Hồi 20: Giam mình cùng người trong tử lộ
Trương Vô Kỵ đi theo cô bé vài bước đã tới bên giường. Tiểu a hoàn vén trướng lên, chui vào trong, tay vẫn nắm tay Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ giật mình, nghĩ thầm, con a hoàn này tuy còn nhỏ, lại xấu xí, nhưng dẫu gì cũng là nữ giới, làm sao có thể ngủ chung một giường với cô ta? Huống hồ lúc này đuổi theo kẻ địch là việc gấp, bèn rụt tay về. Tiểu a hoàn nói nhỏ:
– Cửa đường hầm ở trong giường!
Chàng nghe mấy chữ đó, tinh thần phấn chấn hẳn lên, chẳng còn hiềm nam nữ gì nữa, chỉ thấy tiểu a hoàn lật tấm chăn lên, nằm ngang trên giường, kéo chàng nằm xuống bên cạnh. Không biết cô bé động tới cái then chốt nào, ván giường bỗng lật nghiêng, cả hai người rơi xuống bên dưới.
Họ rơi đến vài trượng, nhưng may là bên dưới trải cỏ mềm rất dày, nên không bị đau chút nào, chỉ nghe phía trên một tiếng “cạch” nhỏ, chiếc giường đã trở lại như cũ. Trương Vô Kỵ thầm khen: “Cơ quan này bố trí khéo thật! Ai ngờ cửa đường hầm bí mật lại ở ngay trên giường của một tiểu thư khuê các”.
Chàng nắm tay tiểu a hoàn, chạy vội về phía trước.
Chạy vài trượng, nghe tiếng xích sắt của tiểu a hoàn kéo lê dưới đất, Trương Vô Kỵ chợt nghĩ thầm: “Cô bé này chân tập tễnh, lại vướng dây xích, mà sao chạy nhanh thế nhỉ?” bèn dừng bước. Tiểu a hoàn đoán được ý chàng, cười nói:
– Con giả vờ què để đánh lừa lão gia và tiểu thư đấy thôi.
Trương Vô Kỵ nghĩ bụng: “Thảo nào mẹ ta dặn rằng nữ nhi trong thiên hạ đều thích lừa người; hôm nay ngay cả Dương Bất Hối cũng đã ám toán ta”. Lúc này chàng đang mải đuổi theo kẻ địch, thành thử ý nghĩ đó chỉ thoáng qua, chàng chạy quanh co trong đường hầm chừng vài chục trượng, thì hết lối, không thấy Viên Chân đâu cả.
Tiểu a hoàn nói:
– Đường hầm này con cũng chỉ biết tới chỗ đây, chắc là còn có lối thông đi nơi khác, nhưng con không tìm ra cơ quan mở cửa.
Trương Vô Kỵ đưa tay sờ tứ phía, thấy vách đá lồi lõm, không hề có kẽ nứt, đưa tay đẩy thử những chỗ lồi lõm, chẳng thấy xê dịch chút nào. Tiểu a hoàn than:
– Con đã thử hàng mấy chục lần nhưng không tìm ra máy móc ở chỗ nào, thật kỳ lạ. Con cũng đã mang đuốc vào soi rất kỹ, mà không phát hiện chỗ nào có dấu vết khả nghi. Vậy lão hòa thượng ấy trốn đi đâu?
Trương Vô Kỵ hít một hơi, vận lực ra hai cánh tay, đẩy thử vào vách đá bên trái, không thấy nhúc nhích gì; lại qua bên phải đẩy thử. Lần này vách đá hơi lung lay. Chàng cả mừng, hít một hơi thật dài, lấy sức đẩy mạnh, vách đá từ từ lùi dần, thì ra đó là một cái cửa đá rất dày, cực lớn, cực nặng. Đường hầm bí mật trên đỉnh Quang Minh cấu trúc tinh xảo, chỗ thì dùng cơ quan bí ẩn, còn cái cửa đá này không có máy móc gì, song phải là người có sức khỏe trời phú hoặc võ công thượng thừa mới xê dịch nổi. Chẳng hạn tiểu a hoàn này tuy vào được tới đây, nhưng võ công không đủ, cũng đành bỏ cuộc nửa chừng.
Trương Vô Kỵ luyện Cửu dương thần công đã thành, có sức đẩy rất mạnh, nên đẩy cửa đá mở ra. Khi cánh cửa đá mở ra ba thước, chàng còn đánh một chưởng, đề phòng Viên Chân nấp ở phía sau cánh cửa đánh lén chăng, sau đó mới luồn vào.
Qua cửa đá rồi, trước mặt lại là một đường hầm dài, hai người theo đó mà đi, chỉ cảm thấy đường đi hơi xiên xiên xuống, càng đi càng xuống thấp, sau khoảng dăm chục trượng bỗng chia thành hai ngả. Trương Vô Kỵ đi thử vào một ngả, thì nó lại tỏa ra bảy nhánh, chưa biết rẽ theo nhánh nào, bỗng nghe bên trái, đằng trước có tiếng ho khẽ, tuy người ho cố nén lại nhưng giữa đêm khuya nghe vẫn rõ mồn một.
Trương Vô Kỵ nói nhỏ:
– Đi lối này!
Chàng tiến theo nhánh cuối cùng bên trái. Nhánh này chỗ cao chỗ thấp, dưới chân gập ghềnh khó đi; chàng cứ xông thẳng tới, nghe tiếng xích sắt loảng xoảng sau lưng không dứt, bèn quay đầu nói:
– Kẻ địch ở phía trước, tình thế nguy hiểm, cô nương cứ đi chầm chậm cũng được.
Tiểu a hoàn nói:
– Có nạn cùng chịu, chả sợ!
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Ngươi cũng định lừa ta chăng?” Con đường theo hình xoáy trôn ốc đi dần xuống phía dưới, càng lúc càng hẹp dần, về sau chỉ đủ chỗ cho một người, tưởng như xuống một cái giếng sâu.
Đột nhiên chàng cảm thấy có một luồng gió ép xuống đầu, bèn nắm lấy thắt lưng tiểu a hoàn mà nhảy đại xuống bên dưới, chân trái vừa chạm đất liền nhào người về phía trước, chẳng cần biết trước mặt là hang sâu hay vách đá, vì đâu còn thời gian suy nghĩ. Rất may phía trước là một chỗ trống đủ cho hai người dung thân. Chỉ nghe “Sầm!” một tiếng cực mạnh, đất cát đá vụn rơi đầy mặt mũi.
Trương Vô Kỵ định thần, nghe tiểu a hoàn nói:
– Nguy hiểm quá, lão giặc trọc nấp bên cạnh, đẩy tảng đá lớn đè xuống chúng ta.
Trương Vô Kỵ đi ngược trở lại, tay phải giơ cao trên đầu, đi mấy bước thì bàn tay chạm phải mặt đá xù xì. Có tiếng Viên Chân truyền từ phía bên kia tảng đá vẳng sang:
– Tặc tiểu tử, hôm nay ta chôn mi ở đây, mi có một đứa con gái làm bạn là may cho mi lắm rồi. Mi khỏe lắm, để xem mi có đẩy nổi tảng đá này chăng? Một tảng đá còn ít, vậy ta cho thêm tảng nữa.
Chỉ nghe có tiếng sắt bẩy vào đá, rồi một tiếng “Sầm!” lớn, tảng đá thứ hai rơi xuống đè lên tảng thứ nhất.
Đường hầm này đủ rộng cho một người quay mình, Trương Vô Kỵ đưa tay sờ, tảng đá lớn tuy không bịt kín đường hầm, nhưng cùng lắm chỉ có thể đút lọt một cánh tay, chứ cả người không thể chui qua. Chàng hít một hơi, dùng hai tay lay thử, chỉ có đất cát rơi lả tả chứ tảng đá lớn chẳng hề nhúc nhích. Xem chừng hai tảng đá nặng đến mấy ngàn cân chồng lên nhau, dù có khỏe hơn vâm cũng không đẩy ra được. Tuy chàng đã luyện Cửu dương thần công, nhưng sức người có hạn, hai tảng đá to như hai cái gò thế kia làm sao xê dịch nổi?
Lại nghe Viên Chân ở phía bên kia tảng đá thở hổn hển, chắc là sau khi bị thương nặng, hắn còn gắng bẩy hai tảng đá nên đã kiệt sức, vừa thở vừa hỏi:
– Tiểu tử, tên mi… mi… là…
Sau chữ “là”, hắn hụt hơi, không nói nổi nữa.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Lúc này dẫu hắn có đổi ý, đột nhiên mở lòng từ bi, cứu hai người mình ra thì cũng không còn hơi sức nữa. Mình chẳng cần phí lời với hắn, phải tìm xem có lối thoát nào khác hay không”. Thế là chàng quay mình, theo đường hầm đi tiếp về phía trước.
Tiểu a hoàn nói:
– Con có mang theo đồ đánh lửa, chỉ tiếc không có đèn nến gì thôi.
Trương Vô Kỵ nói:
– Đừng đánh lửa vội.
Chàng đi tiếp, được mấy chục bước sau thì đến cuối đường hầm.
Hai người lần mò tứ phía, Trương Vô Kỵ sờ thấy một cái thùng gỗ, mừng rỡ nói:
– Có rồi!
Chàng giơ tay đập vỡ cái thùng gỗ, thấy bay ra nhiều bột, không hiểu là vôi bột hay bột mì. Chàng nhặt một mảnh gỗ, nói:
– Đánh lửa đi!
Tiểu a hoàn lấy hỏa đao, đá lửa, bùi nhùi, đánh lửa châm vào thanh gỗ, đột nhiên lửa cháy bùng lên chói mắt, thanh gỗ bén lửa cháy rất mạnh, hai người giật mình, ngửi thấy mùi diêm sinh khét lẹt, tiểu a hoàn nói:
– Thuốc súng đó!
Nàng giơ thanh gỗ lên coi kỹ thứ bột trong thùng, quả nhiên là thuốc súng đen sì. Nàng cười khúc khích, nói:
– Nếu vừa rồi tia lửa bắn ra bén vào thuốc súng, chỉ e cả lão hòa thượng tàn ác ở bên kia cũng tan xác rồi.
Nàng thấy Trương Vô Kỵ ngây người nhìn mình, mặt đầy vẻ kinh ngạc, bèn mỉm cười, hỏi:
– Công tử sao thế?
Trương Vô Kỵ thở dài, nói:
– Thì ra cô nương… cô nương xinh đẹp thế này… Tiểu a hoàn che miệng cười, nói:
– Con sợ quá, quên cả giả trang khuôn mặt.
Nói rồi nàng đứng thẳng người lên. Thì ra cô nàng không gù lưng, cũng chẳng khập khiễng, đôi mắt sâu thẳm có thần, mày dài mũi thẳng, má có lúm đồng tiền, trông xinh xắn lạ thường, có điều nàng tuổi còn nhỏ, thân thể chưa trưởng thành, dung nhan xinh xắn nhưng còn mang nét trẻ con. Trương Vô Kỵ hỏi:
– Vì sao cô nương phải giả trang quái đản như thế?
Tiểu a hoàn cười đáp:
– Tiểu thư ghét con lắm, thấy con xấu xí như thế thì trong lòng mới vui. Nếu con không giả trang quái đản xấu xí, tiểu thư đã giết con lâu rồi.
Trương Vô Kỵ hỏi:
– Vì sao tiểu thư muốn giết cô nương?
Tiểu a hoàn đáp:
– Tiểu thư cứ nghi con định ám hại tiểu thư và lão gia.
Trương Vô Kỵ lắc đầu:
– Thật đa nghi! Vừa rồi cô nương cầm trường kiếm trong tay, tiểu thư thì không động đậy gì được, song cô nương có hại tiểu thư đâu. Từ nay trở đi, chắc tiểu thư không còn nghi ngờ cô nương nữa.
Tiểu a hoàn nói:
– Con đưa công tử xuống dưới này, tiểu thư sẽ càng nghi ngờ con hơn. Nhưng không biết chúng ta có ra khỏi nơi đây hay không, tiểu thư nghi hay không nghi, con cũng chả cần.
Tiểu a hoàn vừa nói vừa giơ cao thanh gỗ cháy, xem xét chung quanh. Chỗ hai người đang đứng hình như là một thạch thất, chất đầy binh khí cung tên, phần lớn đã gỉ sét, chắc là kho binh khí khi xưa Minh giáo bố trí dưới địa đạo để chống ngoại địch. Xem kỹ bốn bức tường không thấy kẽ nứt nào cả, có lẽ đây là cuối đường hầm. Viên Chân cố ý ho là cốt dụ hai người đi vào tử lộ.
Tiểu a hoàn nói:
– Công tử gia, tên con là Tiểu Chiêu. Con nghe tiểu thư gọi công tử là Vô Kỵ ca ca, vậy đại danh của công tử là Vô Kỵ phải không?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Phải, ta họ Trương.
Đột nhiên chàng nghĩ ra, cúi xuống nhặt một cây mâu dài, nhấc nhấc thử, thấy rất nặng, phải tới bốn chục cân, nói:
– Số thuốc nổ kia xem ra có thể phá vỡ tảng đá, cứu chúng ta thoát hiểm.
Tiểu Chiêu vỗ tay reo lên:
– Ý hay quá, hay quá!
Lúc nàng vỗ tay, sợi dây xích ở cổ tay chạm nhau leng keng. Trương Vô Kỵ nói:
Sợi xích ấy vướng vít chân tay, giật đứt nó đi cho rồi!
Tiểu Chiêu sợ hãi nói:
– Không, không được đâu! Lão gia nổi giận thì nguy.
Trương Vô Kỵ nói:
– Cô nương cứ bảo là do ta bẻ gãy, ta không sợ ông ấy nổi giận đâu.
Nói xong chàng cầm hai đầu dây xích giựt mạnh ra. Sợi dây chỉ nhỏ bằng cây đũa, sức giựt của chàng tối thiểu cũng phải ba, bốn trăm cân, nhưng nghe “coong” một tiếng, dây xích chấn động, chỉ căng ra chứ không đứt.
Trương Vô Kỵ hừ một tiếng, hít một hơi dài, vận lực giựt mạnh hơn, song sợi dây chẳng hề hấn gì.
Tiểu Chiêu bèn nói:
– Dây xích này lạ lắm, bảo đao lợi kiếm cũng chưa chắc chặt đứt được nó. Chìa khóa do tiểu thư giữ.
Trương Vô Kỵ gật đầu:
– Khi nào ra khỏi đây, ta sẽ bảo tiểu thư mở khóa cho cô nương.
Tiểu Chiêu nói:
– Chỉ sợ tiểu thư không chịu.
Trương Vô Kỵ nói:
– Ta với tiểu thư rất thân tình, tiểu thư sẽ bằng lòng thôi.
Nói rồi chàng cầm cây mâu, đến bên tảng đá, đứng im nghe ngóng một lát, không còn nghe tiếng thở của Viên Chân, chắc là hắn đã đi xa rồi.
Tiểu Chiêu giơ cao cây đuốc, đứng bên cạnh soi cho Vô Kỵ. Chàng nói:
– Nổ một lần chắc chưa vỡ, có lẽ phải làm vài lần.
Chàng vận sức vào hai cánh tay, đục một cái lỗ giữa mép tảng đá và vách đường hầm, Tiểu Chiêu đem thuốc súng tới, chàng nhồi thuốc vào trong cái lỗ đó, dùng cán mâu lèn cho chặt, lại làm một sợi dây dẫn kéo vào bên dưới thạch thất.
Trương Vô Kỵ cầm lấy cây đuốc từ tay Tiểu Chiêu, Tiểu Chiêu đưa hai tay bịt tai lại, Trương Vô Kỵ đứng ra phía trước che cho nàng, cúi người châm vào sợi dây dẫn, lửa liền theo sợi dây chạy đi.
Chỉ nghe một tiếng nổ lớn, một luồng khí nóng rát phả vào người, đẩy chàng lùi hai bước, Tiểu Chiêu cũng ngã chúi xuống. Vô Kỵ đã phòng bị trước, giơ tay đỡ ngang eo lưng Tiểu Chiêu. Trong thạch thất khói bụi mù mịt, cây đuốc bị thổi tắt ngóm. Trương Vô Kỵ hỏi:
– Tiểu Chiêu, cô nương không sao chứ?
