kiều Phong mở miệng đã bảo tiểu nhị lấy hai mươi cân rượu. Tên tiểu nhị thấy hai người không ra vợ chồng, cũng chẳng phải anh em đã lấy làm lạ, nghe đòi lấy hai mươi cân rượu, lại càng thêm ngạc nhiên. Gã đứng ngẩn ra nhìn hai người, không đi lấy rượu cũng chẳng trả lời. Kiều Phong trừng mắt nhìn gã, không giận mà tự nhiên sinh uy. Tên tiểu nhị hoảng hồn vội lật đật quay vào, lẩm bẩm: “Đòi lấy những hai mươi cân rượu, để tắm hay sao?”

A Châu cười nói:“Kiều đại gia! Bọn ta đi tìm Từ trưởng lão, xem ra chỉ chừng hai ngày là bị phát giác. Lúc đó đại gia vừa đi đường vừa đánh giết tuy cũng vui thật, nhưng Từ trưởng lão nghe hơi gió đã chạy mất dép thì làm sao bắt ông ta được?”

Kiều Phong cười ha hả nói: “Cô đừng có đưa ta lên mây. Giả tỷ trên đường gặp ai đánh nấy, địch nhân mỗi lúc kéo đến một đông mà mình chỉ có hai người, tất bị toi mạng.” A Châu nói: “Nếu chỉ nguy hiểm thì cũng không đến nỗi, nhưng bọn chúng cúp đuôi chạy trốn hết thì mới là hỏng bét.” Kiều Phong nói: “Vậy có tính thế nào? Hay là chúng ta ngày nghỉ đêm đi, có được chăng?”

A Châu mỉm cười nói: “Muốn bọn họ không nhận ra mình cũng chẳng khó gì. Có điều Kiều đại hiệp danh vang khắp thiên hạ, không biết có chịu cải trang hay không?” Nàng nói tới nói lui, cũng có hai chữ “cải trang” Kiều Phong cười nói: “Ta không phải người Hán, đã không muốn mặc bộ Hán phục này nữa rồi. Thế nhưng ở Trung Nguyên mà mặc y phục Khất Đan thì đi lại thật bất tiện. A Châu! Cô bảo ta cải trang thế nào đây?” A Châu đáp: “Đại gia oai phong tuấn tú, ai thấy cũng chú ý. Tốt nhất là cải trang thành một nhân vật giang hồ tầm thường, bộ dạng không có gì đặc biệt. Người ta đi một ngày đường phải gặp cả trăm người như thế, chẳng ai thèm để ý đến.” Kiều Phong vỗ tay khen: “Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Uống rượu xong cô cứ cải trang cho ta.”

Chàng uống hết hai mươi cân rượu rồi, A Châu liền bắt tay vào việc. Nàng vừa nhồi vừa dán đủ loại bột mì, hồ dán, a dao, bao nhiêu điểm khác người trên mặt Kiều Phong đều biến mất, lại thêm cho chàng một bộ ria mép. Kiều Phong được hóa trang xong lấy gương soi, thì chính mình cũng không nhận ra mình nữa. Sau đó A Châu cũng tự cải trang thành một hán tử trung niên. Nàng vừa cười vừa nói: “Tướng mạo của đại gia đã thay đổi rồi, thế nhưng khi nói năng hay uống rượu là người ta nhận ra ngay.” Kiều Phong gật đầu: “Ừ! Thế thì ta nói ít đi, uống ít rượu là xong.”

Từ đó trên đường xuôi nam, Kiều Phong hết sức giữ ý, ít khi mở miệng, mỗi bữa cơm cũng chỉ uống hai ba cân rượu.

Một hôm đến Tam Giáp Trấn ở Tấn Nam, hai người ghé vào một tiệm mì, bỗng nghe ngoài cửa có hai gã ăn mày nói chuyện với nhau. Một gã nói: “Từ trưởng lão chết thê thảm quá, gân cốt trước ngực sau lưng đều đứt hết. Chắc lại là gã ác tặc Kiều Phong hạ độc thủ.” Kiều Phong rùng mình nghĩ thầm: “Từ trưởng lão chết rồi sao?” Chàng liền đưa mắt về phía A Châu.

Lại nghe một gã khác nói: “Ngày mai phát tang tại thành Vệ Huy tỉnh Hà Nam, các trưởng lão cùng huynh đệ trong bang đều đến phúng điếu, chắc sẽ bàn cách bắt Kiều Phong.” Gã ăn mày lại nói mấy câu tiếng lóng, nhưng Kiều Phong nghe cũng hiểu ngay. Y nói là Kiều Phong thanh thế rất lợi hại, không thể nói năng lung tung để thủ hạ của y nghe được.

Kiều Phong cùng A Châu ăn mì xong liền rời Tam Giáp Trấn. Ra khỏi thị trấn, Kiều Phong mới nói: “Bọn ta thử đến Vệ Huy xem sao, không chừng nghe ngóng được chút manh mối.” A Châu đáp: “Phải rồi, cố nhiên ta phải tới đó. Nhưng những người đến phúng điếu Từ trưởng lão đều là cố nhân của đại gia. Đại gia nhớ phải cẩn thận cử chỉ ngôn ngữ, chớ để lộ hình tích.” Kiều Phong gật đầu, nói: “Cái đó đã hẳn.” Hai người liền quay sang hướng đông, đi về phía thành Vệ Huy.

Hôm sau hai người đã đến Vệ Huy, trong thành đầy nghẹt đệ tử Cái Bang. Đứa thì vào nhà hàng ngồi ăn uống, đứa thì mổ heo giết chó trong ngõ hẻm, có đứa vừa xin xỏ vừa cướp giật ngay ở ngoài đường. Kiều Phong đau xót trong lòng, thấy đại bang đệ nhất trên giang hồ này chẳng còn qui củ gì. Còn đâu kỷ luật nghiêm minh, còn đâu bộ mặt hưng vượng khi mình nắm quyền bang chủ, mới chẳng bao lâu đã bị người đời coi rẻ. Vẫn biết Cái Bang với chàng này đã đổi bạn ra thù, nhưng chàng không khỏi luyến tiếc bao nhiêu năm tâm huyết của mình, chỉ một ngày tan thành mây khói.

Kiều Phong chợt nghe mấy đệ tử Cái Bang nói mấy câu tiếng lóng với nhau, biết được linh vị của Từ trưởng lão đặt tại một khu vườn hoang phía tây thành. Kiều Phong và A Châu mua ít nhang đèn, vàng mã và đồ lễ tam sinh đi theo người ta đến khấu đầu trước bài vị Từ trưởng lão.

Linh bài của Từ trưởng lão bôi đầy máu tươi, đó là thể lệ của Cái Bang, biểu thị người quá cố bị ám hại mà chết, bản bang phải trả thù rửa hận. Trong linh đường ai nấy thống mạ Kiều Phong kịch liệt, chẳng ngờ chàng đang ở ngay bên cạnh. Kiều Phong thấy chung quanh toàn là nhân vật đầu não của Cái Bang, sợ lộ hành tung nên không dám nấn ná, lập tức sóng vai A Châu đi ra. Chàng nghĩ thầm: “Từ trưởng lão chết rồi, trên đời này lại bớt đi một người biết Thủ lĩnh đại ca.”.

Bỗng nhiên ở đầu hẻm tít đằng xa có một bóng nữ nhân cao to thấp thoáng lướt qua. Kiều Phong nhanh mắt nhận ngay ra Đàm bà, nghĩ bụng: “Hay quá, chắc là mụ đi viếng Từ trưởng lão đây, ta khỏi phải đi tìm” Lại thêm một người nữa vụt qua, khinh công cực cao, chính là Triệu Tiền Tôn.

Kiều Phong ngạc nhiên: “Hai người này thậm thụt với nhau, chắc có tình ý gì đây.” Chàng biết hai vị sư huynh muội này đã có một đoạn tình sử dây dưa đến nay chưa dứt, nghĩ thầm: “Cả đôi đều sáu bảy chục tuổi rồi, chẳng lẽ còn lén lút tư tình hay sao?”. Bản tính Kiều Phong vốn không ưa dính líu vào chuyện riêng tư của người khác, nhưng Triệu Tiền Tôn biết Thủ lĩnh đại ca là ai, mà chắc Đàm công Đàm bà cũng biết. Chàng nghĩ, nếu mình khám phá được bí ẩn bên trong, không chừng sẽ bức bách được họ phải thổ lộ ra, bèn ghé tai A Châu dặn nhỏ: “Nàng cứ ở khách điếm chờ ta.” A Châu gật đầu, Kiều Phong lập tức đuổi theo hướng Triệu Tiền Tôn vừa chạy.

Triệu Tiền Tôn hành tung có vẻ bí mật, hết núp dưới góc tường phía đông lại nép vào chái nhà phía tây, tiến ra phía cửa đông thành. Kiều Phong bám theo xa xa, không hề bị phát giác. Thấy y chạy đến bờ sông, khom người chui vào khoang một chiếc thuyền gỗ lớn, Kiều Phong liền đề khí chạy tới, chỉ nhô lên thụt xuống mấy cái đã đến bên thuyền, rồi nhẹ nhàng nhảy lên mui nằm phục xuống, ghé sát tai nghe lỏm.

Trong khoang thuyền, Đàm bà thở dài một tiếng rồi nói: “Sư ca! Chúng ta đã già rồi, chuyện ngày xưa có hối hận thì cũng đã muộn, nhắc lại làm gì?” Triệu Tiền Tôn đáp: “Cuộc đời ta coi như bỏ đi rồi, hối hận mà làm gì? Tiểu Quyên ơi, ta hẹn nàng ra đây cũng chẳng có ý gì quan trọng, chỉ mong được nghe lại mấy khúc hát năm xưa nàng vẫn thường hát mà thôi.” Đàm bà thở dài nói: “Trời ơi! Sao sư huynh si tình đến thế? Lang quân của muội tới Vệ Huy thấy sư ca đã không lấy gì làm vui, y lại đa nghi, sư ca không nên lại gần tiểu muội là hơn.” Triều Tiên Tôn đáp: “Sợ quái gì cơ chứ? Chúng ta là sư huynh sư muội quang minh lỗi lạc, đến đây nhớ lại chuyện xưa, có gì mà không được?” Đàm bà lại thở dài một tiếng, nhỏ nhẹ nói: “Mấy khúc hát năm xưa, mấy khúc hát năm xưa…”

Triệu Tiền Tôn thấy bà đã động lòng, lại cố năn nỉ tiếp: “Tiểu Quyên! Hôm nay chúng ta gặp nhau, không biết bao giờ mới lại trùng phùng. Lỡ mà mạng ta chẳng được dài, nàng có muốn hát thì ta cũng chẳng có phúc được nghe nữa.” Đàm bà nói: “Sư ca chớ có nói gở như thế. Nếu sư ca thật sự muốn nghe, thì để tiểu muội hát thầm một khúc cho sư ca nghe.” Triệu Tiền Tôn vui mừng nói: “Hay quá! Tiểu Quyên ơi, đa tạ sư muội.”

Đàm bà liền thầm thì hát:“Năm xưa thiếp ra sông giặt áo, Chàng trên cầu nhẹ gót theo sau…”

Mới hát được hai câu, nghe có tiếng lách cách, cửa khoang thuyền bị mở tung, một đại hán xông vào. Kiều Phong đã cải trang nên Đàm bà và Triệu Tiền Tôn không nhận ra. Hai người đang hoảng hốt, thấy không phải là Đàm công nên cũng hơi yên tâm, quát hỏi: “Ngươi là ai?” Kiều Phong lạnh lùng nhìn hai người, nói: “Một tên khinh bạc vô hạnh, dụ dỗ phụ nữ có chồng, một tên dâm đãng vô sỉ, trốn chồng đi gặp tình nhân…”

Chàng chưa nói hết câu, Đàm bà và Triệu Tiền Tôn đã ra tay, hai bên tả hữu cùng đánh tới. Kiều Phong né người đi một chút, xoay tay một cái chộp vào cổ tay Đàm bà, lại thúc khuỷu tay tấn công vào sườn bên trái Triệu Tiền Tôn. Triệu Tiền Tôn và Đàm bà đều là cao thủ hạng nhất, những tưởng chỉ một chiêu là hạ được đối phương. Ngờ đâu con người tướng mạo tầm thường kia lại có võ công cao siêu đến thế, vừa ra tay đã chuyển thủ thành công. Trong chỗ chật hẹp, hai người không thể thi triển tài nghệ, còn Kiều Phong đánh xa đánh gần gì cũng giỏi. Khoang thuyền rộng chưa đầy một trượng, chàng sử dụng toàn cầm nã thủ và đòn nhập nội cực kỳ linh động. Đến hiệp thứ bảy thì hông Triệu Tiền Tôn bị trúng một chỉ, Đàm bà luống cuống chậm tay một chút, bị một chưởng vào lưng, quỳ xuống ván thuyền.

Kiều Phong lạnh lùng nói: “Hai vị cứ ở đây nghỉ ngơi. Ở khu vườn hoang trong thành Vệ Huy đang có rất nhiều anh hùng hảo hán đến viếng Từ trưởng lão, ta đi mời họ tới đây bình phẩm vụ này sai đúng thế nào.”

Triều Tiền Tôn và Đàm bà cả kinh, cố gắng vận khí nhưng huyệt đạo đã bị phong tỏa, ngay cả đầu ngón tay cũng không động đậy được. Hai người đều đã cao niên, thực ra cũng không làm điều gì càn rỡ quá mức, hẹn nhau ở đây chẳng qua để kể lể tình xưa nghĩa cũ mà thôi. Thế nhưng bấy giờ là thời Bắc Tống, ai cũng coi lễ giáo là hệ trọng, nhất là anh hùng hảo hán mà phạm vào nữ sắc lại càng bị giang hồ đàm tiếu. Một nam một nữ lén lút chui vào khoang thuyền gặp gỡ, ai mà tin nổi hai người chỉ nói chuyện tầm phào, hát cho nhau nghe? Nếu mọi người kéo đến bình phẩm thì còn ra gì nữa? Nhất là Đàm công, chắc chắn mất hết thể diện.

Đàm bà vội nói: “Vị anh hùng kia, chúng ta không có gì đắc tội với các hạ. Nếu có thể dung tình một chút, ta… ta xin báo đáp.” Kiều Phong nói: “Báo đáp thì không cần, tại hạ hỏi một câu. Hai vị chỉ thành thật trả lời ba chữ là tại hạ lập tức giải khai huyệt đạo, phủi tay đi thẳng, vĩnh viễn quên hết việc hôm nay.” Đàm bà nói: “Nếu bà lão này biết được, sẽ xin nói thật.”

Kiều Phong hỏi: “Có người được gọi là Thủ lĩnh đại ca, viết thư cho Uông bang chủ Cái Bang nói về Kiều Phong. Người ấy là ai?”

Đàn bà ngần ngừ chưa đáp, Triệu Tiền Tôn đã vội kêu lên: “Tiểu Quyên! Không được nói! Nghìn vạn lần không được nói!” Kiều Phong trừng mắt nhìn y, hỏi lại: “Ngươi không chịu nói, chấp nhận thân bại danh liệt hay sao?” Triệu Tiền Tôn đáp: “Lão gia thà chết. Vị Thủ lĩnh đại ca có ân với ta, ta nhất quyết không nói ra.” Kiều Phong lại hỏi: “Ngươi bất chấp luôn cả thanh danh của Tiểu Quyên bị tiêu tan, phải không?” Triệu Tiền Tôn đáp: “Nếu Đàm công biết chuyện hôm nay, ta lập tức tự vẫn trước mặt y, lấy cái chết tạ tội, thế là xong hết.”.

Kiều Phong quay sang Đàm bà nói: “Người đó chưa chắc đã có ân nghĩa gì với bà. Vậy bà nói ra đi, không những mọi người đều vui vẻ mà còn bảo toàn được danh dự cho lang quân cùng tính mạng của sư ca nữa.” Đàm bà nghe chàng dọa giết Triệu Tiền Tôn, không khỏi rùng mình nói: “Được! Để ta nói cho các hạ nghe, người đó là..” Triệu Tiền Tôn thét lên: “Tiểu Quyên! Sư muội chớ có nói ra, nhất định chớ có nói ra. Ta van xin muội, khẩn khoản van xin muội. Gã này chắc là thủ hạ của Kiều Phong, chúng ta mà nói ra thì Thủ lĩnh đại ca nguy mất.”

