Hồi 19: Tưởng gặp đời thánh chúa – Nào biết khổ lê dân

Hồi 19: Tưởng gặp đời thánh chúa – Nào biết khổ lê dân

Nửa đêm Viên Thừa Chí lẻn đến ngoài phòng A Cửu xem thử. Màn đã buông xuống, chàng không nhìn rõ bên trong, chỉ thấy lờ mờ Hà Thiết Thủ và Tiêu Uyển Nhi ngồi cạnh giường. Chàng không dám mở miệng, quay về phòng nghỉ ngơi chốc lát.

Gần sáng, chàng lại tới thăm, vẫn thấy Hà Thiết Thủ và Tiêu Uyển Nhi ngồi canh trước giường. Hà Thiết Thủ khẽ nói: “Sư phụ! Cô ấy có tỉnh một lúc, mãi hỏi sư phụ rồi lại ngủ thiếp đi. Chắc cô ấy đang mơ thấy sư phụ.”

Viên Thừa Chí nhìn A Cửu, thấy mắt nàng nhắm nghiền, hàng mi dài buông rủ, sắc mặt trắng xanh hoàn toàn không có chút huyết sắc. Chàng sợ Thanh Thanh đến đây la lối nên không dám ở lâu, biết Hà Thiết Thủ đủ khả năng lo liệu nên quay về phòng mình.

Lúc bình minh Hồng Thắng Hải từ bên ngoài chạy vội vào phòng, kêu lớn: “Tướng công! Sa trại chủ đã bắt được thái giám Vương Tương Hiệu, sai người mở cửa Tuyên Võ Môn.”

Viên Thừa Chí vọt ra khỏi giường, hỏi: “Nghĩa quân vào thành chưa?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Tướng quân Lưu Tông Mẫn đã dẫn quân vào thành.”

Viên Thừa Chí nói: “Thế thì hay quá! Chúng ta mau đi đón tiếp.”

Hai người tới đại sảnh. Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng và Thiết La Hán ra ngoài chưa quay về. Viên Thừa Chí dẫn ông câm, Hồ Quế Nam, Hồng Thắng Hải, cả thảy bốn người đi về phía Đại Ninh Môn.

Mây đen che kín bầu trời, tuyết trắng lả tả rơi xuống. Loạn quân của Minh triều chạy tứ tán đầy đường. Có người đi qua hô hoán: “Kim Xà Vương đang tấn công Chính Dương Môn, Thuận Thiên Vương đã dẫn nghĩa quân vào thành.” Lại có người kêu lên: “Tề Hóa Môn đã mở, nghĩa quân của Tả Kim Vương đã vào thành. Nghĩa quân của Lão Hồi Hồi vừa phá được Đông Trực Môn.”

Viên Thừa Chí cùng mọi người đi một lúc thì thấy bại binh dần dần ít đi, Sấm quân từng toán kéo vào theo những con đường lớn, khí thế oai nghiêm. Dân chúng đều dán giấy vàng trước cửa, viết chữ rất lớn: “Vĩnh Xương nguyên niên Thuận Thiên Vương vạn vạn tuế”. Thậm chí có nhà còn bày hương án, sắp sẵn trà rượu để ủy lạo đại quân.

Viên Thừa Chí nói với Hồ Quế Nam: “Lòng người như thế, Sấm Vương đâu thể không thành đại sự?”

Đi một đoạn nữa, nghe phía trước có tiếng kèn hiệu. Mấy trăm người nhanh chân chạy tới, dẫn đầu là Sa Thiên Quảng và Thiết La Hán. Hai người này đang dẫn hào kiệt thành Bắc Kinh chặn đánh lính triều đình, khi thấy Viên Thừa Chí đều cất tiếng hoan hô: “Kim Xà Vương, Kim Xà Vương! Chúng ta phá được thành rồi.”

Thiết La Hán la lên: “Sấm Vương sắp đến!”

Tiếng hô vừa dứt, đã thấy mấy kỵ sĩ phi nhanh tới, đại hán đi đầu cầm cờ lớn ghi sáu chữ: “Đại Thuận, Chế tướng quân Lý”. Sau đó nhìn thấy Lý Nham mặc y phục màu xanh dương, cỡi ngựa chạy tới.

Viên Thừa Chí cả mừng, reo lên: “Đại ca!” Chàng lập tức nhảy đến trước mặt Lý Nham.

Lý Nham ngẩn ra một chút rồi tung người xuống ngựa, hoan hỉ nói: “Huynh đệ! Kim Xà Doanh của huynh đệ đã phá được thành, công lao không phải nhỏ.”

Viên Thừa Chí nói: “Đại quân Sấm Vương đến đâu, quân Minh chỉ nghe tiếng đã đầu hàng. Tiểu đệ chẳng có công lao gì hết.”

Hai người nắm tay nhau nói mấy câu khách sáo. Điền Kiến Tú, Lưu Phương Lượng từng gặp trên đỉnh Thánh Phong cũng tới đây, lát sau lại thêm mấy tướng lĩnh của Sấm quân là Quách Dưỡng Thành, Hoành Thiên Vương, Giáp Lý Nhãn. Mọi người siết tay nhau mừng rỡ.

Đột nhiên nghe tiếng còi hiệu, quân tướng reo hò: “Đại vương đến rồi! Đại vương đến rồi!”

Viên Thừa Chí cùng mọi người né qua một bên, thấy hơn trăm tinh binh phi ngựa dẫn đường, Lý Tự Thành đội nón nhung, mặc áo giáp, cỡi ngựa đen chạy nhanh tới. Lý Nham đến nói nhỏ mấy câu, Lý Tự Thành mỉm cười gọi: “Tuyệt diệu! Kim xà vương Viên huynh đệ, mau tới đây!”

Lý Nham vẫy tay gọi, Viên Thừa Chí tiến đến trước mặt hai người. Lý Tự Thành cười nói: “Viên huynh đệ đã lập đại công rồi! Huynh đệ không có ngựa ư?”

Nói xong, ông nhảy xuống ngựa, trao dây cương con ngựa của mình cho Viên Thừa Chí. Chàng vội vàng bái tạ.

Lý Tự Thành đi lên đầu thành, phóng mắt nhìn ra, thấy hàng ngàn hàng vạn tướng sĩ của mình đang từ mọi cửa thành tiến vào, không sao giấu nổi vẻ đắc chí mãn nguyện. Sấm quân cũng thấy đại vương đứng trên đầu thành, bốn phía đều hoan hô như sấm.

Lý Tự Thành lấy ra ba mũi tên, giương cung bắn xuống dưới thành, lớn tiếng hô: “Tướng sĩ nghe đây! Sau khi vào thành, nếu ai tự động sát hại, cướp bóc, hãm hiếp dân chúng, phải chém không tha.”

Mấy chục vạn Sấm quân dưới thành đồng thanh hô vang: “Xin tuân lệnh Đại vương. Đại vương vạn tuế, vạn vạn tuế.”

Viên Thừa Chí ngẩng mặt nhìn lên, thấy Lý Tự Thành đầy vẻ oai phong mà trong lòng khâm phục. Chàng bất giác cũng lớn tiếng hô: “Đại vương vạn tuế, vạn vạn tuế!”

Lý Tự Thành bước xuống tường thành, đổi một con ngựa khác, dẫn mọi người tới hoàng cung. Ông quay đầu lại, mỉm cười bảo Viên Thừa Chí: “Từ nay về sau huynh đệ phải thừa chí cha mình, giúp ta kháng cự bọn Thát tử Mãn Châu xâm lược giang sơn. Còn ta là Thừa Thiên.”

Sau đó ông giương cung lắp tên. Vù một tiếng, mũi tên bắn trúng chữ Thiên trong ba chữ Thuận Thiên Phủ. Kình lực của ông rất mạnh, mũi tên cắm ngập vào tường thành, mọi người lại lớn tiếng reo hò.

Tới Đức Thắng Môn, thái giám Vương Đức Quá đã dẫn ba trăm năm mươi mấy tên nội giám nằm rạp sẵn dưới đất để đón tiếp. Lý Tự Thành vứt roi xuống đất, cười rộ lên nói với Viên Thừa Chí: “Năm ngoái gặp ta ở Thiểm Tây, huynh đệ có nghĩ đến ngày hôm nay không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Đại nghiệp của đại vương thì dân chúng khắp thiên hạ đều tin tưởng, nhưng không ngờ thành tựu nhanh chóng đến thế.”

Lý Tự Thành lại xoa tay cười lớn.

Phía trước có người chạy nhanh tới, bẩm cáo với Lý Tự Thành: “Đại vương! Bọn thái giám nói là thấy Sùng Trinh chạy về phía Mai Sơn.”

Lý Tự Thành quay lại bảo Viên Thừa Chí: “Kim Xà Vương huynh đệ! Mau dẫn người đi bắt hắn.”

Viên Thừa Chí vâng dạ rồi vẫy tay một cái, dẫn bọn Hồ Quế Nam chạy tới Mai Sơn.

Mai Sơn là một ngọn đồi nhỏ xíu. Mọi người vừa lên đồi đã thấy một gốc cây lớn có treo hai người, lắc lư theo gió. Một người xõa tóc che mặt, trong mặc áo chẽn, quần trắng có viền màu bạc, ngoài khoác áo ngắn bằng gấm đoạn, chân trái để trần, chân phải vẫn mang một chiếc giày mũi vuông màu đỏ. Viên Thừa Chí vén tóc ra xem mặt, đúng là Sùng Trinh hoàng đế.

Trong túi áo hắn có một tờ giấy trắng, viết bằng bút son: “Mười bảy năm trẫm đăng cơ, địch đã vào trong nội địa bốn lần, bây giờ nghịch tặc đến tận kinh sư. Trẫm tài hèn đức mọn nên hoàng thiên nổi giận mà trách phạt, lại còn quần thần gây ra hậu quả. Trẫm chết đi không mặt mũi nào gặp tổ tông dưới cửu tuyền, nên dùng tóc để che mặt. Sấm tặc cứ phanh thây trẫm, nhưng đừng hại một bá tính nào. Sùng Trinh ngự bút.” Trên tờ giấy vấy đầy vết máu.

Viên Thừa Chí cầm xem tờ huyết chiếu, đột nhiên thấy bâng khuâng. Mối thù hai mươi năm nay đã được trả, dĩ nhiên chàng phải vui mừng; nhưng thấy kẻ thù có kết cục thê thảm như vậy, bỗng nảy lòng trắc ẩn. Chàng nghĩ bụng: “Ngươi nói cũng hay lắm, gì mà đừng hại một bá tính nào! Nếu ngươi biết yêu mến bá tính, đừng ép bá tính đến mức đói rách không phương sinh sống, thì đâu phải hứng chịu hậu quả hôm nay?”

Hồng Thắng Hải lên tiếng: “Viên tướng công! Người treo cổ bên cạnh là một tên thái giám.”

Viên Thừa Chí nói: “Tên hoàng đế này chết chỉ có một thái giám kế bên, đúng là mất hết nhân tâm. Chúng ta đưa xác hắn về, đừng để người khác sỉ nhục.”

Hồng Thắng Hải vâng dạ, Viên Thừa Chí phi ngựa về bẩm báo.

Lúc này Lý Tự Thành đã vào hoàng cung. Sấm quân canh giữ hoàng cung nhận ra Viên Thừa Chí, liền dẫn chàng vào. Lý Tự Thành ngồi trên long ỷ, mười mấy tướng quân đứng bên cạnh. Dưới điện có một thằng bé áo quần xốc xếch.

Lý Tự Thành thấy Viên Thừa Chí vào, gọi lớn: “Hay lắm! Hoàng đế đâu, dẫn vào đi!”

Viên Thừa Chí đáp: “Sùng Trinh chết rồi, treo cổ trên một gốc cây ở Mai Sơn.”

Lý Tự Thành ngẩn ra, đón lấy tờ di chiếu của Sùng Trinh để xem. Thiếu niên đứng dưới đột nhiên nằm lăn ra đất khóc gào, cơ hồ ngất xỉu. Lý Tự Thành nói: “Đó là thái tử.”

Viên Thừa Chí dìu nó dậy. Lý Tự Thành hỏi: “Tại sao cha ngươi để mất thiên hạ, ngươi biết không?”

Thái tử vừa khóc vừa đáp: “Vì tin dùng gian thần, bạc đãi trung lương.”

Lý Tự Thành mỉm cười nói: “Thì ra thằng bé này cũng có hiểu biết.” Ông nghiêm giọng nói: “Cho ngươi biết, phụ vương của ngươi đã hồ đồ lại nhẫn tâm, tàn hại bá tính khắp thiên hạ cực kỳ khổ sở. Hôm nay phụ vương của ngươi treo cổ tự tử, đương nhiên là chuyện thê thảm. Nhưng hắn tại vị mười mấy năm trời, đã ép bá tính trong thiên hạ phải treo cổ tự tử không biết mấy ngàn mấy vạn. Chuyện đó còn thê thảm hơn nhiều.”

Thái tử cúi đầu không nói gì, lát sau mới lên tiếng: “Ông mau giết ta đi!”

Thừa Chí thấy nó quật cường, không khỏi lo giùm. Nhưng Lý Tự Thành nói: “Ngươi vẫn còn là một đứa bé, lại chẳng có tội gì. Ta đâu có giết người bừa bãi?”

Thái tử nói: “Vậy thì ta xin ông mấy việc.”

Lý Tự Thành bảo: “Ngươi nói thử xem.”

Thái tử nói: “Xin ông đừng kinh động đến lăng tẩm của tổ tông ta và an táng phụ vương, mẫu hậu ta tử tế.”

Lý Tự Thành đáp: “Đương nhiên. Chuyện đó ngươi khỏi phải xin.”

Thái tử lại nói: “Xin ông đừng giết hại bá tính.”

Lý Tự Thành cười ha hả rồi nói: “Thằng bé này chẳng hiểu gì. Ta chính là bá tính đây. Bá tính chúng ta tấn công, chiếm được kinh thành các ngươi. Ngươi có hiểu không?”

Thái tử hỏi: “Vậy thì ông không giết bá tính chứ?”

Lý Tự Thành đột nhiên phanh ngực áo, để lộ nhiều vết sẹo do roi và hình cụ hành hạ, nhìn mà phát sợ. Lý Tự Thành nói: “Ta vốn là người dân lương thiện, nhưng bị bọn tham quan ô lại đánh một trận thế này, nên mới không nhẫn nại được mà khởi nghĩa tạo phản. Cha con ngươi giả nhân giả nghĩa, nói yêu mến bá tính gì gì! Trong quân đội của ta từ trên xuống dưới, chẳng ai chưa từng nếm mùi khổ nhục của cha ngươi.”

Thái tử im lặng cúi đầu. Lý Tự Thành mặc áo vào, lại nói: “Ngươi lùi xuống đi. Nghĩ ngươi là thái tử của tiên vương, ta phong cho ngươi một tước vương để ngươi biết bá tính chúng ta không nghĩ đến thù xưa. Phong ngươi chức vương gì đây? À, cha ngươi đã đem giang sơn tống vào tay ta, thế thì phong ngươi làm Tống Vương vậy.”

Thái giám Tào Hóa Thuần đứng bên bỗng lên tiếng: “Mau mau khấu đầu tạ ơn bệ hạ đi!”

Thái tử giận dữ nhìn Tào Hóa Thuần, đột nhiên xoay người tát vào mặt hắn một cái. Trên mặt Tào Hóa Thuần lập tức hằn lên dấu năm ngón tay.

Lý Tự Thành cười rộ, nói: “Đánh hay quá! Đồ gian tặc bất trung bất nghĩa! Người đâu, lôi ra chém đi.”

Tào Hóa Thuần hoảng sợ đến nỗi mặt cắt không ra máu, vội vã quỳ xuống khấu đầu binh binh, tóe cả máu trán. Lý Tự Thành phóng cước đá hắn lộn đi mấy vòng, hét lên: “Cút mau! Từ nay về sau, ta mà thấy mặt là giết ngươi ngay.”

Thái tử ngẩng cao đầu, bước ra ngoài. Lý Tự Thành nói với Viên Thừa Chí: “Thằng lỏi này thật là quật cường. Ta thích những đứa có cốt khí như thế.”

Viên Thừa Chí đáp: “Đúng vậy.”

Thừa tướng Ngưu Kim Tinh bỗng lên tiếng: “Đại sự của chúa thượng đã thành, triều Minh mất hết lòng người, nhưng không thể không đề phòng chuyện lửa cháy âm ỉ trong bùn. Thằng bé này quá quật cường, nếu nó không chịu quy thuận thánh triều, e rằng sau này có người lợi dụng danh nghĩa để làm loạn. Chi bằng chúng ta trừ khử để tránh hậu hoạn.”

Lý Tự Thành trù trừ một chút rồi nói: “Việc này giao cho ngươi lo liệu.” Ông quay lại, hỏi quân sư Tống Kiến Sách thấp lùn đứng phía sau: “Nghe nói hoàng đế còn có một công chúa, không biết đang ở đâu.”

Viên Thừa Chí lên tiếng: “Cô ấy đã bị hoàng đế chặt đứt một cánh tay, thuộc hạ đón về nhà trị liệu vết thương. Đợi công chúa bình phục, thuộc hạ sẽ dẫn đến khấu kiến đại vương.”

Lý Tự Thành vừa cười vừa nói: “Được! Công lao của ngươi không nhỏ, ta chưa nghĩ ra phải thưởng cái gì. Thưởng công chúa cho ngươi.”

Viên Thừa Chí cảm thấy khó chịu, vội nói: “Không, không! Thuộc hạ chỉ xin đại vương tha mạng cho thái tử.”

Ngưu Kim Tinh mỉm cười nói: “Viên huynh đệ mắc cỡ làm chi? Trước nay anh hùng vẫn xuất tự thiếu niên. Các vị tướng quân công lao tuy lớn, chỉ được đại vương thưởng cho mấy ả cung nữ mà thôi. Thế mà huynh đệ vẫn chưa hài lòng, còn cầu xin việc khác.”

Viên Thừa Chí nghe trong lời nói có phần bóng gió, cảm thấy không vui. Chàng thầm nghĩ: “Thái tử là một đứa bé vô tội, hà tất phải giết.”

Lý Tự Thành nói: “Viên huynh đệ! Võ quan dưới trướng ta chia làm nhiều cấp. Lưu Tông Mẫn và Điền Kiến Tú đều là Nhất phẩm Quyền tướng quân. Nghĩa huynh Lý Nham của ngươi là Chế tướng quân. Ta phong ngươi làm Tam phẩm Quả Nghị tướng quân.”

Viên Thừa Chí khom lưng đáp: “Đa tạ đại vương. Thuộc hạ dù chết cũng ra sức phò tá đại vương, nhưng bản ý không muốn làm quan.”

Ngưu Kim Tinh cười nói: “Viên huynh đệ vốn là minh chủ võ lâm bảy tỉnh, chắc là chê chức vụ tướng quân tam phẩm quá thấp phải không? Đại vương đã nhất thống thiên hạ, cai trị toàn cõi giang sơn. Những chuyện minh chủ bảy tỉnh, minh chủ tám tỉnh gì gì đó tự đặt cho nhau, về sau nhất định phải cấm chỉ nghiêm ngặt.”