Tiểu Chiêu húng hắng ho vài tiếng, đáp:
– Con… không sao.
Trương Vô Kỵ nghe giọng nàng có vẻ nghẹn ngào, hơi lấy làm lạ, đến khi đốt đuốc lại, thấy nàng rưng rưng nước mắt, liền hỏi:
– Sao vậy? Cô nương mệt lắm à?
Tiểu Chiêu nói:
– Trương công tử, công tử… không biết con là ai, sao lại đối xử tốt với con đến thế?
Trương Vô Kỵ lấy làm lạ:
– Thế là sao?
Tiểu Chiêu nói:
– Tại sao công tử phải che cho con? Con chỉ là một đứa nô tì hèn hạ, còn công tử… tấm thân ngàn vàng, sao lại đứng chắn cho con?
Trương Vô Kỵ mỉm cười, nói:
– Ta chả có gì là quý giá đâu, cô nương bé nhỏ, ta tự nhiên phải che chở cho cô nương.
Lúc khói bụi lắng xuống, chàng tới bên tảng đá, thấy nó vẫn sừng sững chỗ cũ, chỉ vạt mất một góc nhỏ, liền thất vọng nói:
– Chỉ sợ phải cho nổ bảy tám lần, chúng ta mới chui qua được, mà thuốc súng cùng lắm chỉ đủ dùng cho hai lần nữa thôi.
Chàng lại cầm cây mâu lên, đục lỗ trên tảng đá, đục mạnh mấy cái, một lần tình cờ chệch vào vách đá, bỗng một cục đá to như cái đấu rơi ra, lộ rõ một lỗ hổng. Chàng nửa ngạc nhiên nửa vui mừng, thò tay vào, lay chung quanh lỗ mấy cái, thấy nhúc nhích, liền giật mạnh, thêm một cục đá nữa long ra. Chàng moi liên tiếp bốn cục đá vuông chừng một thước, thì lỗ hổng đã lớn, đủ chui qua. Thì ra đường hầm còn lối đi khác, vừa rồi chàng nổ phá tảng đá lớn đã làm vách tường chấn động, khiến mấy cục đá rời ra. Lối đi này được xây bít bằng các cục đá to bằng cái đấu.
Trương Vô Kỵ cầm đuốc chui qua trước, rồi gọi Tiểu Chiêu sang theo. Đường hầm này cũng theo hình trôn ốc đi xuống, lần này chàng khôn ngoan hơn, tay trái cầm cây mâu chĩa ra đằng trước, đề phòng Viên Chân ám toán. Đi chừng bốn, năm chục trượng, đến một cái cửa đá. Chàng đưa mâu và đuốc cho Tiểu Chiêu, vận sức đẩy cánh cửa, mở sang một thạch thất nữa.
Gian thạch thất này rất rộng, phía trên có thạch nhũ rủ xuống, rõ ràng là một thạch động tự nhiên. Chàng giơ cây đuốc soi vài vòng, thấy dưới đất có hai bộ xương khô; y phục trên xác chết chưa nát vụn, còn nhận biết đó là một nam một nữ.
Tiểu Chiêu sợ hãi nép bên người Trương Vô Kỵ. Chàng giơ cao đuốc xem xét thạch thất một lần nữa, nói:
– Chỗ này xem chừng là tận cùng rồi, không biết có tìm được lối ra hay không?
Chàng giơ cây mâu gõ vào các bức vách, chỗ nào cũng nghe bình bịch nặng nề, không chỗ nào có vẻ là rỗng cả.
Chàng lại gần hai bộ xương, thấy tay phải người đàn bà cầm một con dao găm sáng loáng, cắm bên ngực trái. Chàng sững ra, nhớ ngay câu chuyện Thành Côn kể. Thành Côn và Dương phu nhân tư tình với nhau trong lối đi bí mật, bị Dương Đính Thiên phát hiện, Dương Đính Thiên phẫn uất nên bị tẩu hỏa mà chết, Dương phu nhân bèn dùng dao nhọn tự vẫn chết theo chồng. “Không lẽ hai bộ xương này là phu phụ giáo chủ Dương Đính Thiên?” Chàng tới bên bộ xương người đàn ông, thấy cạnh xương bàn tay có một miếng da dê.
Trương Vô Kỵ nhặt miếng da lên xem, thấy một mặt có lông, một mặt nhẵn nhụi, không có gì lạ.
Tiểu Chiêu cầm lấy miếng da, vui mừng reo lên:
– Chúc mừng công tử, đây là tâm pháp thượng thừa của võ công Minh giáo.
Nói đoạn nàng đưa ngón trỏ bàn tay trái khía vào lưỡi dao trên ngực Dương phu nhân một cái, lấy máu bôi lên mặt nhẵn của tấm da, thế là lần lượt hiện lên các chữ, dòng đầu tiên viết mười một chữ: “Thánh hỏa tâm pháp Minh giáo: Càn khôn đại na di”.
Trương Vô Kỵ tình cờ tìm được tâm pháp võ công của Minh giáo, song chẳng lấy làm vui, nghĩ thầm: “Trong đường hầm này không thức ăn, không nước uống, nếu không ra khỏi nơi đây, cùng lắm bảy tám ngày thì cả ta lẫn Tiểu Chiêu cũng chết đói chết khát mà thôi; dẫu có học được võ công thượng thừa đến mấy, cũng là vô dụng”. Nhìn hai bộ xương, chàng lại nghĩ: “Viên Chân tại sao không lấy luôn bộ tâm pháp Càn khôn đại na di này đi? Chắc là sau khi làm chuyện nhơ nhuốc kia rồi, hắn không còn dám quay lại nhìn thi thể hai vợ chồng Dương Đính Thiên nữa. Dĩ nhiên, hắn không thể biết mảnh da dê này có chép tâm pháp võ công, chứ không cho dù phu phụ giáo chủ Dương Đính Thiên còn sống thì hắn cũng quyết đánh cắp cho bằng được”. Chàng hỏi Tiểu Chiêu:
– Tại sao cô nương biết được bí mật của miếng da này?
Tiểu Chiêu cúi đầu, nói:
– Khi lão gia nói chuyện với tiểu thư, con có nghe trộm được. Hai người là giáo đồ Minh giáo, không dám vi phạm giáo quy, xuống đường hầm bí mật này tìm kiếm.
Trương Vô Kỵ nhìn hai bộ xương, cảm khái nói:
– Mình chôn họ đi vậy.
Hai người xếp hai bộ xương phu phụ Dương Đính Thiên vào cạnh nhau, vun đất đá xung quanh để đắp lên trên.
Tiểu Chiêu chợt nhặt một vật cạnh hài cốt Dương Đính Thiên lên, nói:
– Trương công tử, có một phong thư này.
Trương Vô Kỵ cầm lấy, thấy trên bao thư viết bốn chữ “Phu nhân thân khải”[83]. Vì đã lâu năm, phong thư mục nát, bốn chữ kia cũng không còn đủ nét, song vẫn có thể nhận ra nét chữ rắn rỏi, mạnh mẽ. Bức thư được dán kỹ, dấu xi còn nguyên. Trương Vô Kỵ nói:
– Dương phu nhân chưa bóc thư xem đã tự sát luôn.
Chàng cung kính đặt bức thư vào chỗ hài cốt kia, đang định lấy đất đá vùi đi thì Tiểu Chiêu nói:
– Công tử hãy mở ra xem thử, không chừng Dương giáo chủ có dặn lại chuyện gì chăng?
Trương Vô Kỵ nói:
– Làm thế e bất kính.
Tiểu Chiêu nói:
– Nếu Dương giáo chủ có tâm nguyện gì chưa thành, công tử nói lại cho lão gia và tiểu thư để họ thực hiện theo lời Dương giáo chủ, như thế cũng tốt chứ sao.
Trương Vô Kỵ nghĩ cũng phải, bèn nhẹ nhàng bóc phong bì, rút ra một tờ lụa trắng cực mỏng, trong đó viết:
Phu nhân yêu dấu, từ ngày phu nhân về nhà họ Dương, ngày đêm u uất. Ta thô lỗ bạc đức, không đủ làm cho phu nhân vui lòng, thật có lỗi lắm vậy. Nay phải vĩnh biệt, mong phu nhân lượng thứ cho.
Y giáo chủ đời thứ ba mươi hai có di mệnh, khi nào ta luyện thành thần công Càn khôn đại na di, thì dẫn huynh đệ sang Tổng giáo bên Ba Tư bố trí nghênh đón Thánh hỏa lệnh về. Bổn giáo tuy phát nguyên từ Ba Tư, nhưng đã bắt rễ sâu ở Trung Hoa, thêm cành tỏa lá đã mấy trăm năm rồi. Nay Thát tử chiếm Trung thổ chúng ta, bổn giáo thề chống lại đến cùng, quyết không tuân lệnh vô lý của Tổng giáo Ba Tư mà cúi đầu nhận bọn Mông Nguyên làm chủ. Thánh hỏa lệnh nếu về lại tay chúng ta, Minh giáo Trung Hoa lập tức có thể đứng ngang hàng với Tổng giáo Ba Tư
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Thì ra Tổng giáo của Minh giáo ở bên nước Ba Tư, Y giáo chủ và Dương giáo chủ không chịu tuân lệnh Tổng giáo đầu hàng triều đình nhà Nguyên, thực là các bậc hảo hán có chí khí”. Chàng thầm thán phục Minh giáo thêm vài phần, lại đọc tiếp bức thư:
Hôm nay ta vừa luyện thành thần công bậc thứ tư, thì biết được chuyện Thành Côn, huyết khí trào lên không ngăn được, chân lực tiêu tán, biết đã tới lúc trở về, biết làm gì hơn?
Trương Vô Kỵ đọc tới đây, thở dài khe khẽ, nói:
– Thì ra khi viết lá thư này, Dương giáo chủ đã biết việc Dương phu nhân hẹn hò tình tự với Thành Côn trong đường hầm bí mật.
Chàng thấy Tiểu Chiêu ngập ngừng như muốn hỏi điều gì, song không dám mở miệng, bèn đem chuyện phu phụ giáo chủ Dương Đính Thiên và Thành Côn thuật sơ qua. Tiểu Chiêu nói:
– Con thấy việc đó toàn do Dương phu nhân sai trái mà ra. Nếu bà ta trong lòng cứ tơ tưởng Thành Côn, lẽ ra không nên lấy Dương giáo chủ; khi đã kết hôn với Dương giáo chủ thì không được lén gặp gỡ Thành Côn.
Trương Vô Kỵ gật đầu, nghĩ thầm: “Tiểu cô nương này còn bé nhưng đã hiểu biết”, chàng đọc tiếp bên dưới:
Nay mệnh ta chỉ còn sớm tối, phụ lòng ủy thác của Y giáo chủ, thực là có tội với bổn giáo. Vậy phu nhân hãy cầm lá thư chính tay ta viết này, chiêu tụ Tả, Hữu Quang Minh sứ giả, Tứ đại hộ giáo pháp vương, Ngũ Hành kỳ sứ, Ngũ tản nhân, truyền di lệnh của ta như sau: “Bất kể ai thu hồi được Thánh hỏa lệnh về, thì được làm giáo chủ đời thứ ba mươi tư của bổn giáo. Kẻ nào không phục, giết đi không tha. Lệnh cho Tạ Tốn tạm giữ chức Phó giáo chủ, xử lý các việc trọng đại của bổn giáo”.
Trương Vô Kỵ xúc động, nghĩ thầm: “Thì ra Dương giáo chủ đã chỉ định nghĩa phụ ta tạm làm Phó giáo chủ, nghĩa phụ ta võ công toàn tài, Dương giáo chủ qua đời rồi, nghĩa phụ ta là nhân vật số một trong Minh giáo. Tiếc rằng Dương phu nhân không đọc lá thư này, nếu không thì Minh giáo đã chẳng đến nỗi tàn sát lẫn nhau, giáo chúng trở nên tán loạn như thế”. Chàng thấy Dương Đính Thiên quý trọng Tạ Tốn như thế thì rất mừng, không khỏi thương cảm; chàng xuất thần hồi lâu, rồi đọc tiếp:
Tâm pháp “Càn khôn đại na di” tạm thời do Tạ Tốn tiếp chưởng, sau sẽ chuyển giao cho tân giáo chủ. Làm rạng rỡ Minh giáo ta, đánh đuổi Hồ Lỗ, hành thiện trừ ác, phù chính trừ gian, mang thánh hỏa Minh tôn phổ huệ mọi người trong thiên hạ, là việc mà tân giáo chủ phải gắng làm.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Cứ theo di mệnh của Dương giáo chủ thì tôn chỉ của Minh giáo rất quang minh chính đại. Các môn phái lớn cứ một mực giữ thiên kiến của môn hộ, không ngừng gây khó dễ cho Minh giáo, thực chẳng nên chút nào”. Chàng lại đọc tiếp di thư:
Ta dồn chút sức tàn đóng chặt cánh cửa đá, ở lại cùng Thành Côn trong đường hầm này, còn phu nhân hãy cứ theo bản đồ đường hầm bí mật mà thoát ra. Thời nay không có người thứ hai nào có thần công “Càn khôn đại na di”, tức là không ai có thể đẩy nổi cánh cửa đá ở vị trí Vô Vọng. Chờ khi nào hào kiệt hậu thế luyện được thì xương cốt của ta và Thành Côn cũng mục nát rồi. Đính Thiên cẩn bạch.
Dưới cùng là một hàng chữ nhỏ: “Ta mang cái tên Đính Thiên là đội trời đạp đất, thế nhưng lại không làm nên sự nghiệp gì với đời, không có công lao gì với bổn giáo, làm cho phu nhân đau lòng, ôm hận mà chết đi, thật đáng chê cười”.
Mặt sau bức thư là một bản đồ đường hầm bí mật, ghi rõ các lối đi ngõ ngách.
Trương Vô Kỵ cả mừng, nói:
– Dương giáo chủ vốn muốn tự giam mình cùng Thành Côn trong đường hầm bí mật để hai người cùng chết, ai ngờ ông ta không trụ được, chết sớm quá, để cho tên Thành Côn sống ung dung đến tận hôm nay. Rất may có tấm bản đồ này, chúng ta có thể tìm đường lối thoát ra.
Theo bản đồ, chàng đã tìm ra chỗ mình đang đứng, xem kỹ lại thì cảm thấy như bị dội một thùng nước lạnh xuống đầu, thì ra lối thoát duy nhất chính là chỗ đã bị Thành Côn dùng hai tảng đá lớn lấp đi, thành thử có tấm bản đồ này cũng vô dụng.
Tiểu Chiêu nói:
– Công tử đừng vội nản lòng, không chừng còn có lối đi khác cũng nên.
Nàng cầm tấm bản đồ, cúi đầu xem kỹ, nhưng trên đó vẽ rõ ràng, ngoài lối đi kia, không còn đường nào khác.
Trương Vô Kỵ thấy nàng lộ vẻ thất vọng, bèn cười gượng, nói:
– Di thư của Dương giáo chủ có viết, nếu ai luyện thành thần công Càn khôn đại na di là có thể đẩy cánh cửa đá mà ra. Thời nay hình như chỉ có một mình Dương Tiêu tiên sinh luyện môn thần công đó, nhưng công lực còn non, dù Dương tiên sinh có ở đây cũng chưa chắc đẩy nổi. Hơn nữa, cũng chả biết cửa Vô Vọng nằm ở chỗ nào, trên bản đồ cũng không ghi rõ, vậy biết đường nào mà lần?
Tiểu Chiêu nói:
– Vị trí “Vô Vọng” ư? Đó là một phương vị trong sáu mươi tư quẻ của Phục Hy. Càn đến Ngọ thì hết, Khôn đến Tý thì hết, dương ở phương nam, âm ở phương bắc. Vị trí “Vô Vọng” nằm giữa hai vị trí “Minh Di” và “Tùy”.
Nói đoạn nàng liền phân chia phương vị trong thạch thất, bước tới góc tây bắc, nói:
– Ở chỗ này đây.
Trương Vô Kỵ phấn chấn hẳn lên, nói:
– Thật vậy ư?