Kiều Phong đáp: “Kiều Phong chính thị là ta! Các ngươi không chịu nói thì hậu họa không biết đâu mà lường.” Triệu tiền Tôn giật mình nói: “Thảo nào bản lĩnh của ngươi ghê gớm quá! Tiểu Quyên! Suốt cuộc đời ta chưa cầu xin nàng việc gì, đây là điều duy nhất ta xin nàng mà nàng cũng không bằng lòng ư?”

Đàm bà nghĩ thầm: “Sư ca thương yêu mình mấy chục năm qua, tình sâu nghĩa nặng, bị mình phụ bạc đã nhiều. Phen này y không tiếc mạng chỉ muốn bảo vệ cho ân nhân, ta không thể nào làm hỏng nghĩa cử của y được.” Bà liền đáp:“Kiều bang chủ, việc ngày hôm nay các hạ muốn thiện hay ác cũng được. Sư huynh muội chúng ta tự vấn lương tâm không có gì đáng thẹn, có đất trời chứng giám. Việc các hạ muốn biết, xin miễn thứ cho bà lão này không thể trả lời.” Mấy câu nói của bà ta tuy lễ độ nhưng rất cương quyết, nhất định không thổ lộ. Triệu Tiền Tôn vui mừng nói: “Tiểu Quyên! Đa tạ nàng, đa tạ nàng.”

Kiều Phong biết có bức bách nữa cũng vô ích, chỉ hừ một tiếng rồi thò tay rút chiếc trâm ngọc trên đầu Đàm bà, nhảy ra khỏi khoang thuyền, chạy về thành Vệ Huy tìm Đàm công. Chàng hóa trang nên dọc đường không ai nhận ra. Đàm công, Đàm bà ngụ tại Như Quý khách điếm, ai cũng biết nên hỏi được ngay.

Đàm Công đang chắp tay sau lưng, bước lui bước tới trong phòng, xem ra cực kỳ bồn chồn. Kiều Phong vào đến khách điếm đưa tay ra, lòng bàn tay nắm sẵn chiếc trâm ngọc của Đàm bà.

Từ lúc phu phụ Đàm công đến Vệ Huy, Triệu Tiền Tôn cứ bám theo như hình với bóng. Đàm công trong dạ đã chẳng an, bây giờ thấy vợ mình biến đâu mất nửa ngày lại càng băn khoăn không hiểu bà ta đang ở chỗ nào, Lão vừa thấy cây trâm của Đàm bà thì nửa sợ nửa mừng, hỏi ngay: “Các hạ là ai? Phải chăng tệ nội nhờ các hạ đến đây dạy bảo việc gì?” Lão vừa nói vừa đưa tay cầm chiếc trâm ngọc. Kiều Phong để ông ta lấy chiếc trâm rồi mới đáp: “Tôn phu nhân bị người ta bắt, nguy đến nơi rồi.” Đàm Công cả kinh nói: “Tệ nội võ công cũng khá, sao lại bị bắt dễ dàng như thế được?” Kiều Phong đáp: “Bị Kiều Phong bắt.”

Đàm công nghe thấy tên Kiều Phong liền hết nghi ngờ, lại càng băn khoăn lo lắng, vội hỏi: “Kiều Phong ư? Ôi chao, nếu vậy thì nguy hiểm quá. Nội nhân ta… đang ở chỗ nào?” Kiều Phong đáp: “Các hạ muốn tôn phu nhân sống thì cũng dễ, mà muốn tôn phu nhân chết thì lại càng dễ hơn.” Đàm công tính tình trầm ổn, tuy nóng nảy trong lòng mà vẻ mặt vẫn bình thản, hỏi lại: “Xin được chỉ giáo.” .

Kiều Phong nói: “Kiều Phong có một việc muốn hỏi Đàm công, nếu các hạ nói thật thì lập tức thả tôn phu nhân ra, không rụng một sợi tóc. Còn nếu các hạ không nói, Kiều Phong chỉ còn cách đem phu nhân xử tử, rồi đem thi thể phu nhân cùng thi thể Triệu Tiền Tôn chôn chung một chỗ.”

Đàm công nghe câu cuối cùng không nhịn được nữa, quát lên một tiếng, vung chưởng đánh vào mặt Kiều Phong. Kiều Phong nghiêng người hơi lùi lại một chút, chưởng đó đánh chệch vào quãng không. Đàm Công cả kinh nghĩ thầm: “Phát chưởng của mình nhanh như điện chớp, ghê gớm đến thế mà y né dễ như chơi.” Lão lại phóng hữu chưởng đánh xéo qua, đồng thời tả chưởng tạt ngang. Kiều Phong thấy trong phòng chật hẹp không dễ gì tránh né được, liền dựng thẳng tay phải lên chịu đòn. Nghe bịch một tiếng, phát chưởng đó đánh trúng cánh tay, Kiều Phong vẫn đứng không nhúc nhích, thuận đà vung tay ra, đè xuống bả vai Đàm công.

Đàm công lập tức cảm thấy vai mình như bị một tảng đá nghìn cân đè lên, vội vàng vận kình chống đỡ nhưng đầu vai như đụng phải một ngọn núi, xương sống kêu răng rắc như muốn gãy, đầu gối khuỵu dần xuống. Lão cố đứng thẳng, không chịu lộ ra vẻ khiếp nhược, nhưng không tự chủ được nữa, hai khớp xưởng đầu gối không chịu được sức nặng ngàn cân, không quì không được.

Kiều Phong cố ý làm nhụt ngạo khí của lão ta nên lại gia tăng kính lực ép xuống, tới lúc lưng Đàm công cong như cánh cung, trán chạm đất trông như khấu đầu lạy lục. Đàm công đỏ mặt tía tai, ra sức vùng vẫy, dồn hết sức lực đẩy người lên. Đột nhiên Kiều Phong buông tay, sức nặng nghìn cân trên vai Đàm công biến mất. Lão ta thu sức về không kịp, người vọt lên cao hơn một trượng, đầu va vào xà nhà đánh rầm một tiếng khiến cây gỗ gãy ra làm đôi.

Kiều Phong không đợi lão rơi lại xuống đất, đưa tay ra chộp lấy ngực. Cánh tay Kiều Phong thật dài mà Đàm công thân hình nhỏ thó, bất luận lão đấm đá thế nào cũng không chạm tới người đối phương. Hơn nữa, hai chân lơ lửng trên không thì dù võ công cao siêu đến đâu cũng khó bề thi thố. Đàm công chợt tỉnh ngộ quát to: “Thì ra ngươi chính là Kiều Phong.” Kiều Phong đáp: “Không sai, Kiều Phong chính thị là ta!”

Đàm công giận dữ nói: “Ngươi… Ngươi… Mẹ kiếp! Sao ngươi lại nói phu nhân ta có dính dáng đến cả thằng khốn kiếp Triệu Tiền Tôn?” Lão giận nhất là câu dọa giết Đàm Bà rồi đem chôn chung với thi thể Triệu Tiền Tôn vào một huyệt.

Kiều Phong nói: “Mụ vợ ngươi dính dáng đến y thì có liên can gì đến ta đâu? Ngươi có muốn biết Đàm bà lúc này đang ở đâu không? Có muốn biết mụ ta đang nói chuyện ngả ngớn, hát xướng tình tang với ai không?” Đàm công nghe nói thế, biết vợ mình đang là lơi với Triệu Tiền Tôn. Lão không dằn lòng được nữa, liền hỏi dồn: “Mụ ta ở đâu? Ngươi dẫn ta đến đó.”

Kiều Phong cười khẩy: “Thế người đã làm gì cho ta chưa? Tại sao ta lại phải dẫn ngươi đi?”

Đàm công nhớ lại lời Kiều Phong yêu cầu mình, liền hỏi: “Ngươi vừa bảo có việc cần hỏi ta. Việc gì vậy?” Kiều Phong đáp: “Hôm trước ở rừng hạnh ngoài thành Vô Tích, Từ trưởng lão có đưa ra một lá thư gửi cho bang chủ tiền nhiệm Cái Bang là Uông Kiếm Thông. Lá thư đó do ai viết?”

Đàm công chân tay run rẩy, lúc này lão đang bị Kiều Phong nhấc lơ lửng, chỉ cần chàng nhả nội lực ra là lão lập tức mất mạng. Thế nhưng trời sinh lão bản tính cương cường, vẫn đáp: “Người đó có thù giết cha ngươi, ta nhất quyết không thể tiết lộ tính danh. Nếu không, người thể nào cũng tìm ông ấy để báo thù, chẳng hóa ra chính ta hại mạng ông ấy hay sao?” Kiều Phong nói: “Ngươi không chịu nói tức là tự hại mạng mình trước.” Đàm công cười ha hả đáp: “Ngươi coi Đàm mỗ là hạng người nào? Là hạng tham sinh úy tử, bán rẻ bạn bè hay sao?”

Kiều Phong thấy lão gắng bảo toàn nghĩa khí, trong lòng rất kính phục. Giả tỷ là chuyện khác thì chắc chàng không truy vấn nữa, nhưng mối thù giết cha mẹ há phải tầm thường? Kiều Phong bèn hỏi lại: “Ngươi không tiếc mạng mình đã đành, chẳng lẽ cũng không tiếc mạng vợ? Thanh danh Đàm công Đàm bà từ đây trôi theo dòng nước để thiên hạ cười chê, ngươi cũng không sợ ư?”

Trong võ lâm thì danh dự là quan trọng nhất, hảo hán trên giang hồ coi thanh danh trọng hơn tính mạng.

Đàm công nghe mấy câu đó bèn nói: “Đàm mỗ ngồi không nghiêng đứng không ngả, bình sinh không làm chuyện có lỗi với bạn bè, làm gì có chuyện thanh danh trôi theo dòng nước để thiên hạ cười chê?” Kiều Phong thản nhiên đáp lại: “Thế nhưng Đàm bà chưa hẳn đã ngồi không nghiêng đứng không ngả, còn Triệu Tiền Tôn chưa hẳn đã không làm chuyện có lỗi với bạn bè.”

Mặt Đàm Công liền đỏ bừng rồi chuyển sang xanh xám. Lão trừng mắt hầm hầm nhìn Kiều Phong.

Chàng buông tay thả lão xuống đất, quay gót đi ngay. Đàm Công không nói một lời, lập tức bước theo. Hai người kẻ trước người sau ra khỏi thành Vệ Huy. Trên đường gặp vô số giang hồ hào khách nhận ra Đàm công, ai cũng cung kính thi lễ nhường lối, lão chỉ ậm ừ có lệ rồi chạy vụt qua. Chẳng mấy chốc hai người đã đến bên chiếc thuyền gỗ.

Kiều Phong tung mình nhảy lên thuyền, chỉ vào trong khoang, nói: “Ngươi vào mà xem cho rõ!” Đàm công nhảy lên theo, nhìn vào trong khoang, thấy vợ mình cùng Triều Tiên, Tôn tựa gối kề vai ngồi nép trong một góc. Lão điên tiết lên, phóng chưởng đánh vào đầu Triệu Tiền Tôn nghe “binh” một tiếng. Triệu Tiền Tôn chỉ lắc lư, không trả đòn cũng không né tránh. Bàn tay Đàm công vừa chạm vào đầu Triệu Tiền Tôn, lão đã phát giác ra có điều kỳ dị, vội vàng đưa tay sờ vào mặt vợ thì thấy giá lạnh như băng, té ra mụ đã chết từ lúc nào rồi. Đàm công run bắn người lên, đặt tay lên mũi bà ta cũng thấy chẳng còn chút hơi thở nào. Lão ngơ ngẩn, đưa tay sờ trán Triệu Tiền Tôn thấy cũng lạnh ngắt, bị phẫn khôn tả, hầm hầm nhìn Kiều Phong bằng cặp mắt tóe lửa.

Kiều Phong thấy Đàm bà cùng Triệu Tiền Tôn bỗng nhiên chết bất đắc kỳ tử thì kinh dị vô cùng. Lúc ra khỏi thuyền, chàng chỉ điểm huyệt hai người, sao hai tay cao thủ này lại chết bất ngờ như thế? Chàng nhấc Triệu Tiền Tôn lên, xem qua không thấy vết thương nào, cũng không có dấu máu, liền giật tung áo trên ngực y nghe soạt một tiếng, thấy một vết bầm thật lớn, hiển nhiên đã trúng chưởng lực rất nặng. Lạ lùng nhất là vết bàn tay hung thủ giống hệt bàn tay chàng.

Đàm công ôm Đàm bà lên, xoay lưng lại, cởi áo bà ta ra xem vết thương trên ngực thấy cũng y hệt Triệu Tiền Tôn. Lão muốn khóc nhưng nước mắt không chịu chảy, nghiến răng nói với Kiều Phong: “Ngươi thật là mặt người dạ thú, cùng hung cực ác!”.

Kiều Phong kinh ngạc không biết phải nói sao, chỉ nghĩ: “Không biết ai ra tay đánh chết Đàm bà và Triệu Tiền Tôn? Kẻ này công lực thâm hậu ghê gớm, không lẽ cũng chính là kẻ đối đầu với mình? Làm sao hắn biết hai người này đang ở trên thuyền?”

Đàm công đau lòng vì vợ yêu chết thảm, vận kình lên hai cánh tay, dốc toàn lực xông vào Kiều Phong. Chàng tránh qua một bên, chỉ nghe tiếng lách cách, chưởng lực của Đàm công đã đánh gãy một bên khoang thuyền. Kiều Phong liền vươn tay ra chộp lấy vai lão, nói: “Đàm công, tôn phu nhân không phải do ta giết, ông có tin thế không?” Đàm công hỏi lại: “Không phải người thì còn ai?” Kiều Phong nói: “Hiện giờ mạng ông ở trong tay ta. Kiều mỗ giết ông dễ như trở bàn tay, nói dối để làm gì?” Đàm công nói: “Ngươi vì muốn tra xét cho ra kẻ giết cha mà ra tay tàn độc. Đàm mỗ tuy võ công không bằng ngươi, nhưng đâu chịu để ngươi coi như thằng ngốc?” Kiều Phong nói: “Được lắm! Ông cho ta biết danh tánh kẻ đã giết cha ta, ta sẽ nhận trách nhiệm báo thù kẻ giết tôn phu nhân”

Đàm công vẻ mặt thê thảm, cười sặc sụa như điên khùng, mấy lần cố vận kình lực để giật khỏi tay Kiều Phong, nhưng chàng vẫn giữ được vai lão một cách nhẹ nhàng. Đàm công giãy giụa mạnh lên thì kình lực của đối phương lại tăng theo, thủy chung vẫn không thoát được. Đàm công đã quyết chí, bèn thè lưỡi ra, hai hàm răng nghiến mạnh một cái tiện đứt đầu lưỡi, miệng đầy máu tươi phun thẳng vào mặt Kiều Phong. Chàng vội buông tay né tránh, Đàm công liền xông tới, đem hết tàn lực giơ chân đạp cái xác của Triệu Tiền Tôn qua một bên, hai tay ôm lấy thi thể Đàm bà, đầu ngoẹo xuống, tắt thở chết ngay.

Kiều Phong nhìn thảm trạng này, trong lòng không khỏi bồi hồi đau xót. Phu phụ họ Đàm và Triệu Tiền Tôn tuy không phải chính tay chàng giết, nhưng cũng vì chàng mà chết. Giả tỷ Kiều Phong muốn hủy diệt vết tích thì chỉ giẫm chân một cái đạp thủng đáy thuyền cho nước chảy vào, mấy cái thi thể chìm xuống đáy sông là xong. Nhưng chàng nghĩ thầm: “Nếu ta che giấu ba cái xác này đi, chẳng hóa ra có tật giật mình hay sao?” Kiều Phong ra khỏi khoang thuyền, nhảy lên bờ tìm xem có dấu chân hay manh mối gì chăng, nhưng tuyệt nhiên không thấy một chút tăm tích.

Chàng rảo bước về khách điếm. A Châu đang đứng ngóng ngoài cửa, thấy Kiều Phong trở về bình yên thì mừng rỡ ra mặt. Nàng nhìn kỹ thấy chàng thần thái bất định, biết ngay việc đuổi theo Triệu Tiền Tôn và Đàm bà chẳng được tích sự gì, bèn hạ giọng hỏi nhỏ: “Đại gia! Thế nào?” Kiều Phong đáp: “Chết sạch rồi!” A Chậu rùng mình hỏi lại: “Cả Đàm bà lẫn Triệu Tiền Tôn ư?” Kiều Phong đáp: “Luôn cả Đàm công nữa, hết thảy ba người.”