Lý Tự Thành nghe Ngưu Kim Tinh nói quá nặng nề, bèn vỗ vai Viên Thừa Chí, mỉm cười bảo: “Tuổi ngươi còn trẻ, công lao tuy lớn nhưng theo ta chưa lâu. Sau này thăng tiến, sợ không đủ thời gian hay sao?”

Viên Thừa Chí nói: “Thuộc hạ không nghĩ đến chức vị cao thấp, nhưng thật sự chỉ là thất phu thảo mãng, không thể làm quan được.”

Lý Tự Thành cười lớn rồi dõng dạc nói: “Chẳng lẽ ta không phải thất phu thảo mãng? Thế mà làm tới hoàng đế kia.”

Viên Thừa Chí không tiện nói nữa, cúi đầu xin phép cáo từ.

*

*   *

Chàng trở về hẻm Chính Điện Tử, chưa tới đã nghe thấy tiếng binh khí va chạm, tiếng hò hét chửi mắng, rồi lại thấy mấy chục Sấm quân cầm binh khí bỏ chạy ra ngoài.

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Sấm quân tới đây làm gì vậy?” Chàng vội vã chạy đến cửa, thấy Hà Thiết Thủ vẫy thiết câu chém giết loạn xạ, vây chặt mười mấy tên Sấm quân trong nhà không cho chạy ra ngoài. Viên Thừa Chí la lên: “Dừng tay, dừng tay! Người mình cả.”

Hà Thiết Thủ hô lớn: “Sư phụ”, rồi tránh qua một bên.

Bọn Sấm quân thấy có đường chạy trốn, ùa ra như ong vỡ tổ. Một tên võ quan chạy đến trước mặt Viên Thừa Chí, ngơ ngác hỏi: “Ngươi… ngươi là Kim Xà Vương? Không phải thuộc hạ của đại vương chúng ta hay sao?”

Viên Thừa Chí đáp: “Đúng rồi! Mọi người hiểu lầm nhau, xin lão huynh đừng trách.”

Võ quan kia giận dữ nói: “Hiểu lầm ư? Hừ, ngươi xem đi. Thủ hạ của ngươi đã giết rất nhiều huynh đệ chúng ta.” Nói xong, hắn chỉ vào bảy tám cái xác nằm ngổn ngang dưới đất.

Thiết La Hán chạy ra ngoài, lớn tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó! Bọn bay vừa vào nhà đã ra tay cướp giật, nói là không giao vàng bạc ra thì phóng hỏa đốt nhà. Thấy Hạ cô nương xinh đẹp, lập tức động tay động chân, nói cô ấy là gian tế, phải bắt đi ngay. Đồ rùa đen khốn nạn! Bọn bay có khác gì quan quân nhà Minh đâu?”

Nói xong, y vung quyền nghe “binh” một tiếng. Tên võ quan kia bay thẳng ra ngoài.

Viên Thừa Chí đi vào trong sảnh. Trình Thanh Trúc, Hồ Quế Nam cùng mọi người đều tức giận kể lại những chuyện vừa thấy ngoài đường. Họ nói: “Sấm quân vừa vào thành đã lục soát nhà dân, cướp bóc, hãm hiếp, chuyện bậy bạ gì cũng không chừa.”

Viên Thừa Chí kinh hãi nói: “Vậy thì mất nhân tâm ngay. Chính mắt ta thấy đại vương đứng trên đầu thành bắn ba mũi tên, nghiêm cấm giết người cướp của. Nhất định đại vương chưa biết tình hình này. Ta lập tức chạy vào bẩm báo, nhờ đại vương hạ lệnh nghiêm cấm.”

Trình Thanh Trúc khuyên ngăn: “Minh chủ! Bộ hạ của Sấm Vương có rất nhiều người xuất thân đạo tặc, đã vào đến kinh thành phồn hoa dĩ nhiên phải buông thả một chút. Đợi vài ngày rồi hãy tấu trình.”

Viên Thừa Chí nói: “Không được! Đợi vài ngày thì dân chúng trong thành khổ sở không chịu nổi. Cứu dân như cứu hỏa, đâu thể chờ đợi?”

Đang nói chuyện, bên ngoài bỗng vọng vào tiếng hò hét. Viên Thừa Chí giật mình chạy ra cửa, thấy vô số nhân mã đang ùa vào hẻm Chính Điện Tử. Tên võ quan vừa bị Thiết La Hán đánh ngã đang cưỡi trên một con ngựa, la lên: “Viên Thừa Chí! Quyền tướng quân gọi ngươi đi nói chuyện.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Có thật Quyền tướng quân gọi không?”

Một võ quan lấy lệnh tiễn ra, nói: “Có lệnh tiễn của Quyền tướng quân đây.”

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Ta mà không đi thì tổn thương hòa khí anh em. Gặp Quyền tướng quân cũng là cơ hội để khuyên huynh ấy quản thúc thuộc hạ.” Chàng bèn gật đầu nói: “Được! Ta đi ngay.”

Tên võ quan đó hét lên: “Bắt lấy!”

Lập tức có bảy tám binh sĩ ùa lên, lấy dây ra trói Viên Thừa Chí. Chàng mỉm cười, không chống đỡ, chắp tay sau lưng để chúng muốn trói sao thì trói.

Thiết La Hán, Sa Thiên Quảng cùng quần hùng đều la lớn: “Ai dám động thủ?” Họ vừa hô hoán vừa toan xông vào đánh nhau.

Viên Thừa Chí vội kêu lên: “Mọi người không được động võ. Để ta gặp Quyền tướng quân nói chuyện đã.”

Võ quan kia lại chỉ Hà Thiết Thủ, nói: “Con bé cụt tay này chính là công chúa của Sùng Trinh hoàng đế, Quyền tướng quân dặn phải bắt về. Bắt lấy nó!”

Đám lính chạy ùa về phía Hà Thiết Thủ. Nàng vung kim câu một đường, không cho chúng đến gần, cười cười hỏi: “Quyền tướng quân bắt ta để làm gì vậy?”

Tên võ quan đáp: “Phá được Bắc Kinh, công lao của Quyền tướng quân là số một. Công chúa của Sùng Trinh dĩ nhiên phải để Quyền tướng quân hưởng thụ. Ngươi ngoan ngoãn theo về, sau này phú quý cả đời dùng không hết.”

Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Vậy thì hay lắm. Nhưng nếu ta không chịu đi thì sao?”

Tên võ quan hét lên: “Lải nhải nhiều vô ích. Bắt nó đi!”

Hà Thiết Thủ la lên: “Sư phụ! Quyền tướng quân muốn bắt muội về làm vợ bé. Sư phụ thấy muội nên đi hay không?”

Viên Thừa Chí chưa biết nói sao, đã thấy mấy tên lính ùa tới túm lấy Hà Thiết Thủ. Nàng cứ đứng yên cười khanh khách, nhưng bọn chúng đột nhiên té ngửa ra, giật giật mấy cái rồi mất mạng. Thì ra trên y phục của Hà Thiết Thủ chỗ nào cũng có chất kịch độc.

Tên võ quan sợ quá, thét lên: “Phản rồi, phản rồi! Bọn này là tàn quân của triều Minh còn kháng cự, giết đi!”

Lập tức rất nhiều đao thương vung lên, bổ lên đầu Thiết La Hán cùng mọi người. Đã đến mức này, chẳng lẽ quần hùng buông tay chịu chết? Họ đoạt lấy đao thương đánh trả, chém giết một trận. Quan quân hỗn độn thành một khối, kẹt lại trong hẻm, không tiến được mà cũng khó lùi.

Viên Thừa Chí hô lớn: “Các ngươi về nói với Quyền tướng quân, mọi người cùng đến trước mặt đại vương nói chuyện xem ai đúng ai sai.”

Nói xong, chàng vận kình lực lên tay, bao nhiêu dây trói đứt tung như chỉ mục. Chàng nhảy xổ tới, hai tay nắm lấy hai tên võ quan lôi xuống ngựa, lại la lên: “Ta tạm giữ hai võ quan này. Anh em binh sĩ trở về doanh đi.”

Đám lính thấy cấp trên đã bị bắt, không dám đánh nữa. Chúng ùa nhau chạy ra khỏi hẻm.

Viên Thừa Chí thở dài, lắc đầu, bảo Hồ Quế Nam và Hồng Thắng Hải áp giải hai tên võ quan đó đi gặp Lý Tự Thành.

Vào cung, thấy trong đại điện đang bày đại tiệc. Lý Tự Thành cùng các tướng quân dự yến, tiếng nhạc inh ỏi, rượu thịt liên tiếp bưng lên như nước chảy. Lý Tự Thành đã hơi say, thấy Viên Thừa Chí liền vui mừng nói: “Hay quá! Ngươi tới đây uống một ly.”

Viên Thừa Chí khom người vâng dạ, rồi bước tới nhận ly rượu từ tay Lý Tự Thành, uống cạn ngay.

Tướng quân ngồi bên trái Lý Tự Thành đột nhiên đứng dậy, hét lên: “Viên Thừa Chí, gan ngươi to thật đấy! Dựa vào cái gì mà dám giết thuộc hạ của ta?”

Viên Thừa Chí thấy người này râu ria đầy mặt, thần sắc thô hào, đoán là Quyền tướng quân Lưu Tông Mẫn. Chàng hỏi: “Các hạ là Quyền tướng quân phải không?”

Hắn đáp: “Đúng vậy! Đại vương chỉ phong cho ngươi cái chức Quả Nghị tướng quân nho nhỏ, thế mà ngươi dám không xem Quyền tướng quân này ra gì, cả gan giết thuộc hạ của ta.”

Nói xong, hắn đưa tay nắm chuôi đao rút ra một nửa, rồi cắm trả vào vỏ nghe “roạt” một tiếng. Nhất thời cả mấy trăm người trong điện im lặng, không ai lên tiếng.

Viên Thừa Chí nói: “Lúc đại vương vào thành từng ra hiệu lệnh: ai giết hại, cướp bóc, hãm hiếp dân chúng đều phải chém đầu. Tại hạ thấy một số người dưới trướng tướng quân đang ngược đãi tàn hại bá tính nên phải khuyên ngăn, thật không phải cố ý đắc tội. Chuyện này xin Quyền tướng quân tha thứ.”

Lưu Tông Mẫn cười nhạt nói: “Thiên hạ này đã là của đại vương, do đám huynh đệ lâu năm chúng ta xuất sinh nhập tử, từ trong rừng đao thương giành lấy. Chúng ta biết đánh chiếm giang sơn, chẳng lẽ không biết hưởng thụ giang sơn hay sao? Ngươi cố ý lấy lòng bá tính, thu phục nhân tâm… Hừ, mưu đồ gì đây?”

Viên Thừa Chí nói: “Đại vương từng nói, chính bản thân đại vương cũng là bá tính.”

Lưu Tông Mẫn cười rộ lên nói: “Đang đánh chiếm giang sơn thì đại vương là bá tính, bây giờ ngồi trên ngai vàng thì đại vương là chân mạng thiên tử, chẳng lẽ vẫn là bá tính? Thằng lỏi này chỉ nói bừa.”

Viên Thừa Chí im lặng. Lý Tự Thành cười nói: “Được rồi, được rồi! Mọi người đều là huynh đệ, đừng vì chuyện nhỏ mà tổn thương hòa khí. Hai người qua đây, mỗi người cạn một ly đi. Tông Mẫn! Ta biết ngươi chỉ ganh tị vì Viên Thừa Chí được công chúa. Trong hoàng cung này, người đẹp muốn bao nhiêu thì có bấy nhiêu. Lát nữa cho ngươi tự do lựa chọn là xong.”

Lưu Tông Mẫn nói: “Đại vương! Sùng Trinh chỉ có một công chúa thôi.”

Lý Tự Thành mỉm cười quay lại bảo Viên Thừa Chí: “Tông Mẫn nhất định đòi công chúa, thôi thì ngươi nể mặt ta mà nhường cho hắn đi. Hai ngươi là quan cùng triều, giữ hòa khí là cần thiết nhất.”

Viên Thừa Chí không khỏi ngạc nhiên. Chàng nghĩ đến A Cửu mà cảm thấy mất mát gì đó trong lòng, bất giác tay buông lỏng. Ly rượu rơi xuống đất, tan nát thành mảnh vụn.

Lý Tự Thành giận dữ nói: “Giả tỉ ngươi không chịu, cũng không nên nổi giận với ta!”

Viên Thừa Chí khom lưng đáp: “Thuộc hạ không dám!”

Đột nhiên nghe tiếng sáo trúc vang lên, mấy võ quan dẫn một cô gái lên điện. Cô gái này quỳ lạy trước mặt Lý Tự Thành rồi đứng dậy. Ánh đèn vừa chiếu lên mặt nàng, mọi người không hẹn mà cùng khẽ la một tiếng.

Nàng đảo mắt một vòng, nhìn khắp lượt mọi người trong điện. Khi chạm phải ánh mắt nàng, ai cũng có cảm giác như toàn thân ngâm vào một chậu nước ấm, thoải mái khó mà diễn tả.

Nàng thỏ thẻ giọng oanh, lên tiếng: “Tì thiếp Trần Viên Viên bái kiến đại vương. Cầu chúc đại vương vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế.”

Lý Tự Thành cười ha hả, nói: “Cô nương xinh đẹp quá!”

Lưu Tông Mẫn la lên: “Đại vương! Tiểu tướng không cần công chúa của Sùng Trinh nữa. Đại vương ban người đẹp này cho tiểu tướng đi.”

Ngưu Kim Tinh lên tiếng: “Lưu tướng quân! Trần Viên Viên là ái thiếp của tổng binh Ngô Tam Quế, người đang trấn thủ Sơn Hải Quan. Cô ấy có thể gọi là đệ nhất mỹ nhân, đại vương đã đặc biệt triệu đến đây, làm sao cho ngươi được?”

Nghe chính Lý Tự Thành muốn cô này, Lưu Tông Mẫn không dám nói thêm. Nhưng mắt hắn vẫn đảo lia đảo lịa, trân trân nhìn Trần Viên Viên, nuốt nước bọt ừng ực thành tiếng.

Cả đại điện nhất thời im phăng phắc. Đột nhiên nghe tiếng loảng choảng, ly rượu trong tay ai đó rơi xuống đất. Sau đó những tiếng loảng choảng vang lên liên tiếp, nhiều người ngơ ngẩn đến cầm ly không chắc. Lúc nãy Viên Thừa Chí vô ý làm rơi ly rượu, Lý Tự Thành vô cùng giận dữ. Nhưng bây giờ ai cũng lo nhìn khuôn mặt tuyệt thế của Trần Viên Viên, nên không ai để ý đến chuyện vỡ ly nữa.

Đột nhiên một tên tiểu tướng ngồi dưới cười lên ha hả, bò lổm ngổm dưới đất đến chỗ Trần Viên Viên, ôm lấy đùi nàng. Nàng kinh hãi hét lên, tránh qua một bên, tiếng hét nghe cũng trong trẻo êm tai.

Một tướng quân khác la lên: “Nóng quá, nóng quá!” Roạc roạc mấy tiếng, hắn tự xé hết áo mình ra.

Lại có một tướng quân la lên: “Mỹ nhân! Nếu được mời mỹ nhân uống rượu, ta có chết cũng cam lòng.” Hắn cầm ly rượu kề vào miệng Trần Viên Viên.

Đại điện náo loạn cả lên. Những võ tướng đánh quen trăm trận đều bị dung mạo Trần Viên Viên làm mê hoặc. Viên Thừa Chí nhìn thấy cảnh tượng này, âm thầm lắc đầu, định bỏ ra ngoài điện.

Đột nhiên chàng nghe Lý Nham quát lớn: “Trước mặt đại vương, các huynh đệ không được vô lễ!”

Một tướng quân cười ha hả lên nói: “Ta chỉ dùng đầu ngón tay sờ vào khuôn mặt trắng trẻo này một chút, chắc không sao chứ?” Nói xong hắn giơ ngón tay ra trước, từ từ tiến đến gần Trần Viên Viên.

Lý Tự Thành hét lên: “Đưa mỹ nhân vào hậu cung! Tống Kiến Sách, ngươi cho quân canh giữ.” Tống Kiến Sách vâng dạ, dẫn Trần Viên Viên vào trong.

Mấy chục võ quan chen lấn ùa theo, tranh nhau nhìn thêm một chút. Mãi đến khi Trần Viên Viên khuất bóng, chúng mới tiếc rẻ từ từ quay lại chỗ ngồi.

Một tên hỉnh mũi lên hít như chó đánh hơi, nói: “Được ngửi mùi thơm của mỹ nhân này một chút, chắc kiếp trước ta đã tu hành tử tế.”

Một tên nói: “Đây không phải là người, là hồ ly tinh biến thành. Đại vương không nên hưởng dụng.”

Một tên khác cãi: “Dù nàng là yêu tinh giết người đi nữa, ta cũng muốn ôm một cái. Dù bị nàng nuốt chửng, cũng là khoái lạc vô cùng.”

Lý Tự Thành từ từ uống rượu, mặt mày cực kỳ rạng rỡ. Y hết nhìn Viên Thừa Chí lại nhìn Lý Nham, lại chuyển qua nhìn Lưu Tông Mẫn, rồi nói: “Tuy chúng ta đã được thiên hạ, nhưng không nên ngược đãi bá tính. Tông Mẫn! Ngươi truyền lệnh đi: Trong thành Bắc Kinh không được cướp bóc tài vật, chiếm đoạt nữ nhân.”

Lưu Tông Mẫn vâng dạ nhưng lại nói: “Đại vương! Trong thành Bắc Kinh này có rất nhiều tham quan ô lại, phú hào tài chủ, chẳng tên nào là người tốt. Tài sản, nữ nhân của chúng đều do cướp bóc từ bá tính. Huynh đệ chúng ta lấy lại chút ít, đâu phải là vô lý?” Lý Tự Thành im lặng không nói gì.

Lý Nham bước lên mấy bước, nói: “Đại vương! Ngô Tam Quế có rất nhiều binh mã ở Sơn Hải Quan. Chỉ tinh binh đã bốn vạn, lại thêm tám vạn dân chúng đất Liêu kiêu dũng thiện chiến. Đại vương phái người chiêu hàng, y đã chịu quy thuận. Hay là đưa trả tiểu thiếp của y về phủ, để y yên tâm quy phục?”

Lưu Tông Mẫn cười nhạt hỏi: “Bốn vạn binh mã của Ngô Tam Quế làm được cái gì? Trong thành Bắc Kinh, Sùng Trinh có mười mấy vạn quan binh, nhưng gặp phải chúng ta, không phải chỉ một trận là sụp đổ hết hay sao?”

Lý Tự Thành gật đầu nói: “Ngô Tam Quế là việc nhỏ, không cần để tâm. Nếu hắn đầu hàng, coi như hắn biết điều. Nếu không, chúng ta chỉ đưa tay là bắt được. Chẳng lẽ Ngô Tam Quế lợi hại hơn Tôn Truyền Đình, Chu Ngộ Cát hay sao?”

Lý Nham lại nói: “Đại vương tuy đã được Bắc Kinh, nhưng Giang Nam chưa ổn…”

Lý Tự Thành xua tay bảo: “Mọi người uống rượu đi! Đây không phải lúc bàn quốc gia đại sự.”