Chàng chạy tới kho binh khí, lấy một cây rìu lớn, mang tới cạo sạch đất cát bám trên vách đá, quả nhiên lộ ra dấu vết một cánh cửa, chàng nghĩ thầm: “Ta tuy không biết phép Càn khôn đại na di, nhưng Cửu dương thần công ta đã luyện thành, uy lực chắc gì đã thua kém”. Chàng bèn tụ khí vào đan điền, vận lực ra hai cánh tay, hai chân xoải thành cung tiễn bộ, từ từ đẩy ra. Đẩy hồi lâu, cánh cửa đá không nhúc nhích. Bất kể hai tay chàng thay đổi bộ vị thế nào, vận chân khí ra sao, tới khi hai cánh tay mỏi nhừ, xương cốt toàn thân kêu lục cục mà cánh cửa đá vẫn trơ trơ, liền làm một với vách đá, không xê dịch chút nào.
Tiểu Chiêu khuyên:
– Công tử, đừng thử nữa, để con mang thuốc súng lại xem sao.
Trương Vô Kỵ vui mừng:
– Đúng rồi, ta quên biến là mình có thuốc súng.
Hai người đem nửa thùng thuốc súng nhồi vào cánh cửa đá, đốt dây dẫn hỏa. Sau tiếng nổ, cánh cửa bị lõm vào đến bảy, tám thước, song vẫn chưa thấy đường hầm đâu, xem chừng tảng đá này bề dày còn hơn cả bề rộng.
Trương Vô Kỵ cảm thấy mình có lỗi, chàng cầm tay Tiểu Chiêu, dịu dàng nói:
– Tiểu Chiêu, toàn do ta cả, làm cho cô nương cũng bị nhốt không ra được.
Tiểu Chiêu ngước đôi mắt trong veo chăm chăm nhìn chàng, nói:
– Trương công tử, công tử phải trách con mới đúng; nếu con không dẫn công tử xuống đây, thì đâu đến nỗi… đến nỗi…
Nàng dùng tay áo lau nước mắt, một lát sau, nàng bỗng cười khanh khách, nói:
– Đã không thoát ra được, thì lo buồn cũng chẳng ích gì. Thôi để con hát cho công tử nghe một bài được chứ?
Trương Vô Kỵ thực chẳng còn lòng dạ nào nghe hát, nhưng không nỡ làm Tiểu Chiêu cụt hứng, mỉm cười đáp:
– Được đấy!
Tiểu Chiêu ngồi xuống bên chàng, cất tiếng hát:
Sự đời lúc xuống lúc lên,
Nhân sinh đâu chỉ là hên là mừng.
Thế gian khi phế khi hưng,
Trong hung tàng cát, cát hung đổi dời.
Trương Vô Kỵ nghe đến câu “Trong hung tàng cát, cát hung đổi dời”, nghĩ đến một đời chìm nổi của mình, ngẫm quả đúng như thế. Lại thấy giọng Tiểu Chiêu trong trẻo, uyển chuyển lên bổng xuống trầm, thì bao nhiêu buồn phiền tiêu tan cả. Tiểu Chiêu lại ca tiếp:
Khi đầy cũng có khi vơi,
Có ai giàu mãi mấy đời xênh xang,
Trăng tròn rồi lại trăng tàn
Trời cao đất thấp đã hoàn mỹ chăng?
Trương Vô Kỵ nói:
– Tiểu Chiêu, cô nương ca hay lắm, ai đặt ra bài hát này thế?
Tiểu Chiêu cười đáp:
– Công tử giễu con rồi, con ca đâu có gì là hay? Con nghe người ta hát, nhớ lõm bõm vài câu, nên cũng không biết là do ai đặt.
Trương Vô Kỵ thích câu:
“Trời cao đất thấp đã hoàn mỹ chăng?”
Bèn ngâm lại câu đó. Tiểu Chiêu hỏi:
– Công tử thích nghe hát thật, hay chỉ giả vờ?
Trương Vô Kỵ cười nói:
– Thích nghe là thích nghe, sao lại có chuyện giả vờ ở đây? Dĩ nhiên là thích thật đấy.
Tiểu Chiêu nói:
– Được, thế thì để con hát một bài nữa.
Nàng gõ nhẹ năm ngón tay trái trên đá làm nhịp, hát:
Chớ nên cau mặt nhíu mày,
Cũng đừng vỗ ngực ta hay ta giàu.
Đẹp giàu phỏng được bao lâu?
Ngày nào xanh tóc, giờ đầu bạc phơ.
Giàu sang, khôn khéo có thừa
Khác chi nghèo khó, đần ngu vậy mà.
Có người thì cũng có ta,
Xưa nay, đây đó vốn là như nhau.
Cõi trần kẻ trước người sau
Cuối cùng cũng đến cái cầu xuôi tay.
Hôm nay hãy biết bữa nay,
Trăm năm thấm thoắt đã hay một đời.
Mấy ai thọ được bảy mươi,
Thời gian như nước chảy xuôi qua cầu.
Bài ca triết lý sâu xa, rõ ràng người đặt ra nó đã nếm trải đủ mùi, hiểu biết nhân tình thế thái, nhưng từ miệng một thiếu nữ hát ra lại xem chừng không hợp, đúng là cô bé nghe người ta hát rồi thuộc lòng. Trương Vô Kỵ tuổi còn trẻ, nhưng mười năm qua đã nếm trải đủ điều gian khổ, đêm nay bị kẹt giữa lòng núi, trước mắt thấy không còn đường sống, miệng nhẩm lại câu “Cõi trần kẻ trước người sau, Cuối cùng cũng đến cái cầu xuôi tay”, bất giác não lòng. “Cái cầu xuôi tay” ấy là ngày từ giã cõi đời. Chàng đã nhiều phen lâm vào giây phút sống còn, nhưng khi đó chỉ có một đường, hoặc sống hoặc chết, không liên lụy đến ai khác. Lần này không chỉ kéo thêm cô bé Tiểu Chiêu vào tử lộ, mà nào chuyện tồn vong của Minh giáo, sự an nguy của Dương Tiêu, Dương Bất Hối cùng bao người khác, nào mối thâm cừu giữa nghĩa phụ Tạ Tốn với Thành Côn, đều có liên quan đến chàng, quả thực không đành lòng mà chết.
Chàng đứng dậy, lại tới đẩy cái cửa đá, chỉ cảm thấy chân khí trong cơ thể lưu chuyển, tựa hồ trong người súc tích một nguồn khí lực vô cùng vô tận mà chưa được sử dụng, chẳng khác nào dòng nước lũ cuồn cuộn chảy trên sông, bị hai bờ đê chặn lại không cho tràn ra.
Chàng thử đẩy ba lần vẫn không xong, đành thúc thủ. Bỗng Tiểu Chiêu lại cứa ngón tay lấy máu quệt lên mảnh da dê, nói:
– Trương công tử, công tử hãy thử luyện tâm pháp “Càn khôn đại na di” xem sao. Không chừng công tử thông minh hơn người, luyện một lần là được.
Trương Vô Kỵ cười đáp:
– Các vị giáo chủ tiền nhiệm của Minh giáo luyện suốt đời còn chưa ai thành công; họ làm giáo chủ thì dĩ nhiên thông minh hơn ta nhiều; ta chỉ luyện một sớm một chiều, làm sao thành nổi?
Tiểu Chiêu cất giọng hát nho nhỏ:
Hôm nay hãy biết bữa nay,
Trăm năm thấm thoắt đã hay một đời.
– Công tử cứ luyện đi, một sớm một chiều cũng tốt chứ sao.
Trương Vô Kỵ mỉm cười, đón lấy mảnh da dê, miệng nhẩm đọc, thấy trên đó viết toàn là cách vận hành chân khí, cách di cung sử kình. Thử làm theo, không tốn chút sức lực nào đã làm được ngay. Mảnh da viết: “Tâm pháp bậc thứ nhất này, người có ngộ tính cao thì bảy năm sẽ luyện thành, người kém hơn sẽ tốn mười bốn năm”. Chàng lấy làm lạ: “Cái này đâu có gì khó mà phải tốn bảy năm?”
Chàng đọc tiếp tâm pháp bậc thứ hai, theo đó mà luyện, chỉ một lát chân khí đã quán thông, cảm thấy tựa hồ từ mười ngón tay có khí lạnh bắn ra. Trong đó lại có ghi chú: “Tâm pháp bậc thứ hai, người có ngộ tính cao thì bảy năm sẽ luyện thành, người kém hơn sẽ tốn mười bốn năm. Nếu tới năm thứ hai mươi mốt mà không tiến triển thì chớ luyện bậc thứ ba, đề phòng tẩu hỏa nhập ma, hết bề cứu vãn”.
Chàng vừa mừng vừa lo, luyện tiếp bậc thứ ba. Lúc này hàng chữ đã mờ, Trương Vô Kỵ định dùng dao cứa ngón tay lấy máu thì Tiểu Chiêu đã làm trước, đang bôi máu lên mảnh da. Trương Vô Kỵ vừa đọc vừa luyện theo, bậc thứ ba rồi bậc thứ tư, luyện được một cách dễ dàng.
Tiểu Chiêu thấy mặt chàng một bên đỏ như máu, một bên lại xanh lè thì hơi lo sợ, nhưng thấy chàng vẫn thần định khí túc, đôi mắt sáng long lanh, nên cũng yên tâm. Khi chàng luyện tâm pháp bậc thứ năm, mặt chàng chợt xanh chợt đỏ, lúc xanh thì thân hình run rẩy như trong băng giá; lúc đỏ thì mồ hôi vã ra như tắm.
Tiểu Chiêu rút khăn tay, đưa lên toan lau mồ hôi trán cho chàng, khăn vừa chạm vào trán thì tay nàng bị giật mạnh một cái, thân hình ngả sang một bên, suýt nữa ngã ngửa. Trương Vô Kỵ đứng dậy, giơ tay áo lau mồ hôi, nhất thời chưa hiểu tại sao, chỉ biết rằng mình đã luyện thành tâm pháp bậc thứ năm.
Thì ra tâm pháp” Càn khôn đại na di” này vốn là một pháp môn vận kình sử lực cực kỳ xảo diệu, đạo lý căn bản là làm sao phát huy tối đa tiềm lực có sẵn trong cơ thể mỗi người. Trong cơ thể mỗi người đều có nguồn tiềm lực rất to lớn, có điều bình thời không vận dụng được. Còn khi gặp tình huống khẩn cấp, như cháy nhà chẳng hạn, một người bình thường sức trói gà không chặt nhưng lại có thể vác cả ngàn cân. Trương Vô Kỵ sau khi luyện xong Cửu dương thần công thì lực đạo súc tích trong người không ai bì kịp, chỉ là chưa có cao nhân chỉ dẫn nên chưa biết cách sử dụng thôi. Bây giờ khi chàng học tâm pháp Càn khôn đại na di, tiềm lực trong cơ thể cứ trào dâng như hồng thủy, không gì chế ngự được.
Môn tâm pháp này sở dĩ khó luyện cho thành, sơ sảy một chút là bị tẩu hỏa nhập ma, hoàn toàn do phép vận kình vừa phức tạp vừa xảo diệu vô cùng trong khi người luyện công thì lại chưa có nội lực hùng hậu tương xứng. Giống như bảo một đứa bé bảy, tám tuổi múa một cây chùy nặng trăm cân, chùy pháp càng tinh vi càng dễ khiến đứa bé tự đánh vào mình vỡ đầu chảy máu. Nhưng nếu người sử dụng chùy là một đại lực sĩ thì dĩ nhiên không sao cả. Những người trước đây luyện môn tâm pháp này chỉ vì nội lực có hạn, cứ miễn cưỡng tu luyện, thành thử rơi vào tình trạng lực bất tòng tâm.
Các vị giáo chủ Minh giáo thời trước, ai chả hiểu đạo lý hệ trọng ấy, nhưng thân làm đến giáo chủ, chí kiên nghị có thừa, đâu chịu thua kém ai, cũng không vì thấy khó mà bỏ cuộc. Đại phàm cao thủ võ học đều thuộc lòng câu “Tinh thành sở chí, kim thạch vi khai”, nên ai cũng hăm hở dốc lòng tu tập, đâu biết rằng sức người có hạn, nhưng cứ đinh ninh “nhân định thắng thiên”, để đến nỗi nuốt hận mà chết.
Trương Vô Kỵ sở dĩ chỉ tốn nửa ngày đã luyện thành, trong khi người thông minh tài trí, võ nghệ cao cường hơn hẳn chàng mà tu luyện mấy chục năm vẫn không xong, cái khác nhau chỉ là một bên nội lực có thừa, một bên nội lực chưa đủ thôi.
Trương Vô Kỵ sau khi luyện bậc thứ năm, cảm thấy tinh thần khí lực toàn thân có thể điều khiển theo ý muốn, muốn phát là phát, muốn thu là thu, nhất nhất tùy ý, từng đường gân thớ thịt trong cơ thể có thể điều khiển dễ dàng. Lúc này chàng quên cả việc đẩy cánh cửa đá, chuyên tâm luyện tiếp tâm pháp bậc thứ sáu; chỉ hơn một canh giờ sau đã luyện sang bậc thứ bảy.
Tâm pháp bậc thứ bảy so với bậc thứ sáu huyền diệu và sâu xa gấp bội, nhất thời khó bề hiểu hết. Cũng may chàng tinh thông y đạo, mạch lý, gặp chỗ chưa rõ là lại đem y lý ra ấn chứng, nên quán thông được ngay. Khi luyện được quá nửa rồi, bỗng thấy khí huyết trào lên, tim đập mạnh. Chàng định thần, làm lại từ đầu, vẫn bị như thế. Từ khi chàng luyện tâm pháp bậc thứ nhất đến chỗ này, chưa bao giờ gặp tình trạng như vậy.
Chàng bỏ qua một câu, luyện tiếp xuống dưới, lại thấy thuận lợi, nhưng được vài câu, lại gặp trở ngại. Từ đó về sau, trở ngại càng lúc càng nhiều, tính ra có tổng cộng mười chín câu chưa luyện được.
Trương Vô Kỵ trầm ngâm một hồi, đặt mảnh da dê lên trên đá, cung kính quỳ xuống vái mấy lần, khấn:
– Đệ tử Trương Vô Kỵ tình cờ tìm được tâm pháp thần công của Minh giáo, chỉ vì mong thoát khỏi khốn cảnh tìm đường sống, hoàn toàn không có ý định ăn cắp bí kíp của quý giáo. Sau khi thoát khỏi hiểm cảnh, đệ tử sẽ đem thần công này tận lực giúp quý giáo, không dám phụ lòng vun đắp và đại ân cứu mạng của của các vị giáo chủ tiên liệt.
Tiểu Chiêu cũng quỳ xuống lạy mấy lạy, lầm rầm khấn:
– Kính mong liệt đại giáo tông phù hộ độ trì cho Trương công tử trùng chỉnh Minh giáo, làm rạng rỡ uy danh của liệt tổ.
Trương Vô Kỵ đứng dậy, nói:
– Đệ tử không phải là giáo đồ Minh giáo, theo lời giáo huấn của thái sư phụ đệ tử, sau này đệ tử cũng không thể gia nhập Minh giáo được. Nhưng sau khi đệ tử đọc di thư của Dương giáo chủ thì biết tôn chỉ của Minh giáo thật là quang minh chính đại, thể nào đệ tử cũng đem hết khả năng của mình giải thích những điều hiểu lầm cho các đại môn phái, để đôi bên ngừng tranh chấp.
Tiểu Chiêu nói:
– Trương công tử, công tử bảo còn mười chín câu chưa luyện được, sao không nghỉ một lát cho tinh thần sung túc, biết đâu lại chả luyện thành?
Trương Vô Kỵ nói:
– Hôm nay ta đã luyện tâm pháp Càn khôn đại na di xong bậc thứ bảy rồi, tuy phải bỏ qua mười chín câu, không khỏi có chút khiếm khuyết, nhưng cũng như câu hát ban nãy của cô nương: “Trăng tròn rồi lại trăng tàn, Trời cao đất thấp đã hoàn mỹ chăng?”, ta nào dám tham lam, chưa biết đủ? Ta có phúc trạch công đức gì mà dám nhận tâm pháp thần công của Minh giáo? Để lại mười chín câu chưa luyện thành, đó mới là đạo lý đấy.
Tiểu Chiêu nói:
– Công tử nói chí phải.