A Châu tưởng là chàng giết, trong bụng tuy không hài lòng nhưng không tiện trách cứ, đành nói: “Triệu Tiền Tôn có tham gia sát hại phụ thân đại gia, có giết cũng… cũng là phải.” Kiều Phong lắc đầu đáp: “Không phải ta giết đâu.” A Châu thở ra, nói: “Nếu không phải đại gia giết thì tốt lắm. Tiểu nữ vẫn nghĩ rằng Đàm công, Đàm bà chưa đắc tội với đại gia, có thể tha được. Vậy thì ai giết họ thế?” Kiều Phong lắc đầu: “Ta cũng không biết.” Chàng bấm ngón tay tính toán rồi nói: “Bây giờ chỉ còn có ba người biết tên chính phạm đại ác kia. A Châu! Chúng ta phải hành động thật nhanh, đừng để kẻ địch ra tay trước, việc nào cũng phải chiếm thượng phong.” A Châu đáp: “Đúng thế! Mã phu nhân thì căm giận đại gia thấu xương, dù gì cũng không chịu nói ra đâu, Huống chi áp bức tra hỏi một quả phụ đâu phải là hành vi của bậc đại trượng phu? Còn chùa của Trí Quang hòa thượng thì ở tận Giang Nam. Thôi, mình đến Thái An đất Sơn Đông tìm nhà họ Đơn vậy.”

Kiều Phong khóe mắt lộ vẻ thương xót, nói: “A Châu! Mấy hôm nay nàng quả là cực khổ.” A Châu lớn tiếng gọi: “Chủ quán, mau tính tiền!” Kiều Phong lấy làm lạ hỏi: “Để sáng mai hãy tính, vội gì?” A Châu đáp: “Không được! Chúng ta phải đi suốt đêm, đừng để kẻ địch nhanh hơn lần nữa.” Kiều Phong cảm kích trong lòng, chầm chậm gật đầu.

Đến tối, hai người ra khỏi thành Vệ Huy, trên đường đã nghe thiên hạ bàn tán xôn xao về chuyện Kiều Phong – con quỷ Khất Đan khát máu hạ độc thủ giết chết phu phụ Đàm công và Triệu Tiền Tôn. Những người đó vừa nói chuyện vừa lấm lét nhìn quanh chỉ sợ Kiều Phong bất thần xuất hiện. Họ có biết đâu chàng ở ngay bên cạnh, nếu muốn giết thì chỉ động ngón tay là xong, trốn đâu cho thoát?

Kiều Phong cùng A Châu thuê ngựa, chạy suốt ngày đêm về hướng đông. Cưỡi ngựa ròng rã hai ngày, tuy A Châu chẳng hề than mệt, nhưng mắt nhắm mắt mở suýt ngã mấy lần. Kiều Phong biết nàng không chịu nổi nữa, liền bỏ ngựa thuê xe. Hai người ngồi trên xe ngủ được ba bốn giờ, tinh thần hơi tỉnh táo lại bỏ xe đi ngựa cho nhanh. A Châu vui vẻ nói: “Lần này Tên Đại Ác kia không thể nhanh hơn mình được.” Cả nàng lẫn Kiều Phong đều không biết họ tên kẻ địch, mỗi khi đề cập đến hắn lại gọi là Tên Đại Ác.

Trong lòng Kiều Phong vẫn ngấm ngầm lo âu, thấy Tên Đại Ác này lần nào cũng nhanh hơn mình một bước. Võ công y không kém gì mình, còn mưu lược thì hơn mình xa. Huống gì tới lúc này mình vẫn chưa tìm ra manh mối, còn mình làm gì kẻ địch đều biết rõ. Trong đời Kiều Phong chưa bao giờ gặp một đối thủ lợi hại như vậy, may mà chàng vẫn hào khí ngất trời, không chút sợ hãi.

Gia trang của Thiết diện phán quan Đơn Chính ở ngoài cửa đông huyện thành Thái An, tỉnh Sơn Đông, ai ai cũng biết, Kiều Phong và A Châu đến Thái An thì trời đã xế chiều, hỏi rõ đường đi rồi lập tức băng qua thành tới Đơn gia trang. Hai người ra khỏi cửa đông chừng một dặm bỗng thấy khói bốc ngụt trời, thanh la đánh vang dậy, văng vẳng có tiếng người kêu: “Cháy nhà, cháy nhà! Mau đi cứu hỏa.” Kiều Phong không để ý, cứ phóng ngựa chạy nhanh, càng lúc càng gần đám cháy. Lại nghe tiếng người la lối: “Cứu hỏa mau, cứu hỏa mau! Nhà của Thiết diện Đơn gia đó!”

Kiều Phong và A Châu cùng hoảng hốt ghìm ngựa lại, đưa mắt nhìn nhau nghĩ thầm: “Chẳng lẽ Tên Đại Ác lại đi trước một bước?” A Châu tìm lời an ủi: “Đơn Chính võ công cao cường, dẫu bị cháy nhà cũng không việc gì đâu.”

Kiều Phong lắc đầu. Từ khi chàng giết chết nhị hổ của Đơn gia đã kết oán sâu xa. Lần này đến Thái An tuy không có ý giết người, nhưng chàng biết chắc Đơn Chính cùng anh em con cháu ông ta tất chẳng chịu tha mình, đã chuẩn bị một cuộc đại chiến. Ngờ đâu mình chưa đến được trang viên, đối phương đã bị hỏa tai, trong lòng chàng không khỏi cảm thấy bùi ngùi.

Càng đến gần Đơn gia trang càng thấy hơi lửa nóng táp vào mặt, ánh lửa chiếu đỏ một góc trời, thật là một vụ hỏa hoạn lớn. Dân chúng quanh vùng đổ xô tới chữa lửa, kẻ thì tạt nước, người thì xúc cát hất vào. May mà chung quanh Đơn gia trang đều có hào sâu nên lửa không cháy lan ra chung quanh.

Kiều Phong và A Châu đến gần đám cháy liền xuống ngựa đứng xem. Bỗng nghe một hán tử than thở: “Đơn lão gia là đại hảo nhân, mấy chục năm nay cứu tế chẩn bần đã tích biết bao công đức, thế mà không những cháy nhà, toàn gia hơn ba chục người cũng không một ai thoát ra được.” Một người khác đáp: “Nhất định là kẻ thù phóng hỏa rồi giữ chặt cửa không cho ai chạy ra. Nếu không phải thế, trong Đơn gia đến cả đứa trẻ lên năm cũng biết võ, lẽ nào lại không thoát được?” Người kia bèn nói: “Nghe nói Đơn đại gia, Đơn nhị gia, Đơn ngũ gia đều bị một tên ác tặc tên là Kiều Phong gì gì đó giết hại ở Hà Nam. Lần này đến đây sát nhân phóng hỏa, chẳng phải tên đại ác đó thì còn ai nữa?”

A Châu cùng Kiều Phong mỗi khi đề cập tới kẻ đối đầu đều gọi là Tên Đại Ác. Lúc này nghe mấy người nhà quê cũng gọi mình là tên đại ác, không khỏi đưa mắt nhìn nhau.

Người trẻ tuổi hơn nói: “Nhất định là Kiều Phong rồi!” Y nói đến đây liền hạ giọng xuống, tiếp: “Hẳn là y đưa vô số thủ hạ xông vào trang viện, giết sạch cả nhà họ Đơn không chừa con gà con chó. Trời ơi! Trời không có mắt!” Người lớn tuổi hơn nói: “Thằng cha Kiều Phong kia tội ác ngập đầu, sau này nhất định chết thảm gấp trăm lần các vị đại gia nhà họ Đơn.”

A Châu nghe bọn họ rủa Kiều Phong, tức mình giơ tay vỗ vào cổ ngựa một cái, con ngựa giật mình, phóng chân trái ra đá trúng mông gã kia. Y kêu lên một tiếng, ngã sấp xuống. A Châu hỏi: “Cái miệng dơ bẩn của ngươi nói gì lắm thế?” Gã bị ngựa đá đau, lại nghĩ đến thủ hạ tên đại ác kia hẳn là đông lắm, sợ mất vía không dám có ý kiến gì nữa, vội vàng lủi mất.

Kiều Phong mỉm cười buồn bã, cùng A Châu đến bên đám cháy. Mọi người xôn xao bàn tán, đều nói nam phụ lão ấu nhà họ Đơn hơn ba chục người không ai thoát chết. Kiều Phong ngửi thấy mùi xác người cháy khét lẹt bốc ra, biết là họ nói không sai, cả nhà Đơn Chính chết cháy cả.

A Châu khẽ nói: “Tên Đại Ác này quả là tàn nhẫn. Y giết cha con Đơn Chính đã đành, sao lại phải giết toàn gia, đốt luôn cả trang viện?” Kiều Phong hừ một tiếng nói: “Cái đó kêu bằng nhổ cỏ phải nhổ tận gốc. Nếu là ta, thì ta cũng đốt nhà.” A Châu kinh hãi hỏi lại: “Sao thế?” Kiều Phong đáp: “Hôm ở rừng hạnh, Đơn Chính có nói mấy câu: Tại hạ và người viết thư kết bạn lâu năm, trong nhà còn giữ nhiều thư từ của người đó nên lập tức dẫn Từ trưởng lão và Mã phu nhận về tệ xá lấy những lá thư cũ ra so, bút tích quả nhiên giống hệt. Chắc cô còn nhớ.” A Châu thở dài: “Phải rồi! Nếu Tên Đại Ác chỉ giết Đơn Chính thì đại gia cũng đến Đơn gia trang lục ra mấy bức thư kia mà biết họ tên y, nên y phóng hỏa đốt nhà cháy rụi, chẳng thư tín nào còn lưu lại được nữa.”

Khi đó người đến cứu hỏa mỗi lúc một đông, nhưng thế lửa đang mạnh, bao nhiêu nước dội vào chỉ khoảnh khắc là bốc hơi hết, Những luồng hơi nóng bốc lên thổi dạt mọi người ra. Đám đông vừa thở than vừa chửi rủa Kiều Phong, dân quê mùa mắng nhiếc thô tục thật là khó nghe.

A Châu chỉ sợ Kiều Phong nghe những lời nhục mạ vô lý đó, nổi cơn thịnh nộ chém giết thì thật là thê thảm cho dân làng này, Nàng len lén nhìn, thấy mặt chàng lộ ra một vẻ kỳ lạ, vừa như đau lòng, vừa như hối hận, nhất là thương cho đám dân quê ngu dốt không đáng giết. Lát sau Kiều Phong thở dài sườn sượt rồi nói: “Thôi, mình lên núi Thiên Thai.”

Phải đến núi Thiên Thai là việc vạn bất đắc dĩ. Trí Quang đại sư tuy năm xưa có tham gia sát hại song thân chàng, nhưng về sau đại phát từ bi, lặn lội đến những nơi xa tít tìm các loại cây cỏ đem về chế thuốc chữa bệnh ngã nước cho bách tính vùng Triết Mân, Lưỡng Quảng cứu sống được vô số người. Chính đại sư vì thế mà nhiễm trọng bệnh, khi khỏi bệnh lại mất hết võ công. Hành vi cứu nhân độ thế này, trên giang hồ không ai không kính trọng. Nói đến Trí Quang đại sư ai cũng tán tụng là Vạn Gia Sinh Phật. Kiều Phong nếu không vì bế tắc trong việc tìm kiếm manh mối sự thật thì không bao giờ đến làm phiền nhiễu ông ta.

Hai người rời huyện Thái An tìm đường đi xuống phía nam. Lần này Kiều Phong không chạy thục mạng nữa, nghĩ thầm nếu như mình đi thong thả không chừng lại giữ được tính mạng cho Trí Quang đại sư. Nếu cứ gấp rút khẩn trương như lần trước, khi đến núi Thiên Thai biết đâu chỉ còn thấy thi thể nhà sư giữa hoang tàn tro bụi. Huống chi Trí Quang vân du vô định, bốn biển là nhà, chưa chắc gì đang ở tại chùa.

Núi Thiên Thai ở Triết Đông, Kiều Phong cùng A Châu từ Thái An đi về hướng nam. Lần này hai người chẳng khác gì du sơn ngoạn thủy, vừa đi vừa đàm luận những chuyện giang hồ, nếu trong bụng không lo âu thì quả là một chuyến du lịch thú vị.

Một hôm đến Trấn Giang, hai người lên chùa Kim Sơn xem phong cảnh. Kiều Phong, nhìn nước sông cuồn cuộn xuôi mãi về Đông sực nghĩ ra một việc, nói: “Không chừng gã Thủ lĩnh đại ca và Tên Đại Ác là một.” A Châu vỗ tay, nói: “Đúng rồi! Sao mình chưa nghĩ tới chuyện đó nhỉ?” Kiều Phong nói: “Nếu là hai người thì họ phải liên quan mật thiết với nhau, còn không thì việc gì Tên Đại Ác phải dùng thiên phương bách kế để che giấu gã Thủ lĩnh đại ca? Thế nhưng đến như Uông bang chủ cũng còn theo phò tá, thì gã Thủ lĩnh đại ca kia phải là một nhân vật ghê gớm lắm, cả Tên Đại Ác cũng phải như vậy. Trên đời này làm gì có hai cao nhân thân thiết như một mà ta lại không biết? Suy luận như thế, dĩ nhiên hai người này là một. Ta chỉ cần giết được Tên Đại Ác là coi như trả xong mối thù giết hại song thân rồi.”

A Châu gật đầu khen phải, nói tiếp: “Kiều đại gia, hôm đó nơi rừng hạnh bọn họ kể lại chuyện ngày xưa, tiểu nữ e rằng… e rằng…” Nói tới đây giọng nàng bất giác run lên. Kiều Phong tiếp lời: “E rằng Tên Đại Ác có mặt tại đó phải không?” A Châu run run đáp: “Đúng vậy. Hôm ở khu rừng hạnh, Thiết diện phán quan Đơn Chính chỉ nói mấy câu mà hôm nay toàn gia cháy mất xác… Ôi chao, tiểu nữ càng nghĩ càng thấy sợ.” Nàng run rẩy nép vào Kiều Phong.

Chàng nói: “Tên này độc ác trên đời khó gặp. Triệu Tiền Tôn chấp nhận thân bại danh liệt, không chịu thổ lộ chân tướng của y. Đơn Chính với y có giao tình lâu năm, thế mà y đang tâm hạ độc thủ cả hai người. Đêm đó nơi rừng hạnh, làm gì có nhân vật nào lợi hại đến thế?” Chàng suy nghĩ một chút, nói tiếp: “Ta còn thấy một chuyện rất quái lạ!” A Châu hỏi: “Chuyện gì thế?” Kiều Phong bâng khuâng nhìn chiếc thuyền buồm trên sông, nói: “Tên Đại Ác thông minh mưu trí hơn ta một bực, võ công cũng vì tất đã kém ta. Nếu y muốn lấy mạng ta, e rằng cũng chẳng khó gì. Thế sao y không hạ thủ, lại còn sợ ta biết y là ai?” A Châu nói: “Kiều đại gia cũng không nên quá khiêm nhường. Tiểu nữ nghĩ rằng Tên Đại Ác kia tuy võ công có cao siêu thật, nhưng y đang sợ đòi mạng. Gần đây y cứ nơm nớp sợ đại gia biết được mà đến báo thù. Nếu không, y việc gì phải giết phu phụ Kiều lão, Huyền Khổ đại sư, Triệu Tiền Tôn, Đàm bà, rồi toàn gia Thiết Diện Phán Quan nữa.” Kiều Phong gật đầu nói: “Chắc là như thế.” Chàng quay sang nhìn A Châu tủm tỉm cười, nói: “Y đã không dám đến hại ta, thì tất nhiên cũng chẳng dám đến gần cô, chẳng việc gì phải sợ” Ngừng một lúc, Kiều Phong lại thở dài:“Tâm cơ gã này quả là ghê gớm. Kiều mỗ mang tiếng anh hùng thật uổng, bị kẻ khác coi như đồ chơi mà không làm gì được.”