Lý Nham đành vâng dạ, lùi xuống ngồi bên Viên Thừa Chí, dặn nhỏ: “Mọi chuyện phải cẩn thận, đề phòng Quyền tướng quân gia hại!” Viên Thừa Chí khẽ gật đầu.

Lý Tự Thành uống thêm mấy ly rồi hô lớn: “Mọi người giải tán đi thôi! Ha ha… ha ha…” Y vung chân hất đổ cái bàn, quay lưng đi vào nội cung.

Bọn tướng quân ồn ào một chút rồi giải tán, rất nhiều người ngoác mồm ca tụng Trần Viên Viên hấp dẫn. Trong ngoài cửa cung, nghe toàn những câu nói dơ bẩn thô tục.

*

*   *

Viên Thừa Chí theo Lý Nham ra khỏi điện, tới cửa cung thì gặp Hồ Quế Nam và Hồng Thắng Hải. Chàng bảo họ thả hai tên võ quan ra.

Bốn người vừa rẽ qua đường khác đã thấy mấy chục Sấm quân đang cướp bóc một tòa nhà lớn, kéo hai nữ nhân trẻ tuổi ra ngoài. Hai cô gái chỉ biết kêu khóc, giãy giụa. Lý Nham cả giận, bảo thuộc hạ của mình bắt về tra hỏi. Sấm quân nhận ra Chế tướng quân cùng la lên một tiếng, vứt tài vật và nữ nhân lại, quay lưng chạy trốn.

Dọc đường chỗ nào cũng nghe tiếng Sấm quân reo hò, bá tính kêu khóc. Từ đường cái đến hẻm nhỏ, chỗ nào cũng thấy Sấm quân chạy tới chạy lui, tên thì mang vác của cải, tên thì lôi kéo nữ nhân. Lý Nham thấy không thể cấm đoán nổi, không thể bắt hết nổi, chỉ biết thở dài.

Viên Thừa Chí vẫn hy vọng Lý Tự Thành chiếm được thiên hạ để thấy cảnh thanh bình, bá tính an cư lạc nghiệp. Nhưng hôm nay chàng đã thấy hành động của Lý Tự Thành và bọn Lưu Tông Mẫn, Ngưu Kim Tinh; lại thấy Sấm quân cướp bóc lung tung trong kinh thành; so với thời Sùng Trinh trị vì còn tàn bạo ghê gớm hơn nhiều. Tấm lòng nhiệt huyết của chàng tức thì nguội lạnh.

Cứ đi mấy bước lại thấy dưới đất có thi thể ngổn ngang. Viên Thừa Chí thấy xác hai bé gái không mặc quần áo, trong người vẫn còn chảy máu. Chàng không nhẫn nại được nữa, nắm chặt lấy tay Lý Nham mà nói: “Đại ca! Đại ca từng nói Sấm Vương vì dân chúng mà giải oan, vì dân chúng mà trút giận, là như thế này sao?”

Nói xong, chàng ngồi bệt xuống đất, khóc tấm tức. Bản thân Lý Nham cũng bi phẫn đến cùng cực, nói: “Bây giờ ta đi gặp đại vương ngay, xin đại vương hạ lệnh nghiêm cấm cướp bóc.”

Y kéo Viên Thừa Chí dậy, quay lại hoàng cung, bảo bọn vệ sĩ: “Ta có việc gấp, cầu kiến Sấm Vương.”

Vệ sĩ vào trong bẩm báo, lát sau trở ra nói: “Chế tướng quân! Đại vương đã ngủ, không ai dám làm kinh động. Xin tướng quân sáng mai hãy đến.”

Lý Nham nói: “Ta đã theo đại vương rất nhiều năm, khi có việc cầu kiến thì đại vương dù đêm khuya cũng nhất định tiếp kiến. Ngươi vào bẩm báo lại đi.”

Vệ sĩ lại chạy vào. Lát sau hắn ra, mặt đầy vẻ kinh hoàng, run rẩy nói: “Đại vương nổi giận, nói tiểu nhân mà vào lảm nhảm nữa là lập tức chặt đầu.”

Lý Nham nói: “Được! Vậy ta chờ ở đây, đợi đại vương thức giấc rồi gặp.” Y quay lại bảo Viên Thừa Chí: “Huynh đệ! Huynh đệ về nghỉ trước đi.”

Viên Thừa Chí đáp: “Đệ ở đây với đại ca.” Chàng bảo Hồ Quế Nam cùng Hồng Thắng Hải về trước để Thanh Thanh khỏi lo lắng.

Hai người đã ngồi trên bậc cấp phía trước cung, đợi đến sáng rõ mới thấy một vệ sĩ từ nội cung ra nói: “Đại vương triệu kiến.”

Hai người theo vào một gian phòng, rồi vệ sĩ ra ngoài. Đợi thêm hai giờ nữa, sắp đến giờ Ngọ mà Lý Tự Thành vẫn không ra gặp. Hai người nhìn nhau sốt ruột, ai cũng lo lắng vô cùng.

Lại thêm nửa giờ, mới có một vệ sĩ chạy vào gọi Lý Nham và Viên Thừa Chí: “Chế tướng quân, Quả Nghị tướng quân! Hoàng thượng mời hai vị đến điện Kim Loan để thương thảo đại sự.”

Lý Nham và Viên Thừa Chí theo vệ sĩ đó qua hai khoảng sân, lại đi hết một hành lang rất dài, thấy chỗ nào cũng có quân lính cầm vũ khí đứng canh. Chúng nhận ra Lý Nham nên không hỏi gì, có tên còn cung kính thi lễ.

Hai người đến gần một tòa điện nhỏ, nghe từ trong vọng ra thanh âm giận dữ của Lý Tự Thành: “Bắt bọn quan lại triều Minh về đánh đập cho chúng nôn vàng bạc ra, dĩ nhiên là chuyện phải làm. Xưa kia bọn phú hào hiếp đáp người nghèo dã man biết mấy, phải ép chúng trả lại chứ? Chẳng qua là trả chút ít thù xưa, giết người thường mạng, nợ tiền trả tiền, nợ máu trả máu, có gì là không nên không phải?”

Đến cuối câu đã chuyển sang giọng quát tháo, pha thêm những tiếng binh binh không dứt. Hình như Lý Tự Thành đang vung quyền đánh xuống mặt bàn.

Lý Nham và Viên Thừa Chí vào trong, thấy đây là một tòa điện rất lớn nhưng có phần âm u, bốn phía phải thắp những ngọn nến rất lớn. Lý Tự Thành ngồi trên một cái ghế lớn, bọc vải vàng đặt ngay chính giữa, sắc mặt đầy vẻ giận dữ, không ngớt đập bàn.

Một đại hán to lớn khom lưng nói: “Khải bẩm đại vương, đại vương nói rất đúng. Trận đánh Ninh Võ Quan, huynh đệ chúng ta bị thương và chết rất nhiều. Nhưng mọi người dũng cảm xung phong, cuối cùng cũng đánh bại Chu Ngộ Cát. Ninh Võ chỉ là một quan ải nhỏ, không có tiền bạc gì hết. Huynh đệ chúng ta chỉ mong đánh vào Bắc Kinh để hưởng phước nhiều hơn. Huynh đệ chúng ta đều nghiến răng liều chết, từng người ngã xuống, có người bị thương phun máu vẫn không lùi bước. Thuộc hạ thấy rất nhiều huynh đệ mất mạng nên trong lòng đau xót, chỉ biết vung đao xông lên liều mạng.”

“Hoàng thượng đại vương! Chúng ta chiếm được một thành trì, phải nghỉ ngơi bốn năm ngày cho anh em hưởng lạc, tìm bọn cẩu quan tài chủ trả thù. Bọn cẩu quan tài chủ đó chèn ép chúng ta đâu có ít? Giành giật vợ con chúng ta đâu có ít? Đại vương! Chúng ta đến đây là để trả thù. Thế mà trước đây đại vương đã hạ quân lệnh, không cho huynh đệ thoải mái ở Bắc Kinh, cướp bóc gian dâm thì giết gì gì đó.”

“Hoàng thượng đại vương! Thuộc hạ là đồ vô dụng. Nếu thật sự như vậy thì thuộc hạ không có cách gì chỉ huy được nữa, không có huynh đệ nào nghe lệnh thuộc hạ nữa. Nếu thuộc hạ nói là ai cướp bóc gian dâm phải giết, thì các huynh đệ sẽ thóa mạ thuộc hạ ngay, con mẹ thằng Cao Tất Chính, mẹ kiếp tổ tông mười tám đời thằng Cao Tất Chính.”

Lý Tự Thành bỗng cười ha hả rồi nói: “Té ra biểu đệ muốn nói với ta câu này. E rằng ta chưa hạ lệnh, trong lòng ngươi đã chửi con mẹ thằng Lý Tự Thành rồi.”

Cao Tất Chính nói: “Hoàng thượng đại vương là huynh trưởng, thuộc hạ đâu dám vô lễ? Mẹ của đại vương cũng như mẹ của thuộc hạ. Trước sau thuộc hạ vẫn nghe lệnh hoàng thượng đại vương, gặp lửa thì nhảy vào lửa, gặp nước thì nhảy vào nước. Có gì, hoàng thượng đại vương cứ nói thẳng.”

Một người ra vẻ quan văn bước lên một bước, dõng dạc nói: “Cao tướng quân! Hoàng thượng đã ngồi trên long ỷ, chúng ta phải gọi là Hoàng thượng hoặc Bệ hạ, không nên gọi là hoàng thượng đại vương gì gì nữa.”

Lý Tự Thành mỉm cười nói: “Dụ Thượng Du rất biết làm quan, nhớ tới quy luật này. Từ nay về sau, mọi người cứ thế mà gọi.”

Bốn năm chục người trong điện đồng thanh hô lớn: “Hoàng thượng vạn tuế!” Lý Nham và Viên Thừa Chí cũng hô theo.

Lý Tự Thành cười nói: “Viên Thừa Chí! Gã Dụ Thượng Du này từng là ngự sử trong triều Sùng Trinh, là nhất điện chi thần với cha ngươi. Y hiểu chuyện phải trái, đã đầu hàng ta trước. Ta đã phong cho y làm thượng thư, là quan lớn lắm rồi. Triều đình Đại Thuận chúng ta từ nay về sau cần phong tước gì, cần làm việc gì, y sẽ trình tấu đàng hoàng.”

Viên Thừa Chí đáp: “Vâng! Hoàng thượng hợp lẽ trời thuận lòng người, dĩ nhiên dân chúng khắp thiên hạ đều ủng hộ.”

Lý Tự Thành lớn tiếng nói: “Vừa rồi Cao tướng quân nói rất có lý. Chúng ta không sợ các huynh đệ chửi mẹ mình, chỉ sợ họ nản lòng, đánh trận không chịu liều mạng. Bây giờ còn một nửa giang sơn chưa dẹp yên, lại phải đối phó với quân Mãn Châu ngoài quan ải.”

Một người mặc quần áo màu xanh, thân hình vừa cao vừa ốm, bước lên một bước rồi nói: “Đại vương! Các huynh đệ đánh trận không chịu ra sức, chuyện đó chưa phải là quan trọng nhất. Đại vương đâu có muốn huynh đệ liều mạng để đại vương ngồi trên long ỷ? Chỉ vì các huynh đệ khổ sở quá, không sống nổi, nên mới tụ hợp nhau giết quan tạo phản, người nào cũng coi như mình không còn mạng nữa. Cũng không phải chúng ta giết quan tạo phản vì tham tiền bạc hay những cô nương trẻ tuổi. Chúng ta bị bọn tham quan tài chủ ép đến mức không sống nổi, nên mới liều mạng thế này. Các vị huynh đệ, có phải vậy không?”

Mười mấy tướng quân cùng lên tiếng: “Loạn Thế Vương nói hay lắm. Chúng ta không sống nổi, nên không thể không tạo phản.”

Lý Tự Thành cũng nói: “Quách huynh đệ rất biết nói chuyện. Theo huynh đệ thì chúng ta phải làm sao?”

Hán tử cao ốm đó tên là Quách Dưỡng Thành, biệt hiệu là Loạn Thế Vương, là một chủ soái Tả Giáp Ngũ Doanh. Y gia nhập quân đội Lý Tự Thành chưa lâu, không thể gọi là huynh đệ cũ, nhưng có mấy vạn thuộc hạ dũng cảm thiện chiến, nên Lý Tự Thành buộc phải tôn trọng.

Quách Dưỡng Thành nói: “Đại vương! Thuộc hạ chỉ biết nghe hiệu lệnh của đại vương, chỉ huy huynh đệ đánh bọn quan quân, còn đại sự thiên hạ thì không sao hiểu được.”

Lý Tự Thành nói: “Năm vị chủ soái của Tả Giáp Ngũ Doanh đều có trí có dũng, kiến thức bất phàm. Lão Hồi Hồi, Tả Kim Vương, Giáp Lý Nhãn, Tranh Thế Vương và Quách huynh đệ đã biết dẫn binh lại biết an dân. Ngưu Kim Tinh! Cái đó gọi là xuất tướng nhập tướng gì gì đó, đủ tài làm tể tướng cả, có phải vậy không?”

Ngưu Kim Tinh là một người ra dáng thư sinh, khom người đáp: “Đúng là năm vị chủ soái đều có tài xuất tướng nhập tướng. Ngũ Vương quy phục hoàng thượng, đó là phước của hoàng thượng mà cũng là phước của Ngũ Vương. Đây gọi là minh chúa công thần, dựa vào nhau, soi sáng lẫn nhau.”

Dụ Thượng Du lại nói: “Khải tấu hoàng thượng! Cách xưng hô Ngũ Vương là để hiệu triệu thảo mãng anh hùng trong lúc giết quan tạo phản. Từ nay về sau phải thay đổi chút ít. Nếu cần phong vương, xin hoàng thượng phong những vương hiệu có khí thế hơn. Huống chi, hai vị Lão hồi hồi Mã tướng quân, Giáp lý nhãn Hạ tướng quân không có vương hiệu. Hoành thiên vương Vương tướng quân, Cải thế vương Hứa tướng quân, danh hiệu của hai vị này cũng cần thay đổi.”

Ngưu Kim Tinh liền phụ họa: “Đúng vậy! Trước đây chúng ta muốn thay đổi thời thế, nên mới gọi là Cải Thế Vương, Tranh Thế Vương, Hoành Thiên Vương. Bây giờ thiên hạ đã là của hoàng thượng, thời thế của hoàng thượng dài tới vạn năm, nếu vẫn gọi là Cải Thế, Tranh Thế thì có phần không ổn. Hơn nữa, Kim Xà là một con rồng nhỏ, danh hiệu Kim Xà Vương cũng phải đổi đi.”

Lý Tự Thành chau mày nói: “Về sau phải thay đổi danh hiệu rất nhiều. Người có công phải được phong vương, phong hầu, phong đại tướng quân, phó tướng quân, không ai bị bỏ quên.”

Mọi tướng quân đều hoan hô tán thưởng. Chế tướng quân Cao Tất Chính dõng dạc nói: “Khải tấu hoàng thượng! Đêm qua những huynh đệ trong doanh thuộc hạ đã lớn tiếng kêu la: Ông cứ làm hoàng đế, nhưng mọi người phải liều mạng mới giành được ngôi hoàng đế cho ông. Tất cả tiền bạc, cô nương trong thiên hạ, chẳng lẽ một mình ông ôm hết được sao? Phải cho anh em chia chác chút ít chứ? Một người kêu la thì mấy trăm người hùa theo, không sao yên được, lòng quân không ổn.”

Quách Dưỡng Thành giận dữ nói: “Cái gì mà lòng quân không ổn? Đều là loại quân được ông dung túng cả! Lúc họ cướp gái đem về, không phải đã dâng cho ông những cô đẹp nhất hay sao?”

Cao Tất Chính nhảy xổ tới, quát lên: “Họ Quách kia! Ngươi theo đại vương mới được nửa năm, đã dám to tiếng với huynh đệ cũ chúng ta rồi sao? Hay là ngươi muốn trừ khử hết huynh đệ cũ của đại vương, ai giết được thì giết, ai đuổi được thì đuổi, để đại vương trơ trọi một mình, trở thành cô gia quả nhân thật sự? Hừ! Tả Giáp Ngũ Doanh các ngươi là bằng hữu cũ của Thập Tam Gia, chắc đang muốn đoạt lấy thiên hạ, ngồi trên long ỷ.”

Quách Dưỡng Thành giận dữ hét lên: “Đồ chó rắm thối!”

Cao Tất Chính vung tay, đánh trúng mắt bên phải Quách Dưỡng Thành một quyền rất nặng, máu tươi lập tức vọt ra. Hắn còn muốn đánh tiếp, nhưng phía sau có một lão già to lớn râu tóc bạc phơ nhảy đến cản trở. Lão đẩy mạnh vào vai Cao Tất Chính, hất hắn lùi ra mấy thước.

Mười mấy tướng quân đồng thanh la lớn: “Lão Hồi Hồi! Ngươi dám đánh huynh đệ cũ chúng ta, muốn tạo phản hay sao?”

Cả đám ùa vào vây đánh Lão Hồi Hồi và Quách Dưỡng Thành. Lý Tự Thành cứ đứng đó mà kêu: “Là huynh đệ cả, đừng xô xát!”

Nhưng hoàng thượng ra lệnh yếu xìu nên chẳng ai đếm xỉa. Lão Hồi Hồi và Quách Dưỡng Thành yếu thế, chỉ chốc lát đã ở thế hạ phong.

Viên Thừa Chí nghe mọi người tranh chấp, thấy rõ Quách Dưỡng Thành nói có lý hơn, biết lo đến đại cục. Ẩu đả một hồi, Quách Dưỡng Thành và Lão Hồi Hồi cô thế bị hai mươi mấy người vây chặt, đánh cho sưng đầu chảy máu. Lý Tự Thành thì cản trở không dứt khoát. Ba người Tả Kim Vương, Giáp Lý Nhãn, Tranh Thế Vương muốn tới khuyên ngăn, nhưng bị số đông huynh đệ cũ cản trở không thể đến gần.

Viên Thừa Chí bèn nhảy tới, đưa tay nắm lấy cổ áo bốn năm người hung dữ nhất, xách bỏ qua một bên, thuận tay điểm nhẹ vào huyệt đạo để họ không nhảy vào ẩu đả được nữa. Chàng xách ra mấy chuyến, Quách Dưỡng Thành và Lão Hồi Hồi không bị ai đánh nữa. Thần sắc hai người rất thảm hại, máu me đầy mặt, nhưng Lý Tự Thành chỉ nói: “Là huynh đệ cả, đừng xô xát!”

Viên Thừa Chí lớn tiếng hô hoán: “Hoàng thượng có chỉ, không được xô xát. Mọi người nên tuân chỉ.”

Mọi người từ từ đứng yên, nhưng vẫn la hét om sòm. Quyền tướng quân Lưu Tông Mẫn quát hỏi: “Lý Nham, Viên Thừa Chí! Hai ngươi ẩu đả huynh đệ cũ của đại vương, đánh người phe mình, định lôi kéo Tả Giáp Ngũ Doanh và thuộc hạ của Tào Tháo để âm mưu tạo phản phải không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Ta tuân chỉ của hoàng thượng, kiềm chế không để các ông động võ, có đánh ai đâu? Mà Tào Tháo, Quan Công, Lưu Bị, Gia Cát Lượng đã chết mấy ngàn năm rồi, còn thuộc hạ gì nữa, làm sao ta lôi kéo? Lưu tướng quân, hình như ông nói chuyện hơi hồ đồ đấy.”