Nàng cầm mảnh da dê, hỏi Trương Vô Kỵ chỉ cho biết những câu nào chàng chưa luyện thành, lẩm nhẩm mấy lần học thuộc lòng. Trương Vô Kỵ cười hỏi:
– Cô nương ghi nhớ để làm gì vậy?
Tiểu Chiêu đỏ mặt, nói:
– Không làm gì cả. Con thấy đến công tử mà còn chưa luyện được, thì xem thử coi nó khó tới mức nào.
Ai ngờ Trương Vô Kỵ là người không quá chú trọng cái gì, thấy nên dừng thì dừng, rất hợp với câu “tri túc bất nhục”[84]. Nguyên vị cao nhân năm xưa sáng chế ra tâm pháp Càn khôn đại na di tuy nội lực mạnh thật, song cũng chưa bằng Cửu dương thần công, chỉ luyện đến bậc thứ sáu là dừng. Tâm pháp vị đó viết trong bậc thứ bảy, chính vị đó cũng chưa luyện tới, chỉ là nhờ trí tuệ thông minh mà tưởng tượng, biến hóa ra thôi. Mười chín câu Trương Vô Kỵ luyện không thông, toàn là do vị cao nhân đó tưởng tượng thêm vào, tưởng là đúng nhưng thực chất là đi vào sai lầm. Nếu Trương Vô Kỵ một mực cầu toàn, cứ đòi luyện cho tận thiện tận mỹ mới dừng, ắt sẽ bị tẩu hỏa nhập ma ở cửa ải cuối cùng này, không điên khùng, ngây độn, thì cũng bại liệt toàn thân, thậm chí còn đứt kinh mạch mà bỏ mạng cũng không chừng.
Hai người gom đất đá đắp lên hài cốt của vợ chồng Dương Đính Thiên đâu đấy, rồi đi tới bên cánh cửa đá.
Lần này Trương Vô Kỵ chỉ đặt một bàn tay phải vào bên cửa, theo đúng tâm pháp Càn khôn đại na di vừa luyện xong, chỉ hơi vận sức, phiến đá đã kèn kẹt chuyển động, hơi nghiêng người dùng chút sức nữa, cửa đá đã từ từ mở ra.
Tiểu Chiêu cả mừng, nhảy cẫng lên, vỗ tay kêu hay, sợi xích sắt ở tay kêu leng keng một hồi. Trương Vô Kỵ nói:
– Để ta giựt đứt dây xích cho cô nương một lần nữa xem sao.
– Lần này chắc phải đứt!
Trương Vô Kỵ cầm sợi dây xích, vận sức kéo ra hai bên; sợi dây chỉ doãng dài thêm chứ không đứt rời. Tiểu Chiêu kêu lên:
– Ối chao, không hay rồi! Công tử càng kéo dài ra chừng nào, con càng bị bất tiện thêm chừng ấy.
Trương Vô Kỵ lắc đầu:
– Cái dây xích này quái dị thật! Chỉ e kéo doãng cả chục trượng cũng không đứt.
Nguyên vị giáo chủ Minh giáo đời trước có nhặt được một cục vân thạch quái dị từ trên trời rơi xuống, trong có chứa chất liệu kim khí không giống các loại sắt thép dưới trái đất. Các tay thợ khéo của Nhuệ Kim kỳ liền đúc thử binh khí nhưng không được, bèn rèn thành sợi dây xích này. Trương Vô Kỵ thấy Tiểu Chiêu cúi đầu rầu rĩ, bèn an ủi nàng:
– Cô nương yên tâm, cứ tin rằng thể nào rồi ta cũng sẽ mở được cái xích này cho cô nương. Chúng mình bị kẹt trong lòng núi thế này còn thoát ra được, sá gì hai sợi dây xích ấy.
Chàng muốn tìm Viên Chân báo thù, quay trở lại cố đẩy hai tảng đá vạn cân kia, nhưng nó chỉ hơi lung lay chứ không mở ra được. Chàng lắc đầu, cùng Tiểu Chiêu trở lại lối cửa đá.
Lúc đi qua rồi, chàng đẩy cánh cửa lại như cũ, thấy tảng đá này thực ra không phải là cánh cửa, mà là một phiến nham thạch tự nhiên, bên dưới chèn một trái cầu sắt rất lớn làm bản lề. Lâu năm, trái cầu bị gỉ, khối nham thạch khó bề chuyển dịch. Chàng nghĩ năm xưa khi xây dựng địa đạo này, Minh giáo phải sử dụng vô số nhân lực trong nhiều năm, tốn biết bao công phu, tâm huyết.
Chàng cầm bản đồ đường hầm bí mật, theo đó mà đi, tuy khá ngoắt ngoéo nhưng không phí công đã thoát ra ngoài.
Vừa ra khỏi đường hầm, ánh sáng chói lòa chiếu vào mặt, hai người nhất thời chưa mở mắt ra được. Một hồi lâu mới từ từ hé mắt ra, thấy băng tuyết khắp nơi, ánh nắng chiếu xuống tuyết hắt lên, nên mới chói mắt như thế.
Tiểu Chiêu thổi tắt cây đuốc trên tay, đào một cái lỗ trên tuyết, chôn cây đuốc gỗ xuống đó, nói:
– Đuốc ơi, đa tạ mi đã chiếu sáng cho Trương công tử và ta ra khỏi đường hầm. Thiếu mi thì bọn ta chả làm gì được cả.
Trương Vô Kỵ cười ha hả, trong lòng rất sảng khoái, chợt nghĩ thầm: “Thế gian quá nhiều kẻ vong ân bội nghĩa, còn tiểu cô nương này đối với một cây củi còn như thế, ắt là người trung hậu trọng nghĩa”.
Chàng quay nhìn Tiểu Chiêu mỉm cười, ánh sáng dưới tuyết hắt lên mặt nàng, làm lộ rõ nước da trắng trẻo, mịn màng như ngọc, bèn buột miệng khen:
– Tiểu Chiêu, cô nương xinh quá!
Tiểu Chiêu vui mừng, nói:
– Trương công tử không nói dối đấy chứ?
Trương Vô Kỵ nói:
– Cô nương đừng giả trang què chân, lưng gù thành quái dị nữa, cứ thế này xinh biết mấy!
Tiểu Chiêu nói:
– Công tử bảo con không giả trang, con sẽ không giả trang nữa. Tiểu thư dù muốn giết con, con cũng không giả trang.
Trương Vô Kỵ nói:
– Đừng nói bậy! Cô nương tử tế như vậy, sao tiểu thư lại giết cô nương?
Chàng lại ngắm Tiểu Chiêu lần nữa, thấy nàng da dẻ trắng hồng, sống mũi hơi cao hơn so với thiếu nữ thông thường, tròng mắt ẩn hiện màu xanh của biển cả, bèn nói:
– Cô nương là dân bản địa Tây Vực thì phải? So với thiếu nữ ở Trung nguyên, xem ra có phần xinh đẹp hơn.
Tiểu Chiêu hơi nhướn mày, nói:
– Con chỉ mong mình được như thiếu nữ Trung nguyên thôi.
Trương Vô Kỵ tới bên sườn dốc quan sát địa thế tứ phía, thì ra đang ở lưng chừng một ngọn núi. Khi chàng nằm trong cái túi vải do Thuyết Bất Đắc vác lên đỉnh Quang Minh, chàng đâu biết địa thế dọc đường, lúc này cũng chả hiểu mình đang ở chỗ nào. Đưa mắt nhìn ra thật xa, chàng thấy ở triền núi phía tây bắc có mấy hình người nằm bất động, tựa hồ đã chết. Chàng nói:
– Mình tới đó coi thử.
Trương Vô Kỵ cầm tay Tiểu Chiêu chạy về phía triền núi đó. Lúc này Cửu dương chân khí trong cơ thể chàng lưu chuyển như ý, tâm pháp Càn khôn đại na di đã luyện tới bậc thứ bảy, mỗi cử động của tay chân chàng người ngoài nhìn vào đều cho là sức người không thể làm nổi, tuy tay dắt Tiểu Chiêu mà đi nhanh như chim én.
Đến gần, thấy bốn xác chết trên tuyết, máu me vung vãi trên tuyết trắng, xác người nào cũng có vết đao kiếm. Trong số đó, có ba người mặc sắc phục giáo đồ Minh giáo, còn một người là tăng nhân, hình như là đệ tử phái Thiếu Lâm. Trương Vô Kỵ lo lắng nói:
– Nguy rồi! Mình bị kẹt trong đường hầm quá lâu, sáu đại môn phái đánh lên đỉnh Quang Minh rồi!
Chàng sờ tâm khẩu bốn cái xác, đều lạnh ngắt, chứng tỏ chết đã nhiều giờ. Chàng vội nắm tay Tiểu Chiêu, theo dấu chân trên tuyết mà chạy lên. Chạy độ mươi trượng, lại thấy có bảy xác chết nằm trên tuyết, hình dạng đáng sợ.
Trương Vô Kỵ rất bồn chồn, nói:
– Không biết nhóm Dương Tiêu tiên sinh, Bất Hối muội muội thế nào rồi?
Chàng chạy nhanh hơn, tựa hồ kéo Tiểu Chiêu cùng bay đi vậy. Qua một khúc quành, thấy có năm giáo đồ Minh giáo bị treo lên cây, đầu lộn ngược xuống đất, mặt mũi người nào cũng nhầy nhụa máu me, tựa hồ bị vật sắc nhọn cào nát. Tiểu Chiêu nói:
– Họ bị dính “Hổ trảo thủ” của phái Hoa Sơn.
Trương Vô Kỵ lấy làm lạ, hỏi:
– Tiểu Chiêu, cô nương còn ít tuổi mà sao biết rộng thế? Ai dạy cho cô nương?
Tuy miệng hỏi thế, nhưng trong bụng chàng đang canh cánh lo cho sự an nguy của mọi người trên đỉnh Quang Minh, không đợi Tiểu Chiêu trả lời đã lại nắm tay nàng chạy như bay lên núi. Dọc đường thấy người chết nằm la liệt, phần lớn là giáo đồ Minh giáo, nhưng đệ tử của sáu đại môn phái cũng không phải ít. Có lẽ trong thời gian một ngày đêm chàng kẹt trong đường hầm, sáu đại môn phái đã phát động mãnh công. Các nhân vật trọng yếu như Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu đều bị trọng thương nên Minh giáo không ai chỉ huy, lâm vào tình thế bất lợi, nhưng chúng giáo đồ vẫn dốc sức chiến đấu, không chịu khuất phục, thành thử đôi bên đều bị tổn thất nặng nề.
Trương Vô Kỵ lên gần tới đỉnh núi, nghe tiếng binh khí va chạm dữ dội, lòng có phần nào yên tâm, nghĩ thầm: “Đánh nhau vẫn chưa xong, sáu đại môn phái chưa đánh được tới đại sảnh”, vội vàng chạy về phía có đánh nhau.
Đột nhiên nghe tiếng gió vù vù, có hai mũi cương tiêu ném tới sau lưng, kèm theo tiếng người quát:
– Ai đó? Đứng lại!
Trương Vô Kỵ vẫn chạy, đưa tay phẩy ngược lại đằng sau một cái, hai mũi tên kia lập tức bay ngược lại, chỉ nghe một tiếng “Ối!” thảm thiết, rồi tiếng người ngã vật xuống đất. Trương Vô Kỵ kinh ngạc, quay đầu nhìn lại, thấy một tăng nhân mặc áo bào xám, hai mũi tên cắm ở vai phải của y. Chàng ngẩn người, không ngờ vừa rồi chỉ phẩy tay một cái, chỉ định đánh giạt hướng bay của mũi tên cho khỏi trúng người chàng, ai ngờ lực phất tay lại có uy lực ghê gớm đến thế. Chàng vội chạy tới, xuýt xoa nói:
– Tại hạ lỡ tay khiến đại sư bị thương, áy náy quá!
Rồi giơ tay nhổ hai mũi cương tiêu ra. Vai nhà sư Thiếu Lâm máu vọt ra, nhưng Vô Kỵ không ngờ y hung tợn, tung chân đá một cú, trúng vào bụng dưới chàng. Trương Vô Kỵ đứng gần y, không ngờ y đột ngột tấn công, còn đang ngẩn người thì đã thấy y bay văng ra xa, lưng đụng phải một thân cây, chân phải gãy lủng liểng, mồm hộc máu. Trương Vô Kỵ lúc này chân khí lưu chuyển trong cơ thể, hễ bị ngoại lực đánh vào là lập tức sinh ra lực phản kích, tương tự lần chấn gãy đùi Tĩnh Huyền, nhưng lực đạo bây giờ còn mạnh hơn lúc đó nhiều.
Chàng thấy nhà sư bị trọng thương, lòng không an, vội chạy tới đỡ dậy, luôn miệng xin lỗi. Nhà sư kia hậm hực nhìn chàng, vừa tức vừa sợ, tuy muốn xuất chiêu tấn công, nhưng không còn hơi sức nữa.
Bỗng nghe từ phía bên kia tường vọng ra ba tiếng ằng ặc, Trương Vô Kỵ không thể lo thêm cho nhà sư nữa, vội kéo Tiểu Chiêu chạy qua cổng lớn, xuyên qua hai sảnh đường, đến một cái sân lớn phía trước.
Trên sân, người đứng đông nghịt, nhưng ở mé tây ít người hơn, mười người thì tám chín máu me lênh láng, kẻ ngồi người nằm, là phe Minh giáo. Mé đông người như kiến, chia thành sáu nhóm, xem ra sáu đại môn phái đã tề tựu đông đủ, thành thế bao vây phe Minh giáo.
Trương Vô Kỵ liếc qua thấy Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Thuyết Bất Đắc, Bành hòa thượng cả bọn đều ngồi trong đám giáo đồ Minh giáo, xem ra cử động vẫn còn khó khăn lắm. Dương Bất Hối ngồi bên cạnh phụ thân.
Ở giữa sân có hai người đang giao đấu, ai nấy chăm chú xem, nên Trương Vô Kỵ và Tiểu Chiêu đi vào, chẳng người nào lưu tâm cả.
Trương Vô Kỵ thong thả lại gần, định thần nhìn kỹ, thấy hai người đang giao đấu đều tay không, chưởng phong kêu ù ù, uy lực bao trùm mấy trượng, hiển nhiên cả hai đều là cao thủ tuyệt đỉnh. Hai đối thủ xuất chiêu cực nhanh, đột nhiên bốn chưởng đụng nhau, lập tức cả hai cùng bất động, trong nháy mắt cảnh chuyển động kỳ ảo bỗng biến thành phút lặng ngắt như tờ. Mọi người đứng xem cùng thốt:
– Hay thật!
Trương Vô Kỵ nhìn rõ hai người thì trong lòng chấn động. Hán tử trung niên thân hình thấp nhỏ, khuôn mặt cương nghị, chính là Trương Tòng Khê của phái Võ Đang, còn đối thủ là một lão niên cao to, hói đầu, lông mày dài, trắng như tuyết, rủ xuống khóe mắt, mũi khoằm như mỏ chim ưng. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Không ngờ Minh giáo lại có cao thủ cỡ này, chẳng biết là ai vậy?”
Bỗng từ đám người phái Hoa Sơn cất tiếng gọi:
– Này lão Bạch Mi kia, mau chịu thua đi, làm sao lão địch nổi Trương tứ hiệp phái Võ Đang kia chứ?
Trương Vô Kỵ nghe mấy chữ “Lão Bạch Mi” thì giật mình: “Ồ, thì ra người này… người này… chính là ông ngoại Bạch Mi Ưng Vương của ta!” Chàng chợt nảy sinh niềm trìu mến thiết tha, muốn chạy lên nhận người thân.
Chỉ thấy trên đỉnh đầu Ân Thiên Chính và Trương Tòng Khê đều có hơi nóng bốc lên, hai người trong giây lát đã sử dụng tất cả chân lực nội gia bình sinh khổ luyện. Một người là giáo chủ Thiên Ưng giáo, một trong tứ đại hộ giáo pháp vương của Minh giáo. Một người là đệ tử đắc ý của Trương Tam Phong, một trong Võ Đang thất hiệp uy chấn thiên hạ; xem ra trận đấu sắp phân thắng bại.