Hai người vượt sông Trường Giang, chẳng mấy chốc lại vượt sông Tiền Đường, đến huyện Thiên Thai. Kiều Phong và A Châu nghỉ lại khách điếm một đêm. Sáng hôm sau Kiều Phong vừa dậy, đang định hỏi đường lên núi thì chưởng quĩ hấp tấp chạy vào nói: “Kiều đại gia! Có một vị sư phụ ở chùa Chỉ Quán trên núi Thiên Thai xin được bái kiến.” Kiều Phong giật mình vì khi thuê phòng chàng đã xưng là họ Quan, bèn hỏi lại: “Sao ngươi lại gọi ta là Kiều đại gia?” Gã chưởng quĩ đáp: “Sư phụ chùa Chỉ Quán tả tướng mạo Kiều đại gia cho tiểu nhân hay, không khác chút nào.” Kiều Phong và A Châu đưa mắt nhìn nhau, trong lòng hồi hộp. Hai người đã hóa trang khác hẳn lúc còn ở huyện Thái An tỉnh Sơn Đông, thế mà vừa đến Thiên Thai đã bị người ta nhận ra ngay. Kiều Phong nói: “Thôi được, mời vị đại sư đó vào đây.”

Chưởng quĩ trở gót đi ra, chẳng bao lâu đã đưa một nhà sư lùn mập chừng ba mươi tuổi vào phòng. Nhà sư đó chắp tay thi lễ với Kiều Phong, nói: “Gia sư thượng Trí hạ Quang, sai tiểu tăng là Phác Giả đến đây mời Kiều đại gia cùng Nguyễn cô nương lên tệ tự vãn cảnh.” Kiều Phong thấy y biết cả A Châu họ Nguyễn, lại càng lấy làm kỳ dị. Chàng hỏi: “Không hiểu tại sao sư phụ lại biết được họ của bọn tại hạ?” Nhà sư Phác Giả đáp: “Gia sư dặn tiểu tăng đến khách điếm Khuynh Cái huyện Thiên Thai, đón Kiều anh hùng cùng Nguyễn cô nương lên núi. Các hạ là Kiều đại gia, còn Nguyễn cô nương không biết đang ở đâu?”

A Châu đang hóa trang thành một người đàn ông trung niên nên hòa thượng Phác Giả không nhìn ra, lại tưởng Nguyễn cô nương không có ở đây.

Kiều Phong lại hỏi: “Bọn tại hạ mới đến đây tối hôm qua, sao tôn sư lại biết sớm thế? Phải chăng người là bậc tiên tri?” Phác Giả chưa kịp trả lời, gã chưởng quĩ đã xen vào: “Trí Quang lão thần tăng ở Chỉ Quán Thiền Tự thần thông quảng đại, chỉ bấm độn là biết được Kiều đại gia sắp đến. Đừng nói gì một hai ngày, việc năm trăm năm sau lão nhân gia cũng biết được sáu bảy phần mười.”

Kiều Phong biết Trí Quang đại sư tiếng tăm vang dội, dân chúng coi ông như thần thánh nên không muốn nói nhiều, đáp ngay: “Nguyễn cô nương sẽ đến sau. Bây giờ nhờ hòa thượng đưa bọn tại hạ lên bái kiến tôn sư trước.” Nhà sư Phác Giả nói: “Xin vâng.” Kiều Phong gọi thanh toán tiền trọ, gã chưởng quĩ liền nói: “Đại gia đã là khách của lão thần tăng ở Chỉ Quán Thiền Tự mà ghé đến đây, tiểu nhân thật là vinh hạnh Mấy đồng tiền cơm tiền trọ quả không dám nhận.” Kiều Phong nói: “Thế thì xin cám ơn vậy.” Chàng nghĩ thầm: “Trí Quang thiền sư thi ân bố đức cho dân đến thế, ta gác lại mối thù sát hại song thân, quyết không rửa hờn nữa. Chỉ mong đại sư cho biết danh tính Thủ lĩnh đại ca và Tên Đại Ác là ta mãn nguyện rồi.” Hai người cùng Phác Giả ra khỏi huyện thành, đi về hướng núi Thiên Thai. Lưu Thần, Nguyễn Triệu đời Hán lạc vào núi Thiên Thai gặp tiên, đủ biết phong cảnh thanh u đẹp đẽ dường nào, đường lên núi khuất khúc như rắn bò thật khó mà nhớ được.

Kiều Phong theo sau nhà sư Phác Giả, thấy y cước trình mau lẹ, nhưng rõ ràng không hiểu võ công. Mặc dù vậy, chàng vẫn không chủ quan, nghĩ thầm: “Đối phương đã biết rõ lai lịch mình, lẽ nào không phòng bị nghiêm ngặt? Trí Quang thiền sư là bậc cao tăng đức độ, nhưng những người xung quanh vị tất đã được như thế.”

Tuy có ý cảnh giác, nhưng đường lên chùa Chỉ Quán bình an vô sự. Trên núi Thiên Thai có ngôi Quốc Thanh Tự vang danh thiên hạ, vị cao tăng Trí Khải đời Tùy đã từng tu tại đây, phát triển Thiên Thai Tông là một tông pháp Phật môn đã mấy trăm năm qua. Tuy nhiên trong võ lâm thì chùa Chỉ Quán lại lừng danh hơn Quốc Thanh Tự, hóa ra chỉ là một cái miếu nhỏ tầm thường, tường vách loang lổ. Giả tỷ Kiều Phong và A Châu tự mình tìm tới, chắc không tin được đây là ngôi chùa Chỉ Quán nổi tiếng giang hồ.

Phác Giả hòa thượng đẩy cửa miếu vào, lên tiếng gọi to: “Sư phụ ơi! Kiều đại gia đã đến rồi đây.” Có tiếng Trí Quang đại sư vọng ra: “Quí khách từ xa đến, lão nạp không kịp nghênh tiếp.” Đại sư vừa nói vừa bước ra cửa chắp tay thi lễ.

Trong lòng Kiều Phong vẫn lo sợ Tên Đại Ác lại hạ sát Trí Quang đại sư trước khi mình đến, bây giờ thấy mặt mới yên tâm. Chàng cùng A Châu bỏ hóa trang, trở lại chân tướng vào bái kiến. Kiều Phong cung kính xá dài, nói: “Quấy nhiễu việc thanh tu của đại sư, trong lòng tại hạ thật bất an.” Trí Quang nói: “Thiện tại, thiện tại! Kiều thí chủ! Thí chủ vốn ở họ Tiêu, tự mình đã biết chưa?”

Kiều Phong run rẩy toàn thân. Tuy chàng đã biết mình dòng giống Nhất Đan, nhưng chưa rõ phụ thân họ gì. Bây giờ nghe Trí Quang đại sư bảo mình họ Tiêu, chàng tự dưng lạnh toát, biết rằng thân thế mình đã bắt đầu bộc lộ, khom lưng nói: “Kẻ bất hiếu này đến đây chính là cầu mong đại sư chỉ điểm.” Trí Quang gật đầu nói: “Mời hai vị ngồi.”

Ba người vừa ngồi xuống ghế thì Phác Giả bưng trà lên. Y thấy tướng mạo hai vị khách biến đổi đột ngột, nhất là A Châu trở thành nữ nhân, thì kinh dị vô cùng, nhưng vì có sư phụ ngồi đó nên không dám hỏi nhiều.

Trí Quang nói tiếp: “Lệnh tôn lưu lại tự tích trên vách đá ngoài Nhạn Môn Quan, tự xưng họ Tiêu, tên gọi Viễn Sơn. Trong di văn có gọi thí chủ là Phong nhi, bọn ta vẫn giữ nguyên tên đó. Chỉ vì phải gửi Kiều Tam Hòe nuôi dưỡng nên lấy theo họ của y.” Kiều Phong nước mắt như mưa, đứng lên nói: “Hôm nay tại hạ mới được biết danh tính phụ thân. Xin đại sư nhận một lạy để tỏ lòng cảm tạ ân đức.” Nói xong chàng liền phục xuống lạy, A Châu cũng đứng lên, Trí Quang chắp tay đáp lễ nói: “Bần tăng không dám nhận hai chữ ân đức.”

Quốc tính nước Liêu là Gia Luật, bao nhiêu triều đại đều lập hoàng hậu ở họ Tiêu. Vì thế mà Tiêu gia công khanh đầy triều, có quyền thế lớn tại Liêu quốc. Những khi vị Liêu chúa còn thơ ấu thì Tiêu thái hậu chấp chính, uy thế Tiêu gia lại càng lừng lẫy. Kiều Phong đột nhiên biết mình thuộc một thế gia vọng tộc của Khất Đan, trong lòng ngổn ngang trăm mối. Chàng đứng ngẫm nghĩ một hồi, quay sang nói với A Châu: “Từ nay trở đi ta là Tiêu Phong, không phải là Kiều Phong nữa.” A Châu đáp: “Đúng thế, Tiêu đại gia.”

Trí Quang nói: “Tiêu đại hiệp! Đại hiệp đã xem qua tự tích trên vách đá ngoài Nhạn Môn Quan chưa?” Tiêu Phong lắc đầu đáp: “Chưa đâu. Khi tại hạ ra ngoài ải, chữ trên vách đá đã bị ai đẽo hết, tuyệt không còn dấu vết.” Trí Quang thở dài nói: “Sự tình đã trải bấy lâu, đến tự tích trên vách đá cũng đã mất, mấy chục sinh linh không biết đã đầu thai đến cõi nào.” Nhà sư lấy trong tay áo ra một tấm vải cũ rất lớn, nói: “Tiêu thí chủ! Đây là bản rập bức di văn trên vách đá.”

Tiêu Phong tay run bần bật, đón lấy mảnh vải mở ra xem, hóa ra đây là rất nhiều mảnh quần áo rách khâu lại với nhau, chữ trắng hiện trên nền đỏ máu chung quanh. Nét chữ vừa hùng mạnh vừa cứng rắn như dao đục búa chém, hình dáng kỳ lạ, tuy cũng giống chữ Hán nhưng không phải, chàng biết đây là chữ Khất Đan. Tiêu Phong cố tưởng tượng ra cảnh phụ thân cầm đao khắc trên vách đá lúc sắp ôm mẫu thân và mình nhảy xuống vực tự tận, bất giác lệ tuôn từng giọt rơi xuống mảnh vải. Chàng nói: “Mong đại sư dịch nghĩa cho.”

Trí Quang đại sư lại nói: “Năm xưa bọn ta sau khi rập được bản khắc trên vách đá, đem về Nhạn Môn Quan nhờ người biết chữ Khất Đan giải thích cho. Hỏi luôn mấy người đều dịch cùng một ý, xem ra không phải là sai. Tiêu thí chủ! Ý nghĩa bản văn này là: Phong nhi tròn một tuổi, ta cùng hiền thê sang ăn tiệc bên nhà ngoại công. Giữa đường bỗng gặp lũ đại đạo Nam Triều…” Tiêu Phong nghe tới đó, trong lòng chua xót. Trí Quang đại sư tiếp tục giải thích: “… Việc xảy ra bất ngờ. Ái thê bị cường đạo giết chết, ta cũng không muốn sống làm chi nữa. Thụ nghiệp ân sư của ta là người Hán, ta đã tuyên thệ trước mặt sư phụ là không giết người Hán, ngờ đâu hôm nay lâm sự hạ sát hơn mười người. Ta vừa xấu hổ vừa đau xót, chết xuống âm ti chẳng còn mặt mũi nào nhìn thấy ân sư được nữa, Tiêu Viễn Sơn tuyệt bút.”

Tiêu Phong nghe nhà sư Trí Quang đọc xong, cung kính xếp mảnh vải lại, nói: “Đây là di ngôn của tiên phụ Tiêu mỗ. Xin đại sư ban cho.” Trí Quang nói: “Đương nhiên bần tăng giao tặng cho thí chủ.” Tiêu Phong đầu óc bấn loạn, tưởng tượng lúc phụ thân mình vì đau khổ mà nhảy xuống vực thẳm tự tận, không những vì thương mẫu thân mình thảm tử mà còn vì hổ thẹn với sư môn đã hạ sát bấy nhiêu người Hán, vi phạm lời thề.

Trí Quang chậm rãi thở dài một tiếng, nói: “Ban đầu bọn ta vẫn tưởng lệnh tôn thống lĩnh võ sĩ Khất Đan sang chùa Thiếu Lâm để đoạt kinh sách. Đến khi đọc được di văn trên vách núi mới biết là mình lầm lẫn, hành động sai trái. Lúc sắp nhảy xuống vực sâu tự tận, quyết không có lý nào lệnh tôn còn viết lời giả dối lừa người. Hơn nữa, nếu người sang chùa Thiếu Lâm để đoạt kinh sách, lẽ đâu lại đưa theo phu nhân chẳng hiểu võ công, lại bồng bế một đứa bé mới đầy năm? Về sau bọn ta tra xét cái tin người Liêu đến cướp kinh chùa Thiếu Lâm từ đâu mà ra, hóa ra từ miệng một kẻ dối trá. Kẻ đó chủ tâm đùa giỡn Thủ lĩnh đại ca, bắt ông ta xông pha ngàn dặm để làm trò cười chơi.”

Tiêu Phong nói: “Trời ơi! Chỉ là chuyện đùa cợt mà ra ư? Gã kia sao lại làm thế?” Trí Quang nói: “Thủ lĩnh đại ca tra xét rõ ràng rồi, trong bụng căm giận đến cực điểm. Nhưng tên nói láo kia đã trốn biệt, không thấy bóng dáng đâu nữa. Đến nay cũng đã ba mươi năm rồi, chắc y không còn sống trên đời.”

Tiêu Phong nói: “Đa tạ đại sư cho biết rõ tiền nhân hậu quả, khiến Tiêu Phong này được hiểu rõ lai lịch, tìm lại cội rễ. Tiêu mỗ chỉ muốn hỏi đại sư một điều nữa thôi.” Trí Quang đại sư hỏi: “Tiêu thí chủ còn muốn hỏi điều chi?” Tiêu Phong hỏi: “Vị Thủ lĩnh đại ca đó là ai?” Trí Quang nói: “Lão tăng nghe nói Tiêu thí chủ vì muốn tra xét chuyện này mà đã giết chết Từ trưởng lão của Cái Bang, Đàm công, Đàm bà, Triệu Tiền Tôn bốn người, lại giết thêm cả nhà Thiết diện pháp quan Đơn Chính, đốt Đơn gia trang thành bình địa, nên biết rằng sớm muộn gì Tiêu thí chủ cũng sẽ đến đây. Thí chủ hãy chờ một chút, lão tăng sẽ cho thí chủ xem một việc.” Nói xong ông đứng lên.

Tiêu Phong đang định thanh minh là mình không hề giết Từ trưởng lão và những người kia, thì Trí Quang đã đi thẳng vào hậu đường không quay đầu lại. Một lát sau, nhà sư Phác Giả đi vào phòng khách nói: “Sư phụ tiểu tăng mời hai vị vào thiền phòng nói chuyện.” Tiêu Phong và A Châu đi theo y qua một con đường mòn, hai bên trồng trúc um tùm, đến trước một căn nhà nhỏ. Phác Giả hòa thượng đẩy cửa, nói: “Xin mời.” Hai người liền tiến vào.

Căn nhà nhỏ này lâu ngày không ai quét tước nên bụi đóng thật dày. Trí Quang đại sư ngồi xếp bằng trên một chiếc bồ đoàn, nhìn Tiêu Phong mỉm cười, thò ngón tay viết lên lớp bụi mấy hàng chữ: “Vạn vật nhất bàn, Chúng sinh bình đẳng, Thánh hiền súc sinh, Nhất thị đồng nhân, Hán nhân Khất Đan, Diệc huyễn diệc chân, Ân oán vinh nhục, Câu tại khôi trần.” (Vạn vật là một, Chúng sinh ngang nhau, Thánh hiền loài vật, Có khác gì đâu, Hán nhân Khất Đan, Như giả như chân, Ân oán vinh nhục, Như đám bụi trần.)

Viết xong, đại sư nở một nụ cười rồi từ từ nhắm mắt lại.