Lưu Tông Mẫn giận dữ nói: “Hồ đồ cái gì? Chẳng lẽ Lão Hồi Hồi Mã Thủ Ưng không phải hảo bằng hữu của Tào Tháo La Nhữ Tài ư? Lão Hồi Hồi, tự ngươi nói đi! Ngươi đánh bằng hữu của đại vương, xem thường huynh đệ cũ chúng ta, có phải muốn trả thù cho La Nhữ Tài, xét lại vụ án đó hay không?”

Trên mặt Lão Hồi Hồi, máu tươi vẫn nhỏ từng giọt xuống áo. Lão chỉ vào mặt mình, nói: “Lưu tướng quân nhìn thử, ta đánh huynh đệ cũ của đại vương, hay huynh đệ cũ của đại vương đánh ta? Chúng ta cùng dưới trướng đại vương giết quan tạo phản, đồng tâm hiệp lực, sao ông lại phân chia huynh đệ cũ, huynh đệ mới gì gì đó, há chẳng làm mất nhân tâm? Vừa rồi nếu không nhờ Viên huynh đệ kéo những người đánh ta ra ngoài, ta đã bị các vị huynh đệ cũ đánh chết rồi.”

Lão quay đầu lại, nói với Lý Tự Thành: “Đại vương! Đại vương nói đi. Ta là bằng hữu của La Nhữ Tài thật, nhưng ta có làm gì mờ ám không? Có lần La Nhữ Tài đầu hàng Hùng Văn Sáng, con mẹ nó, mất hết thể diện, nên ta đã tuyệt giao với hắn. Gặp phải quân của hắn là ta chết sống đánh ngay, có nương tay chút nào đâu? Sau này hắn quay về với Trương Hiến Trung, ta mới tiếp tục đi lại với hắn. Mấy năm trước, hắn trở về quy phục đại vương, không phải nhờ ta lôi kéo hay sao? Đại vương từng phong hắn là Đại Thiên Phủ Dân Oai Đức Đại Tướng Quân, nghe rất hay. Hắn vì đại vương mà góp sức không ít, xây dựng đội ngũ lớn mạnh, công phá được không ít thành trì, nên Lưu tướng quân đem lòng ganh tỵ. Địa vị của La Nhữ Tài cao hơn Lưu tướng quân, nên Lưu tướng quân hết nói xấu hắn lại gieo tin đồn làm hại hắn. Đại vương tin lời thằng thư sinh khốn kiếp họ Trần ở Hàng Châu nên trúng kế phản gián. Họ Trần nói La Nhữ Tài đã đầu hàng triều đình, định giết đại vương. Chuyện đó hoàn toàn bịa đặt, thế mà đại vương hạ thủ giết La Nhữ Tài trước. Sau này đại vương cũng nói là hối hận. Những việc ấy đều do các người phân chia ra huynh đệ cũ, huynh đệ mới, mà gây thành tai họa.”

“Mọi người cùng xách đao liều mạng với bọn quan quân, thì ai cũng là hảo huynh đệ cả, sao lại phân chia cũ mới? Chẳng lẽ có người không thích nhìn huynh đệ mới chúng ta, thì huynh đệ cũ các ông muốn giết huynh đệ mới chúng ta cho sạch sành sanh? Chúng ta ủng hộ đại vương làm hoàng đế, đại vương nói gì thì chúng ta làm đó. Lưu tướng quân! Ông muốn giết tân huynh đệ chúng ta, e rằng không dễ lắm đâu!”

Lão Hồi Hồi vừa nói vừa đưa tay áo lên chùi máu. Cả lông mày lẫn râu của lão đều đỏ lòm, trông rất đáng sợ.

Lý Tự Thành xua tay rồi nói: “Mã huynh đệ! Những chuyện cũ không nên nhắc lại. La Nhữ Tài đã chết rồi, bộ hạ của hắn cũng đi theo Trương Hiến Trung hết rồi, còn gì mà nói nữa.” Gọi đến ba chữ La Nhữ Tài, hình như Lý Tự Thành vừa nản chí vừa hơi áy náy.

Lý Nham và mọi người ở đây đều biết Lý Tự Thành giết chết La Nhữ Tài, biệt hiệu Tào Tháo, là do trúng kế phản gián của Trần thư sinh ở Hàng Châu. Chẳng những Lý Tự Thành mất một viên đại tướng mà còn làm cho hai cánh quân tàn sát lẫn nhau, rốt cuộc quân của La Nhữ Tài đầu hàng Trương Hiến Trung hết, nguyên khí của Sấm quân bị tổn thương rất lớn, tướng sĩ nản lòng. Ai cũng thấy chiến công của La Nhữ Tài rất lớn, thuộc hạ đầy tinh binh mãnh tướng, chỉ vì đại vương nghi ngờ y có lòng thoán vị mà ra tay hãm hại.

Vụ oan án này ảnh hưởng nặng nề đến sự nghiệp của Lý Tự Thành. Năm xưa Lý Nham đã ra sức cản trở, nhưng Lý Tự Thành tin lời Lưu Tông Mẫn, tạo nên lỗi lầm nghiêm trọng. Sau này Lý Tự Thành cũng rất hối hận, nhưng không chịu nhận lỗi. Bây giờ Lão Hồi Hồi không nhịn nổi mà nhắc lại chuyện này, khiến mọi người Lý Nham cùng lo sợ. Tính tình Lý Tự Thành đã khắt bạc lại bảo thủ, sau này chắc Lão Hồi Hồi không khỏi bị chém đầu.

Lý Tự Thành nhìn qua từng viên tướng của mình, thầm nghĩ: “Dù sao thì đám huynh đệ cũ Lưu Tông Mẫn vẫn đáng tin cậy hơn, nhất định không phản lại ta. Còn Lão Hồi Hồi, Loạn Thế Vương, Tranh Thế Vương, Tả Kim Vương, Giáp Lý Nhãn, giữa họ thì nghĩa khí sâu nặng, còn đối với ta thì có nghĩa khí gì? Nếu gặp cơ hội tốt, chắc chắn họ sẽ giết ta, trả thù cho La Nhữ Tài.”

Y lại nhìn sang đứa cháu Lý Song Hỷ, huynh đệ cũ Lưu Tông Mẫn, biểu đệ Cao Tất Chính, nhớ đến chuyện bốn năm trước bị quan quân vây khốn ở Ngưu Cốc Sơn…

*

*   *

Lúc đó quan quân vây khắp bốn phương tám hướng, đã mấy lần đột kích mà không thoát khỏi vòng vây. Ta không làm gì được, định thắt cổ tự tử để khỏi lọt vào tay chúng. Song Hỷ hết sức ngăn cản, nói: “Cứ liều mạng đánh một trận, dù bị giết cũng bắt mấy đứa chết theo.”

Rất nhiều thuộc hạ của ta đã ra ngoài đầu hàng. Ta vào một tòa miếu, chỉ có Tông Mẫn đi theo. Ta lạy tượng Quan Đế trong miếu ba lạy, bảo Tông Mẫn: “Chúng ta lọt vào tuyệt địa rồi, không còn đường nào đi nữa.”

Ta rút bảo đao bên mình ra đưa Tông Mẫn, nói: “Bây giờ phải xin Quan lão gia chỉ điểm. Ta sẽ xin keo âm dương. Nếu keo dương đại cát đại lợi, thì chúng ta lại liều mạng nữa. Nếu keo âm, tức là Bồ Tát bảo chúng ta không nên hại thêm nhân mạng. Nếu ba lần đều keo âm, thì ngươi hãy dùng thanh đao này chặt đầu ta, xách ra ngoài mà đầu hàng, bảo các huynh đệ không cần đánh tiếp nữa, lo mà giữ tính mạng của mình và gia quyến, khí vận triều Minh còn tốt, chúng ta không chống nổi. Ý trời thế nào, chúng ta làm vậy.”

Tông Mẫn nhận đao, nhưng ném xuống đất mà nói: “Đại ca! Tiểu đệ không thể cắt đầu đại ca được. Nếu Bồ Tát bảo chúng ta đừng khởi nghĩa nữa, thì tiểu đệ sẽ mặc quần áo của đại ca, mạo nhận là đại ca. Đại ca chém tiểu đệ, xách thủ cấp ra ngoài mà giả bộ đầu hàng. Non xanh còn đó, lo gì thiếu củi đun.”

Ta lắc đầu đáp: “Không được, chúng nhận ra ngay. Ngươi cứ việc chặt đầu ta.”

Ta quỳ xuống, dập đầu lạy Quan Đế Quân rồi khấn: “Quan lão gia! Tiểu nhân Lý Tự Thành bị quan phủ chèn ép, tài chủ đánh đập, không chịu nổi phải vùng lên tạo phản, chỉ mong giúp được mọi người khổ sở trong khắp thiên hạ có miếng cơm ăn để sống. Bọn thầy bói, thầy tướng đều nói tiểu nhân có phước phận thiên tử, chân mạng hoàng đế, không biết là thật hay giả. Hôm nay tiểu nhân rơi vào đường cùng, sinh mạng chỉ còn trong khoảnh khắc. Cầu xin Quan Thánh lão gia chỉ điểm một con đường sáng: Kiếp này tiểu nhân có mạng làm thiên tử hay không? Nếu không, tiểu nhân sẽ chết một mình, không để liên lụy đến hàng ngàn hàng vạn huynh đệ.”

Ta cầm lấy hai mảnh keo âm dương đặt trên bàn thờ, đứng thẳng dậy, hai tay chắp trên đỉnh đầu, cầu khấn: “Xin Quan lão gia chỉ điểm!”, rồi cung kính tung keo âm dương lên phía trên.

Hai tiếng “cách cách”, keo âm dương đã rơi xuống đất. Ta nhắm mắt, không dám nhìn. Nếu là keo xấu, thì cứ để Tông Mẫn vung đao chặt đứt thủ cấp là xong việc, khỏi phải lo lắng khổ sở lâu.

Bỗng nghe Tông Mẫn la lên: “Keo dương, keo dương! Đại ca, đại cát đại lợi!”

Ta mở mắt ra, thấy đôi keo trước mắt đều hướng lưng lên trên, đúng là một quẻ dương đại cát đại lợi. Ta chưa tin, lại khấn Quan Thánh lão gia, xin keo lần nữa: vẫn là keo dương. Ta khấn một lần cuối cùng, tung đôi keo lên rất cao, giương mắt mà nhìn. Khi rơi xuống đất rõ ràng một âm một dương, nhưng đột nhiên keo âm nảy ngược lại, biến thành keo dương.

Thế là ba lần xin keo, ba lần đại cát. Hai người không hoài nghi gì nữa, tinh thần phấn chấn hẳn lên, ra ngoài nói với các huynh đệ: “Lý đại ca đúng là chân mạng thiên tử. Mọi người cố gắng đi, sau này sẽ có những ngày sung sướng. Đại vương ngồi trên ngai vàng thì chúng ta chẳng kém ai đâu.”

Thế là rất nhiều huynh đệ vứt hết hành lý, giết bỏ vợ con để khỏi vướng víu tay chân, chỉ giữ một con ngựa để chạy cho nhanh. Từ Quân Huyện chạy đến Hà Nam thì quan quân không bao vây được nữa. May mà lúc đó tỉnh Hà Nam bị hạn hán, thế là thêm mấy chục vạn dân đói theo ta. Từ Nam Dương đánh Nghi Dương, giết tri huyện Đường Khải Thái; đánh Quế Ninh, giết tri huyện Võ Đại Điệp. Từ đó quan quân không cản ta được nữa. Chúng ta đánh trận nào thắng trận đó, cứ thế mà đánh mãi tới tận Bắc Kinh.

*

*   *

Lý Tự Thành ngồi trên long ỷ, nhớ lại ngày trước xin quẻ âm dương trong miếu Quan Thánh Đế Quân, không khỏi rùng mình toát mồ hôi lạnh. Y lại nghĩ: “Nếu hôm đó bên cạnh ta không phải là huynh đệ cũ Lưu Tông Mẫn, mà là bọn Lão Hồi Hồi, Tả Kim Vương, Giáp Lý Nhãn này, thì bất luận ta gieo được quẻ dương đại cát đại lợi hay quẻ âm đại hung đại xú, nhất định chúng sẽ chém lấy thủ cấp ta để ra đầu hàng, vừa đảm bảo tính mạng vừa có công danh phú quý. Dĩ nhiên chúng sẽ làm thế!”

Lưu Tông Mẫn bỗng lên tiếng: “Khải tấu hoàng thượng! Năm trước bị bao vây trong Ngưu Cốc Sơn, hoàng thượng ba lần gieo quẻ, ba lần đại cát. Quan Thánh lão gia dạy rõ hoàng thượng là chân mạng thiên tử, nhất định có ngày ngồi ở ngai vàng. Ngày đó các huynh đệ cũ đã đốt hết hành lý tư trang, giết hết vợ lớn vợ nhỏ, quyết theo đại vương để giết quan binh, chiếm thiên hạ. Hoàng thượng ơi, trong lòng dạ người ta chỉ có thịt, không có xương. Dù họ không chửi cha mắng mẹ Lưu Tông Mẫn này đi nữa, nói có ông trời chứng giám, nếu hôm nay họ muốn lấy lại chút ít tiền bạc tư trang năm xưa đã đốt, kiếm lại vợ lớn vợ bé năm xưa đã giết, Lưu Tông Mẫn này chẳng có lòng dạ nào giết họ.”

Nói đến đây, Lưu Tông Mẫn không nhịn nổi, bật ra tiếng khóc.

Lý Tự Thành cũng đưa tay áo lên gạt nước mắt, thầm nghĩ: “Giang sơn này ta dựa vào các huynh đệ cũ mà có được. Nếu để huynh đệ cũ nản lòng, họ sẽ không chịu ra sức vì ta nữa. Tuy triều đình nhà Minh đã đổ, nhưng còn đại quân Mãn Thanh. Binh lực của Trương Hiến Trung cũng chẳng kém gì mình. Tả Giáp Ngũ Doanh bọn Lão Hồi Hồi xem ra khó mà dựa dẫm được. Ngưu Kim Tinh trước đây từng nói: Trong câu đồng dao Thập bát tử chủ thần khí, ba chữ thập bát tử tức là chữ Lý, nhưng không phải Lý Tự Thành mà là Lý Nham. Bên dưới còn một câu: Sơn hạ thạch tọa long ỷ. Nếu ghép lại là Thập bát tử chủ thần khí, sơn hạ thạch tọa long ỷ, con mẹ nó, đúng là có vần có điệu. Sơn hạ thạch, ghép lại chẳng phải chữ Nham hay sao? Lý Nham còn tên nghĩa đệ Kim xà vương Viên Thừa Chí, binh tướng dưới tay kiêu dũng thiện chiến, không thể coi thường được”.

Y không nén nổi, bất giác liếc nhìn Lý Nham, thấy Lý Nham đang rất bình tĩnh, giơ tay lên năn nỉ mọi người: “Các vị huynh đệ! Mọi người im lặng đi, để nghe hoàng thượng dặn dò. Hoàng thượng nói thế nào, chúng ta cứ việc làm theo. Nói tóm lại thì chúng ta đều là hảo huynh đệ, phải đồng tâm nhất trí đối phó với người ngoài, tuyệt đối đừng để gà nhà bôi mặt đá nhau.”

Lý Tự Thành lập tức nổi giận, thầm nghĩ: “Tuyệt đối đừng để gà nhà bôi mặt đá nhau! Ngươi dám chửi ta giết nhầm La Nhữ Tài ư? Hắn vô lễ với ta, thầm tính kế giết ta, ngươi đâu phải không biết? Giả tỉ lão gia không ra tay trước, mà La Nhữ Tài ra tay trước, thì chắc Lý Nham ngươi lại trả thù cho ta. Không sai! Ngươi đầy quỷ kế, sẽ mượn cớ trả thù cho ta mà thống lĩnh các huynh đệ đi giết La Nhữ Tài, thế là sơn hạ thạch tọa long ỷ. Hừ…”

Nghĩ tới đó, y la lớn: “Viên Thừa Chí, ra ngoài đi! Ngươi là người mới, không được đánh các huynh đệ cũ. Đã nghe chưa?”

Viên Thừa Chí muốn cãi: “Thuộc hạ không đánh huynh đệ cũ.” Nhưng chàng thấy Lý Nham liếc mình một cái, hất cằm hướng ra ngoài, lập tức hiểu ý bèn lớn tiếng vâng dạ: “Tuân chỉ hoàng thượng, thuộc hạ xin cáo lui.”

Chàng quay người ra khỏi điện. Lý Nham cũng khom lưng nói: “Thuộc hạ cũng xin cáo lui.”

Lão Hồi Hồi, Giáp Lý Nhãn, Tả Kim Vương, Loạn Thế Vương, Tranh Thế Vương đều nghĩ: “Nếu tiếp tục tranh chấp nữa, chỉ tổ bị đám huynh đệ cũ làm thịt mà thôi”. Họ đang muốn cáo biệt ra ngoài, bỗng thấy một đại tướng thân hình tầm thước bước lên hai bước, khom người nói: “Xin hoàng thượng hạ chỉ, bây giờ huynh đệ chúng ta phải làm sao mới phải?”

Lý Tự Thành hỏi lại: “Cốc huynh đệ! Theo ngươi thì phải làm sao?”

Tướng quân này tên là Cốc Đại Thành, cung kính đáp: “Thuộc hạ chỉ biết nghe lời huấn thị của hoàng thượng, liều mạng đánh nhau. Hoàng thượng cứ chỉ bảo, thuộc hạ cứ thế mà làm.”

Tranh thế vương Lưu Huy Hiểu nghĩ ngay: “Cốc Đại Thành thật là linh lợi, mình cũng phải nói mấy câu.” Y lên tiếng: “Cốc đại ca nói rất đúng. Mọi người không nên tranh chấp nữa, cứ nghe thánh chỉ của hoàng thượng mà làm.”

Phía sau có người khẽ nói: “Không trả Trần Viên Viên cho Ngô Tam Quế, thì những cô nương chúng ta bắt về cũng không trả được.”

Lưu Tông Mẫn lớn tiếng: “Có gì thì bước ra mà nói. Đồ nhút nhát! Đã chui ra sau làm con rùa rút đầu, còn muốn đánh rắm thối.”

Đương nhiên người kia không dám mở miệng nữa. Nhất thời tòa đại điện im phăng phắc.

Lý Tự Thành nghĩ: “Ta muốn dựa vào huynh đệ cũ, thì không thể ràng buộc họ quá chặt chẽ. Nếu Trương Hiến Trung nói một câu: Mọi người hãy theo ta, ai cướp được kim ngân mỹ nữ thì cho người đó; Lý mỗ nhất định không làm gì được nữa. Không tới nửa ngày là mấy chục vạn thuộc hạ bỏ theo Trương Hiến Trung hết, một mình ta đơn thương độc mã thì làm hoàng đế con khỉ gì. Vẫn biết dung túng cho thuộc hạ cướp bóc gian dâm là không phải, nhưng đã cỡi trên lưng cọp rồi thì phải làm như vậy. Trần Viên Viên như hoa như ngọc đang ở hậu cung, ta nỡ lòng nào đem trả cho Ngô Tam Quế? Mà nếu trả, thì giữa đường cũng bị bọn Lưu Tông Mẫn, Cốc Đại Thành, Lão Hồi Hồi… cướp lấy.”