Người của Minh giáo cũng như của sáu đại môn phái ai cũng nín thở theo dõi, lo lắng cho người của phe mình, đều biết rằng cuộc đấu này không chỉ là uy danh của Minh giáo và phái Võ Đang mà còn là một cuộc thi chân lực giữa hai đại cao thủ, kẻ bại có thể mất mạng như chơi. Chỉ thấy lúc này hai người như hai bức tượng đá, ngay đến râu tóc và quần áo cũng không lay động chút nào.
Ân Thiên Chính thần uy lẫm liệt, cặp mắt sáng như hai tia chớp. Trương Tòng Khê sử dụng yếu chỉ “dĩ dật đãi lao, dĩ tĩnh chế động”[85] trong tâm pháp của phái Võ Đang, thủ vệ cực kỳ nghiêm mật. Trương Tòng Khê biết Ân Thiên Chính lớn hơn chàng đến hai chục tuổi, nội lực tu luyện cao thâm hơn hai chục năm; song mình thì đang thời tráng kiện, sức lực dồi dào còn đối phương tuổi đã cao, thể chất suy vi, mình càng giữ được lâu chừng nào, càng có cơ thắng thế chừng đó. Đâu ngờ Ân Thiên Chính quả là một kỳ nhân hiếm có trong võ lâm, tuổi cao nhưng tinh lực chẳng kém thời trai trẻ, nội lực cứ như sóng biển dâng trào hết lớp này đến lớp khác, song chưởng dồn dập tấn công Trương Tòng Khê.
Trương Vô Kỵ thoạt nhìn thấy Trương Tòng Khê và Ân Thiên Chính thì trong lòng mừng rỡ, nhưng lập tức vui hóa ra lo, một bên là ông ngoại mình, có tình huyết nhục, một bên là sư huynh của phụ thân, coi chàng chẳng khác nào con ruột. Năm xưa chàng bị trúng Huyền Minh thần chưởng, chư hiệp phái Võ Đang không ai tiếc nội công đã tận tâm kiệt lực trị thương cho chàng. Nếu một trong hai người bị thương hoặc chết, hẳn chàng sẽ ôm hận suốt đời.
Trương Vô Kỵ hơi trầm ngâm, đang nghĩ cách chiết giải, bỗng nghe Ân Thiên Chính và Trương Tòng Khê cùng quát to, bốn chưởng phát lực, mỗi người bật lui sáu bảy bước.
Trương Tòng Khê nói:
– Ân lão tiền bối thần công trác tuyệt, bội phục, bội phục!
Ân Thiên Chính nói, tiếng vang như chuông:
– Công phu tu luyện nội gia của Trương huynh đệ siêu phàm nhập thánh, lão phu tự thẹn không bằng. Các hạ là sư huynh đồng môn của con rể lão phu, không lẽ hôm nay phải nhất quyết phân thắng bại hay sao?
Trương Vô Kỵ nghe ông ngoại nhắc đến cha mình, nước mắt lập tức rưng rưng, trong bụng chỉ muốn kêu lên: “Thôi đừng đánh nữa, đừng đánh nữa!”
Trương Tòng Khê nói:
– Vừa rồi vãn bối đã phải lùi nhiều hơn một bước, đã thua nửa chiêu rồi.
Nói đoạn cúi mình vái chào, ung dung lui ra.
Đột nhiên từ trong phái Võ Đang có một hán tử chạy ra, chỉ Ân Thiên Chính giận dữ nói:
– Lão họ Ân kia, lão không nhắc đến Trương ngũ ca của vãn bối thì thôi, hôm nay nhắc đến chỉ khiến người ta căm hận. Du tam ca và Trương ngũ ca hai người của chúng tôi đều bị hại bởi Thiên Ưng giáo của lão, thù này không báo thì Mạc Thanh Cốc làm sao còn dám mang ngoại hiệu Võ Đang thất hiệp?
Nghe “roạt” một cái, trường kiếm đã rút khỏi vỏ, ánh nắng chiếu vào lấp lánh, giơ lên theo tư thế “Vạn nhạc triều tông”. Đây là tư thế khởi đầu của đệ tử phái Võ Đang trước khi động thủ với bậc trưởng bối. Mạc Thanh Cốc tuy lửa giận bừng bừng, nhưng vốn đã là một cao thủ có danh phận trong võ lâm, trước bao con mắt đổ dồn vào mình, nhất cử nhất động đâu dám thất lễ.
Ân Thiên Chính thở dài, mặt thoáng lộ vẻ u buồn, chậm rãi nói:
– Lão phu từ khi tiểu nữ qua đời, không muốn đụng đến đao kiếm nữa. Nhưng nếu tay không động thủ với chư hiệp Võ Đang thì không khỏi đại bất kính.
Bèn chỉ vào một giáo đồ Minh giáo tay cầm thiết côn, nói:
– Cho ta mượn cây gậy!
Gã giáo đồ nâng cây thiết côn ngang mày, khom lưng cung kính dâng lên. Ân Thiên Chính tiếp lấy thiết côn, dùng hai tay bẻ một cái, cây gậy sắt gãy ngay làm đôi.
Những người xung quanh đều “ồ” lên kinh ngạc, không ngờ ông già sau trận cửu chiến vừa rồi mà vẫn còn thần lực ghê gớm như vậy.
Mạc Thanh Cốc biết Ân Thiên Chính sẽ không xuất chiêu trước, bèn vung trường kiếm sử chiêu “Bách điểu triều phụng”; chỉ thấy mũi kiếm rung động không ngừng, trong chớp mắt như có mấy chục mũi kiếm tấn công trung bàn đối phương. Chiêu này tuy lợi hại, song vẫn là chiêu thức trọng lễ nghĩa.
Ân Thiên Chính tay trái cầm đoạn côn gãy, nói:
– Mạc thất hiệp khỏi cần khách khí!
Tay phải Ân Thiên Chính cầm đoạn côn gãy thứ hai liền chọc xiên tới.
Đôi bên qua lại vài chiêu, mọi người đều rung động. Kiếm pháp của Mạc Thanh Cốc khinh linh, loang loáng ánh cầu vồng, vừa phiêu dật vừa ngưng trọng mỗi khi đánh ra thu về, đúng là phong cách của bậc danh gia. Còn hai đoạn thiết côn của Ân Thiên Chính vốn nặng nề chậm chạp, chiêu số cũng sơ sài tầm thường, đánh phía này một cái, đập phía kia một cái, chẳng ra bài bản gì hết, nhưng các nhân sĩ am hiểu thì biết ngay là lão già dùng lối “đại trí nhược ngu, đại xảo nhược chuyết”[86], thực ra là cảnh giới cực cao của võ học. Cước bộ của Ân Thiên Chính cũng di động rất thong thả, trong khi Mạc Thanh Cốc lúc vọt lên cao, khi rùn xuống thấp, lúc nhào sang đông, khi vút sang tây, trong thời gian uống hết một chén trà đã liên tiếp tung ra hơn sáu mươi chiêu sát thủ vô cùng lợi hại.
Hai người đấu thêm mấy chục hiệp nữa, kiếm chiêu của Mạc Thanh Cốc càng lúc càng nhanh. Hai phái Côn Luân, Nga Mi đều lấy kiếm pháp làm chính, các đệ tử thấy thanh kiếm trong tay Mạc Thanh Cốc biến hóa tài tình như thế, trong bụng ai nấy thán phục: “Kiếm pháp phái Võ Đang quả nhiên danh bất hư truyền, hôm nay mới được một phen sáng mắt”. Song bất luận chàng đâm chém cách nào, cũng không tấn công lọt hai đoạn thiết côn nghiêm thủ của Ân Thiên Chính. Mạc Thanh Cốc nghĩ thầm: “Lão già này liên tiếp đánh bại ba cao thủ của phái Hoa Sơn, phái Thiếu Lâm, lại đấu nội lực với tứ ca, nay đấu với ta là người thứ năm, chắc chắn đã hao tổn nhiều chân lực, quả thật có lợi thế cho ta; nếu ta không thắng được thì còn gì thể diện của sư môn?”
Chàng bèn hú một tiếng thanh thoát, kiếm pháp đột nhiên thay đổi, thanh trường kiếm như biến thành một sợi dây lưng, vừa nhẹ vừa mềm, lúc cong lúc thẳng, phiêu hốt bất định, chính là bảy mươi hai chiêu “Nhiễu chỉ nhu kiếm” của phái Võ Đang.
Những người đứng xem đến chiêu thứ mười hai mười ba đều không nhịn nổi cùng thốt lên khen hay. Lúc này Ân Thiên Chính đã không còn dùng cách vụng về chống xảo diệu mà phải di động lẹ làng, thi triển khinh công lấy nhanh đánh nhanh. Đột nhiên trường kiếm của Mạc Thanh Cốc vụt đâm thẳng vào giữa ngực Ân Thiên Chính, đang đâm như thế, mũi kiếm bỗng rung động, cong đi, đâm chéo lên vai bên phải đối phương. Đường Nhiễu chỉ nhu kiếm này toàn dựa vào nội lực thâm hậu để uốn cong lưỡi kiếm, làm cho kiếm chiêu biến đổi khôn lường, địch nhân khó bề né tránh. Ân Thiên Chính chưa từng thấy thứ kiếm pháp này, vội hạ vai xuống tránh né, không ngờ thanh kiếm bật trở lại, đâm thẳng vào cánh tay bên trái. Ân Thiên Chính vươn tay phải ra, không hiểu bằng cách nào mà cánh tay dài thêm nửa thước, phất vào cổ tay Mạc Thanh Cốc, đoạt luôn thanh trường kiếm, đồng thời tay trái đã ấn vào huyệt Kiên Trinh.
“Ưng trảo cầm nã thủ” của Bạch Mi Ưng Vương là tuyệt kỹ của võ lâm hơn trăm năm nay, thời nay không ai sánh kịp. Đầu vai của Mạc Thanh Cốc đã nằm trong lòng bàn tay Ân Thiên Chính, năm ngón tay của ông già chỉ cần vận kình bóp một cái là vai của đối phương sẽ nát như tương, tàn phế suốt đời. Chư hiệp phái Võ Đang cả kinh, muốn xông ra cứu đã không còn kịp nữa.
Ân Thiên Chính thở dài, nói:
– Một lần đã quá, thêm nữa làm chi?
Ông buông vai Mạc Thanh Cốc ra, tay phải thu về, rút kiếm khỏi cánh tay trái, máu từ miệng vết đâm chảy ra ròng ròng. Ông ngưng thần nhìn thanh kiếm, nói:
– Lão phu tung hoành nửa đời trong thiên hạ, chưa từng thua ai nửa chiêu thức. Trương Tam Phong hay thật, Trương chân nhân tài thật!
Ông ca ngợi Trương Tam Phong đã sáng chế ra bảy mươi hai chiêu Nhiễu chỉ nhu kiếm thần diệu khôn lường, làm cho chính ông cũng không sao tránh nổi.
Mạc Thanh Cốc đứng ngây ra tại chỗ, tuy thắng trước một chiêu nhưng lại không bị đối phương cuối hạ sát thủ đả thương mình, nên ngơ ngẩn một lát, rồi nói:
– Đa tạ tiền bối thủ hạ lưu tình.
Ân Thiên Chính không nói một lời, lẳng lặng trả kiếm cho Mạc Thanh Cốc. Mạc Thanh Cốc tinh thông kiếm pháp như thế, rốt cuộc lại bị đối phương đoạt mất binh khí, quá ư hổ thẹn, không dám nhận lại thanh kiếm, vội lui ra.
Trương Vô Kỵ xé nhẹ vạt áo, đang định bước ra băng bó vết thương cho ông ngoại, bỗng thấy từ chỗ phái Võ Đang lại có một hán tử bước ra, râu đen dài tới ngực, chính là Tống Viễn Kiều đứng đầu Võ Đang thất hiệp. Tống Viễn Kiều nói:
– Tại hạ xin băng tay cho lão tiền bối.
Tống Viễn Kiều lấy thuốc trong bọc ra đắp lên vết thương cho Ân Thiên Chính, rồi lấy khăn buộc lại. Giáo chúng Thiên Ưng giáo và Minh giáo thấy vẻ mặt đường hoàng tử tế của Tống Viễn Kiều, lại nghĩ đây là người đứng đầu Võ Đang thất hiệp, quyết không khi nào công khai hạ độc người bên phe mình. Ân Thiên Chính nói, vẻ mặt không chút nghi ngờ:
– Đa tạ!
Trương Vô Kỵ cả mừng, nghĩ thầm: “Tống sư bá băng bó vết thương cho ông ngoại ta, chắc là vì cảm kích ông không giết Mạc thất thúc, đôi bên có thể hòa hảo với nhau”. Nào ngờ sau khi băng bó vết thương xong, Tống Viễn Kiều lùi lại một bước, buông tay áo, nói:
– Tống mỗ xin lãnh giáo cao chiêu của lão tiền bối.
Câu này thật là quá bất ngờ đối với Trương Vô Kỵ, khiến chàng phải thốt lên:
– Tống đại hiệp, dùng xa luân chiến đánh một vị lão nhân là không công bằng!
Câu đó nói ra khiến ai nấy cùng quay lại nhìn chàng thanh niên áo quần lam lũ. Trừ phái Nga Mi, một số rất ít người như Tống Thanh Thư, Ân Lê Đình, Dương Tiêu, Thuyết Bất Đắc, còn không ai biết chút gì về chàng, nên đều ngạc nhiên.
Tống Viễn Kiều nói:
– Vị tiểu bằng hữu nói vậy không sai. Oán thù riêng giữa Thiên Ưng giáo với phái Võ Đang, hôm nay tạm gác sang một bên. Hiện giờ là giây phút hệ trọng một mất một còn giữa sáu đại môn phái với Minh giáo, phái Võ Đang đứng ra thách đấu với Minh giáo cũng vì thế.
Ân Thiên Chính đưa mắt lướt qua một vòng, thấy Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Bành hòa thượng cả bọn đều bị tê liệt bất động, các cao thủ của Thiên Ưng giáo và Ngũ Hành kỳ thì đều chết hoặc bị thương, chính con trai ông là Ân Dã Vương cũng đang hôn mê nằm kia, chưa biết sống chết thế nào, trong Thiên Ưng giáo lẫn Minh giáo, ngoại trừ ông ra, không còn ai đủ tài đương đầu với quyền chiêu kiếm pháp của Tống Viễn Kiều. Nhưng ông đã liên tiếp giao đấu với năm cao thủ, chân khí đâu còn như ban đầu, huống hồ cánh tay trái lại bị thương không nhẹ.
Ân Thiên Chính còn đang suy nghĩ, bỗng nghe một lão già thấp bé trong phái Không Động lớn tiếng nói:
– Ma giáo thua hẳn rồi, không chịu đầu hàng còn chờ gì nữa? Không Trí đại sư, chúng ta vào phá hủy bài vị của ba mươi ba đời giáo chủ Ma giáo thôi!
Phương trượng Thiếu Lâm tự Không Văn đại sư ở lại trấn thủ bản tự tại Tung Sơn, lần này vây đánh đỉnh Quang Minh, đệ tử phái Thiếu Lâm do Không Trí đại sư cầm đầu. Các môn phái kính nể địa vị và danh vọng của phái Thiếu Lâm trong võ lâm, nên cử Không Trí đại sư làm người phát lệnh trong chiến dịch vây đánh đỉnh Quang Minh này.
Không Trí chưa kịp trả lời, đã nghe một người của phái Hoa Sơn nói:
– Cái gì mà đầu hàng với chả chờ đợi? Toàn bộ giáo đồ Ma giáo, hôm nay quyết không để một tên nào sống sót! Nhổ cỏ phải nhổ sạch cả rễ, nếu không sau này chúng lại nổi lên làm hại giang hồ. Lũ ma quỷ yêu quái kia, khôn hồn mau mau tự sát đi, để các ông đây khỏi bẩn tay.
Ân Thiên Chính ngầm vận khí, thấy vết thương ở cánh tay sâu tới xương, cứ đau từng chập một. Ông vốn biết Tống Viễn Kiều theo học Trương Tam Phong lâu nhất, thâm đắc chân truyền của vị đại tông sư võ học; còn mình thì ngay khi tinh thần khí lực còn đầy đủ, đấu với y còn chưa biết ai thắng ai bại, nữa là lúc này? Nhưng các cao thủ của Minh giáo thì hoặc chết hoặc bị thương, chỉ còn một mình ông chủ trì đại cục, thôi đành liều cái mạng già này, mình chết không có gì ân hận, chỉ tiếc anh danh một đời hôm nay chấm dứt mà thôi.