Tiêu Phong nhìn tám câu kệ dưới đất, ngơ ngẩn xuất thần, nghĩ bụng: “Theo thuyết nhà Phật thì chẳng những không phân biệt người thiện kẻ ác, mà cả súc sinh, ngã quỷ hay đế vương cũng như nhau. Ta là người Khất Đan hay là người Hán, cũng chẳng có gì phải suy nghĩ. Tên Đại Ác giết ân sư ta hay ân sư ta giết Tên Đại ác, cũng chẳng có gì phải phân biệt. Nhưng ta có phải đệ tử nhà Phật đâu, làm sao tự giải thoát được đến mức này?” Chàng hỏi lại: “Đại sư Thủ lĩnh đại ca là ai? Xin đại sư chỉ điểm.” Hỏi liền mấy câu, Trí Quang đại sư chỉ mỉm cười không đáp.

Tiêu Phong nhìn kỹ lại, bất giác cả kinh, thấy mặt nhà sư vẫn cười, nhưng cứng đờ không rung động. Chàng gọi liên tiếp: “Trí Quang đại sư! Trí Quang đại sư” nhưng nhà sư vẫn trơ trơ không nhúc nhích, đặt tay lên mũi xem, thì ra đại sư đã viên tịch rồi. Tiêu Phong buồn bã không nói gì được nữa, quì xuống lạy mấy lạy rồi quay sang vẫy A Châu nói: “Chúng ta đi thôi.”

Hai người lủi thủi ra khỏi chùa Chỉ Quán, cúi đầu lặng lẽ quay về huyện thành Thiên Thai. Đi được mươi dặm, Tiêu Phong mới hỏi: “A Châu! Ta hoàn toàn không có ý gia hại Trí Quang đại sư. Sao ông ta… Ông ta lại phải khổ đến vậy?” A Châu đáp: “Vị cao tăng đó đã nhìn thấu lẽ tử sinh, đại giác đại ngộ chẳng còn phân biệt đâu là sống đâu là chết.” Tiêu Phong nói: “Cô nương thử nghĩ xem, tại sao đại sư lại biết chúng ta tìm đến chùa Chỉ Quán?” A Châu đáp: “Tiểu nữ cho rằng đây cũng là tác phẩm của Tên Đại Ác kia.” Tiêu Phong nói: “Ta cũng đoán thế. Có lẽ Tên Đại Ác đã đến bảo Trí Quang đại sư là ta đang tìm đến báo thù. Trí Quang đại sư nghĩ là không sao thoát khỏi độc thủ của ta, nên nói chuyện xong xuôi liền uống thuốc độc tự tận.”

Hai người nhìn nhau không nói gì nữa. Hồi lâu A Châu thốt nhiên nói: “Tiêu đại gia! Tiểu nữ không rõ phải trái, có mấy câu muốn nói ra, xin đại gia đừng trách.” Tiêu Phong đáp: “Sao cô nương lại khách sáo như thế? Dĩ nhiên là ta không trách cô nương.” A Châu nói: “Tiểu nữ nghĩ rằng mấy câu kệ của Trí Quang đại sư rất có lý. Hán nhân Khất Đan, Như giả như chân, Ân oán vinh nhục, Như đám bụi trần. Đại gia là người Hán hay là người Khất Đan cũng vậy, có gì mà phân biệt? Chắc đại gia cũng ngán ngẩm chuyện đao kiếm ở chốn giang hồ rồi, chi bằng từ nay ra ngoài Nhạn Môn Quan săn bắn chăn nuôi, không ngó ngàng tới những chuyện ân oán vinh nhục của võ lâm Trung Nguyên nữa.”

Tiêu Phong thở dài nói: “Quả thật ta chán cái việc sống trên đao kiếm lắm rồi. Từ nay ra ngoài biên ải săn chồn đuổi thỏ, không băn khoăn gì nữa thì quả là thoải mái biết bao! A Châu, khi ta ra ngoài quan ải rồi, cô có đến thăm ta không?” A Châu thẹn thùng khẽ đáp: “Tiểu nữ đã nói là săn bắn chăn nuôi đấy thôi. Đại gia săn chồn đuổi thỏ, tiểu nữ thả bò chăn cừu.” Nàng nói đến đây liền cúi mặt xuống.

Tiêu Phong tuy là một hán tử thô hào, nhưng hiểu ngay ý tứ mấy câu nói của A Châu. Rõ ràng nàng muốn sống cùng mình suốt đời ngoài biên tái, không về Trung Nguyên nữa. Ban đầu Tiêu Phong cứu nàng chẳng qua chỉ vì khí khái nhất thời, đến khi nàng tìm theo ra ngoài Nhạn Môn Quan, rồi qua Vệ Huy, Thái An, Thiên Thai đường sá xa xôi bao nhiêu sóng gió, ngày đêm kề cận mới dần dần thấy nàng thật là ôn nhu thân thiết. Lúc này nghe nàng thẳng thắn giãi bày tâm sự, chàng không khỏi bồi hồi, đưa bàn tay to tướng ra nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của nàng, nói: “A Châu! Nàng đối với ta thật tốt, chẳng vì ta là người Khất Đan hèn mạt mà đem lòng rẻ rúng ư?” A Châu đáp: “Người Hán cũng là người, người Khất Đan cũng là người, làm gì có chuyện sang hèn? Thiếp… thiếp thích người Khất Đan, đó là chân tâm thành ý, tuyệt không miễn cưỡng chút nào.” Tiếng nàng mỗi lúc một nhỏ đi, sau cùng chỉ thoảng nhẹ như tiếng muỗi kêu, dường như không thể nghe thấy.

Tiêu Phong cả mừng, đột nhiên đưa tay ra nắm lấy lưng nàng tung bổng lên trời. Khi nàng rơi xuống, chàng nhẹ nhàng đón lấy đặt xuống đất, vừa cười ha hả vừa nhìn nàng ra chiều hãnh diện, lớn tiếng nói: “A Châu, từ nay nàng theo ta cưỡi ngựa săn bắn, thả cừu chăn bò, không hối hận chứ?” A Châu nghiêm mặt nói: “Dẫu có theo đại gia giết người đốt nhà, ăn trộm ăn cướp, thiếp cũng không hối hận. Được đi theo đại gia thì dù gian nan khổ sở, trăm cay nghìn đắng, thiếp cũng vui lòng.”

Tiêu Phong dõng dạc nói: “Tiêu mỗ có được ngày nay, đừng nói trở về làm bang chủ Cái Bang, dù được làm hoàng đế nhà Đại Tống cũng không thèm. A Châu! Bây giờ chúng ta đến Tín Dương tìm Mã phu nhân, bà ta chịu nói thì tốt, mà không chịu nói cũng thôi, đây là người cuối cùng mình đi tìm. Ta chỉ hỏi một câu, sau đó cùng nàng ra ngoài ải bắc săn bắn chăn nuôi.”

A Châu nói: “Tiêu đại gia…” Tiêu Phong ngắt lời: “Từ nay trở đi, nàng đừng gọi ta là đại gia nhị gia gì nữa, chỉ được gọi là đại ca thôi!” A Châu mặt đỏ bừng, nói: “Thiếp đâu dám thế?” Tiêu Phong nói: “Nàng có chịu gọi ta bằng đại ca hay không thì bảo?” A Châu mỉm cười: “Nghìn lần chịu, vạn lần chịu, đâu có dám trái ý.” Tiêu Phong cười nói: “Vậy nàng gọi ta nghe thử nào!” A Châu rụt rè khẽ gọi: “Đại… đại ca!” Tiêu Phong cười ha hả nói: “Thế mới được! Từ nay Tiêu mỗ không còn cô đơn, bị mọi người khinh bỉ vì mang dòng máu mọi rợ. Trên đời này, ít ra cũng có một người… cũng có một người…” Chàng ngắc ngứ chưa tìm được từ để nói, A Châu bèn tiếp lời: “Cũng có một người kính trọng đại ca, khâm phục đại ca, thương yêu đại ca, nguyện ý đời đời kiếp kiếp theo bên mình đại ca, vĩnh viễn cùng đại ca chia sẻ đắng cay gian khổ, ấm lạnh đói no.” Nàng nói những câu đó cực kỳ thành khẩn.

Tiêu Phong nổi lên một tràng cười vang cả núi rừng, chàng hiểu rằng A Châu biết rồi đây sẽ còn nhiều chông gai nhưng quyết không hối hận. Lòng chàng xiết bao cảm kích, miệng thì cười mà bất giác hai dòng lệ chảy dài trên má.

Nguyên phó bang chủ Cái Bang là Mã Đại Nguyên ở tại Tín Dương, tỉnh Hà Nam. Tiêu Phong cùng A Châu từ núi Thiên Thai ở Giang Nam đi đến Tín Dương muôn dặm xa xôi, không phải ngày một ngày hai là đến được.

Hai người từ khi ở núi Thiên Thai đã ý hợp tâm đầu, tơ tình quấn quít, nên thường thả lỏng dây cương để vừa đi vừa thưởng ngoạn phong cảnh đẹp đến mê hoặc lòng người. A Châu không thích uống rượu, nhưng thỉnh thoảng cũng cố uống vài chung để trợ hứng cho Tiêu Phong, đôi má đỏ bừng lên lại càng thêm duyên dáng. Tiêu Phong tuy trong lòng còn đây phẫn uất, nhưng được A Châu cười nói dí dỏm bên mình, phiền não cũng giảm được quá nửa. Hành trình từ Giang Nam ngược lên trung châu, so với hôm trước từ Nhạn Môn Quan vội vã trở về Sơn Đông, chàng cảm thấy trong lòng khác hẳn, khoan khoái hơn nhiều. Chặng đường mấy nghìn dặm này đối với Tiêu Phong quả mơ mơ hồ hồ, lúc đầu là ác mộng, về sau lại là một cơn mộng đẹp, đẹp đến nỗi nếu không có nàng A Châu kiều diễm ở bên mình thì chắc chàng đã tin rằng đó là một giấc mơ thật sự.

Một hôm đi đến Quang Châu, chỉ còn cách Tín Dương hai ngày đường, A Châu hỏi: “Đại ca! Đại ca định hỏi Mã phu nhân cách nào cho tiện?”

Ở rừng hạnh và Tụ Hiền Trang, Mã phu nhân từ lời nói cho đến nét mặt đều lộ vẻ căm hờn Tiêu Phong. Chàng chẳng vui gì, nhưng nghĩ rằng bà ta buộc tội mình sát hại phu quân, có oán hận mình thì cũng là lẽ thường, nếu không oán hận mới bất hợp lý. Chàng lại nghĩ bà ta là một quả phụ không biết võ công, nếu mình dùng bạo lực tra hỏi, nạt nộ uy hiếp thì không phải là hành động của người hào kiệt. Bây giờ nghe A Châu hỏi thế, Tiêu Phong trù trừ không trả lời được, ngẩn ra một lát rồi đáp: “Ta nghĩ, chúng ta chỉ nên nói năng lịch sự cho Mã phu nhân hiểu rõ đen trắng, đừng đổ oan cho ta đã giết Mã đại ca nữa. A Châu, hay là nàng đến hỏi chuyện có tốt hơn chăng? Nàng mồm mép linh lợi, lại là phụ nữ với nhau cũng dễ thông cảm. Mã phu nhân mà thấy mặt ta, oán hận nổi lên là hỏng bét.”

A Châu tủm tỉm cười: “Thiếp đã có kế, chỉ sợ đại ca không chịu.” Tiêu Phong vội hỏi: “Kế gì thế?” A Châu nói: “Đại ca là đại anh hùng, đại trượng phu không thể bức bách bà ta được. Để thiếp đến đánh lừa bà ta, có nên chăng?”

Tiêu Phong cả mừng nói: “Nếu đánh lừa được cho bà ta thổ lộ chân tình thì còn gì bằng. A Châu! Nàng cũng biết ta ngày đêm khắc khoải, chỉ mong được chính tay đâm chết kẻ đại cừu để trả mối thù giết chết song thân. Tên Đại Ác kia giúp Tiêu mỗ hiểu được gốc gác Khất Đan, giúp Tiêu mỗ biết được tổ tông là ai, ta phải cảm ơn mới phải. Thế nhưng sao y lại giết hại dưỡng phụ dưỡng mẫu cùng ân sư của ta? Y lại ép ta tàn hại bằng hữu, mang tiếng đại ác, biến thành kẻ thù của hết thảy anh hùng thiên hạ. Ta không băm vằm y ra, thì không thể yên tâm cùng nàng ra ngoài quan ải cưỡi ngựa săn thú, chăn bò thả cừu.” Chàng càng nói, thanh âm càng quả quyết. Gần đây tâm thần Tiêu Phong không còn u uất như trước, nhưng mối cừu hận Tên Đại Ác không giảm chút nào.

A Châu nói: “Tên Đại Ác kia ám hại đại ca đến thế, thiếp cũng mong được chém y mấy nhát cho đại ca hả dạ. Chúng ta bắt được y rồi sẽ tổ chức một anh hùng yến, mời hết thảy hào kiệt trong thiên hạ, trình bày mọi nỗi oan khuất, hồi phục thanh danh trong sạch cho đại ca” Tiêu Phong thở dài nói: “Bất tất phải như thế. Ta ở Tụ Hiền Trang đã giết quá nhiều người, kết mối thâm cừu với anh hùng thiên hạ, chẳng mong gì họ lượng tình cho mình nữa. Tiêu mỗ chỉ mong kết thúc được chuyện này để tâm hồn thanh thản, sau đó cùng nàng rong ruổi bên ngoài biên ải, chúng ta suốt đời chung sống với hổ lang bò cừu, không gặp lại anh hùng hảo hán Trung Nguyên nữa.” A Châu vui mừng nói: “Thiếp cũng tạ trời tạ đất, chỉ cầu được như vậy thôi.” Nàng tủm tỉm cười, nói tiếp: “Đại ca! Thiếp định cải trang thành một người khác, đến đánh lừa Mã phu nhân nói danh tính Tên Đại Ác ra.”

Tiêu Phong vỗ đùi reo lên: “Phải lắm! Phải lắm! Sao ta lại không nghĩ ra? Thuật cải trang của nàng trên đời có một không hai, dùng vào việc này thì tuyệt diệu. Thế nàng định giá làm ai?” A Châu đáp: “Việc đó phải hỏi đại ca. Khi xưa Mã phó bang chủ giao thiệp với ai trong Cái Bang thân thiết nhất, thiếp sẽ giả làm người đó. Mã phu nhân tưởng là hảo bằng hữu của trượng phu, chắc sẽ không giấu giếm đâu.”

Tiêu Phong nói: “Ồ, trong Cái Bang mà thân thiết với Mã huynh đệ thì có Vương đà chủ, Toàn Quan Thanh, Trần trưởng lão. Ngoài ra Chấp Pháp trưởng lão Bạch Thế Kính cũng có giao tình rất hậu với y” A Châu nghiêng đầu, hình dung lại tướng mạo thần thái những người đó. Tiêu Phong lại tiếp: “Mã huynh đệ là người điềm đạm nghiêm cẩn, không thích rượu chè náo nhiệt như ta, vì thế ít khi cùng ta chè chén cười đùa. Toàn Quan Thanh, Bạch Thế Kính là những người giống tính y, nên thường gặp nhau ngồi đàm luận võ công.”

A Châu nói: “Trong những người này thì thiếp không biết Vương đà chủ. Trần trưởng lão thường xách cái túi chứa toàn rắn rết, thiếp mới nghĩ tới đã sợ hết hồn, giả mạo không giống được. Toàn Quan Thanh thì cao lênh khênh, giả làm y rất tốn công. Chúng ta phải ở trong nhà Mã phu nhân khá lâu để từ từ dò hỏi, e rằng dễ bị bại lộ. Tốt nhất là để thiếp cải trang thành Bạch trưởng lão. Ông ta có nói chuyện với thiếp mấy lần ở Tụ Hiền Trang, bắt chước ông ta dễ hơn cả.”

Tiêu Phong mỉm cười nói: “Bạch trưởng lão đối với nàng thật đã hết lòng, năn nỉ Tiết Thần Y trị thương cho. Bây giờ nàng hóa trang thành lão để đi lừa gạt người ta, thật có điều bất tiện.” A Châu cười nói: “Thiếp giả mạo Bạch trưởng lão để làm chuyện tốt, đâu có làm chuyện xấu hại đến thanh danh của lão, có gì là bất tiện?”