Y bất giác thở dài, lên tiếng: “Mọi người giải tán đi thôi. Cực khổ bấy lâu rồi, cũng nên có vài ngày thoải mái. Khuyên được các huynh đệ nhẹ tay là tốt nhất, nhưng nếu họ cứ phóng túng không nghe, thì đành chịu vậy. Mọi người đều là huynh đệ tốt từng liều mạng vì nhau, ai cũng là anh em ruột thịt, làm sao ta giết họ được!” Nói xong, y lắc đầu quầy quậy.

Lão Hồi Hồi dõng dạc nói: “Đại Vương nói sao thì mọi người làm vậy, chuyện các huynh đệ cướp bóc tài vật nữ nhân coi như xong. Nhân lúc các vị tướng quân và đại thần đều ở đây, chúng ta nên xét lại vụ oan án của La Nhữ Tài đại ca một chút.”

Lý Tự Thành biến hẳn sắc mặt, trầm giọng hỏi: “Xét lại thế nào? Giết ta đền mạng cho hắn hay sao?”

Tả kim vương Hạ Cẩm nói: “Dĩ nhiên không phải như vậy. Hoàng thượng giết La đại ca, chỉ vì nghe tên thư sinh ma quỷ Trần Hoàng Trung nói bậy. Hắn nói: La đại ca đem hết ngựa chiến ra đóng dấu vào mông một chữ Tả, ý nói đầu hàng Tả Lương Ngọc. Thật ra La đại ca có đem năm ngàn con ngựa trong quân ra đóng dấu, nhưng vì kỵ binh chia thành năm đội là Tiền, Hậu, Tả, Trung, Hữu; nên đóng dấu vào ngựa năm chữ Tiền, Hậu, Tả, Trung, Hữu để khỏi lộn xộn. Trần Hoàng Trung sai người dẫn mấy con ngựa trong đội tả quân đến cho đại vương xem, dĩ nhiên có dấu chữ Tả. Đại vương tin lời hắn nên phái người ám toán, thế là La đại ca chết mà không biết tại sao mình chết. Nếu đại vương không tin, bọn thuộc hạ có thể dẫn bốn ngàn con ngựa đến đây, một ngàn con đóng dấu chữ Tiền, một ngàn con đóng dấu chữ Hậu, một ngàn con đóng dấu chữ Hữu, một ngàn con đóng dấu chữ Trung. La đại ca một dạ trung thành, mất mạng hết sức oan uổng.”

Nói xong, Hạ Cẩm quay đầu ra gọi: “Dẫn vào đây!”

Nghe tiếng vó ngựa lóc cóc, năm tên lính dẫn năm con ngựa vào điện. Trên mông mỗi con đều có đốt thành chữ, nhưng năm con là năm chữ phân biệt, tiền hậu, trung, tả, hữu. Năm chữ to nhỏ bằng nhau, nét bút rất giống nhau, rõ ràng được đóng dấu cùng một thời kỳ. Bọn lính còn cầm theo năm miếng sắt. Những tướng quân trong điện đều chinh chiến lâu năm, nhìn biết ngay đó là những con dấu để đóng vào mông ngựa. Những chữ trên năm con dấu đó, chính là năm chữ tiền, hậu, tả, trung, hữu.

Mặt Lý Tự Thành tím hẳn, nói khàn khàn: “Mau bắt thằng súc sinh Trần Hoàng Trung đến đây, chém ngàn đao vạn đao thành một đống tương.”

Một tướng quân khí khái đằng đằng bước ra, dõng dạc nói: “Khải tấu đại vương! Sau khi Tả Kim Vương điều tra được vụ oan uổng của La đại ca, trong quân đội có rất nhiều người bất bình. Hôm qua tiểu tướng không sao gặp được hoàng thượng để tấu trình, sợ huynh đệ gây sự nên đã tự tay giết tên súc sinh Trần Hoàng Trung đó, đem xác để ngoài Ngọ Môn. Huynh đệ mỗi người một đao, băm hắn nát thành tương rồi. Tiểu tướng tự tiện làm việc này, xin hoàng thượng định tội.”

Người này là Điền Kiến Tú, cũng là Quyền tướng quân, thế lực ngang với Lưu Tông Mẫn.

Lý Tự Thành gật đầu nói: “Giết hay lắm, giết hay lắm! Ngươi có công vô tội. Ngưu Kim Tinh! Ngươi đi lấy một vạn lạng bạc, cùng Tả Kim Vương đưa tặng gia thuộc của La Nhữ Tài.”

Giáp lý nhãn Hạ Nhất Long kêu lên: “Đa tạ đại vương! Nhưng La Nhữ Tài còn gia thuộc gì nữa đâu? Lúc ông ấy bị đại vương xử tử, Lưu tướng quân đã giết sạch vợ con ông ấy rồi.”

Lý Tự Thành hừ một tiếng, quay lưng bỏ vào hậu điện.

Trong điện, đám tướng quân ồn ào giải tán. Có người huýt gió thành tiếng, co giò chạy lẹ, nhất định đang hoan hỉ nghĩ tới cảnh dẫn thuộc hạ đi cướp bóc gian dâm.

*

*   *

Sáng hôm sau Viên Thừa Chí đang ngồi trong nhà bàn bạc với quần hùng về những chuyện mình thấy trong điện hôm qua, Hồng Thắng Hải từ ngoài chạy vội vào bẩm báo: “Chế tướng quân đến thăm Viên tướng công!”

Viên Thừa Chí gấp rút ra ngoài đón tiếp. Thấy Lý Nham thần sắc nghiêm trọng, chàng biết có chuyện lớn, liền dẫn vào thư phòng.

Lý Nham nói: “Viên huynh đệ, có chuyện không hay rồi. Đại vương đã sai Lưu tướng quân giết Loạn Thế Vương và Giáp Lý Nhãn. Lão Hồi Hồi thấy tình hình không ổn, đã dẫn bản đội cùng với nhân mã hai doanh Loạn Giáp rời khỏi Thuận Thiên, đi về phía tây nam.”

Viên Thừa Chí kinh hãi hỏi: “Tại sao đại vương lại giết huynh đệ của mình? Loạn Thế Vương và Giáp Lý Nhãn muốn lật đổ đại vương ư?”

Lý Nham lắc đầu nói: “Hai người Loạn Thế Vương và Giáp Lý Nhãn một dạ trung thành, làm gì có chuyện phản bội đại vương? Nhất định hôm qua họ nhắc đến vụ La Nhữ Tài đại ca bị hại oan uổng, đụng chạm đến đại vương. Bên trong lại có bọn Ngưu Kim Tinh, Lưu Tông Mẫn tìm lời ly gián, đại vương nhịn không nổi nên giết hai người.”

Hai người cứ ngồi trong thư phòng mà than thở. Viên Thừa Chí giữ Lý Nham lại dùng cơm trưa, rồi tiếp tục bàn luận về thời cuộc.

Đến khoảng giờ Thân giờ Dậu, trời sắp ngả về chiều, Lý Nham định cáo từ thì đột nhiên Tống Hiến Sách đến thăm. Y nói vừa tới phủ Lý Nham, nghe nói đang ở chỗ Quả Nghị tướng quân nên tìm đến đây.

Tống Hiến Sách nói: “Sáng nay đại vương cho quân rượt theo Lão Hồi Hồi không kịp, nổi giận nên triệu tập chư tướng đến họp.”

Lý Nham nói: “Tả Giáp Ngũ Doanh đã thề cùng sinh tử. Quách, Giáp chết rồi, phải để ý bảo vệ hai người Lưu, Hạ; lại phải đề phòng họ làm loạn.”

Tống Hiến Sách nói: “Đó là việc chính mà mọi người thương lượng. Nhưng thằng Ngưu Kim Tinh đó không ngớt nói xấu Lý huynh, nói xấu cả ta.”

Lý Nham giận dữ hỏi: “Hai người chúng ta hành sự đàng hoàng, chúng nói xấu được chuyện gì ?”

Tống Hiến Sách nói: “Hồi đại vương ở Hà Nam, lòng người chưa quy thuận, ta có bịa ra một câu sấm ngữ là thập bát tử chủ thần khí, cho người truyền bá khắp nơi. Ba chữ thập, bát, tử ghép lại thành một chữ Lý, ý nói đại vương sẽ được thiên hạ. Dân chúng nghe thấy, cho rằng đại vương có mạng trời bèn kéo nhau đến quy phục, thanh thế chúng ta lập tức mạnh lên. Chế tướng quân còn nhớ không?”

Lý Nham nói: “Sao lại không nhớ! Ta làm đồng dao, huynh làm sấm ngữ, khiến cho lòng người của triều Minh lay động, có công đó chứ?”

Tống Hiến Sách lắc đầu nói: “Ngưu Kim Tinh tấu bậy lên đại vương, nói rằng câu thập bát tử chủ thần khí không phải chỉ đại vương, mà chỉ Lý huynh. Hắn còn nối thêm một câu sơn hạ thạch tọa long ỷ gì gì đó, thật là bừa bãi.”

Trong lòng Lý Nham rúng động. Y biết, xưa nay chuyện mà hoàng đế kiêng kỵ nhất, không gì khác là có người dòm ngó ngôi vị của mình. Nhiều vị vua khai quốc xưa nay, tuy là đấng minh quân như Hán Cao Tổ, Minh Thái Tổ mà cũng thẳng tay chém giết công thần, chính vì sợ những đại tướng dưới tay mưu đồ soán vị. Nếu Lý Tự Thành tin vào câu nói này thì hỏng bét.

Lý Nham run giọng nói: “Chuyện này… chuyện này…”

Tống Hiến Sách nói: “Đại vương anh minh, chưa chắc đã tin ngay, Chế tướng quân không cần quá lo lắng. Nhưng trong buổi họp hôm nay, Lưu tướng quân, Lý tướng quân, Cao tướng quân đều nói Chế tướng quân tự cho mình thanh cao, xem thường bọn họ. Họ nói: Thuộc hạ chúng ta chỉ mượn tạm nhà dân để ở, chỉ vay dân chúng mấy lượng bạc, chỉ tán phét mấy câu với các cô nương, thế mà bộ hạ của Chế tướng quân lại quát tháo can thiệp. Ngưu Kim Tinh lại nói: Chế tướng quân làm như vậy, không phải vì tự cho mình thanh cao, mà để thu phục lòng người, trong lòng ắt có đại chí. Lý Song Hỷ tướng quân là cháu ruột của đại vương, Cao Tất Chính là biểu đệ của đại vương, còn chúng ta chỉ là người dưng nước lã, không phải bà con thân thích, khó mà mở miệng cãi lại.”

Lý Nham giận quá không nói được, sắc mặt nửa trắng nửa xanh. Y đằng hắng một tiếng, ngồi phịch xuống ghế.

Tống Hiến Sách nói: “Ta có phân trần mấy câu cho Chế tướng quân. Họ liền thóa mạ: Thằng lùn họ Tống ba phần giống người bảy phần giống quỷ, chỉ giỏi nói bừa. Ta tức giận không cãi được, liền cáo từ bỏ về.”

Lý Nham chắp tay nói: “May được Tống quân sư yêu mến, tại hạ cảm kích vô cùng.”

Tống Hiến Sách thở dài nói: “Chỉ có Điền Kiến Tú tướng quân, Lưu Phương Lượng tướng quân, Cốc Đại Thành tướng quân là nói chuyện công bằng. Tuy chúng ta đã chiếm Bắc Kinh, nhưng Giang Nam chưa định. Ngô Tam Quế nói đầu hàng, nhưng lòng dạ không biết thế nào. Bọn Thát tử Mãn Châu thì giương mắt thèm thuồng dòm ngó, cũng là một mối lo âu. Đại vương chưa hoàn thành đại nghiệp, thế mà đã bắt đầu thanh trừng nội bộ. Quân lính ngược đãi bá tính, khiến cho lòng người không còn quy thuận.”

Ba người nhìn nhau than thở. Tống Hiến Sách đứng dậy cáo từ, Lý Nham và Viên Thừa Chí tiễn chân ra cổng.

Viên Thừa Chí nghe Tống Hiến Sách nói chuyện xong, thấy y cao chưa đến ba thước, tướng mạo xấu xí trông giống như con khỉ, nhưng rất có kiến thức. Chàng khen: “Đại ca! Tống quân sư đúng là một nhân tài.”

Lý Nham nói: “Tống quân sư túc trí đa mưu, chỉ vì đại vương thích nghe Ngưu Kim Tinh nói chuyện nên không trọng dụng. Thật ra phần lớn phương sách tấn công thành trì của đại vương đều do Tống quân sư đưa ra.”

Rồi Lý Nham cũng cáo từ. Viên Thừa Chí nói: “Để tiểu đệ tiễn đại ca mấy bước.”

Chàng sợ bọn thủ hạ của Lý Tự Thành đến ám hại Lý Nham, nên nói là tiễn chân mà ai cũng hiểu là bảo vệ. Hai người nắm tay nhau đi mấy trăm bước, không nói tiếng nào.

Lý Nham bỗng lên tiếng: “Tuy đại vương đã có ý nghi ngờ ta, nhưng là thần thì phải tận trung, là bạn thì phải tận nghĩa. Ta cùng đại vương đã chung hoạn nạn từ lâu, từ khi bắt đầu đến khi thành sự, không thể nhìn đại nghiệp của đại vương bại hoại mà ngậm miệng không nói lời nào. Nhưng huynh đệ thì không cần nuốt giận trong triều.”

Viên Thừa Chí đáp: “Đúng vậy, tiểu đệ không làm quan được đâu. Ngày trước đại ca từng nói, sau khi công thành sẽ cáo lui, hai người chúng ta sẽ cùng ẩn cư vào nơi rừng núi, uống rượu nói chuyện làm vui. Sao bây giờ đại ca không từ quan đi, khỏi trở thành cái gai trong mắt người khác?”

Lý Nham nói: “Trước mắt đại vương còn rất nhiều việc lớn phải lo. Phải thống nhất thiên hạ rồi ta mới quy ẩn được. Năm xưa đại vương đối đãi với ta rất hậu. Bây giờ ông ấy đã đánh được Bắc Kinh, nhưng quân kỷ bại hoại, tướng quân bộ thuộc chia năm xẻ bảy tự giết lẫn nhau, tiền đồ trước mắt nguy hiểm trùng trùng, gian khó muôn phần. Đây chính là lúc ta phải tận tâm tận lực, dùng cái chết để báo đáp. Đại vương dùng lễ quốc sĩ đối đãi với ta, dĩ nhiên ta phải dùng nghĩa quốc sĩ để báo đáp. Những lời đồn đại của bọn tiểu nhân, ta không để vào lòng.”

Hai người dắt tay nhau đi thêm một đoạn, nhìn thấy ở góc tây bắc kinh thành có ngọn lửa bốc lên tận trời, nhất định Sấm quân đang đốt nhà dân. Lý Nham và Viên Thừa Chí mấy ngày nay đã thấy cảnh này rất nhiều, nên chỉ nhìn nhau lắc đầu than thở.

Chiều đã xế, sương xuống mông lung. Đột nhiên nghe trong ngõ hẻm phía trước có tiếng hồ cầm kéo ò e í e, rồi một thanh âm già cỗi hát khàn khàn: “Ai không quan chức, người đó nhẹ người. Trung thành với vua, như chơi với hổ. Trở về quê nhà, vui sống hết đời. Chim bắn hết rồi, cung bẻ quăng thôi…”

Lúc này đã thấy, từ ngõ hẻm đó một lão già mù mắt chậm chạp bước ra, vừa kéo hồ cầm vừa hát. Lão mù hát tiếp: “Tử Tư công cao, Ngô Vương kiêng kỵ. Văn Chủng diệt Ngô, đầu mình rời nhau. Hoài Âm đại tài, còn được cái tên. Đại công lập quốc, Từ tướng quân có ai sánh kịp. Thần cơ diệu toán, Lưu Bá Ôn đoán cũng không ra. Thiên tử Đại Minh vừa lên ngai vàng, Công thần văn võ chen xuống âm phủ. Quay về nhanh thôi, bỏ chỗ chết mà tìm chỗ sống.”

Nghe đến đây Lý Nham cảm xúc vô cùng, nghĩ bụng: “Nhiều công thần khai quốc triều Minh như Lý Thiện Trường, Lưu Cơ, Phó Hữu Đức, Châu Lượng Tổ, Phùng Thắng, Lý Văn Trung, La Ngọc đều bị Thái Tổ xử tử. Chắc lão mù cũng biết đã thay đổi triều đại rồi, nên mới dám hát bài này.”

Lão mù này quần áo rách bươm, đúng là một người hát rong để xin ăn. Nhưng lúc này ai cũng cố giữ mạng mình, chẳng ai rảnh rang để bỏ tiền ra nghe lão hát.

Lại nghe lão hát tiếp: “Quân vương hạ chỉ bắt công thần. Đao kiếm trùng trùng, lính vây nhiều lớp. Vợ con kinh hãi, ta không làm gì được. Dắt nhau nhảy xuống giếng, hối hận không kịp. Sao trước không giả chết để mai danh. Làn khói anh hùng hôm nay, vạn lý trường thành ngày trước…”

Lão vừa hát vừa chậm rãi đi ngang Lý Nham và Viên Thừa Chí, rồi rẽ vào trong một ngõ hẻm khác. Tiếng ca mỗi lúc một xa, để lại cảm giác bàng hoàng thê lương khó tả. “Làn khói anh hùng hôm nay, vạn lý trường thành ngày trước…” Tiếng hát văng vẳng trên không trung, dư âm xoáy mãi bên tai, không biết bao giờ dứt được.

*

*   *

Viên Thừa Chí uất ức trong lòng, quay về nhà thì thấy ở đại sảnh có một người ngồi đợi. Người đó vừa thấy Viên Thừa Chí là nhanh chân chạy ra trước cửa, la lên: “Tiểu sư thúc! Sư thúc về rồi!”

Y mặc quần áo đơn giản, sau lưng cắm ngọn trường đao, chính là Thôi Hy Mẫn, cháu của Thôi Thu Sơn. Viên Thừa Chí mừng rỡ hỏi: “Huynh đến có việc gì không?”

Thôi Hy Mẫn lấy trong người ra một lá thư, hai tay trình lên Viên Thừa Chí. Chàng thấy trên bì thư có bút tích của sư phụ, viết mấy chữ: “Từ dụ chư đệ tử”, bèn chắp tay thi lễ rồi cung kính đón lấy, rút thư ra đọc.

Trong thư viết: “Phái Hoa Sơn chúng ta trước nay vẫn có môn quy, không được nhận chức làm quan trong triều. Nay đại nghiệp Sấm Vương đã thành tựu, đệ tử bản phái phải lui về ẩn tích. Đêm trăng tròn tháng tư năm nay, họp mặt trên đỉnh Hoa Sơn.” Bên dưới ký một chữ “Thanh”.

Viên Thừa Chí nói: “Sắp đến ngày họp mặt rồi, chúng ta khởi hành thôi.”