Tống Viễn Kiều nói:
– Ân lão tiền bối, phái Võ Đang và Thiên Ưng giáo thù sâu như biển, nhưng chúng tôi không muốn thừa lúc người ta lâm nguy nên chuyện ấy hãy để mai sau thanh toán. Sáu đại môn phái hôm nay tới đây là để đánh Minh giáo. Thiên Ưng giáo đã tách khỏi Minh giáo, tự lập môn hộ, trên giang hồ ai ai cũng biết cả. Ân lão tiền bối hà tất phải dây dưa vào vụ này, xin hãy đưa giáo chúng Thiên Ưng giáo hạ sơn thì hơn!
Phái Võ Đang vì vụ Du Đại Nham mà kết oán thù rất sâu với Thiên Ưng giáo, chuyện đó các phái đều biết; bây giờ nghe Tống Viễn Kiều mở đường cho Thiên Ưng giáo có lối thoát thì ai nấy đều ngạc nhiên, nhưng liền hiểu rằng Tống Viễn Kiều quang minh lỗi lạc, không muốn chiếm lợi thế trong lúc này.
Ân Thiên Chính cười ha hả, nói:
– Hảo ý của Tống đại hiệp, lão phu tâm lãnh. Lão phu là một trong bốn đại hộ giáo pháp vương của Minh giáo, tuy đã lập riêng môn hộ, nhưng Minh giáo gặp nạn, há có thể đứng ngoài? Hôm nay chỉ còn cái chết mà thôi, xin Tống đại hiệp tiến chiêu đi!
Nói xong tiến tới một bước, hai tay thủ thế trước ngực, hai hàng lông mày trắng hơi rung động, trông thật uy võ.
Tống Viễn Kiều nói:
– Đã vậy, xin đắc tội!
Rồi tay trái giơ ra, hữu chưởng áp vào lòng bàn tay trái, dùng chiêu “Thỉnh thủ thức”[87] đánh ra, là chiêu số của vãn bối đấu với tiền bối trong quyền pháp của phái Võ Đang.
Ân Thiên Chính thấy Tống Viễn Kiều cúi mình khom lưng, có ý vái chào, liền nói:
– Khỏi cần khách khí!
Hai tay ông vòng lại, thủ tại tâm khẩu. Cứ theo quyền pháp, Tống Viễn Kiều tất phải tiến lên, vươn tay đánh ra, nào ngờ y có vươn tay đánh ra thật, nhưng không hề tiến lên trước, thành thử quyền đó đánh ra còn cách Ân Thiên Chính đến hơn một trượng.
Ân Thiên Chính kinh ngạc: “Không lẽ quyền thuật phái Võ Đang lợi hại đến thế sao? Y đã luyện được thần công Cách sơn đả ngưu[88] rồi ư?” Ông không dám chậm trễ, vội vận sức vào hữu chưởng để gạt quyền lực của đối phương ra.
Không ngờ chưởng gạt ra, chỉ thấy trống không, không đụng phải kình lực nào cả, bất giác lấy làm lạ, chỉ nghe Tống Viễn Kiều nói:
– Đã ngưỡng mộ võ công cao siêu của lão tiền bối từ lâu, gia sư vẫn thường ca ngợi. Lúc này tiền bối đã đấu với mấy người liền, vãn bối thì còn nguyên sức lực, ra chiến đấu với nhau thì không công bằng chút nào. Vậy chỉ xin tỷ thí chiêu số, không tỷ thí sức lực.
Y vừa nói vừa đá ra. Cú đá này cũng chỉ là hư chiêu, cách đối phương hơn một trượng, nhưng cước pháp tinh diệu, phương vị lạ lùng, nếu là công kích gần bên, quả thực khó chống đỡ vô cùng. Ân Thiên Chính tán thưởng:
– Hảo cước pháp!
Ông lấy công làm thủ, vung chưởng tấn công. Tống Viễn Kiều nghiêng người né tránh, đánh trả một chưởng.
Trong giây lát hai người đấm qua đá lại, giao đấu cực kỳ hăng hái, nhưng luôn luôn cách nhau hơn một trượng. Tuy đòn không chạm tới thân thể, toàn là đánh hờ, nhưng hai người đều có danh phận, chiêu nào thất lợi, chiêu nào trội hơn, đều tự mình biết cả. Hai người cùng chăm chú, không dám sơ sảy chút nào, hệt như giao đấu đụng chạm thật sự.
Đứng xem bên ngoài có không ít cao thủ võ học thấy Tống Viễn Kiều dùng phương pháp nhu khắc cương, quyền cước tung ra cực nhanh, còn Ân Thiên Chính mở lớn đóng lớn, chiêu số lấy cương làm chính, song cũng không chậm hơn chút nào. Hai người kiến chiêu chiết chiêu, khi thủ khi công, tưởng như đang luyện quyền chỉ đánh hờ với nhau nhưng thực ra hiện thời đấu nhau rất ác liệt thật sự.
Trương Vô Kỵ lúc đầu thấy Ân Thiên Chính đấu với Trương Tòng Khê và Mạc Thanh Cốc, vì lo cho sự an nguy của cả đôi bên thân thuộc nên không chú ý quan sát chiêu số; còn bây giờ chàng xem Tống Viễn Kiều và Ân Thiên Chính đứng cách xa đấu với nhau, biết rằng chỉ phân thắng bại, chứ không có chuyện nguy hiểm sống chết nên chàng chăm chú quan sát chiêu số của hai người. Xem một hồi, thấy hai người xuất chiêu mỗi lúc một nhanh, chàng càng xem càng không hiểu tại sao: “Ông ngoại và Tống sư bá đều là đệ nhất cao thủ võ lâm, nhưng trong chiêu số vì sao vẫn còn rất nhiều sơ hở như vậy? Quyền này của ông ngoại mà đánh xéo về bên trái nửa thước, có phải là trúng ngay giữa ngực Tống sư bá rồi không? Còn trảo kia của Tống sư bá nếu chậm lại nửa khắc, hẳn đã chộp được cánh tay trái của ông ngoại rồi. Chả lẽ hai người cố ý nhường nhau? Nhưng xem ra hoàn toàn không phải nhường nhịn gì hết”.
Thực ra, Tống Viễn Kiều và Ân Thiên Chính tuy đấu cách xa, song về chiêu số không hề nhường nhau một ly. Trương Vô Kỵ sau khi học được tâm pháp Càn khôn đại na di, công phu võ học so với hai người cao hơn một bậc, nên dễ dàng nhận ra các sơ hở trong chiêu số của họ thì cũng không có gì là lạ. Trương Vô Kỵ không biết rằng chàng đã luyện thành Cửu dương thần công, nên mới nhận ra chiêu số để chiến thắng địch nhân; còn Tống Viễn Kiều và Ân Thiên Chính vì tài nghệ chưa tới mức đó nên không thể nhận ra chỗ tinh diệu như chàng. Những kẻ bình thường lại càng không thể với tới. Giống như con chim bay trên cao nhìn thấy dưới đất con sư tử đánh nhau với con hổ, nó sẽ nghĩ: “Sao không bay từ trên cao mà chụp xuống, có phải thắng ngay rồi không?” Con chim đâu biết rằng sư tử và hổ tuy hung dữ và lợi hại đứng đầu loài thú, song không thể bay lên cao mà nhào xuống được. Trương Vô Kỵ hiện giờ cũng như con chim kia vậy.
Bỗng thấy Tống Viễn Kiều thay đổi chiêu số, song chưởng bay lượn như bông tuyết lững lờ mềm mại, không một chút khí lực, đó chính là Miên chưởng của phái Võ Đang. Ân Thiên Chính quát một tiếng, đánh ra một quyền, hai người một bên cực nhu, một bên cực cương, cùng thi triển tuyệt kỹ.
Gần về cuối, Tống Viễn Kiều tả chưởng đánh ra, hữu chưởng đánh sau mà tới trước, tiếp đó tả chưởng lại từ sau đánh đến trước. Ân Thiên Chính thấy cả nửa người bên trên của mình bị chưởng thế của Tống Viễn Kiều bao trùm, liền hú lên một tiếng lớn, song quyền đánh ra chiêu “Đinh Giáp khai sơn”. Song chưởng song quyền của hai bên đều giơ ra trên không trung, cùng đứng như trời trồng. Hai người chiết đến chiêu này, trừ việc tỷ thí nội lực, không còn cách nào khác. Đôi bên cách nhau hơn một trượng, bốn cánh tay chỉ đấu hờ mà thôi, nhìn bên ngoài trông có vẻ kỳ quái, nhưng nếu đứng gần nhau thì đây chính là lúc hung hiểm hơn cả.
Tống Viễn Kiều mỉm cười, thu chưởng nhảy về phía sau, nói:
– Quyền pháp của lão tiền bối thật là tinh diệu, bội phục, bội phục!
Ân Thiên Chính cũng thu quyền, nói:
– Quyền pháp của phái Võ Đang quả nhiên quán tuyệt cổ kim.
Hai người đã nói không tỷ thí nội lực, đấu tới đây không thể tiếp tục được nữa thì coi như hòa.
Phái Võ Đang còn hai đại cao thủ là Du Liên Châu và Ân Lê Đình chưa ra đấu. Thấy Ân Thiên Chính mặt đỏ bừng, khí nóng bốc từ đỉnh đầu lên ngùn ngụt, biết trận đấu vừa rồi tuy không hao tổn nội lực, nhưng đối thủ quá mạnh nên cũng phải hao kiệt tâm trí, nhìn ông ta đã như cây cung giương quá đà, Du Ân nhị hiệp dù ai ra đấu cũng có thể nhanh chóng đánh gục đối phương, được cái tiếng “đánh bại Bạch Mi Ưng Vương”. Du Liên Châu và Ân Lê Đình nhìn nhau, cùng lắc đầu, nghĩ thầm: “Thừa lúc người ta lâm nguy mà tấn công, có thắng cũng chẳng hay gì”.
Võ Đang nhị hiệp không “thừa nhân chi nguy”, nhưng người khác thì đâu phải ai cũng có phong cách quân tử như thế. Từ chỗ phái Không Động, một lão già thấp bé nhảy vọt ra, chính là kẻ ban nãy kêu gọi đốt bài vị các giáo chủ Minh giáo. Lão ta nhẹ nhàng đáp xuống trước mặt Ân Thiên Chính, nói:
– Đường mỗ muốn đấu chơi với Ân lão nhi!
Giọng điệu lão ta nghe cực kỳ khinh bạc.
Ân Thiên Chính liếc một cái, hừ một tiếng, nghĩ thầm: “Bình thời Ân mỗ đâu coi Không Động ngũ lão ra gì! Hôm nay hổ xuống đồng bằng bị chó khinh, một đời anh danh của ta, giả sử có chết dưới tay Võ Đang thất hiệp thì còn được, chứ quyết không để cho tên khốn kiếp Đường Văn Lượng này được cái danh đó”. Tuy xương cốt toàn thân đã mỏi nhừ, chỉ muốn nằm lăn ra đất ngủ một giấc thật dài, nhưng hào khí một đời chợt trào lên, hàng lông mày trắng dựng ngược, Ân Thiên Chính quát:
– Tiểu tử, tiến chiêu đi!
Đường Văn Lượng biết nội lực của Ân Thiên Chính mười phần đã hao tổn tám chín, chỉ cần đấu giây lát, khỏi cần động thủ, đối phương cũng tự gục ngã; lão ta bèn xoa tay, chui tọt ngay ra sau lưng Ân Thiên Chính, đấm một quyền vào hậu tâm ông. Ân Thiên Chính nghiêng người đánh ngược lại, Đường Văn Lượng đã nhanh nhẹn lùi ra, cặp giò của lão ta cứ nhảy nhót lẹ làng như một con khỉ. Đấu qua vài hiệp, Ân Thiên Chính chợt thấy mắt tối sầm, cổ họng hơi ngòn ngọt, rồi ộc ra một ngụm máu, đứng không vững, ngã chúi xuống.
Đường Văn Lượng cả mừng, quát to:
– Ân Thiên Chính, hôm nay cho ngươi toi mạng dưới quyền của Đường Văn Lượng ta!
Trương Vô Kỵ thấy Đường Văn Lượng nhảy lên, từ trên cao đánh xuống, đang định phi thân ra cứu ông ngoại thì thấy Ân Thiên Chính tay phải đánh chéo lên, tư thế quá đẹp, chính là một chiêu sát thủ đối phó với kẻ địch tấn công từ trên xuống. Hai người gần nhau thế kia, Đường Văn Lượng chắc hẳn hết đường tự cứu. Quả nhiên chỉ nghe “rắc rắc” hai tiếng, hai cánh tay của Đường Văn Lượng đã bị Ân Thiên Chính thi triển Ưng trảo cầm nã thủ bẻ gãy, lại “rắc rắc” hai tiếng nữa, hai cẳng chân của Đường Văn Lượng cũng bị đánh gãy luôn. “Huỵch” một cái, lão ta ngã văng cách đó mấy thước, tứ chi gãy cả, không thấy cựa quậy gì hết. Mọi người đứng xem thấy Ân Thiên Chính đã trọng thương mà còn có thần uy như thế, ai cũng kinh hãi.
Người thứ ba trong Không Động ngũ lão là Đường Văn Lượng bị thảm bại như thế, phái Không Động người nào người nấy mặt mày xám ngoét nhìn Đường Văn Lượng nằm cạnh Ân Thiên Chính, nhưng sợ khoảng cách quá gần nên không dám tới đỡ lão ta về.
Lát sau, một gã cao to, lưng gù nặng nề bước ra, chân phải hất một cục đá nhỏ về phía Ân Thiên Chính, mồm nói:
– Bạch Mi lão nhi, Tông mỗ lên thanh toán món nợ cũ đây.
Đây là người thứ hai trong Không Động ngũ lão, tên là Tông Duy Hiệp. “Món nợ cũ” mà lão ta nói hẳn là lão từng có lần thất thế trong tay Ân Thiên Chính.
Cục đá kia văng đi, nghe “bộp!” một tiếng, trúng ngay góc trán Ân Thiên Chính, lập tức máu chảy ròng ròng. Biến cố này khiến ai nấy cả kinh, Tông Duy Hiệp hất cục đá kia chỉ là tiện chân, đâu mong văng trúng Ân Thiên Chính, nào ngờ lúc này Ân Thiên Chính đã nửa tỉnh nửa mê, không còn né tránh được. Cứ tình thế này, Tông Duy Hiệp chỉ cần bước tới gí nhẹ một ngón tay là cũng giết được ngay đối phương.
Tông Duy Hiệp vung tay, hung hăng bước tới, thì từ chỗ phái Võ Đang một người bước ra, mình bận trường bào vải thô, vẻ mặt chất phác, chính là nhị hiệp Du Liên Châu. Du nhị hiệp hơi lắc mình một cái đã chắn ngay trước mặt Tông Duy Hiệp, nói:
– Tông huynh, Ân giáo chủ đã bị trọng thương, có thắng cũng chẳng mã thượng chút nào, khỏi phiền Tông huynh nhọc sức. Ân giáo chủ và tệ phái có quan hệ sâu xa, người này xin cứ để cho tiểu đệ lo liệu.
Tông Duy Hiệp nói:
– Cái gì mà trọng thương? Lão ta giả vờ chết tài lắm, nếu không phải vừa rồi lão ta giở trò ma mãnh vờ chết, thì Đường tam đệ đâu có mắc bẫy của lão ta? Du nhị hiệp, quý phái có dây mơ rễ má với lão ta, thì huynh đệ ta cũng có chuyện qua chuyện lại, để ta đánh y ba quyền cho bõ tức đã.
Du Liên Châu không muốn Ân Thiên Chính một đời anh hùng lại bỏ mạng như thế, lại nghĩ đến Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố, nên nói:
– Thất Thương quyền của Tông huynh lừng danh thiên hạ, Ân giáo chủ đang như thế này, làm sao chịu nổi ba quyền của Tông huynh?