Công việc bắt đầu ngay trong khách điếm. Tiêu Phong được A Châu cải trang thành một tên đệ tử Cái Bang năm túi tùy tòng Bạch Thế Kính, lại dặn chàng càng ít nói càng tốt, để đề phòng Mã phu nhân tinh tế nhìn ra chỗ sơ hở. Tiêu Phong thấy A Châu hóa trang thành Bạch trưởng lão rồi, mặt lạnh như băng, không giận mà oai, đúng là một vị Chấp Pháp trưởng lão mà mấy vạn đệ tử Cái Bang vừa sợ vừa kính. Không chỉ tướng mạo hình dáng bên ngoài mà cả ngôn ngữ cử chỉ cũng giống hệt Bạch Thế Kính, khiến Tiêu Phong thân thiết với ông ta cả chục năm mà cũng không nhìn ra chỗ nào không đúng.

Hai người lên đường đến Tín Dương. Mỗi khi gặp anh em Cái Bang, Tiêu Phong đều dùng tiếng lóng nói chuyện, dò la tình hình các nhân vật đầu não trong bang, rồi báo tin Bạch trưởng lão đến Tín Dương để họ truyền đến tai Mã phu nhân. Khi bà ta biết tin, tất là có sẵn ấn tượng trong lòng, lỡ nếu A Châu cải trang có gì sơ hở cũng ít để ý.

Nhà Mã Đại Nguyên ở phía tây Tín Dương, cách thành chừng ba mươi dặm. Tiêu Phong hỏi thăm bọn đệ tử Cái Bang cho biết đường đi, rồi cùng A Châu đến Mã gia. Hai người đi thong thả, cố ý để gần tối mới tới nơi. Dù sao thì ban ngày mọi việc cũng rõ ràng, còn đêm đến cảnh vật lờ mờ, việc cải trang khó bại lộ hơn.

Hai người đến trước Mã gia, thấy một con rạch nhỏ lượn quanh ba gian nhà ngói, bên nhà có hai cây thùy dương, trước cửa là một khu đất bằng phẳng tựa hồ như cái sân để nhà nông phơi thóc, nhưng bốn bề đều có hào sâu, Tiêu Phong hiểu rõ võ công gia số của Mã Đại Nguyên, biết những hào sâu này là chỗ để y luyện công. Chàng nghĩ tới người anh em nay đã âm dương đôi ngả, không khỏi cảm thấy đau lòng. Chàng đang định gọi cửa, đột nhiên cánh cổng mở ra nghe kẹt một tiếng, một người đàn bà mặc toàn màu trắng bước ra, chính là Mã phu nhân.

Mã phu nhân liếc Tiêu Phong một cái, rồi khom lưng thi lễ với A Châu, nói: “Bạch trưởng lão quang lâm tệ xá, quả thật bất ngờ. Xin mời vào dùng trà.” A Châu nói: “Tại hạ có việc cần thương lượng với phu nhân, vì thế mà đường đột tới đây. Xin phu nhân thứ lỗi.”

Nét mặt Mã phu nhân tựa như cười mà không phải cười, khóe miệng dường như có điều u uẩn, hợp với con người toàn thân mặc tang phục. Khi đó mặt trời đã ngả về sau núi, chiếu lên khuôn mặt nàng một sắc nhợt nhạt. Tiêu Phong gặp nàng hai lần trước đều trong lúc tâm thần khích động, không nhìn kỹ. Bây giờ ông mới thấy nàng khóe mắt đầu mày đã mờ mờ vết nhăn, độ chừng ba lăm ba sáu tuối, mặt không nhồi phấn mà nước da trắng nõn chẳng kém gì A Châu.

Hai người theo Mã phu nhân vào nhà, thấy phòng khách hơi nhỏ, chính giữa chỉ đặt cái bàn và bốn cái ghế mà chẳng còn trống bao nhiêu. Một bà vú già bưng trà lên. Mã phu nhân hỏi đến danh tính Tiêu Phong, A Châu thuận mồm bịa ra một cái tên.

Mã phu nhân hỏi: “Bạch trưởng lão đại giá quang lâm, không biết có điều chi dạy bảo?” A Châu đáp: “Từ trưởng lão qua đời ở Vệ Huy, hẳn phu nhân đã biết.” Mã phu nhân đột nhiên ngẩng đầu lên, ánh mắt hơi khác lạ, nói: “Dĩ nhiên là tiện thiếp đã biết.” A Châu lại tiếp: “Bọn ta đều nghi là Kiều Phong hạ độc thủ. Sau đó ba vị tiền bối Đàm công, Đàm bà và Triệu Tiền Tôn bị ám hại bên ngoài thành Vệ Huy, rồi đến nhà của Thiết diện phán quan Đơn lão gia ở Thái An, Sơn Đông bị cháy rụi. Mới đây không lâu, ta đi Giang Nam điều tra một tên đệ tử bảy túi vi phạm bang qui, trên đường lại nghe tin Trí Quang lão hóa thượng ở chùa Chỉ Quán núi Thiên Thai đột nhiên viên tịch.” Mã phu nhân run lên, mặt biến sắc hỏi: “Phải chăng chuyện… chuyện đó cũng do Kiều Phong gây ra?”

A Châu nói: “Ta đã đích thân lên chùa Chỉ Quán tìm hiểu, tuy không có manh mối gì, nhưng mười phần thì đến tám chín là do Kiều Phong làm. Dĩ nhiên phu nhân là người kế tiếp bị y đến gây chuyện. Vì vậy ta vội vàng đến đây, khuyên phu nhân lánh đi nơi khác mấy tháng hay một năm để khỏi bị tên ác tặc họ Kiều gia hại.” Mã phu nhân rưng rưng lệ, buồn bã nói: “Từ khi trượng phu không may gặp nạn, tiện thiếp thấy sống cũng bằng thừa. Nếu gã họ Kiều kia tới gia hại thì cũng là việc đáng mừng, còn lánh đi làm gì nữa.”

A Châu nói: “Sao phu nhân lại nói thế? Mối đại cừu hạ sát Mã huynh đệ chưa trả xong, thủ phạm còn chưa bắt được, thì phu nhân còn phải mang trách nhiệm nặng nề. Ôi! Linh vị Mã huynh đệ đặt ở đâu, để ta đến lạy một lạy.” Mã phu nhân đáp: “Không dám.” Nhưng nàng vẫn dẫn hai người đi vào hậu đường. A Châu lạy trước, Tiêu Phong cũng cung kính khấu đầu trước linh vị, trong bụng khấn thầm: “Mã đại ca ơi! Đại ca có linh thiêng thì xui khiến phu nhân nói ra danh tính hung thủ, để tiểu đệ báo thù rửa oán cho đại ca.”

Mã phu nhân quỳ bên linh vị hoàn lễ, dòng châu lã chã tuôn rơi. Tiêu Phong lạy xong đứng dậy, thấy trong linh đường có treo những câu đối điếu tang của Từ trưởng lão, Bạch trưởng lão và mấy người khác, còn câu đối của mình gửi tới không thấy đâu. Những vuông vải trắng trong linh đường đã bám đầy bụi bặm, càng làm tăng vẻ thê lương, Tiêu Phong nghĩ thầm: “Mã phu nhân chưa có con cái, suốt ngày chỉ có một mụ vú già bầu bạn, chắc là nỗi buồn thảm cô đơn kể sao cho xiết!”.

A Châu cất tiếng khuyên nhủ: “Phu nhân nên bảo trọng thân thể, mối oan cừu của Mã huynh đệ là của chung mọi người. Nếu phu nhân có gì khó khăn cứ nói thẳng cho ta nghe, ta sẽ chủ trương cho…” nghe ra vẻ lão thành kẻ cả. Tiêu Phong khen thầm trong bụng: “Cô ả này thật là đáo để. Bang chủ Cái Bang bị trục xuất, phó bang chủ qua đời, Từ trưởng lão bị ám sát, Truyền Công trưởng lão bị ta giết, tính ra bây giờ Bạch trưởng lão là người địa vị tối cao trong bản bang. Cô nàng nói toàn giọng điệu bang chủ vỗ về thuộc hạ, quả là hợp lý.” Mã phu nhân tỏ lời cảm tạ, nhưng giọng lưỡi cực kỳ lạnh nhạt. Tiêu Phong âm thầm lo lắng, thấy bà ta chẳng còn sinh khí, thần thái như kẻ mất hồn, chắc là từ khi mất trượng phu đã mất cả ý niệm sinh tồn. Chàng chỉ sợ Mã phu nhân tuẫn tiết theo chồng, người phụ nữ này tính khí cương cường, chuyện gì cũng có thể làm được.

Mã phu nhân đưa hai người trở lại phòng khách, chẳng bao lâu bà vú đã dọn cơm ra, trên bàn có bốn món đồ chay gồm cải xanh, cải củ, đậu phụ, dưa leo và ba bát cơm bốc hơi nghi ngút, không có rượu. A Châu liếc nhìn Tiêu Phong nghĩ thầm: “Hôm nay không có rượu cho đại ca uống.” Tiêu Phong thản nhiên bưng bát cơm lên ăn. Mã phu nhân nói: “Từ khi tiên phu qua đời, tiện thiếp ăn chay, chỗ hẻo lánh lại không có rượu thịt, tiếp đãi hai vị đạm bạc thật là đắc tội.” A Châu thở dài nói: “Mã huynh đệ chết rồi không thể sống lại được, phu nhân đừng tự làm khổ mình như thế.” Tiêu Phong thấy Mã phu nhân đối với tiên phu quả thật có tình có nghĩa, trong lòng rất kính trọng.

Cơm nước xong, Mã phu nhân nói: “Bạch trưởng lão lặn lội đường xa đến đây, đáng lý tiện thiếp phải lưu người nghỉ lại, chỉ hiềm thân phận góa bụa nên có điều không tiện. Không biết trưởng lão còn có điều chi dạy bảo?” Rõ ràng câu này ngụ ý đuổi khách về. A Châu nói: “Lần này ta đến Tín Dương cốt để khuyên phu nhân tạm dời đi nơi khác lánh nạn ít lâu, chưa hiểu phu nhân quyết định ra sao?” Mã phu nhân thở dài đáp: “Gã Kiều Phong đã ám hại Mã đại gia, nếu đến đây giết nốt tiện thiếp, thì cũng là giúp nhanh xuống suối vàng sum họp với trượng phu. Chẳng giấu gì Bạch trưởng lão, tiện thiếp tuy chân yếu tay mềm, nhưng không sợ chết thì còn sợ gì nữa?” A Châu nói: “Nếu thế, phu nhân quả không bằng lòng rời nhà lánh nạn hay sao?” Mã phu nhân đáp: “Đa tạ Bạch trưởng lão đã quan tâm. Tiện thiếp thật không đành rời khỏi căn nhà cũ của Mã đại gia.”

A Châu lại thở dài nói: “Bản ý ta muốn ở gần đây ít ngày để bảo hộ cho phu nhân. Bạch mỗ tự biết không phải là địch thủ của Kiều Phong, nhưng trong lúc cần kíp cũng đỡ được một tay. Ngờ đâu dọc đường ta lại vừa nhận được tin tức cơ mật thật là trọng đại.” Mã phu nhân thản nhiên hỏi: “Ồ, chắc là việc quan trọng lắm?” Nữ nhân thường có tính hiếu kỳ, nghe nói đến một việc cơ mật trọng đại, dù chẳng liên quan gì đến mình cũng muốn hỏi chơi. Ngờ đâu Mã phu nhân vẫn thờ ơ, mặc cho đối phương muốn nói thì nói, không nói thì thôi, tưởng chừng phu quân đã chết rồi thì trên đời này chẳng còn điều gì đáng phải động tâm nữa. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Người ta vẫn so sánh lòng người quả phụ như cây héo tro tàn, nếu nói về Mã phu nhân thì không sai chút nào.”

A Châu bỗng khoát tay bảo Tiêu Phong: “Ngươi ra ngoài đợi. Ta có điều cơ mật thương lượng với phu nhân.” Tiêu Phong gật đầu đi ra ngoài, thấm khen: “A Châu quả là thông minh, nàng hiểu rằng muốn người khác thổ lộ chuyện bí mật cho nghe thì phải nói chuyện bí mật của mình trước. A Châu giả vờ nói chuyện cơ mật, ngay cả kẻ tâm phúc của mình cũng không được nghe, chính là làm cho Mã phu nhân tin tưởng.”

Tiêu Phong ra khỏi cửa, bên ngoài trời tối, vắng lặng không một tiếng động, chỉ nghe tiếng lách cách từ dưới bếp vọng lên, chính là bà vú đang rửa bát. Chàng bèn đi vòng qua góc tường, nép vào ngoài cửa sổ phòng khách, nín thở lắng tai nghe. Giả tỷ Mã phu nhân không nói ra danh tính kẻ thù, ít nhất cũng lộ ra chút đầu mối để biết đường lần theo, còn hơn mù mờ như hiện nay. Huống chi vị Bạch trưởng lão này chẳng quản xa xôi ngàn dặm đến đây cảnh báo đã là thi ân với bà ta rồi, khi sắp từ biệt lại cho biết một chuyện cơ mật. Không lẽ Mã phu nhân lại cảnh giác tuyệt đối mà giấu giếm một vị đầu não bản bang hay sao?

Hồi lâu mới nghe Mã phu nhân thở dài một tiếng, u uẩn nói: “Trưởng lão… trưởng lão còn đến làm gì nữa đây?” Tiêu Phong sợ bị phát giác làm hỏng đại sự, không dám thò đầu vào xem tình hình trong phòng khách thế nào. Chàng rất lấy làm kỳ, tự hỏi: “Mã phu nhân hỏi câu này là có ý nghĩa gì?”. Chỉ nghe A Châu nói: “Ta quả thật nghe tin Kiều Phong có ý gia hại phu nhân nên tới báo tin.” Mã phu nhân nói: “Đa tạ hảo ý của Bạch trưởng lão.” A Châu hạ giọng nói: “Mã phu nhân! Từ khi Mã hiền đệ chẳng may qua đời, có mấy vị trưởng lão bản bang nhớ đến công đức người quá cố, muốn mời phu nhân đảm nhiệm chức trưởng lão trong bản bang.”

Tiêu Phong nghe giọng nàng nói cực kỳ trịnh trọng không khỏi tức cười, nhưng trong bụng cũng phải khen thầm nàng mưu kế thật cao. Giả tỷ Mã phu nhân bằng lòng, Bạch trưởng lão lập tức trở thành thượng cấp của bà, có điều muốn hỏi thì dĩ nhiên phải trả lời. Còn nếu phu nhân không bằng lòng thì cũng thấy mình được Cái Bang coi trọng, thể nào cũng hân hoan trong dạ.

Mã phu nhân đáp: “Tiện thiếp có tài đức gì mà dám đảm nhiệm chức trưởng lão? Tiện thiếp làm đệ tử Cái Bang còn chưa xong, huống chi địa vị trưởng lão có thể nói là cách bậc muôn trùng.” A Châu đáp: “Ta cùng Ngô trưởng lão đã cực lực tiến cử, nghĩ rằng nếu có Mã phu nhân tham gia lo liệu thì việc bắt giết Kiều Phong dễ dàng hơn nhiều. Lại còn có một tin tức trọng đại liên quan đến việc Mã huynh đệ bị giết.” Mã phu nhân hỏi lại: “Thế ư?” Giọng nói bà ta vẫn có vẻ thờ ơ.

A Châu tiếp: “Hôm đó ta đến thành Vệ Huy điếu tang Từ trưởng lão, có gặp Triệu Tiền Tôn. Y nói với ta là y biết hung thủ sát hại Mã huynh đệ.”

Đột nhiên nghe choang một tiếng, một cái tách trà rơi xuống vỡ tan. Mã phu nhân hoảng hốt kêu lên, rồi lắp bắp nói: “Trưởng lão!… Trưởng lão đùa giỡn gì thế?” Thanh âm ra chiều phẫn nộ, nhưng cũng có mấy phần kinh hoàng. A Châu đáp: “Đây là một việc trọng đại, làm sao ta dám nói đùa? Chính miệng Triệu Tiền Tôn nói cho ta nghe, y biết rõ hung thủ giết Mã Đại Nguyên huynh đệ. Theo y thì hung thủ không phải là Kiều Phong, cũng chẳng phải Cô Tô Mộ Dung.”