Thôi Hy Mẫn nói: “Đúng vậy, sư thúc phải đi ngay.”

Viên Thừa Chí vào trong thông báo với mọi người, nhưng không thấy Thanh Thanh đâu. Chàng hỏi Tiêu Uyển Nhi: “Hạ cô nương đâu?”

Uyển Nhi đáp: “Đã lâu lâu không thấy cô ấy. Để muội qua xem thử.”

Viên Thừa Chí nói: “Thôi, để ta đi gọi.”

Đến ngoài phòng Thanh Thanh, chàng đưa ngón tay khẽ gõ cửa mấy cái, lên tiếng: “Thanh đệ! Ca ca đây.”

Trong phòng chẳng động tĩnh gì. Chàng đợi một lát, lại nhẹ nhàng gõ cửa, vẫn không có hồi âm.

Viên Thừa Chí đẩy cửa, thì ra cửa phòng không cài chốt. Đưa mắt nhìn vào thấy bên trong trống rỗng chẳng còn gì, vào phòng lại càng không khỏi ngẩn ngơ. Toàn bộ quần áo của nàng, trường kiếm, các vật dụng khác đều không thấy đâu nữa. Ngay cả hũ tro của mẫu thân, nàng cũng mang đi, hình như đây là một chuyến đi xa.

Viên Thừa Chí lo lắng tìm kiếm khắp nơi, thấy dưới gối nàng có một mảnh giấy, viết: “Đã có kim chi ngọc diệp, dĩ nhiên ruồng bỏ bá tính tầm thường.”

Viên Thừa Chí nhìn vào mảnh giấy mà ngơ ngẩn xuất thần, bối rối không biết làm sao. Chàng nghĩ bụng: “Ta đối với nàng thì thành ý chân tình, còn nàng cứ xét nét nhỏ mọn, nghi ngờ ta từng chút. Nam tử hán đại trượng phu hành sự quang minh lỗi lạc, chỉ cần không thẹn với lòng. Ngày nào chúng ta cũng vào sinh ra tử trong rừng đao kiếm, sao mà tránh nổi những chuyện tị hiềm? Thanh đệ, Thanh đệ! Thanh đệ không hiểu lòng ca ca ư?”

Trong lòng chàng không nén nổi chua xót, lại nghĩ: “Lần trước nàng tức giận bỏ đi, suýt nữa gặp nguy về tay bọn lính Tây dương. Bây giờ binh hoang mã loạn, lại càng không biết đi hướng nào.” Chàng nhớ lại cái đêm hôm nào cùng nằm một giường, cùng đắp một chăn với A Cửu, không phải là không động lòng, bây giờ nhớ lại, không khỏi tự hổ thẹn: “Mình thật sự thay đổi rồi sao? Thanh đệ trách mình, không phải là không có nguyên nhân.”

Chàng ngẩn ngơ ngồi trên giường, như vừa mất mát một cái gì đó. Tiêu Uyển Nhi bước vào phòng, thấy chàng như không còn hồn vía, kinh hãi la lên. Mọi người biết tin, kéo hết vào phòng. Mỗi người một câu, có người khuyên bảo, có người an ủi, có người đưa ra ý kiến.

Tiêu Uyển Nhi tuy nhỏ tuổi, nhưng gặp việc lại rất bình tĩnh. Nàng lên tiếng: “Viên tướng công! Tướng công lo lắng chỉ vô ích. Hạ cô nương võ nghệ đầy mình, ai dám bắt nạt cô ấy? Thế này, ngày hội phái đã gần, tướng công cứ đi với thúc thúc câm, Hà tỉ tỉ lên núi Hoa Sơn. Trình bá bá và tiểu muội thì ở lại đây trông nom A Cửu muội muội. Sa thúc thúc, Thiết lão sư, Hồ thúc thúc và bang chúng Kim Long Bang thì ra ngoài tìm Hạ cô nương, lại truyền lệnh bài minh chủ, hạ lệnh cho hào kiệt bảy tỉnh cùng tìm giúp. Sau khi tìm được cô ấy, lập tức mọi người lên núi Hoa Sơn gặp mặt. Ca ca cứ việc yên tâm, chuyện an nguy của A Cửu muội muội cứ giao cho tiểu muội lo. Tướng công đối đãi với muội tốt như thế, muội sẽ hết sức mình chiếu cố đến A Cửu muội muội, nhất định sẽ không phụ lòng tướng công.”

Nàng vừa nói vừa vỗ lên ngực mình, hào khí tràn trề. Viên Thừa Chí gật đầu lia lịa, nói: “Ý kiến của Tiêu cô nương rất hay, chúng ta cứ thế mà làm. Tốt nhất là Trình lão phu tử và Tiêu cô nương đưa công chúa tránh xa kinh thành; ở lại đây sẽ rất không ổn. Quyền tướng quân là người không đoan chính, nhất định sẽ bức hại công chúa. Thiết Thủ! Võ công của cô cao cường, hãy trông chừng giúp. Cô vẫn chưa chính thức gia nhập môn phái, đợi ta bẩm báo sư phụ rõ ràng rồi tính. Lần này cô không cần lên núi Hoa Sơn.”

Hà Thiết Thủ đảo mắt một cái, định năn nỉ thì đột nhiên nghĩ đến Thanh Thanh đã từng nghi ngờ mình, cùng đi với Viên Thừa Chí e rằng không ổn. Nàng mỉm cười không nói gì nữa, nghĩ thầm: “Sư phụ không dẫn mình lên Hoa Sơn, chẳng lẽ mình không biết đường đi?”

Nàng làm giáo chủ tà giáo đã quen, gần đây tuy thay đổi rất nhiều nhưng tính bướng bỉnh chưa hết, nên cứ mặc kệ lời dặn của Viên Thừa Chí, trù tính kế hoạch để lên Hoa Sơn bái kiến tổ sư. Nàng lại nghĩ: “Lòng dạ sư phụ dồn hết cho công chúa. Mình chỉ cần bảo vệ công chúa bình yên là được sư phụ thương yêu.”

Viên Thừa Chí sắp xếp mọi chuyện xong, sáng hôm sau vào từ biệt Sấm Vương và nghĩa huynh Lý Nham. Lý Tự Thành xem bức thư của Mục Nhân Thanh, biết chàng phải tuân sư mệnh nên không thể giữ được, bèn ban thưởng rất nhiều trân bảo trong đại nội. Viên Thừa Chí định chối từ, nhưng Lý Nham nháy mắt liên tục. Chàng chỉ còn cách nhận lấy rồi đa tạ.

Lý Nham tiễn chàng ra cửa cung, thở dài nói: “Huynh đệ công thành thân thoái, thế là tuyệt diệu. Thế mà…” Y đột nhiên ngừng nói, thần sắc ảm đạm.

Viên Thừa Chí nói: “Xin đại ca bảo trọng, mọi chuyện phải cẩn thận. Các vị Điền Kiến Tú, Cốc Đại Thành, Lưu Phương Lượng hiểu biết đại cuộc, trong lúc nguy cấp có thể thương lượng với họ. Đại ca ráng khuyên bảo đại vương quản thúc chúng huynh đệ, đừng hiếp đáp bá tính, đừng nghĩ chuyện đối phó với Lưu Huy Hiểu và Hạ Cẩm huynh đệ. Nếu đại ca gặp nguy, tiểu đệ biết tin thì dù ở xa vạn dặm cũng đi suốt đêm ngày để nhanh gặp mặt.”

Hai người lau nước mắt, từ biệt nhau.

*

*   *

Chiều hôm đó Viên Thừa Chí cùng ông câm, Thôi Hy Mẫn, Hồng Thắng Hải đi về hướng tây, nhắm thẳng núi Hoa Sơn. Ngựa của mọi người đều là tuấn mã, cước trình rất nhanh, chẳng bao lâu đã đến Uyển Bình.

Quần hùng vào phạn điếm ăn cơm. Ăn xong, định lên ngựa thì Hồng Thắng Hải bỗng liếc thấy dưới góc tường có một con bò cạp và một con rết, đều được ghim vào chân tường bằng đinh sắt. Y ngạc nhiên, khẽ kéo góc áo Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí quay lại nhìn rồi gật đầu một cái, nghĩ bụng: “Vụ này nhất định có liên quan đến Ngũ Độc Giáo. Tiếc là Hà Thiết Thủ không đi cùng, chẳng biết hai ký hiệu này có ý nghĩa gì.”

Hồng Thắng Hải kiếm cớ nói chuyện với tiểu nhị trong phạn điếm mấy câu. Y bình thản nói: “Hai con độc vật dưới chân tường đó trông ghê quá.”

Tiểu nhị mỉm cười đáp: “Tiểu nhân mà chưa lấy tiền của người ta thì dẹp bỏ lâu rồi. Thật là bực bội chết người.”

Hắn đếm ngón tay, mỉm cười nói tiếp: “Mới chưa tới hai ngày mà hỏi đến hai thứ đó, kể cả quan gia là mười mấy vị.”

Hồng Thắng Hải hỏi: “Ai gắn lên vậy?”

Tiểu nhị đáp: “Một mụ ăn mày.”

Hồng Thắng Hải nhìn Viên Thừa Chí một cái, lại hỏi: “Mấy người đó có hỏi tiểu huynh gì không?” Nói xong, y lấy mấy miếng bạc vụn nhét vào trong tay tiểu nhị.

Đầu tiểu nhị thì lắc, nhưng tay thì thò ra nhận bạc, miệng mỉm cười nói: “Thì ra quan gia muốn hỏi chuyện đó.”

Viên Thừa Chí hỏi xen vào: “Lúc mụ ăn mày gắn hai con độc vật vào đó, có ai bên cạnh không?”

Tiểu nhị từ từ kể: “Chuyện ngày hôm đó thật là kỳ lạ. Đầu tiên là một tướng công rất tuấn tú, đến uống rượu một mình…”

Viên Thừa Chí vội hỏi: “Tuổi tác bao nhiêu? Ăn mặc thế nào?”

Tiểu nhị đáp: “Chắc là nhỏ hơn tướng công mấy tuổi, nhưng tuấn tú hơn nhiều. Tiểu nhân cứ tưởng là một người kép hát, nhưng thấy bên hông ông ấy có đeo bảo kiếm, nên không biết là gì nữa. Vẻ mặt ông ấy rầu rĩ như trong nhà có ai mới chết, chỉ uống chút xíu rượu là khóe mắt đã đỏ lên, ai nhìn thấy cũng phải đau lòng theo…”

Quần hùng đều đoán người đó là Thanh Thanh. Thôi Hy Mẫn giận dữ lớn tiếng: “Ngươi bớt trù ẻo người khác được không?”

Tiểu nhị hoảng sợ nhảy chồm lên, rồi quay ra vừa lau bàn vừa hỏi: “Các vị quan gia đang vội lên đường phải không?”

Viên Thừa Chí hỏi: “Rồi sao nữa?”

Tiểu nhị liếc Thôi Hy Mẫn một cái, nói: “Lát sau, đột nhiên một ông lão bước lên cầu thang. Đừng tưởng hễ già thì yếu. Râu tóc của lão trắng như bông, nhưng tinh thần hết sức khỏe khoắn. Tay lão xách một cây quải trượng đầu rồng, dộng xuống sàn nghe “rầm” một tiếng, chén bát trên bàn nhảy lên loảng choảng.”

Hồng Thắng Hải lại nhét thêm mấy miếng bạc vụn, bảo hắn kể cho tường tận. Viên Thừa Chí lo lắng nghĩ: “Gặp phải lão Ôn Phương Sơn, Thanh đệ làm sao thoát khỏi độc thủ?”

Tiểu nhị kể tiếp: “Ông lão đó vừa ngồi xuống kêu rượu thịt, lại có một ông lão khác bước lên. Ai cũng ngạc nhiên, trước sau có tới bốn ông lão, đều râu tóc bạc phơ, sắc mặt hồng hào, giống nhau như đúc một khuôn. Muốn tìm bốn ông lão giống nhau như thế, thật sự không phải chuyện dễ. Lão cầm một đôi đoản kích, lão xách roi da. Bốn lão không ai nhìn ai, mỗi người tự ngồi một bàn, bao vây tướng công trẻ tuổi kia vào giữa.”

Viên Thừa Chí nghe đến đây, thầm nghĩ: “Đêm đó trong cung, Ôn Phương Ngộ bị Hà Thiết Thủ đánh trúng một thiết câu. Chắc là Thiết Thủ cho lão thuốc giải đàng hoàng, nên bây giờ vẫn đủ bốn người.”

Tiểu nhị lại kể: “Tiểu nhân càng nhìn lại càng không hiểu. Lát sau thì mụ ăn mày đến. Chưởng quỹ toan đuổi ra ngoài, bỗng nghe “keng” một tiếng. Trời ơi! Tướng công biết là cái gì không?”

Thôi Hy Mẫn sốt ruột hỏi: “Cái gì?”

Tiểu nhị nói: “Đúng là thần tài mặc áo rách, không thể trông mặt mà bắt hình dong. “Keng” một tiếng, mụ quẳng lên bàn một thỏi bạc to tướng, trỏ bốn ông lão và tướng công kia mà nói: Hóa đơn của các vị này đều tính cho ta. Ôi! Tướng công đã thấy người ăn mày nào hào phóng như thế chưa?”

Hồng Thắng Hải muốn hắn vui vẻ kể tiếp, bèn đáp: “Đúng là chưa từng thấy.”

Viên Thừa Chí càng nghe càng lo lắng, trong lòng nghĩ: “Ôn Thị Tứ Lão đã không địch nổi, gặp thêm Hà Hồng Dược nữa thì biết làm sao?”

Tiểu nhị càng kể càng cao hứng, nói đến sủi bọt mép: “Nào ngờ mấy người kia mặc kệ mụ, cứ ngồi uống rượu. Mụ ăn mày giận dữ gầm lên một tiếng, vừa vẫy tay là một đạo bạch quang bay xẹt tới ông lão cầm cây quải trượng.”

Thôi Hy Mẫn nói: “Thôi, ngươi đừng nói bừa nữa. Chẳng lẽ mụ đó biết phóng phi kiếm hay sao?”

Tiểu nhị đáp ngay: “Tiểu nhân nói dối làm chi? Tuy không phải là phi kiếm, nhưng nhìn chẳng khác gì phi kiếm. Ông lão đó đưa đôi đũa ra gắp lia gắp lịa, nghe những tiếng “tinh tang” vang lên, trên đũa đã có một xâu gì đó sáng chói. Tiểu nhân lén nhìn thử, trời ơi, quan gia biết cái gì không?”

Thôi Hy Mẫn hỏi: “Đó là cái gì?”

Tiểu nhị đáp: “Thì ra là một xâu móng tay bằng bạc, bị ông lão ấy dùng đũa gắp trúng hết. Tiểu nhân chưa kịp hoan hô, đã nghe “phụp” một tiếng. Quan gia đoán thử đó là tiếng gì?”

Thôi Hy Mẫn nói: “Ta làm sao biết được.”

Tiểu nhị kéo y đến một cái bàn, bảo: “Quan gia xem đi.”

Trên mặt bàn có một cái lỗ nhỏ. Tiểu nhị cầm một chiếc đũa, cắm vừa khít vào cái lỗ đó rồi nói: “Ông lão đó cầm chiếc đũa ấn thủng mặt bàn, công phu thật là tuyệt diệu. Quan gia có làm được không?”

Thôi Hy Mẫn đáp: “Ta không làm được.”

Tiểu nhị nói: “Thì ra quan gia không biết, thôi, chuyện đó không quan trọng lắm. Mụ ăn mày biết không thắng nổi, chỉ “hứ” một tiếng rồi quay lưng chạy trốn. Sau đó tướng công trẻ tuổi cũng theo bốn ông lão ra ngoài. Thì ra họ cùng một nhóm, chắc lo bày trận thế để đối phó với mụ ăn mày kia.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Họ đi hướng nào vậy?”

Tiểu nhị đáp: “Hướng tây nam, về phía Lương Hương. Năm người đi được một lúc thì mụ ăn mày quay lại, đính hai vật cổ quái đó vào góc tường. Mụ cho tiểu nhân một lạng bạc, dặn coi chừng hai con độc vật này tử tế, đừng để người khác động vào. Mấy ngày nay bốn bề đại loạn, chưởng quỹ đã định nghỉ làm ăn buôn bán ít lâu. May mà bà chủ không chịu, vẫn mở cửa quán nên tiểu nhân mới kiếm được nhiều ngoại bổng thế này…”

Hắn còn định lải nhải tiếp, nhưng Viên Thừa Chí đã chạy ra cửa, nhảy lên lưng ngựa, hô lớn: “Đuổi theo nhanh lên.”

*

*   *

Từ khi thấy Viên Thừa Chí ẵm A Cửu về nhà, Thanh Thanh càng nghĩ càng thấy không yên. “A Cửu hình dung đẹp đẽ, thanh tú, khả ái, mình không sao bì được. Huống chi cô ấy lại là công chúa, còn mình chỉ là một đứa con hoang, lai lịch bất minh, hai bên nội ngoại đều là thành phần bất hảo trên chốn giang hồ. Khác nhau một trời một vực, Viên Thừa Chí nhất định sẽ yêu cô ấy. Nếu không yêu, sao lại ôm mãi cô ấy không chịu thả xuống? Họ thương nhau sâu đậm lắm rồi, nên khi trở về nhà, trước mặt đông người vẫn không nỡ buông tay. Chuyện này đâu phải giả?”

“Sau này lại nghe đồn Lý Tự Thành ban thưởng A Cửu cho Viên Thừa Chí. Quyền tướng quân Lưu Tông Mẫn ganh tỵ, hai người tỉ thí để tranh mỹ nhân ngay tại Kim Loan Điện. Nói đến động võ đánh nhau thì ai thắng nổi chàng? Đương nhiên là chàng thắng. Sùng Trinh là kẻ thù giết cha, chàng lúc nào cũng muốn trả thù. Nhưng A Cửu chỉ nói một câu, xin chàng đừng giết cha cô ấy, thì chàng lập tức ngoan ngoãn nghe lời. Có bao giờ chàng nghe lời mình như vậy đâu, hễ mở miệng là trách mắng mình.”

Suy đi nghĩ lại, rốt cuộc nàng quyết tâm rời khỏi kinh thành, đem hài cốt mẫu thân lên đỉnh Hoa Sơn mai táng chung với hài cốt phụ thân, rồi tự vẫn bên cạnh song thân. Nàng nghĩ đến mình lênh đênh cô độc, lại gặp phải một kẻ không có lương tâm nên có kết cục thế này, không sao nén nổi thương thân trách phận.

Hôm đó nàng ghé ăn cơm ở Uyển Bình, bất ngờ gặp phải Ôn Thị Tứ Lão và Hà Hồng Dược. Ôn Phương Sơn hiển lộ nội công, Hà Hồng Dược biết không địch nổi nên tự rút lui. Thanh Thanh đã chấp nhận cái chết, nên hoàn toàn không sợ hãi. Nàng chỉ sợ Ôn Thị Tứ Lão xử tử mình ngay tại đó, thì ý nguyện của mẫu thân được chôn cùng phụ thân không thực hiện được, nên ngẫm nghĩ rồi nảy ra một kế.