Tông Duy Hiệp nói:
– Được! Lão ta bẻ gãy tứ chi của Đường tam đệ, ta cũng đánh gãy tứ chi của lão ta là xong. Như thế gọi là báo ứng nhãn tiền!
Lão ta thấy Du Liên Châu do dự, liền nói lớn:
– Du nhị hiệp, sáu đại môn phái chúng ta trước khi đi Tây Vực đã thề với nhau, sao hôm nay nhị hiệp lại xoay qua bênh vực thủ lĩnh của Ma giáo là vì lẽ gì?
Du Liên Châu thở dài, nói:
– Thôi thì tùy Tông huynh, nhưng khi trở về Trung nguyên, thể nào đệ cũng sẽ lãnh giáo Thất Thương quyền của Tông huynh đó.
Tông Duy Hiệp thầm lo: “Gã họ Du này vì sao cứ bênh lão họ Ân thế nhỉ?” Lão vốn rất ngán sợ phái Võ Đang, nhưng trước mắt thiên hạ không dám lộ vẻ yếu thế, liền cười nhạt, nói:
– Việc thiên hạ không qua khỏi chữ “Lý”. Phái Võ Đang các vị chớ cậy mạnh ỷ thế hoành hành.
Câu này hiển nhiên động chạm đến Trương Tam Phong.
Tống Viễn Kiều liền lên tiếng:
– Nhị đệ, cứ mặc y!
Du Liên Châu nói to:
– Thật là anh hùng, thật là hảo hán!
Nói rồi lui ra. Câu này vừa để khen Ân Thiên Chính, vừa là mỉa mai Tông Duy Hiệp.
Tông Duy Hiệp không muốn gây rắc rối với phái Võ Đang, nên giả bộ không nghe thấy, thấy Du Liên Châu vừa lui ra, liền bước thẳng tới chỗ Ân Thiên Chính.
Không Trí đại sư phái Thiếu Lâm cao giọng ra lệnh:
– Các vị phái Hoa Sơn và phái Không Động, xin hãy tru diệt toàn bộ dư nghiệt Ma giáo trên sân này. Phái Võ Đang lục soát từ tây sang đông, phái Nga Mi lục soát từ đông sang tây, không để lọt lưới một tên Ma giáo nào cả. Phái Côn Luân chuẩn bị củi lửa thiêu hủy sào huyệt Ma giáo.
Không Trí đại sư hạ lệnh cho năm phái xong, chắp tay nói:
– Đệ tử phái Thiếu Lâm hãy lấy pháp khí ra, tụng kinh vãng sinh, siêu độ cho các anh hùng sáu phái và giáo chúng Ma giáo tuẫn nạn để hóa trừ oan nghiệt.
Mọi người chỉ chờ Ân Thiên Chính bị chết dưới quyền của Tông Duy Hiệp là công cuộc vây diệt Ma giáo của sáu đại môn phái đại công cáo thành.
Lúc này các giáo chúng Minh giáo và Thiên Ưng giáo biết hôm nay là ngày tận số, các giáo đồ ai nấy gượng dậy, trừ những người bị trọng thương không thể cử động, còn lại người nào ai cũng ngồi xếp bằng, mười ngón tay xòe ra, đặt trước ngực, làm giả thế lửa cháy ngùn ngụt, cùng với Dương Tiêu tụng bài kinh của Minh giáo:
Thiêu đốt thân tàn ta,
Hỏa thánh cháy bừng bừng,
Sống chẳng có gì vui,
Thì chết có gì khổ?
Nguyện hành thiện trừ ác,
Làm sao cho quang minh,
Bao hỉ lạc bi sầu,
Đều hóa thành cát bụi.
Thương thay cho con người,
Sao lo buồn lắm vậy!
Thương thay cho con người,
Sao lo buồn lắm vậy!
Minh giáo từ Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Thuyết Bất Đắc trở xuống; Thiên Ưng giáo từ Lý Thiên Viên trở xuống, ngay cả đầu bếp, phu dịch, ai nấy thần thái trang nghiêm, không một ai vì chuyện thân tử giáo diệt mà run sợ.
Không Trí đại sư chắp tay, nói:
– Thiện tai! Thiện tai!
Du Liên Châu nghĩ thầm: “Mấy câu kinh kia giáo chúng Ma giáo tụng niệm trước khi chết; bọn họ không nghĩ đến cái chết của chính mình, lại đi thương người đời đa ưu đa hoạn, thực là lòng dạ cao cả, đại nhân đại dũng. Người sáng lập Minh giáo năm xưa quả là nhân vật siêu quần. Chỉ tiếc rằng truyền đến hậu thế lại biến thành những kẻ làm đủ chuyện sai trái”.
*
* *
Trương Vô Kỵ trước các cao thủ của sáu đại môn phái vốn dĩ e sợ nên cứ lưỡng lự không dám bước ra; giờ nghe Không Trí đại sư hạ lệnh giết sạch mọi người trong Ma giáo, còn Tông Duy Hiệp thì hung hăng đến chỗ ông ngoại chàng, thế là chàng chẳng còn suy tính gì nữa, liền rảo bước tiến ra chắn trước mặt Tông Duy Hiệp, nói:
– Hãy khoan động thủ! Lão ra tay đánh một người đang bị thương nặng, không sợ anh hùng thiên hạ chê cười hay sao?
Lời này sang sảng, nghe vang động khắp sân. Người các môn phái nhận lệnh của Không Trí đại sư, đang định việc ai nấy làm, đột nhiên nghe mấy câu đó liền cùng dừng lại, quay đầu nhìn người vừa nói.
Tông Duy Hiệp thấy người vừa nói là một thiếu niên lam lũ thì chẳng coi vào đâu, giơ tay đẩy ra, định gạt thiếu niên sang một bên để dễ bề đánh chết Ân Thiên Chính.
Trương Vô Kỵ thấy lão ta đẩy tới, chàng tiện tay vỗ một chưởng, nghe “bình!” một tiếng, Tông Duy Hiệp bị bật lại ba bước. Lão ta lảo đảo, cố đứng cho vững, không ngờ chưởng lực của đối phương mạnh mẽ đến vậy. Cũng may công phu hạ bàn của lão ta rất vững chắc, tuy nửa người trên ngã ngửa, liền vội nhún chân phải, nhảy vọt ra sau, mượn thế tung mình xa hơn một trượng. Khi lão ta chạm xuống đất, chưởng lực kia vẫn chưa tiêu giải, khiến lão ta lật đật lùi bảy, tám bước nữa mới trụ lại được. Thành thử bây giờ Tông Duy Hiệp và Trương Vô Kỵ cách nhau tới hơn ba trượng. Trong bụng lão già vừa sợ vừa tức, người ngoài cũng chả hiểu vì sao, đều nghĩ thầm: “Lão Tông Duy Hiệp giở trò gì đây, sao vừa nhảy vừa lùi, lùi rồi lại nhảy là cái quái gì?” Ngay Trương Vô Kỵ cũng không ngờ mình chỉ vỗ nhẹ một chưởng mà có uy lực nhường ấy.
Tông Duy Hiệp ngớ người, lát sau mới vỡ lẽ, trừng mắt nhìn Du Liên Châu, nói lớn:
– Đại trượng phu quang minh lỗi lạc, sao lại đánh lén người ta như vậy?
Lão nghĩ rằng Du Liên Châu ngấm ngầm trợ giúp, xem chừng toàn bộ Võ Đang chư hiệp cùng ra tay, chứ sức một người làm sao có kình đạo mãnh liệt đến như vậy?
Du Liên Châu không ngờ bị Tông Duy Hiệp nói như thế, cũng trừng mắt nhìn lão ta, nghĩ thầm: “Ngươi bày đặt trò quỷ, tính chuyện gì đây?”
Tông Duy Hiệp lại hung hăng bước tới, chỉ mặt Trương Vô Kỵ, quát:-
Tiểu tử, ngươi là ai?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Vãn bối tên Tăng A Ngưu.
Chàng vừa nói, vừa đặt tay lên huyệt Linh Đài trên lưng Ân Thiên Chính, đem nội lực truyền sang. Cửu dương chân khí của chàng cực kỳ dồi dào, Ân Thiên Chính rùng mình vài cái, đã mở mắt ra, nhìn chàng thiếu niên mà lấy làm lạ. Trương Vô Kỵ mỉm cười với ông, tăng thêm nội lực cho ông.
Trong giây lát, Ân Thiên Chính thấy những chỗ bị bế tắc trên ngực và ở đan điền đều thông suốt, bèn nói nhỏ:
– Đa tạ tiểu hữu!
Rồi ông đứng dậy, ngạo nghễ nói:
– Họ Tông kia, Thất thương quyền của phái Không Động nhà ngươi đâu có gì ghê gớm, để ta tiếp ngươi ba quyền!
Tông Duy Hiệp không thể ngờ lão già kia giờ lại thần hoàn khí túc, đã đứng dậy nổi, lại cho rằng mình đã không còn lợi thế lúc trước, e sợ Ưng trảo cầm nã công lợi hại của Ân Thiên Chính, bèn nói:
– Thất Thương quyền của tệ phái đã không ghê gớm, vậy lão thử tiếp ba chiêu Thất Thương quyền coi!
Tông Duy Hiệp tính rằng Ân Thiên Chính mà không sử dụng cầm nã thủ, chỉ tỷ thí quyền chưởng, nội lực thì mình dĩ dật đãi lao[89] có thể dùng nội kình của Thất Thương quyền mà thủ thắng.
Trương Vô Kỵ nghe lão ta nhắc đến ba chữ “Thất Thương quyền” liền nhớ năm xưa trên Băng Hỏa đảo, một đêm nọ nghĩa phụ lay mình dậy, kể chuyện đã dùng Thất Thương quyền đánh chết Không Kiến thần tăng, sau đó nghĩa phụ bắt chàng học thuộc khẩu quyết Thất Thương quyền, chàng nhất thời chưa học thuộc nên bị nghĩa phụ cho mấy cái bạt tai. Lúc này khẩu quyết đó lưu động trong óc, chàng lập tức hiểu ra đạo lý bên trong.
Nên biết tất cả các loại nội công trong thiên hạ đều không vượt ra ngoài Cửu dương thần công, còn Càn khôn đại na di là phép vận kình sử lực, là tập đại thành của mọi môn võ công. Một thứ đã thông, mọi thứ đều thông, mọi môn võ công bây giờ không còn môn nào là bí ẩn đối với chàng nữa.
Chỉ nghe Ân Thiên Chính nói:
– Cứ gì ba quyền, để ta tiếp ngươi ba mươi quyền cho coi!
Đoạn quay sang lớn tiếng nói với Không Trí:
– Không Trí đại sư, Ân mỗ chưa chết, vẫn chưa nhận thua, đại sư đã nói lại nuốt lời, định lấy thịt đè người hay sao?
Không Trí phẩy tay trái, nói:
– Được! Tất cả hãy chờ một lát, có đáng gì đâu!
Nguyên sau khi Ân Thiên Chính lên tới đỉnh Quang Minh, thấy bọn Dương Tiêu đều bị trọng thương, thế lực phe mình đơn bạc, nên đã dùng lời chặn trước Không Trí không được hỗn chiến, Không Trí đã bằng lòng theo quy củ võ lâm, đánh từng trận một. Kết quả là các hảo thủ thuộc các đường các đàn của Thiên Ưng giáo, Ngũ Hành kỳ của Minh giáo, cả đến các thuộc hạ của Dương Tiêu trên đỉnh Quang Minh, trong đó có người của bốn cửa Thiên, Địa, Phong, Lôi đều hoặc chết hoặc bị thương, chỉ còn một mình Ân Thiên Chính; song Ân Thiên Chính vẫn chưa chịu thua, nên phe bên kia chưa thể xông lên chém giết.
Trương Vô Kỵ biết ông ngoại chàng đã đỡ hơn trước một chút, nhưng nhất thiết chưa nên vận kình sử lực, sở dĩ ông ngoại muốn tiếp quyền chiêu của Tông Duy Hiệp chỉ vì phải hết lòng hộ giáo đến chết mới thôi; chàng bèn nói nhỏ với ông:
– Ân lão tiền bối, để vãn bối đấu trước với y, nếu không xong, lão tiền bối hãy ra tay.
Ân Thiên Chính đã biết chàng có nội lực thâm hậu nhường nào, chính mình khi chưa bị thương cũng chẳng sánh kịp, nghĩ mình vì Minh giáo mà chết là chuyện đương nhiên, còn chàng trai này không biết quan hệ thế nào, bản lĩnh dù cao cường đến mấy, cũng chẳng thể đánh bại từng người từng người một của đối phương, rốt cuộc cũng sẽ kiệt lực trọng thương để người ta giết như mình thôi. Một thiếu niên anh tài, tội gì phải bỏ mạng trên đỉnh Quang Minh? Bèn hỏi:
– Tiểu hữu là môn hạ của vị nào thế? Hình như không phải giáo đồ của bổn giáo?
Trương Vô Kỵ cung kính cúi mình nói:
– Vãn bối không thuộc Minh giáo, cũng không thuộc Thiên Ưng giáo, nhưng đối với lão tiền bối có lòng kính ngưỡng đã lâu, hôm nay xin được cùng lão tiền bối sánh vai chống địch.
Ân Thiên Chính lấy làm lạ, đang muốn hỏi thêm thì Tông Duy Hiệp đã hùng hổ bước tới, quát:
– Họ Ân kia, quyền thứ nhất của ta đây!
Trương Vô Kỵ nói:
– Ân lão tiền bối bảo ngươi không xứng tỷ thí với lão nhân gia, ngươi phải thắng ta đã, rồi động thủ với lão nhân gia cũng chưa muộn.
Tông Duy Hiệp cả giận, quát:
– Thằng nhãi, mi là cái thá gì? Để ta cho mi biết Thất Thương quyền của phái Không Động lợi hại thế nào.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Hôm nay phải nói rõ âm mưu gian trá của tên ác tặc Viên Chân mới có thể tìm cách làm cho đôi bên bãi chiến, nhược bằng chỉ động thủ quá chiêu thì một mình ta đấu sao lại với bao nhiêu anh hùng sáu phái? Huống hồ các sư bá sư thúc phái Võ Đang đều có mặt ở đây, làm sao ta có thể đối địch với họ?” Chàng nghĩ vậy, bèn lớn tiếng trả lời:
– Thất Thương quyền của phái Không Động lợi hại thế nào, tại hạ đã nghe từ lâu. Không Kiến đại sư, thần tăng của phái Thiếu Lâm, chẳng phải đã mất mạng vì Thất Thương quyền của quý phái đó sao?
Lời này của chàng nói ra khiến cả phái Thiếu Lâm rung động. Ngày ấy Không Kiến thần tăng bỏ mạng ở đất Lạc Dương, trên người xương cốt đều gãy nát, bên ngoài không có thương tích gì, hình như trúng phải độc thủ Thất Thương quyền của phái Không Động. Khi ấy Không Văn, Không Trí, Không Tính tam tăng mật nghị mấy ngày liền, cho rằng phái Không Động hiện tại không hề có cao thủ nào đủ sức đánh chết Không Kiến sư huynh là người đã luyện thành thần công “Kim cương bất hoại thể”. Tuy thương thế của Không Kiến thần tăng có làm cho người ta nghi ngờ, nhưng thiết nghĩ phái Không Động chẳng thể làm nổi việc đó. Về sau Không Trí lại suất lĩnh các đệ tử kín đáo điều tra, biết rằng khi Không Kiến thần tăng viên tịch ở Lạc Dương thì Không Động ngũ lão đều ở vùng tây nam cả. Đã không phải do Không Động ngũ lão thực hiện, vậy phái Không Động chẳng còn cao thủ nào đủ sức động tới một sợi tóc của Không Kiến, cho nên không nghi ngờ phái Không Động nữa. Huống hồ bấy giờ trên bức tường của khách điếm ở Lạc Dương có viết dòng chữ to “Thành Côn giết Không Kiến thần tăng dưới chân tường này”. Phái Thiếu Lâm sau đó biết Tạ Tốn mạo danh Thành Côn gây ra vô số huyết án, nên hết hẳn nghi ngờ với phái Không Động. Lúc này các vị cao tăng nghe Trương Vô Kỵ nói như vậy, hết thảy đều giật mình.