Mã phu nhân run run hỏi: “Làm sao y biết? Làm sao y biết? Trưởng lão chỉ nói hồ đồ, có khác gì thấy quỉ giữa ban ngày?” A Châu đáp: “Phu nhân đừng nóng ruột, ta sẽ từ từ nói cho biết. Gã Triệu Tiền Tôn kia nói rằng Trung thu năm ngoái…” Nàng nói chưa dứt câu, Mã phu nhân đã rú lên một tiếng, ngất xỉu ngay tại chỗ. A Châu hốt hoảng gọi: “Phu nhân! Phu nhân!” Nàng lấy tay day vào nhân trung ở môi trên, Mã phu nhân dần dần tỉnh lại, u oán nói: “Sao trưởng lão… trưởng lão lại dọa tiện thiếp?” A Châu đáp: “Ta chẳng dọa phu nhân làm gì. Chính Triệu Tiền Tôn nói thế, tiếc rằng gã chết rồi, không thì ta gọi gã tới đây đối chứng. Gã kể ngày Trung thu năm ngoái, Đàm công Đàm bà đến hội họp tại nhà Thủ lĩnh đại ca, có cả hung thủ giết Mã huynh đệ cũng đến.”

Mã phu nhân thở ra một tiếng, hỏi lại: “Có thật gã nói thế không?” A Châu đáp: “Đúng thế. Ta hỏi hung thủ là ai, y bảo là không tiện nói ra. Ta đi hỏi Đàm công thì y hầm hầm nhìn ta không nói một tiếng, Đàm bà thì bảo là đúng thế, chính bà ta nói với Triệu Tiền Tôn. Ta cũng không trách Đàm công nổi cáu, chắc là y giận vợ mình chuyện gì cũng nói cho Triệu Tiền Tôn nghe. Còn Triệu Tiền Tôn không chịu nói tên hung thủ, chắc sợ liên lụy đến Đàm bà.” Mã phu nhân hỏi: “Thế thì đã sao? “ A Châu nói: “Triệu Tiền Tôn bảo là, ai cũng nghi Kiều Phong và Mộ Dung Phục giết chết Mã huynh đệ, còn hung thủ đích thực thì lại nhởn nhơ tiêu dao tự tại. Mã huynh đệ ở dưới suối vàng mà biết được, ắt càng oán hận muôn đời muôn kiếp không tan.” Mã phu nhân nói: “Đúng thế! Tiếc là Triệu Tiền Tôn lại chết rồi. Thế Đàm công, Đàm bà đã nói cho trưởng lão hay chưa?” A Châu đáp: “Họ cũng không chịu nói. Ta chỉ còn cách đi hỏi Thủ lĩnh đại ca thôi.” Mã phu nhân đáp: “Phải lắm, trưởng lão đến đấy hỏi là ra hết.” A Châu nói: “Nói ra cũng buồn cười, vị Thủ lĩnh đại ca đó là ai, nhà ở đâu, bọn ta làm sao mà biết.” Mã phu nhân nói: “Ồ, hóa ra trưởng lão cứ vòng vo nói qua nói lại, chẳng qua chỉ vì mục đích hỏi cho ra danh tính Thủ lĩnh đại ca.” A Châu nghiêm mặt đáp: “Nếu phu nhân thấy bất tiện thì không cần cho ta hay. Tự bọn ta sẽ điều tra cho minh bạch rồi đi tìm hung thủ thực sự thanh toán món nợ này.” Tiêu Phong hiểu A Châu lấy thoái làm tiến, cố làm bộ bất cần để Mã phu nhân khỏi nghi, nhưng trong lòng cô nàng chắc là nóng nảy lắm rồi.

Mã phu nhân vẫn lãnh đạm nói: “Danh tính Thủ lĩnh đại ca mà lộ ra, lọt đến tai Kiều Phong thì thể nào hắn cũng tìm đến để báo mối đại cừu sát hại song thân. Nhưng giấu ai thì giấu, chứ còn Bạch trưởng lão là chỗ thân tình, tiện thiếp giấu làm gì? Người đó chính là…”

Tiêu Phong đứng ngoài hết sức lắng tai, dường như nghe được cả tiếng tim mình đập, nhưng vẫn không thấy Mã phu nhân nói tiếp. Một lát sau mới nghe bà ta thở dài nói tiếp: “Trăng trên trời thật là tròn, thật là sáng” Tiêu Phong ngẩng đầu nhìn lên chỉ thấy mây đen che phủ, nghĩ thầm: “Hôm nay mới mồng hai, dẫu có trăng thì cũng đâu có tròn, bà ta nói thế là sao nhỉ?” Lại nghe A Châu nói: “Đến ngày rằm thì trăng thể nào chẳng tròn, chẳng sáng? Ôi, đau xót thay, Mã huynh đệ chẳng bao giờ còn được thấy trăng tròn nữa.” Mã phu nhân hỏi thêm: “Trưởng lão thích ăn bánh trung thu nhân mặn hay nhân ngọt?” Tiêu Phong lại càng ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Dường như tâm thần Mã phu nhân bất thường, có lẽ do Mã đại ca chết thảm.” A Châu đáp: “Bọn ăn mày chúng ta lẽ đâu còn kén chọn bánh mặn hay bánh ngọt? Mà ngày nào chưa tìm ra hung thủ để báo thù cho Mã huynh đệ, dẫu có sơn hào hải vị mà ăn cũng chẳng thấy mùi vị gì nữa.”

Mã phu nhân lại lặng yên, một lúc lâu sau mới lạnh lùng đáp: “Bạch trưởng lão hết lòng điều tra hung thủ để báo thù rửa hận cho huynh đệ, tiện thiếp cực kỳ cảm kích.” A Châu đáp: “Đó là bổn phận của bọn ta. Mấy vạn bang chúng Cái Bang chẳng ai là không nghĩ đến mối thù này.” Mã phu nhân nói: “Vị Thủ lĩnh đại ca này địa vị cực cao, thế lực cực lớn, một lời nói có thể điều động mấy vạn người. Ông ta lại rất thủy chung với bạn bè, nếu quả đã có giao tình với hung thủ, trưởng lão hỏi không được đâu.”

Tiêu Phong mừng rỡ nghĩ thầm: “Dù sao thì chuyến đi này cũng không đến nỗi vô ích. Giả tỷ Mã phu nhân không nói rõ ra, chỉ dựa vào một câu này, ta cũng có thể đoán được rồi. Trong võ lâm, liệu có mấy ai địa vị thanh thế được như vậy?”

Chàng còn đang nghĩ xem người đó là ai, đã nghe A Châu lên tiếng: “Trong võ lâm mà một lời nói có thể điều động mấy vạn người, thì trước đây chỉ có bang chủ Cái Bang. Ồ, Thiếu Lâm cũng có đệ tử khắp thiên hạ, phương trượng chưởng môn phái Thiếu Lâm mà nói ra một câu thì cũng có hàng vạn người phải nghe theo…” Mã phu nhân ngắt lời: “Trưởng lão khoan hãy suy đoán lung tung. Để tiện thiếp nói thêm một ý, người đó ở về hướng tây nam.” A Châu trầm ngâm nói: “Hướng tây nam? Hướng tây nam làm gì có người nào oai quyền như thế? Ta chẳng thấy ai cả.”

Mã phu nhân thò ngón tay chọc thủng giấy dán trên cửa sổ nghe roạc một tiếng, sát trên đầu Tiêu Phong. Bà ta lại nói tiếp: “Tiện thiếp không biết võ công, còn Bạch trưởng lão chắc là hiểu biết bao trùm thiên hạ. Ai là người giỏi nhất về công phu này?” A Châu đáp: “Hừ! Công phu dùng chỉ pháp điểm huyệt ư? Hiện thời thì Kim Cương Chỉ của phái Thiếu Lâm và Đoạt Phách chỉ của Trịnh gia ở Thường Châu tỉnh Hà Bắc là ghê gớm hơn cả.”

Tiêu Phong kêu thầm trong bụng: “Sai rồi, sai rồi. Về công phu điểm huyệt thì họ Đoàn Đại Lý là số một trong thiên hạ, mà bà ta cũng đã bảo ở hướng tây nam kia mà.” Quả nhiên nghe Mã phu nhân nói: “Bạch trưởng lão kiến văn quảng bác, sao lại không nghĩ ra chuyện này? Chắc là tại đường xa nhọc mệt, đầu óc rối mù, không nhớ đến cả môn Nhất Dương Chỉ lừng lẫy nhất thiên hạ.” Trong giọng nói xem ra có ý giễu cợt. A Châu đáp: “Dĩ nhiên ta chẳng lạ gì Nhất Dương Chỉ của Đoàn gia, có điều họ xưng đế ở Đại Lý, đã lâu nay không đi lại với võ lâm Trung Nguyên. Nếu bảo vị Thủ lĩnh đại ca kia có liên hệ với họ Đoàn, xem chừng có chỗ không đúng.”

Mã phu nhân nói: “Họ Đoàn là chúa tể Đại Lý nhưng Đoàn gia không phải chỉ có một người. Người không làm vua Đại Lý vẫn thường lai vãng Trung Nguyên. Vị Thủ lĩnh đại ca chính là em ruột của đương kim hoàng đế Đại Lý, Trấn Nam Vương Đoàn Chính Thuần.”

Tiêu Phong nghe Mã phu nhân nói đến ba chữ “Đoàn Chính Thuần” lập tức toàn thân run bắn lên. Ông ruổi rong muôn dặm, hết sức tìm kiếm mấy tháng nay mới được nghe cái tên này.

A Châu hỏi tiếp: “Vị vương gia này quyền cao chức trọng là thế, sao còn tham gia vào chuyện ân oán giang hồ làm gì?” Mã phu nhân đáp: “Chuyện ân oán giang hồ tầm thường thì dĩ nhiên Đoàn vương gia không dính dáng đến. Nhưng nếu chuyện có liên quan đến sự tồn vong của giống nòi cùng vương triều nước Đại Lý, trưởng lão nghĩ xem họ có thể nhắm mắt bỏ qua hay không?” A Châu đáp: “Nếu là chuyện quan hệ trọng đại thì đương nhiên họ phải nhúng tay vào.” Mã phu nhân nói: “Tiện thiếp có nghe Từ trưởng lão nói rằng, Đại Tống là bình phong che mặt bắc cho Đại Lý, Khất Đan một khi diệt xong Đại Tống rồi, thể nào cũng thôn tính nốt Đại Lý. Thành thử Đại Lý và Đại Tống như răng với môi, môi hở thì răng lạnh, cố nhiên Đại Lý không muốn Đại Tống diệt vong dưới tay Liêu quốc.” A Châu đáp: “Quả đúng như thế thật.”

Mã phu nhân nói: “Từ trưởng lão còn kể, năm xưa vị vương gia đó sang chơi tổng đà Cái Bang, đang uống rượu đàm luận kiếm pháp với Uông bang chủ, thì nghe tin báo võ sĩ Khất Đan đang kéo sang đoạt kinh văn của chùa Thiếu Lâm. Đoàn vương gia vì nghĩa lớn liền thống lĩnh mọi người ra Nhạn Môn Quan đón đánh, tuy là việc của Đại Tống nhưng thực ra cũng vì Đại Lý. Nghe nói vị vương gia này khi đó tuổi còn trẻ nhưng võ công cao cường, mà đối với ai cũng cực kỳ nhân nghĩa. Ở Đại Lý thì ông chỉ dưới một người mà trên muôn người, tính nết hào phóng vung tiền như rác. Bằng hữu chỉ hé miệng một câu là ông ta lập tức tặng hàng ngàn lạng bạc ngay. Trưởng lão nghĩ xem, quần hùng Trung Nguyên không đặt ông ta lên địa vị thủ lĩnh thì còn ai hơn nữa? Ông ta địa vị tôn cao, là hoàng đế tương lai của Đại Lý, bọn giang hồ thảo mãng làm sao dám ra lệnh cho bậc đế vương được?”

A Châu nói: “Thì ra Thủ lĩnh đại, ca chính là Trấn Nam Vương nước Đại Lý. Bao nhiêu người chết chỉ để bảo vệ cho ông ta.” Mã phu nhân đáp: “Bạch trưởng lão, chuyện cơ mật đó chở nên tiết lộ với ai. Đoàn vương gia với bản bang giao tình chẳng phải tầm thường, nếu chuyện lộ ra thì tai họa khôn lường. Mặc dù họ Đoàn Đại Lý uy chấn một góc trời nam, thế lực ghê gớm, nhưng giả tỷ gã Kiều Phong kia nuôi chí phục thù ấn nhẫn mười năm, thì Đoàn Chính Thuần không yên ổn được đâu.”

A Châu đáp: “Phu nhân nói phải lắm, ta quyết không tiết lộ với ai.” Mã phu nhân nói: “Bạch trưởng lão tuyên thệ đi, để tiện thiếp được yên tâm!” A Châu nói: “Được lắm! Bạch Thế Kính mà đem chuyện Đoàn Chính Thuần là Thủ lĩnh đại ca tiết lộ với ai thì sẽ bị thảm họa phân thây muôn đoạn, thân danh tan nát, người đời thóa mạ.” Lời thề của nàng nghe ra thật là nghiêm trọng, nhưng cực kỳ giảo quyệt, mồm năm miệng mười đổ hết lên đầu Bạch Thế Kính. Phân thây muôn đoạn đã có Bạch Thế Kính chịu, thân danh tan nát, người đời thóa mạ cũng Bạch Thế Kính hứng lấy, không liên quan gì đến A Châu.

Mã phu nhân nghe thề độc, xem chừng rất vừa lòng mà nói: “Thế là được rồi!” A Châu nói: “Nếu vậy ta phải đi Đại Lý bái kiến Trấn Nam Vương, dò hỏi xem Tết Trung Thu năm ngoái có những khách nào đến vương phủ của ông ta, là sẽ điều tra được hung thủ giết hại Mã huynh đệ. Thế nhưng trong thâm tâm ta vẫn cho là Kiều Phong. Triệu Tiền Tôn, Đàm công, Đàm bà ba người dở dở ương ương, lời nói chưa chắc đã đáng tin.”

Mã phu nhân đáp: “Hoàn toàn trông cậy vào Bạch trưởng lão điều tra hung thủ.” A Châu đáp: “Mã huynh đệ với ta tình như ruột thịt, ta thể nào cũng hết lòng hết dạ.” Mã phu nhân rầu rầu nét mặt nói: “Bạch trưởng lão tình nghĩa thâm trọng như thế, vong phu ở dưới suối vàng nếu mà biết được hẳn là cảm kích vô vàn.” A Châu đáp: “Phu nhân cố gắng bảo trọng, tại hạ xin cáo biệt.” Đoạn đứng lên đi ra. Mã phu nhân đáp lễ, nói: “Tiện thiếp thân phận góa bụa, đêm hôm không tiện tiễn chân, xin Bạch trưởng lão miễn thứ cho.” A Châu cũng đáp: “Được rồi, được rồi! Phu nhân chớ nên khách khí”.

A Châu ra đến cửa đã thấy Tiêu Phong đứng đợi, hai người nhìn nhau không nói một lời, lên đường đi ngay. Mảnh trăng non mông lung chiếu trên con đường trở về Tín Dương. Hai người sóng vai mà đi, đến hơn mười dặm Tiêu Phong mới thở phào, nói: “A Châu! Đa tạ nàng.”

A Châu gượng cười không nói gì. Tuy mặt nàng đang hóa trang thành Bạch Thế Kính đầy vết nhăn, nhưng Tiêu Phong nhìn trong khóe mắt vẫn thấy vẻ lo âu, liền hỏi: “Hôm nay việc lớn đã thành, sao nàng có vẻ không vui?”

A Châu đáp: “Thiếp nghĩ đến họ Đoàn nước Đại Lý người nhiều thế mạnh. Đại ca thân cô thế cô, qua đó tầm cừu thực là nguy hiểm vô cùng.” Tiêu Phong đáp: “À, thì ra nàng lo lắng cho ta. Nàng cứ yên tâm, ta ở trong tối, họ ở ngoài sáng, ba năm năm năm chưa báo thù được thì như Mã phu nhân nói đó, mười năm ắt phải xong. Thế nào cũng có ngày ta chặt Đoàn Chính Thuần ra mười bảy mười tám khúc vứt cho chó gặm.” Nói tới đây, chàng nghiến hai hàm răng ken két, bộc lộ tấm lòng căm phẫn đến cực điểm.