Thanh Thanh đến trước mặt Ôn Phương Đạt thi lễ, mở miệng chào: “Đại gia gia!”, rồi chào cả ba lão còn lại. Ôn Thị Tứ Lão thấy nàng bình thản chẳng sợ gì, kinh ngạc vô cùng.

Thanh Thanh mỉm cười hỏi: “Bốn vị gia gia đi đâu vậy?”

Ôn Phương Đạt hỏi lại: “Ngươi đi đâu?”

Thanh Thanh đáp: “Con hẹn gặp người bạn họ Viên ở đây. Không hiểu sao đến bây giờ vẫn chưa thấy huynh ấy đến.”

Tứ Lão nghe Viên Thừa Chí sắp đến, ai cũng rùng mình, không dám nán lại lâu. Ôn Phương Nghĩa hét lên: “Đi theo bọn ta.”

Thanh Thanh giả vờ nói: “Con phải ở đây đợi.”

Ôn Phương Nghĩa đưa tay ra túm chặt cổ tay Thanh Thanh, kéo ra cửa tiệm, lôi lên ngựa cỡi chung. Bốn lão già cố tìm chỗ hoang vu mà đi, thấy đã xa thị trấn mới nhảy xuống ngựa.

Ôn Phương Nghĩa quẳng Thanh Thanh xuống đất, thóa mạ: “Đồ tiểu tiện nhân vô sỉ! Hôm nay lại lọt vào tay bọn ta rồi.”

Thanh Thanh vừa khóc vừa nói: “Bốn vị gia gia, con có lỗi gì đâu? Gia gia tha con đi, từ nay về sau con nhất định nghe lời gia gia.”

Ôn Phương Nghĩa mắng: “Ngươi còn muốn sống nữa ư?”

“Soạt” một tiếng, lão rút trủy thủ ra. Thanh Thanh khóc lóc hỏi: “Nhị gia gia muốn giết con hay sao?”

Ôn Phương Ngộ nói: “Ngươi đáng chết.”

Thanh Thanh nói: “Tam gia gia! Mẫu thân con là con gái ruột của gia gia, con cầu xin gia gia một việc.”

Ôn Phương Sơn tái mặt, nói: “Muốn sống thì đừng hòng.”

Thanh Thanh nói: “Sau khi con chết, xin gia gia quay lại gặp người bạn họ Viên của con, dặn huynh ấy đi tìm bảo bối một mình, đừng đợi con nữa.”

Bốn lão họ Ôn vừa nghe thấy ba chữ “tìm bảo bối”, trong lòng phấn chấn hẳn lên, đồng thanh hỏi: “Ngươi nói gì?”

Thanh Thanh vừa khóc vừa đáp: “Dù sao con cũng phải chết, bí mật này không thể nói ra. Con chỉ xin các vị gia gia chuyển lá thư này cho huynh ấy.”

Nói xong, nàng xé một mảnh vải trên vạt áo xanh lam của mình, rồi lấy trong bọc ra một cây kim, đâm thủng đầu ngón tay, chấm máu tươi viết chữ trên tấm lụa. Ôn Thị Tứ Lão không ngớt hỏi bảo bối gì, nhưng nàng cứ mặc kệ.

Viết xong, nàng đưa Ôn Phương Sơn rồi nói: “Tam gia gia! Gia gia không cần phải gặp huynh ấy, nhờ người khác đưa đến thành Uyển Bình, chỗ tửu lầu mà chúng ta vừa gặp nhau là được.” Nàng đang đóng kịch, nhưng nghĩ đến Viên Thừa Chí vô lương tâm bỗng chảy nước mắt ra thật.

Tứ lão thấy nàng đau lòng muốn chết, không phải là giả dối. Chúng xúm vào nhìn, thấy trên tấm lụa đó viết: “Kiếp này không thể gặp lại. Trọng bảo của phụ thân đã tặng, ca ca hãy tự mình đào lấy, đừng chờ đợi nữa. Thanh muội viết.”

Ôn Phương Nghĩa hét lên: “Bảo bối gì? Ngươi biết chỗ giấu bảo tàng thật ư?”

Ôn Phương Ngộ nói: “Hừ! Chắc không có bảo bối gì đâu. Thằng cha chết tiệt của ngươi đã lừa chúng ta một phen rồi, bây giờ ngươi muốn lừa nữa hay sao?”

Thanh Thanh cúi đầu không đáp, thò tay vào bọc lấy ra một đôi uyên ương phỉ thúy, để trên vạt áo. Đây vốn là vật trong rương sắt. Lúc sắp xếp kim ngân bảo bối, nàng thấy đôi uyên ương phỉ thúy này chất ngọc óng ánh, xanh biếc trong veo, điêu khắc tinh tế trông như vật sống, nên lấy ra cất trong người, kỷ niệm ngày cùng Viên Thừa Chí tìm được bảo tàng. Đồ trân bảo trong mười cái rương sắt nhiều không đếm xuể, thiếu một đôi uyên ương nhỏ cũng chẳng sao.

Nàng đứng bật dậy, la lên: “Lá thư này đưa đi hay không, tùy các vị gia gia. Bây giờ giết con đi.”

Nghe hai tiếng “tinh tang” rất êm tai, đôi uyên ương rơi xuống đất. Thanh Thanh cúi xuống toan nhặt, nhưng Ôn Phương Ngộ đã thò tay nhặt trước. Ôn Thị Tứ Lão có thâm niên trộm cướp mấy chục năm trời, lẽ nào không nhìn ra báu vật? Chúng thấy đôi uyên ương phỉ thúy này trân quý đến thế, mắt bỗng sáng rực lên. Bốn quả tim cùng nhảy thình thịch, bốn cái miệng cùng hét: “Cái này ở đâu ra?”

Thanh Thanh rơi lệ, không đáp. Ôn Phương Sơn bảo: “Nếu ngươi nói năng tử tế, không chừng bọn ta vui vẻ mà tha mạng.”

Thanh Thanh đáp: “Chính là trong số trân báu đó. Con cùng Viên đại ca theo tấm bản đồ gia gia để lại, tìm được mười cái rương sắt. Bên trong đầy ắp báu vật, nhiều quá không thể mang đi. Con chỉ chọn lấy đôi uyên ương này để cầm chơi. Bọn con đã hẹn lần này đi đào hết trân báu, nào ngờ các vị gia gia…” Nói đến đây, nàng bật khóc.

Tứ Lão đi qua một bên, thầm thì bàn luận không để Thanh Thanh nghe thấy. Ôn Phương Ngộ nói: “Xem ra bảo tàng này không phải là giả.”

Ôn Phương Nghĩa nói: “Phải ép nó dẫn đi lấy.”

Ba lão kia gật đầu. Ôn Phương Sơn nói: “Gạt nó, nói là tha mạng không giết. Đợi tìm được bảo tàng rồi mới trừng trị con tiện tì này cho hả giận.”

Ôn Phương Ngộ nói: “Đệ có ý kiến. Sau khi chúng ta đào lấy bảo vật, chôn con tiểu tiện nhân thế vào. Sau này thằng súc sinh họ Viên đi đào bảo bối, tình hình thật là tuyệt diệu.”

Ba lão kia cười rộ, đều nói: “Ngũ đệ thông minh nhất.”

Bốn người thương lượng xong, khoái chí quay lại chỗ Thanh Thanh, vừa dụ dỗ vừa uy hiếp. Thanh Thanh lúc đầu giả vờ không chịu, về sau bị ép không sao chối được, đành nói rõ là bảo tàng chôn trên đỉnh Hoa Sơn. Thật ra nàng bắt Ôn Thị Tứ Lão dẫn lên Hoa Sơn là để tìm nơi mai táng cha mình. Trong lúc chúng đào bới loạn xạ trên đỉnh Hoa Sơn thì mình có thể chôn hài cốt song thân vào chung một chỗ, sau đó đưa kiếm tự vẫn.

Không ngờ nàng nói dối như vậy, Tứ Lão càng tin sâu sắc. Năm xưa Ôn Thị Ngũ Lão bắt được Kim Xà Lang Quân, ông cũng dẫn chúng lên núi Hoa Sơn. Bảo tàng không thấy, lại mất hai đồng bọn phái Không Động, rồi Kim Xà Lang Quân đột nhiên mất tích. Trong đầu chúng vẫn in sâu ý nghĩ, bảo vật nhất định ở trên đỉnh Hoa Sơn. Ngày trước Trương Xuân Cửu và Vương Thất Động lên Hoa Sơn tìm kiếm cũng vì lý do này.

Thế là Ôn Thị Tứ Lão áp giải Thanh Thanh đi, ngày đêm ngựa không dừng vó, chỉ sợ Viên Thừa Chí đuổi theo.

Hôm đó đi đến cảnh giới tỉnh Sơn Tây, năm người chạy suốt một ngày khá mệt rồi, bèn ghé vào một khách điếm. Ôn Phương Nghĩa là người to lớn nhất, ăn uống dữ nhất. Lão liên tiếp hô hoán tiểu nhị dọn thức ăn, rót rượu, nấu mì.

Khi tiểu nhị bưng cơm nước lên, lão cứ như thường lệ mà ăn lấy ăn để. Ba lão kia và Thanh Thanh chưa kịp đụng đũa, Ôn Phương Nghĩa đột nhiên từ trong tô mì gắp lên một vật. Lão há mồm định kêu, nhưng lập tức miệng cứng lại không nhúc nhích được nữa. Bốn người kinh hãi nhìn lại, thấy vật lão vừa gắp lên là một con nhện đen sì rất lớn.

Ôn Phương Đạt sờ cổ tay huynh đệ thấy không còn mạch nữa, mặt đã bắt đầu đổi sang sắc đen, mũi không còn hơi thở.

Ôn Phương Ngộ vừa kinh hãi vừa giận dữ, xách tên tiểu nhị quẳng mạnh xuống đất. Nghe rắc rắc hai tiếng, cả hai chân hắn bị gãy xương, ngất xỉu ngay tại chỗ.

Ôn Phương Sơn dùng đũa gắp con nhện, chạy ra ngoài, túm lấy ngực người chưởng quỹ, hét lên: “Ngươi gan thật, dám giết người cướp của. Cái gì đây?”

Chưởng quỹ hoảng sợ đến nỗi hồn phi phách tán, lắp bắp: “Tiệm này… Tiệm này xưa nay có tiếng, nhà bếp sạch sẽ. Làm… Làm sao có… có thứ này.”

Ôn Phương Sơn bóp vào má hắn cho cằm hạ xuống, không ngậm miệng lại được, rồi cầm đũa nhét con nhện vào trong miệng. Chỉ chốc lát là người chưởng quỹ mất mạng ngay.

Lúc này trong tiệm rối loạn vô cùng. Ôn Phương Đạt thì tay phải túm lấy cổ tay Thanh Thanh đề phòng nàng chạy trốn, tay trái lo ôm thi thể huynh đệ. Ôn Phương Sơn, Ôn Phương Ngộ thì bất luận phải trái loạn đả một hồi, giết bảy tám mạng vừa thực khách vừa tiểu nhị, lại còn phóng hỏa đốt trụi tòa khách điếm. Mọi người thấy họ hung hãn như thế, ai cũng ôm đầu bỏ chạy.

Ba lão già còn sống đem chôn thi hài Ôn Phương Nghĩa ở một nơi hoang vắng, vừa đào huyệt vừa giận dữ thóa mạ, không đoán nổi con nhện kịch độc đó từ đâu mà có. Thanh Thanh đã từng nếm mùi đau khổ do Ngũ Độc Giáo, nghĩ ngay: “Thì ra mụ ăn mày đã âm thầm theo dõi mình.”

Ngày hôm sau bốn người vào tiệm ăn cơm, ép bọn tiểu nhị ăn trước mấy miếng. Thấy tiểu nhị vô sự, họ mới dám ăn uống.

Đi được mấy ngày đường nữa, một đêm đột nhiên trong khách sạn có tiếng người huyên náo, hô hoán bị ăn cắp ngựa. Ôn Phương Ngộ thức dậy xem xét. Lão tới gần chuồng ngựa, trong màn đêm đột nhiên nghe tiếng “xuỵt” như một luồng nước xịt đến trước mặt. Lão vội vàng tránh né, nhưng không thể kịp, vừa bị nước xịt trúng mặt đã thấy mùi tanh xộc vào mũi.

Lão biết là hỏng bét, nhưng lúc này cặp mắt không mở ra được nữa, đành nghe tiếng để đoán phương hướng. Trường tiên vừa lia ra đã đánh gãy ngay xương sống của mấy người nấp trong bóng tối để xịt nước. Còn sót một người, hét lên: “Lão kia còn hung dữ nữa ư?”

Hắn đưa búa lên chém. Nhưng trường tiên của Ôn Phương Ngộ đã vòng lại, quấn cả tay lẫn búa rồi dùng sức hất ra. Hắn bị giật bay lên, đập đầu vào tường vỡ óc ra mà chết.

Ôn Phương Đạt, Ôn Phương Sơn tưởng chỉ có mấy tên trộm vặt, huynh đệ mình dư sức lo liệu. Khi nghe Ôn Phương Ngộ kêu gào liên tục, chạy ra xem thì thấy lão không ngớt cào cấu lên mặt, mới biết đã có chuyện không hay. Ôn Phương Đạt ôm lấy em trai, còn Ôn Phương Sơn nhảy vọt ra ngoài để xem xét tình hình bên địch.

Ôn Phương Sơn không thấy gì lạ, lúc về phòng thì thấy huynh trưởng đang ôm ngũ đệ mà khóc lóc. Thì ra Ôn Phương Ngộ đã tắt thở, khuôn mặt bắt đầu thối rữa, râu và lông mày rụng sạch.

Ôn Phương Đạt vừa khóc vừa nói: “Hai mươi năm trước chúng ta bắt được Kim Xà ác tặc, cắt hết gân cốt cho biến thành phế nhân, thuốc độc trong mình hắn đã bị chúng ta lục lấy hết rồi. Thế mà hai đạo huynh phái Không Động lại trúng kịch độc mà chết, rồi hắn trốn thoát. Chẳng lẽ Ngũ Độc Giáo đã cứu hắn?”

Ôn Phương Sơn nói: “Không sai! Thì ra Ngũ Độc Giáo đã âm thầm chống đối chúng ta. Lần này chúng ta được Tào Hóa Thuần mời tới mưu đồ đại sự, sắp thành công thì giáo chủ Hà Thiết Thủ của Ngũ Độc Giáo đột nhiên trở mặt, thế là xôi hỏng bỏng không. Mãi đến bây giờ đệ vẫn chưa biết là lý do gì.”

Ôn Phương Đạt suy nghĩ một chút rồi đột nhiên nhảy chồm lên, la lớn: “Kim Xà ác tặc dụng độc lợi hại đến thế, không chừng hắn xuất thân từ Ngũ Độc Giáo.”

Ôn Phương Sơn giật mình nói: “Nhất định là thế rồi.”

Hai lão hồi tưởng tình hình năm xưa Kim Xà Lang Quân đến Tịnh Nham trả thù, bây giờ nhớ lại nỗi khiếp sợ lúc đó vẫn còn run rẩy. Chúng chôn cất thi thể Ôn Phương Ngộ, bàn bạc mất nửa ngày rồi quyết định lên núi Hoa Sơn trước, đào được kho tàng rồi mới tìm cách trả thù. Chúng sợ Ngũ Độc Giáo ra tay ám hại, chẳng những ăn uống đặc biệt cẩn thận, mà ban đêm cũng không dám trú trong khách sạn nữa.

Một hôm, hai anh em dẫn Thanh Thanh vào ngủ trong một ngôi chùa cũ nát. Ôn Phương Đạt tuổi tác đã cao, nhưng thần lực phi thường. Lão khiêng hai cái cối đá rất lớn, chặn cửa trước một cái, cửa sau một cái, rồi mới yên tâm nằm ngủ. Đến nửa đêm, hình như phía sau vách tường có tiếng chuột kêu. Hai lão tỉnh dậy, tưởng là chuột nên không để ý lắm.

Ôn Phương Sơn mơ hồ định ngủ tiếp, đột nhiên mũi ngửi thấy mùi thơm kỳ lạ, rồi cảm thấy cả người khỏe khoắn khoan khoái dị thường, như đang trôi nổi trong cõi hư không cực lạc. Trong lúc phiêu diêu, bỗng lão hiểu ra có chuyện không hay, thét lớn một tiếng rồi nhảy chồm lên.

Sự việc chỉ trong chớp nhoáng, nhưng Ôn Phương Đạt giang hồ lão luyện đã mấy chục năm, phản ứng cực nhanh. Lão lập tức kéo tay Thanh Thanh, xách nàng nhảy lên bàn thờ.

Dưới ánh sao mờ nhạt, Ôn Phương Sơn múa tít cương trượng phát ra tiếng gió vù vù. Bỗng nghe ầm một tiếng như sấm nổ, tượng Phật đã bị cương trượng đánh bay mất một nửa. Từ sau tượng Phật, hai hán tử áo vàng nhảy ra. Một tên múa đao tấn công Ôn Phương Sơn, còn tên kia cầm một cái ống, định thổi sương độc ra thêm.

Ôn Phương Đạt vẫy tay, hai mũi tụ tiễn bắn vào ngực hai hán tử, giết chúng ngay tại chỗ. Ôn Phương Sơn không chịu dừng tay, cứ tiếp tục vung trượng loạn xạ.

Ôn Phương Đạt la lên: “Tam đệ! Địch chết hết rồi.”

Ôn Phương Sơn không nghe, thần trí đã bị khói độc làm mê hoặc, vung cương trượng càng lúc càng gấp rút. Ôn Phương Đạt biết là hỏng bét, nhảy xuống toan đoạt lấy binh khí của em, nhưng cương trượng múa không thấy bóng, chỉ còn một vòng sáng bạc. Nhất thời Ôn Phương Đạt không sao nhảy vào đoạt trượng được.

Đột nhiên Ôn Phương Sơn quát lên một tiếng, hất ngược trượng lại cho đầu rồng trên trượng đập vào ngực mình. Máu miệng lão phun thành vòi, hai chân giãy giãy mấy cái rồi duỗi thẳng ra, rõ ràng không sống được nữa.

Thế là chỉ mấy ngày mà Ngũ Độc Giáo đã hại chết ba lão già. Ôn Phương Sơn là ông ngoại ruột của Thanh Thanh, trước nay vẫn thân cận hơn bốn lão kia một chút. Nàng bất giác rơi mấy giọt nước mắt.

Ôn Phương Đạt im lặng, khiêng thi hài Ôn Phương Sơn ra ngoài chôn cất. Lão chắp tay khấn vái trước mộ, rồi bảo Thanh Thanh: “Đi thôi!”

Thanh Thanh dập đầu lạy ông ngoại mấy cái, rồi theo đại gia gia đi ngay trong đêm.

Dọc đường Ôn Phương Đạt phòng bị càng cẩn thận hơn. Vào tới địa giới tỉnh Thiểm Tây, một thiếu niên áo đỏ vô cớ đến gần lão, lập tức bị lão vung chưởng đập cho vỡ sọ. Thanh Thanh thấy khuôn mặt xanh xao của lão càng lúc càng mất hết tính người, nói chuyện với lão cũng không dám.