Tông Duy Hiệp giận dữ nói:
– Không Kiến đại sư bị tên ác tặc Tạ Tốn sát hại, giang hồ ai chẳng biết, đâu liên can tới phái Không Động?
Trương Vô Kỵ nói:
– Tạ tiền bối đánh chết Không Kiến thần tăng, ngươi có chính mắt nhìn thấy hay không? Ngươi đứng bên cạnh quan sát hay yểm trợ?
Tông Duy Hiệp nghĩ bụng: “Tiểu tử này ăn mày không ra ăn mày, mục đồng không ra mục đồng, sao lại đến phá rối mình chứ? Chắc hắn là do phái Võ Đang sai khiến, xúi bẩy để hai phái Thiếu Lâm và Không Động bất hòa với nhau. Mình phải cẩn thận ứng phó, không rơi vào bẫy của chúng”. Nghĩ vậy, nên tuy không coi Trương Vô Kỵ ra gì, song vẫn nghiêm mặt đáp:
– Không Kiến thần tăng táng mạng ở Lạc Dương, khi đó Không Động ngũ lão đang là khách tại phủ của Liễu đại hiệp, phái Điểm Thương ở Vân Nam.
Làm sao bọn ta lại có thể chính mắt chứng kiến việc đó được?
Trương Vô Kỵ cao giọng, nói:
– Vậy ư? Khi đó ngươi đang ở Vân Nam, làm sao thấy Tạ tiền bối giết chết Không Kiến đại sư? Vị thần tăng ấy bỏ mạng vì Thất Thương quyền của phái Không Động, cả thiên hạ đều biết. Tạ tiền bối không phải là người của phái Không Động, sao ngươi lại giá họa cho ông ta?
Tông Duy Hiệp nói:
– Hừ, tại nơi Không Kiến thần tăng viên tịch có viết dòng chữ bằng máu: “Thành Côn giết Không Kiến thần tăng dưới chân tường này”. Tạ Tốn mạo nhân tên sư phụ hắn để gây ra huyết án ở khắp nơi, điều đó quá rõ ràng, còn gì phải nói?
Trương Vô Kỵ giật mình nghĩ thầm: “Nghĩa phụ ta đâu có kể là đã viết trên tường dòng chữ đó. Sau mười ba quyền đánh chết Không Kiến thần tăng rồi, trong lòng hối hận buồn bã vô cùng, đâu còn bụng dạ nào viết mấy chữ giá họa ấy nữa?” Chàng bèn ngửa mặt cười ha hả, nói:
– Hàng chữ đó, ai viết chẳng được? Có ai chính mắt nhìn thấy Tạ tiền bối viết dòng chữ ấy hay không? Ta bảo dòng chữ ấy là do phái Không Động viết đó. Viết chữ thì dễ, luyện thành Thất Thương quyền mới khó.
Chàng quay sang nói với Không Trí:
– Không Trí đại sư, lệnh sư huynh Không Kiến thần tăng đúng là bị hại vì Thất Thương quyền của phái Không Động, có phải thế chăng? Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn không phải là người của phái Không Động, có phải thế chăng?
Không Trí chưa kịp trả lời, đột nhiên một nhà sư cao lớn mặc áo cà sa đỏ lướt ra, tay cầm một cây thiền trượng màu vàng sáng lấp lánh, dộng xuống đất một cái, quát to:
– Tiểu tử, ngươi là người của môn phái nào, cớ gì dám nói chuyện tay đôi với sư phụ ta?
Tăng nhân đó vai gồ lên, lời nói như người bị hen suyễn, chính là Viên Âm phái Thiếu Lâm. Năm xưa khi phái Thiếu Lâm kéo nhau lên núi Võ Đang vấn tội, chính Viên Âm là kẻ nằng nặc bảo Trương Thúy Sơn giết đệ tử phái Thiếu Lâm. Bấy giờ Trương Vô Kỵ lòng đầy bi phẫn, ghi nhớ diện mạo tất cả những ai có mặt; lúc này chàng vừa thấy Viên Âm thì máu nóng trào lên, mặt đỏ bừng, thân mình run run, vội tự nhủ: “Trương Vô Kỵ ơi Trương Vô Kỵ, đại sự hôm nay là làm sao điều giải oán cừu giữa sáu đại môn phái với Minh giáo, chớ vì chút tư hiềm làm cho tình thế khó thu xếp hơn! Chuyện sai trái của phái Thiếu Lâm, để ngày sau thanh toán cũng chưa muộn”. Tuy chàng nghĩ được rõ ràng tỉnh táo như thế, nhưng từ lúc Viên Âm chường mặt ra, tình trạng thảm tử của phụ mẫu chàng bỗng cứ hiện ra mồn một trước mắt, khiến nước mắt cứ rưng rưng, cơ hồ không kiềm chế nổi.
Viên Âm lại dộng thiền trượng xuống đất, quát:
– Tiểu tử kia, nếu mi là yêu nghiệt Ma giáo thì mau giơ cổ chịu chém, nếu không phải hãy xuống núi ngay đi, đừng để những người xuất gia lòng dạ từ bi chúng ta phải ra tay.
Trương Vô Kỵ nói:
– Quý phái có một vị Viên Chân đại sư phải không? Mời ông ấy ra đây, tại hạ có vài điều muốn hỏi.
Viên Âm nói:
– Viên Chân sư huynh ư? Làm sao ông ấy có thể đến nói chuyện với mi được? Mi hãy mau xéo đi, bọn ta không rỗi hơi nói chuyện tào lao với một thằng mọi con như mi. Mi thực ra là môn hạ của ai?
Y thấy Trương Vô Kỵ chỉ một chưởng đã làm cho Tông Duy Hiệp, một trong Không Động ngũ lão phải thoái lui hàng chục bước, nghĩ rằng sư phụ của chàng không phải nhân vật tầm thường, nên mới hỏi lại lần nữa, chứ không đã sắp tới lúc diệt sạch Ma giáo, việc gì phí công đôi co với gã thiếu niên lai lịch mù mờ này?
Trương Vô Kỵ nói:
– Tại hạ không phải người trong Minh giáo, cũng không phải môn hạ của môn phái nào ở Trung nguyên. Lần này sáu đại môn phái vây đánh Minh giáo, chính do kẻ gian xúi bẩy, bên trong có sự hiểu lầm quá lớn. Tại hạ tuy còn ít tuổi, nhưng lại biết rõ đầu dây mối nhợ nên mạo muội đứng ra xin đôi bên bãi đấu, tra rõ chân tướng, xét rõ ai phải ai trái, phán xét công minh.
Lời chàng vừa dứt, từ sáu đại môn phái nổi lên tiếng cười vang động, ha ha, hô hô, hi hi, hà hà… đủ mọi giọng điệu. Có hàng chục kẻ còn lớn tiếng giễu cợt:
– Thằng nhóc kia mất trí điên khùng rồi, hồ thuyết bá đạo!
– Hắn tưởng hắn là ai? Là Trương chân nhân phái Võ Đang chăng? Hay là Không Văn thần tăng phái Thiếu Lâm? Ha ha, ha ha!
– Chắc nó nằm mơ vớ được thanh đao Đồ Long, trở thành võ lâm chí tôn rồi! Hô hô, hô hô!
– Nó ngỡ bọn ta là trẻ nít lên ba đó, thật tức cười, hi hi, hi hi!
– Sáu đại môn phái tử thương bao nhiêu người, nợ máu của Ma giáo sâu như biển, hắn tưởng chỉ nói vài câu là tất cả bọn ta lui quân chăng?
– …
Chỉ có Chu Chỉ Nhược ở phái Nga Mi lặng lẽ nhíu mày, không nói gì. Bữa nọ nàng và Trương Vô Kỵ hai bên nhận ra nhau, nàng biết chàng là người từng gặp trên sông Hán Thủy mà nàng vẫn thương nhớ, sau lại thấy chàng vì nghĩa đứng ra cứu giáo chúng của Nhuệ Kim kỳ, chịu để sư phụ nàng đánh ba chưởng, nàng càng khâm phục; bây giờ nghe mấy câu không biết lượng sức mình của chàng, lại nghe mọi người hùa nhau chế nhạo thì nàng không khỏi đau lòng.
Trương Vô Kỵ đứng giữa sân, hiên ngang nhìn xung quanh, lớn tiếng nói:
– Chỉ cần Viên Chân đại sư của phái Thiếu Lâm ra đây đối chất vài câu với tại hạ, mưu gian của hắn sẽ lộ ra rõ ràng trước mắt người đời.
Câu này nói ra giữa tiếng ồn ào cười nói của mấy trăm con người, vẫn rành rọt từng lời, ai cũng nghe thấy. Các cao thủ của sáu đại môn phái đều thầm giật mình, bớt coi thường chàng, họ nghĩ bụng: “Tiểu tử còn trẻ tuổi, sao nội công lại thâm hậu thế được?”
Viên Âm chờ tiếng cười nhạo của mọi người lắng xuống, mới hổn hển nói:
– Thằng mọi xảo trá thối tha kia, mi biết rõ Viên Chân sư huynh không thể cùng mi đối chất, lại còn đòi ra nói chuyện? Sao mi không gọi Trương Thúy Sơn phái Võ Đang ra đối chất?
Câu cuối cùng của hắn vừa ra khỏi miệng, Không Trí lập tức quát:
– Viên Âm, nói năng cẩn thận!
Nhưng các phái Hoa Sơn, Côn Luân, Không Động đã có nhiều người cười rộ lên. Chỉ có người của phái Võ Đang là ai nấy sầm mặt lại, không nói một lời. Thì ra con mắt bên phải của Viên Âm bị Ân Tố Tố dùng ám khí bắn mù bên bờ hồ năm xưa, hắn vẫn cứ cho là do Trương Thúy Sơn hạ độc thủ nên nuôi mãi mối căm hận trong lòng.
Trương Vô Kỵ nghe hắn vũ nhục cha mình thì cả giận, quát to:
– Tên húy của Trương ngũ hiệp, ngươi dám đem ra nói năng hỗn láo ư? Ngươi… ngươi… Viên Âm cười khẩy nói:
– Trương Thúy Sơn tự sa đọa, bị yêu nữ của Ma giáo mê hoặc, bị quả báo vì tội hiếu sắc…
Trương Vô Kỵ trong bụng tự răn mình: “Hôm nay chỉ cốt đôi bên bãi đấu, mình nhất quyết không được đả thương ai”. Nhưng nghe câu vừa rồi, làm sao còn nhịn nổi? Chàng vọt ngay tới, tay trái thộp cổ Viên Âm nhấc lên, tay phải cướp luôn cây thiền trượng khỏi tay hắn, vung lên toan đánh xuống đầu hắn. Viên Âm bị chàng tóm cổ, chẳng khác gì con gà nhỏ bị diều hâu chộp, hoàn toàn không có sức chống trả.
Từ chỗ phái Thiếu Lâm tức thời có hai người cùng xông ra, hai cây thiền trượng chia nhau đánh vào hai bên tả hữu của Trương Vô Kỵ, chính là pháp môn cao minh trong võ học dùng để cứu người, gọi là cách “vây Ngụy cứu Triệu”, buộc kẻ bị tấn công không thể không quay về tự cứu mình, nhờ đó giải nguy cho đồng bọn. Hai người xông ra cứu đồng bọn là Viên Tâm, Viên Nghiệp. Trương Vô Kỵ tay trái vẫn túm cổ Viên Âm, tay phải cầm thiền trượng, nhún chân nhảy vọt lên cao, hai chân chia ra đá luôn vào hai cây thiền trượng của nhị tăng, chỉ nghe hai tiếng “cạch, cạch”, nhị tăng đều ngã ngửa. May mà Viên Tâm, Viên Nghiệp võ công đều giỏi, lâm nguy không cuống, hai tay vận lực đẩy ra, nhờ vậy hai cây thiền trượng đúc bằng thép pha vàng nặng mấy chục cân mới không bật ngược đập vào người mình.
Mọi người hoảng hốt kêu lên, chỉ thấy Trương Vô Kỵ hơi lượn người xách thân hình cao to của Viên Âm, nhẹ nhàng đáp xuống đất. Trong sáu môn phái, có một số vị buột miệng thốt lên:
– “Thê vân túng” của phái Võ Đang!
Trương Vô Kỵ từ bé theo cha, thái sư phụ cùng các vị sư bá sư thúc học võ, tuy chàng chỉ mới học ba mươi hai thế nhập môn của “Võ Đang trường quyền”, nhưng những gì được nghe được thấy không phải là ít, giờ lại đã luyện thành thần công Càn khôn đại na di, bất kể võ công của môn phái nào, chàng cũng đều sử dụng được. Riêng công phu của phái Võ Đang chàng thấm vào lòng hơn cả, nên vừa rồi không kịp nghĩ ngợi, liền vận dụng ngay môn khinh công “Thê vân túng” lừng danh. Du Liên Châu, Trương Tòng Khê nếu muốn nhảy lên, lượn vài vòng trên không trung, rồi nhẹ nhàng đáp xuống, kể cũng chẳng khó, tư thế có khi còn uyển chuyển khéo léo hơn đằng khác. Nhưng bảo một tay xách gã hòa thượng to béo thế kia, một tay cầm cây thiền trượng nặng nề, mà thân hình vẫn nhẹ nhàng như cánh én thì họ không tài nào làm nổi.
Chư tăng Thiếu Lâm lúc này ở cách chàng bảy tám trượng, thấy Viên Âm bị Trương Vô Kỵ nắm ngay yếu huyệt, không cựa quậy gì được, chàng chỉ cần giơ thiền trượng lên là có thể đập đầu Viên Âm nát như tương, họ muốn xông lên cứu cũng không kịp. Chỉ còn một cách độc nhất là bắn ám khí. Nhưng Trương Vô Kỵ chỉ cần giơ Viên Âm ra đỡ, mượn dao giết người, chỉ nguy cho Viên Âm mà thôi. Tuy có các cao thủ tuyệt đỉnh như Không Trí, Không Tính ở bên, nhưng sự việc diễn biến quá nhanh, không thể ngờ chàng thiếu niên kia lại có thân thủ như thế nên họ trở tay không kịp. Chỉ thấy chàng nghiến răng, mặt đầy vẻ căm hận, giơ cây thiền trượng lên; người của phái Thiếu Lâm có kẻ nhắm mắt lại không nỡ nhìn, có kẻ toan xông ra phục thù cho Viên Âm.
Nào ngờ cây thiền trượng trong tay Trương Vô Kỵ không đánh xuống, tựa hồ trong lòng chàng có điều gì chưa quyết định được; vẻ mặt chàng từ từ dịu lại, thong thả buông Viên Âm ra.
Thì ra trong giây lát chàng đã nén nộ khí trong lòng, nghĩ thầm: “Nếu ta đánh chết một ai trong sáu đại môn phái, ta liền trở thành kẻ thù của họ, thì sẽ không còn cách gì đứng làm trung gian hòa giải được nữa. Vụ thảm sát trong võ lâm cũng không thể nào hóa giải được, hóa ra rơi vào gian kế của ác tặc Thành Côn hay sao? Dù họ có chửi rủa ta, đả thương ta, ta cũng phải nhẫn nhịn đến cùng, mới đi đúng con đường trả thù cho phụ mẫu và nghĩa phụ”. Nghĩ được thế rồi, chàng bèn buông Viên Âm ra, chậm rãi nói:
– Viên Âm đại sư, mắt của đại sư không phải do Trương ngũ hiệp bắn mù đâu, đại sư chẳng nên ôm mối hận đó. Huống hồ Trương ngũ hiệp đã tự vẫn chết rồi, thù oán gì cũng nên hóa giải đi. Đại sư là người xuất gia, tứ đại giai không, hà tất cứ khắc khoải chuyện cũ?
Viên Âm chết đi sống lại, thẫn thờ nhìn Trương Vô Kỵ, không nói nên lời, thấy chàng đưa cây thiền trượng trả lại, tự nhiên giơ tay nhận lấy, cúi đầu lui về, lờ mờ cảm thấy dường như bao nhiêu oán hận mình tích chứa lâu nay là không nên.
Các vị cao tăng Thiếu Lâm, Võ Đang chư hiệp nghe Trương Vô Kỵ nói mấy câu ấy đều bất giác gật đầu..