A Châu nói: “Đại ca phải hết sức cẩn thận mới được.” Tiêu Phong đáp: “Cái đó đã hẳn. Ta mất mạng còn là chuyện nhỏ, mối huyết thù của song thân không báo được mới là chuyện lớn, có chết cũng không nhắm được mắt.” Chàng chậm rãi đưa tay ra nắm lấy bàn tay A Châu, nói: “Nếu ta chết vào tay Đoàn Chính Thuần thì ai đưa nàng ra ngoài Nhạn Môn Quan hưởng thú săn bắn chăn nuôi đây?” A Châu đáp: “Ôi chao, sao thiếp vẫn băn khoăn, dường như trong vụ này có chuyện gì không ổn. Vị Mã phu nhân kia ra vẻ… ra vẻ băng thanh ngọc khiết là thế, mà sao thiếp có cảm giác vừa kinh sợ, vừa chán ghét.” Tiêu Phong mỉm cười nói: “Người đàn bà đó tinh minh tài giỏi, nàng sợ bà ta khám phá ra chuyện giả trang, nên trong lòng hồi hộp đó thôi.”

Hai người về đến khách điếm trong thành Tín Dương, Tiêu Phong lập tức gọi mười cân rượu uống một phen cho thỏa dạ, trong bụng nghĩ cách báo thù. Chàng nghĩ đến họ Đoàn Đại Lý, tự nhiên nhớ lại người em kết nghĩa kim lan là Đoàn Dự, bất giác rùng mình, cầm chén rượu ngồi ngây ra không uống nữa, sắc mặt biến đổi khác thường.

A Châu tưởng chàng phát giác ra chuyện gì, nàng đưa mắt ngó quanh chẳng thấy chi khác lạ, liền hỏi nhỏ: “Đại ca, có chuyện gì thế?” Tiêu Phong giật mình đáp: “Không… không có gì cả”, nói rồi nâng chén lên uống một hơi cạn sạch. Rượu vào đến cổ họng, bỗng dưng chàng nghẹn thở ho sù sụ, phun rượu ra ướt cả vạt áo. Tửu lượng của Tiêu Phong vô địch thiên hạ, nội công lại thâm hậu, uống rượu mà bị sặc phải phun ra là chuyện chưa từng có. A Châu không khỏi ngấm ngầm lo lắng, nhưng không dám hỏi nhiều,

Thực ra Tiêu Phong đang uống rượu bỗng nhớ đến hôm trước uống thì cùng Đoàn Dự tại thành Vô Tích, chàng sử dụng khí công thượng thừa trong phép Lục Mạch Thần Kiếm, dồn rượu chảy ra đầu ngón tay hết. Thần công như thế, Tiêu Phong biết mình không thể bì kịp. Đoàn Dự rõ ràng không biết võ công mà nội công đã ghê gớm đến thế, kẻ đại đối đầu kia là Đoàn Chính Thuần, một nhân vật rường cột nước Đại Lý, so với Đoàn Dự chắc hẳn phải ghê gớm gấp mười. Mối đại cừu giết cha mẹ không biết đến bao giờ trả được? Tiêu Phong không biết rằng Đoàn Dự hữu duyên mà được thần công, ngẫu nhiên hút nội lực người khác. Về nội lực thì chàng đã hơn phụ thân không biết bao nhiêu lần, về công phu Lục Mạch Thần Kiếm thì trên đời ngoài Đoàn Dự ra không còn người thứ hai nào sử dụng được đầy đủ. Họ Đoàn là quốc tính nước Đại Lý, chẳng khác gì họ Triệu bên Đại Tống, họ Lý bên Tây Hạ, họ Gia Luật bên nước Liêu, trong nước Đại Lý có đến hàng nghìn hàng vạn người họ Đoàn. Đoàn Dự trước nay chưa đề cập tới thân thế mình, A Châu và Tiêu Phong đều quen biết chàng rất thân, nhưng có ngờ đâu anh chàng đồ gàn đó lại là lá ngọc cành vàng?

A Châu không hiểu nỗi lòng uẩn khúc của Tiêu Phong, nhưng cũng đoán chàng đang lo nghĩ việc trả thù, liền nói: “Đại ca! Báo thù là việc lớn, không phải một sớm một chiều. Chúng ta bàn định mưu kế rồi sẽ hành động. Dù địch đông ta ít không đủ sức đánh, chẳng lẽ không biết dùng mưu trí mà đánh hay sao?”

Tiêu Phong nghe nàng nói bỗng đổi sầu làm vui, chàng biết A Châu cơ biến khôn ngoan, quả là một trợ thủ đắc lực, lập tức rót thêm một chén, uống một hơi cạn sạch, rồi nói: “Thù này không đội trời chung. Để báo mối thù giết song thân, chẳng cần để ý tới qui củ đạo nghĩa giang hồ, thủ đoạn ác độc đến đâu cũng có thể thi hành. Đúng thế, mình không đủ sức đánh, thì phải dùng mưu.”

A Châu lại tiếp: “Đại ca! Ngoại trừ huyết thù của phụ mẫu thân sinh, lại còn của dưỡng phụ dưỡng mẫu đại ca là phu phụ Kiều lão, của sư phụ đại ca là Huyền Khổ đại sư” Tiêu Phong Vỗ bàn một cái, lớn tiếng nói: “Phải đó! Oán thù chồng chất, nào chỉ có một thời đâu?”

A Châu lại nói: “Ngày trước đại ca học nghệ nơi Huyền Khổ đại sư, hẳn còn nhỏ tuổi nên chưa học hết nội công tinh diệu của phái Thiếu Lâm. Nếu không thì Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn Đại Lý chưa chắc đã lợi hại hơn Dịch Cân Kinh của Đạt Ma lão tổ. Thiếp từng nghe Mộ Dung lão gia bàn luận võ công thiên hạ, nói là võ công lợi hại nhất của họ Đoàn Đại Lý không phải là Nhất Dương Chỉ mà là Lục Mạch Thần Kiếm gì gì đó.”

Tiêu Phong nhíu mày đáp: “Phải rồi! Mộ Dung tiên sinh là bậc kỳ nhân trong võ lâm, quả nhiên kiến thức hơn đời. Vừa rồi ta lo âu không phải vì Nhất Dương Chỉ mà vì Lục Mạch Thần Kiếm.”

A Châu nói: “Hôm đó Mộ Dung lão gia và Mộ Dung công tử bàn luận võ công thiên hạ, thiếp đứng hầu trà, nghe được mấy câu. Mộ Dung lão gia nói: Bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, môn nào cũng có chỗ tinh diệu. Muốn khắc địch chế thắng thì chỉ một tuyệt kỹ là đủ, chẳng cần tới bảy mươi hai làm gì.” Tiêu Phong gật đầu: “Mộ Dung tiền bối luận rất đúng.”

A Châu nói tiếp: “Khi đó Mộ Dung công tử nói: Gia gia dạy chí phải. Vương cô mẫu cùng biểu muội vẫn tự khoe mình là biết võ công rộng nhất thiên hạ nhưng rộng mà không tinh phỏng có ích gì? Mộ Dung lão gia nói: Nói đến chữ tinh, không phải dễ dàng. Tuyệt học chân chính của phái Thiếu Lâm chỉ có một bộ Dịch Cân Kinh, luyện cho tinh thuần bộ kinh này thì những thế võ tầm thường đến đâu cũng biến thành kỳ diệu.”

Căn cơ vững chắc, nội công thâm hậu, thì bất luận chiêu thức tầm thường nào cũng phát huy được uy lực mãnh liệt, Tiêu Phong đã hiểu thế từ lâu. Hôm trước ở Tụ Hiền Trang độc đấu quần hùng, chàng chỉ dùng một pho Thái Tổ Trường Quyền ai cũng biết, mà các cao thủ hạng nhất thiên hạ đều phải khoanh tay bái phục. Lúc này ông nghe A Châu nhắc lại lời Mộ Dung tiên sinh, không khỏi nổi hứng uống luôn hai chén nữa, rồi nói: “Thật hợp ý ta! Thật hợp ý ta! Tiếc rằng Mộ Dung tiên sinh đã qua đời, không thì Tiêu Phong thể nào cũng tìm đến bái kiến bậc kỳ nhân trong thiên hạ.”

A Châu tủm tỉm cười đáp: “Ngày Mộ Dung lão gia còn tại thế, lão gia không chịu tiếp kiến người ngoài, song đối với đại ca thì khác.” Tiêu Phong ngẩng đầu lên mỉm cười, ông biết câu “Đối với đại ca thì khác” phải hiểu là: “Đại ca là người yêu của thiếp, không phải người ngoài.” A Châu bắt gặp ánh mắt của Tiêu Phong, thẹn thùng cúi đầu, vừa bẽn lẽn vừa sung sướng.

Tiêu Phong lại uống cạn một chén nữa, hỏi: “Khi Mộ Dung lão gia qua đời, tuổi cũng chưa cao lắm, phải không?” A Châu đáp: “Mới ngoại ngũ tuần, chưa thể gọi là già.” Tiêu Phong nói: “Ồ, lão gia nội công thâm hậu, ngoại ngũ tuần chính là thời kỳ võ công tiến triển mau lẹ, không hiểu tại sao đột nhiên qua đời?” A Châu lắc đầu nói: “Lão gia bị bệnh gì mà thác, tôi tớ trong nhà chẳng ai biết. Sự tình rất nhanh, buổi sáng nghe nói bị bệnh, đến chiều đã thấy công tử khóc rống lên, báo với mọi người là lão gia đã từ trần.”

Tiêu Phong nói: “Không biết lão gia bị bệnh gì cấp tính. Đáng tiếc, đáng tiếc! Tiếc là Tiết Thần Y không ở gần, không thì giá nào cũng phải mời ông ta đến cứu mạng cho Mộ Dung tiên sinh.” Chàng và họ Mộ Dung chưa từng quen biết, chỉ nghe nói về ngôn ngữ cử chỉ của hai cha con mà sinh lòng hâm mộ, nay có A Châu lại càng cảm thấy liên quan thân thiết.

A Châu lại tiếp: “Hôm đó Mộ Dung lão gia cùng công tử đàm luận rất lâu về Dịch Cân Kinh. Lão gia nói: Ta chưa được xem bộ Dịch Cân Kinh của Đạt Ma lão tổ, nhưng lấy đạo lý võ học mà suy, phái Thiếu Lâm nổi tiếng phải là vì pho Dịch Cân Kinh ấy. Bảy mươi hai tuyệt kỹ đều có chỗ lợi hại, nhưng dựa vào đó mà lãnh đạo quần hùng, đứng đầu võ lâm thiên hạ thì chưa xứng. Lão gia lại dặn dò công tử chớ ỷ vào võ học tổ truyền mà coi thường đệ tử Thiếu Lâm. Trong Thiếu Lâm Tự đã có pho kinh ấy, biết đâu có vị tăng nhân thiên tư đĩnh ngộ có thể luyện thành?”

Tiêu Phong gật đầu khen phải, nghĩ thầm: “Họ Cô Tô Mộ Dung danh trùm thiên hạ, vậy mà không kiêu ngạo tự cao, quả là không dễ.”

A Châu nói: “Lão gia còn bảo, bình sinh đã đọc gần hết võ công trong thiên hạ, chỉ chưa được thấy Lục Mạch Thần Kiếm Phổ của họ Đoàn Đại Lý và Dịch Cân Kinh của phái Thiếu Lâm, quả là đáng tiếc. Đại ca, Mộ Dung lão gia đã đặt hai môn võ công này ngang nhau, vậy thì muốn đối phó với Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn phải có Dịch Cân Kinh của chùa Thiếu Lâm. Nếu như ta ăn trộm được Dịch Cân Kinh trong Bồ Đề Viện của Thiếu Lâm Tự, sau đó luyện tập vài năm, thì Lục Mạch Thần Kiếm hay Thất Mạch Quỉ Đạo gì gì đi nữa cũng chẳng có chi đáng kể.” Nàng nói đến đây, vẻ mặt trông như cười mà không phải cười.

Tiêu Phong nhảy dựng lên, nói: “Tiểu quỉ đầu! Nàng… nàng…” A Châu cười nói: “Đại ca! Thiếp lấy cắp pho kinh này định đưa về cho công tử xem, rồi đem thiêu hóa trước mộ lão gia để người được hoàn thành tâm nguyện. Bây giờ thì dĩ nhiên thiếp đưa cho đại ca.” Nói xong nàng lấy trong bọc ra một chiếc túi vải dầu, để vào tay Tiêu Phong.

Tối hôm đó chính Tiêu Phong thấy nàng hóa trang thành nhà sư Chỉ Thanh, lấy trộm một cái gói đằng sau tấm gương đồng trong Bồ Đề Viện, có biết đâu rằng đó chính là pho Dịch Cân Kinh bí truyền của phái Thiếu Lâm. A Châu bị quần hào bắt được ở Tụ Hiền Trang, mọi người nghĩ nàng là phận nữ nhi nên không lục soát trong người. Các vị cao tăng Thiếu Lâm như Huyền Tịch, Huyền Nạn cũng không thể ngờ kinh sách trong bản tự lại mất về tay cô gái này.

Tiêu Phong lắc đầu nói: “Nàng mạo hiểm cửu tử nhất sinh vào chùa Thiếu Lâm trộm kinh sách, bản ý là tặng cho Mộ Dung công tử, có lý đâu ta lại chiếm lấy?” A Châu đáp: “Đại ca nói thế là sai bét rồi.” Tiêu Phong lấy làm kỳ hỏi: “Sao lại thế?” A Châu đáp: “Bộ kinh này là tự ý thiếp đi ăn trộm chứ có phải vâng mệnh Mộ Dung Công tử đâu, thiếp thích cho ai thì cho. Vả lại sau khi đại ca xem rồi, chúng ta lại đưa tặng công tử cũng không muộn. Mối thù giết phụ mẫu chẳng đội trời chung, chỉ cốt sao trả được là hay. Dù phải dùng thủ đoạn ác độc, hèn hạ xấu xa cũng chẳng từ, huống chi là mượn xem một bộ kinh, có gì mà phải dùng dằng câu nệ?”.

Mấy câu thuyết lý của A Châu khiến Tiêu Phong khâm phục, quay sang nàng vái dài mà nói: “Hiền muội trách ta là phải. Đã làm việc lớn mà còn câu nệ tiểu tiết sao được?” A Châu dẩu môi cười, nói tiếp: “Đại ca vốn là đệ tử Thiếu Lâm, dùng võ công phải Thiếu Lâm để rửa thù cho ân sư Huyền Khổ là danh chính ngôn thuận, có gì không phải đâu nào?”

Tiêu Phong luôn mồm khen phải, vừa cảm kích vừa vui sướng, liền mở gói giấy dầu ra xem, chỉ thấy một cuốn sách mỏng giấy đã vàng ố, ngoài bìa viết những chữ ngoằn ngoèo kỳ lạ. Chàng bất giác kêu lên: “Không được rồi!”, mở thử trang đầu ra xem, thấy chữ dày chi chít, nhưng văn tự kỳ lạ, toàn là vòng tròn với móc câu, đến nửa chữ cũng không đọc được.

A Châu cũng la lên một tiếng “Ôi chao!” rồi nói: “Thì ra pho kinh này viết bằng chữ Phạn, thật là hỏng bét! Thiếp định đem về thiêu hóa trước mồ lão gia, từ lúc lấy được kinh văn vẫn chưa hề mở ra xem. Ôi, thảo nào mấy tên lừa trọc thấy võ công bí kíp bị trộm mà cứ thờ ơ không tiếc, hóa ra chẳng tên nào hiểu được kinh thư…” Nói xong nàng thở dài, cực kỳ thất vọng.

Tiêu Phong an ủi: “Việc đời có được có mất, nàng chẳng nên quá để tâm.” Chàng gói pho Dịch Cân Kinh lại, đưa trả A Châu. Nàng xua tay nói: “Đại ca cứ giữ lấy. Không lẽ giữa chúng ta còn phân biệt của chàng của thiếp nữa hay sao?” Tiêu Phong mỉm cười, cất pho kinh vào trong bọc. Chàng lại rót đầy một bát rượu toan uống, đột nhiên ngoài cửa có tiếng chân người, rồi tiếng kêu rống lên. Tiêu Phong ngạc nhiên, vội bước ra cửa, thấy trên đường có một đại hán người dính đầy máu, hai tay cầm hai chiếc búa lớn, đang múa lên loạn xạ.

comments

THIÊN LONG BÁT BỘ