Một hôm, đã tới gần chân núi Hoa Sơn. Hai người đi hơn nửa ngày đều thấy khát nước, nên ghé vào một quán lương đình nghỉ chân uống nước, cũng là để ngựa nghỉ ngơi một chút. Một người nông dân đi vào trong đình, dùng thổ âm Thiểm Tây hỏi: “Vị này là Ôn lão gia phải không?”

Ôn Phương Đạt hét lên: “Ngươi muốn gì?”

Nông phu đáp: “Lúc nãy có người cho tiểu nhân hai quan tiền, sai tiểu nhân đem thư đến cho lão gia.”

Ôn Phương Đạt hỏi: “Người đó đâu?”

Nông phu đáp: “Cưỡi ngựa đi rồi.”

Ôn Phương Đạt sợ có quỷ kế, bèn sai Thanh Thanh mở thư ra, thấy không có gì lạ mới cầm lấy mà đọc. Thư gồm ba trang, trang đầu tiên viết: “Ôn lão đại! Ba thằng em ngươi vì sao mà chết, muốn biết rõ thì xem trang sau.”

Ôn Phương Đạt cất tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó!” Lão giở trang thứ hai ra xem. Mấy trang giấy này dính chặt lại, rất khó gỡ ra, lão phải cho tay vào miệng thấm chút nước bọt mới mở được. Trang thứ hai viết: “Ngươi gần chết rồi. Mở trang thứ ba mà xem tại sao ngươi chết”.

Ôn Phương Đạt càng giận dữ hơn, lại thấm nước bọt mở trang thứ ba. Trên trang này chỉ vẽ một con rết rất lớn và một cái sọ người, không có chữ nào. Lão tức giận quẳng tờ giấy xuống đất, đột nhiên cảm thấy ngón tay trỏ và đầu lưỡi hơi tê dại. Lão định thần suy nghĩ một chút, bất giác mồ hôi lạnh tuôn ào ra.

Thì ra ba tờ giấy này đều tẩm chất kịch độc, dán hơi dính vào nhau, viết những câu chọc tức người ta. Người xem giận dữ mà không đề phòng, dùng đầu ngón tay để thấm nước bọt, tự đưa thuốc độc vào miệng. Đó là một trong ba mươi sáu cách hạ độc của Ngũ Độc Giáo. Năm xưa Kim Xà Lang Quân đã học từ Hà Hồng Dược, tẩm chất độc trên bí kíp giả, nên Trương Xuân Cửu trúng độc mà chết.

Ôn Phương Đạt đang kinh hãi thì ngẩng đầu lên, thấy người nông dân kia đã chạy xa mấy chục bước. Lão giận dữ vô cùng, chạy ra khỏi đình nhưng bỗng cảm thấy chóng mặt hoa mắt, càng muốn tập trung tâm thần càng thấy đầu đau như cắt. Lão biết mình hỏng rồi, bèn gom hết sức tàn phóng cây kích vào sau lưng người đó.

Tên này đúng là giáo đồ Ngũ Độc Giáo, cứ tưởng mình đắc thủ rồi, không đề phòng cây đoản kích bay tới nhanh như gió. Hắn mới gào lên một tiếng đã bị kích xuyên qua ngực, ghim cứng người xuống đất. Ôn Phương Đạt cười thảm khốc, rồi ngã ngửa ra sau.

Thanh Thanh kêu lên: “Đại gia gia! Gia gia sao rồi?” Nàng cúi xuống xem, nào ngờ tay trái Ôn Phương Đạt bỗng đưa thẳng ra, hất cây kích đang nằm sát đất lên đâm vào trước ngực Thanh Thanh.

Thanh Thanh không ngờ ông ngoại sắp chết còn hạ độc thủ. Nàng chỉ thấy một lằn sáng bạc nhoáng lên trước mắt, mũi kích đã gần tới ngực, biết mình không tránh kịp nữa, đành nhắm mắt chờ chết. Đột nhiên nàng nghe một tiếng “keng”, rồi dưới chân đau đớn kịch liệt. Mở mắt ra thì thấy đoản kích đã bị người khác đánh rơi dưới đất, cán kích đụng phải chân mình.

Nàng định quay lại xem thử ai vừa cứu mình, nhưng sau lưng đã bị nắm chắc, không động đậy được. Người đó dùng dây da trói chéo hai cổ tay nàng ra phía sau lưng, rồi mới bước tới đứng trước mặt. Đây chính là mụ ăn mày Hà Hồng Dược ở Ngũ Độc Giáo.

Thanh Thanh cảm thấy một luồng hơi lạnh bốc lên dọc xương sống, nghĩ thầm: “Lọt vào tay mụ ác ôn này, không biết phải chết thê thảm đến thế nào. Ước gì lúc nãy mình bị đoản kích của Đại gia gia đâm chết, vừa mau lẹ vừa ít đau khổ hơn nhiều.”

Hà Hồng Dược cười gằn, nham hiểm nói: “Ngươi muốn ta dùng đao giết ngươi, hay muốn ta dùng một ngàn con rắn độc, cho cắn ngươi bốn mươi chín ngày để mặt ngươi giống như mặt ta?”

Thanh Thanh nhắm mắt không đáp. Hà Hồng Dược lại nói: “Nếu ngươi dẫn ta đi tìm người cha vô lương tâm của ngươi, ta sẽ không bắt ngươi chịu đau khổ vô ích.”

Thanh Thanh nghĩ: “Dù sao mình cũng phải đi tìm nơi chôn cất gia gia, dẫn mụ đi cũng được.” Nàng bèn nói: “Ta cũng định đi tìm gia gia. Bà cứ đi chung với ta.”

Hà Hồng Dược thấy nàng đồng ý mau lẹ, bất giác nảy dạ nghi ngờ. Nhưng mụ nghĩ Kim Xà Lang Quân đã trở thành phế nhân, võ công mất sạch, không nên sợ hãi làm gì, nên cười nhạt rồi nói: “Được! Ngươi dẫn đường đi.”

Thanh Thanh nói: “Thả ta ra đi, để ta mai táng Đại gia gia trước đã.”

Hà Hồng Dược cười gằn: “Thả ngươi ra ư? Hừ!”

Mụ nhặt cây đoản kích của Ôn Phương Đạt, đào bên vệ đường một cái hố lớn, quăng thi hài của Ôn Phương Đạt và tên giáo đồ Ngũ Độc Giáo vào, lấp chung lại. Vừa chôn, mụ vừa lầm bầm: “Thằng cha ngươi là đồ vô lương tâm, nhưng ta quyết không để người khác hành hạ hắn. Bốn lão này đã hại hắn sống không được chết cũng không xong, ta muốn tìm chúng thanh toán từ lâu rồi, mãi đến hôm nay mới trút được mối hận. Sao ngươi gọi chúng là gia gia vậy?”

Thanh Thanh không đáp ngay, nghĩ bụng: “Nếu mình nói ra, mụ lại chửi mắng mẫu thân mình một chập.” Nàng nói: “Họ già rồi. Ta phải gọi họ là gia gia, chứ không lẽ bắt họ gọi ta là bà bà?”

Ngày hôm đó hai người đi được bốn năm chục dặm đường, nghỉ đêm ở lưng chừng núi. Hà Hồng Dược dùng dây da trói chặt hai chân Thanh Thanh, đề phòng nàng chạy trốn. Hôm sau mới mờ sáng Hà Hồng Dược đã cởi dây trói cho Thanh Thanh, hai người tiếp tục lên núi. Đường càng đi càng dốc, về sau phải dùng cả tay và chân bám lấy dây thừng mới trèo lên được. Hà Hồng Dược đã mất bàn tay trái, không thể nắm Thanh Thanh kéo lên, nên cởi dây trói tay cho nàng, bắt nàng leo trước, còn mình giám sát phía sau. Thanh Thanh trước giờ chưa từng lên núi Hoa Sơn, Hà Hồng Dược phải chỉ cho nàng đường đi nước bước.

Đêm đó, hai người nghỉ ngơi dưới một gốc cây lớn. Trong cảnh rừng núi hoang vu, ánh trăng lạnh lẽo, nghe tiếng chim kêu vượn hú, Thanh Thanh hết nghĩ đến mạng mình đang nằm trong tay kẻ thù, lại nghĩ đến song thân và Viên Thừa Chí. Nàng nghĩ mãi không dứt ra được, vừa sợ sệt vừa đau khổ, không sao ngủ được.

Sáng sớm hôm sau lại tiếp tục trèo lên núi, cứ thế mãi đến xế chiều ngày thứ ba mới lên tới tuyệt đỉnh Hoa Sơn. Thanh Thanh từng nghe Viên Thừa Chí kể tỉ mỉ về nơi chôn cất cha mình. Bây giờ nàng ngẩng đầu lên, nhìn thấy một vách núi thẳng đứng, kế bên có một cây thông lẻ loi và những tảng đá hình thù cổ quái, bên dưới có nguồn suối chảy xuống như thác đổ, giống hệt những gì chàng đã kể. Nàng bất giác trong lòng chua xót, nước mắt lã chã.

Hà Hồng Dược nghiến răng hỏi: “Hắn trốn ở đâu?”

Thanh Thanh chỉ vào một cái động trên vách núi dựng đứng, đáp: “Gia gia ở trong đó.”

Hà Hồng Dược nghiêng đầu ngẫm nghĩ, cũng nhớ năm xưa Kim Xà Lang Quân ẩn thân đâu đó gần đây, bèn mím chặt môi nói: “Được! Chúng ta lên đó gặp hắn.”

Thanh Thanh thấy thần sắc của mụ đáng sợ vô cùng, tuy nàng đã quyết ý muốn chết mà cũng rùng mình một cái. Hai người đi ngang đi dọc để tìm đường trèo lên vách núi dựng đứng đó, đột nhiên nghe thấy bên kia khúc quanh có tiếng cười nói.

Hà Hồng Dược vội kéo Thanh Thanh núp vào sau một lùm cỏ, hai ngón tay phải đã đeo sẵn vuốt thép tẩm thuốc độc, đè vào yết hầu Thanh Thanh, khẽ quát: “Không được lên tiếng!”

Hai người nấp sau lùm cỏ nhìn ra, thấy một đạo sĩ già và một hán tử trung niên vừa cười nói vui vẻ vừa bước tới. Thanh Thanh nhận ra Mộc Tang đạo nhân và đại sư ca Đồng bút thiết toán bàn Hoàng Chân của Viên Thừa Chí. Võ công hai người này đều ăn đứt Hà Hồng Dược, nhưng nàng biết mình chỉ động đậy một tí là hai cái vuốt tẩm thuốc độc sẽ ghim vào yết hầu lập tức.

Hoàng Chân mỉm cười nói: “Sư phụ chỉ mấy ngày nữa là lên núi, còn tiểu sư đệ thì hôm nay sẽ tới đây. Đạo trưởng không phải rầu rĩ vì thiếu đối thủ chơi cờ nữa.”

Mộc Tang đạo nhân cười đáp: “Nếu không ghiền chơi cờ, thì ta đường xa lặn lội về đây để làm chi? Phái Hoa Sơn các ngươi hội họp, có liên can gì đến ta đâu?” Hai người vừa cười vừa nói, dần dần đi xa.

Hà Hồng Dược biết phái Hoa Sơn lợi hại, nghe nói họ hội họp ở đây liền nghĩ: “Nơi này nguy hiểm, không nên ở lại lâu.” Mụ khom người từ từ bò lên vách núi, lấy sau lưng ra một sợi dây, một đầu buộc lên một cành cây lớn, đầu kia buộc vào người mình và Thanh Thanh, từ từ tuột xuống. Việc này mụ đã từng làm rất nhiều lần.

Năm xưa, phía trước sơn động này có một chàng trai không có lương tâm, tay cầm cây Kim Xà Kiếm, mặt mày hung dữ đứng canh chừng không cho mụ vào. Hình ảnh đó đột nhiên tái hiện trong tâm trí mụ, như chuyện mới xảy ra. Cảnh vật giống hệt như xưa, không biết người còn trong động hay không.

Thanh Thanh nhìn thấy dấu vết huyệt động trên vách núi, bèn la lên: “Đây rồi!”

Trái tim Hà Hồng Dược thình thịch đập lên loạn xạ. Mấy chục năm nhớ nhung không dứt, cả ngày lẫn đêm, chẳng giây phút nào mụ không nghĩ đến lúc gặp lại con người vô lương tâm đó. Mụ không biết mình sẽ điên cuồng hành hạ ông rồi mới giết; hay mình sẽ mềm lòng mà năn nỉ ông. Tự đáy lòng, mụ rất mong ông hồi tâm chuyển ý, hòa lại với mình, cùng xây giấc mộng đoàn viên. Cho dù ông đánh đập mình để trút giận, thậm chí giết mình đi cũng được. Bây giờ đến lúc gặp nhau, mụ bỗng thấy toàn thân run rẩy, lòng bàn tay đẫm mồ hôi lạnh.

Ngày trước ông câm vào đây lấy Kim Xà Kiếm, khi rời động đã lấy đá bịt cửa động lại, sợ người khác tiến vào. Hà Hồng Dược thấy cửa động chỉ còn một lỗ nhỏ, bèn dùng tay phải đào bới như điên. Đất đá lăn ầm ầm xuống, cửa động dần dần mở rộng ra. Mụ sai Thanh Thanh vào động trước, còn mình thì thủ sẵn những cái vuốt thép có tẩm chất kịch độc, đề phòng Kim Xà Lang Quân đột kích.

Thanh Thanh mới vào cửa động nước mắt đã chảy như mưa, càng vào sâu càng khóc dữ. Đi mới mấy bước, trong động đã tối đen. Hà Hồng Dược thắp lửa lên, đốt đầu sợi dây thừng, bảo nàng cầm vào soi đường. Thanh Thanh ngẩn ra, thầm nghĩ: “Đốt sợi dây này, làm sao có thể trở lên? Ta thì quyết chết ở đây với song thân, nhưng chẳng lẽ mụ không muốn trở ra?”

Hà Hồng Dược càng vào trong càng cảm thấy sơn động này không có người ở, bèn nảy dạ nghi ngờ. Đột nhiên mụ vung tay túm chặt gáy Thanh Thanh, hét lên: “Ngươi mà đùa giỡn với lão nương, thì lão nương sẽ cho ngươi chết không tử tế.”

Đột nhiên gió lạnh ập vào người, ánh đuốc lung linh. Hai người đã tới căn thạch thất trống rỗng. Hà Hồng Dược run rẩy đưa ngọn đuốc lên soi khắp xung quanh, thấy bốn vách đều khắc vô số đồ hình võ công, lại có bốn dòng chữ: “Trọng bảo bí thuật; Tặng người hữu duyên; Làm môn hạ ta; Gặp họa đừng oán.”

Mụ ở chung với Kim Xà Lang Quân chẳng được bao lâu, nhưng ông từng vẽ tặng mụ một bức tranh, có viết chữ đề tặng, nên bút tích của ông đã in đậm vào lòng. Bây giờ chữ viết trên vách còn trơ đó, nhưng người không thấy ở đâu. Mụ đau lòng như cắt, lớn tiếng kêu gọi: “Tuyết Nghi! Ra đây đi! Huynh muốn gặp muội không?”

Âm thanh làm bụi bặm trên trần rơi xuống, phủ đầy cả hai người. Mụ quay đầu lại, giận dữ hỏi Thanh Thanh: “Hắn đâu rồi?”

Thanh Thanh khóc òa lên, chỉ xuống đất mà đáp: “Ở đây.”

Hà Hồng Dược bỗng thấy trước mắt tối đen, suýt nữa ngất đi. Mụ loạng choạng phải đưa tay nắm chặt lấy cổ tay Thanh Thanh, cất giọng khản đặc lên hỏi: “Ngươi nói gì?”

Thanh Thanh nói: “Gia gia an táng ở đây.”

Hà Hồng Dược nói: “À! Thì ra… chàng… chàng đã chết rồi…”

Mụ không đứng vững được nữa, ngồi phịch xuống tảng đá ngày xưa Kim Xà Lang Quân ngồi luyện khí, tay phải ôm đầu, nước mắt rơi xuống như mưa, vô cùng đau khổ. Bao nhiêu oán hận tích tụ mấy chục năm nay bỗng dưng tiêu mất, tình ý lại dịu dàng như xưa. Mụ khẽ bảo: “Đi đi! Ta tha ngươi.”

Thanh Thanh thấy mụ đau khổ như vậy, bất giác nảy mối tương liên. Mụ bị gia gia đối xử không tốt, mình gặp phải Viên Thừa Chí không có lương tâm, hai người thật là hoàn cảnh như nhau. Nàng bèn nhảy tới ôm lấy mụ, khóc rống lên.

Hà Hồng Dược bảo: “Ra ngoài nhanh lên. Sợi dây này cháy thêm một lúc nữa, thì ngươi vĩnh viễn không trở lên được.”

Thanh Thanh hỏi: “Còn bà thì sao?”

Hà Hồng Dược đáp: “Ta ở đây với gia gia ngươi.”

Thanh Thanh nói: “Ta cũng không muốn lên nữa.”

Hà Hồng Dược chìm đắm vào suy nghĩ, không đếm xỉa gì tới Thanh Thanh nữa, đột nhiên đưa tay cào bới điên cuồng dưới đất. Thanh Thanh kinh hãi hỏi: “Bà làm gì đấy?”

Hà Hồng Dược ủ rũ đáp: “Đã hai mươi năm ta nhớ ông ấy mà không được gặp. Bây giờ được thấy mấy khúc xương của ông ấy cũng là an ủi.”

Thấy thần sắc mụ thay đổi hẳn, Thanh Thanh vừa kinh hãi vừa sợ sệt. Đất trong động khá mềm, bàn tay của Hà Hồng Dược cứng như xẻng sắt, bới lên không ngớt. Chỉ chốc lát, trong hố đã lộ ra một đống xương khô, đúng là hài cốt của Kim Xà Lang Quân mà ngày trước Viên Thừa Chí đã an táng.

Thanh Thanh phóng tới đống hài cốt của cha mình, khóc rống lên. Hà Hồng Dược bới thêm một chập, đột nhiên nhặt cái đầu lâu ôm vào trong lòng, vừa hôn vừa khóc gọi: “Hạ lang, Hạ lang! Muội tới thăm huynh đây.”

Lát sau mụ lại khe khẽ hát những bài dân ca của tộc Bài Di. Thanh Thanh nghe không hiểu câu nào.

Hà Hồng Dược hát một lúc, lại kề cái đầu lâu vào môi mà hôn như điên dại. Bỗng mụ đau nhói la lên, cảm thấy má mình bị một vật nhọn đâm vào. Mụ đưa cái đầu lâu ra chỗ ánh nến mà xem tỉ mỉ, thấy hai hàm răng của đầu lâu đang cắn chặt một cây kim thoa nhỏ. Kim thoa lộ ra rất ít, nên lúc đầu không nhìn thấy.

Hà Hồng Dược đưa tay cạy vào trong miệng đầu lâu, răng rơi rụng lả tả, mũi kim thoa cũng rơi xuống đất. Mụ nhặt lên, chùi sạch đất cát. Sắc mặt mụ bỗng thay đổi hẳn, giận dữ hỏi: “Mẹ ngươi tên là Ôn Nghi phải không?”

Thanh Thanh gật đầu. Hà Hồng Dược vừa đau khổ vừa tức tối, nghiến răng nói: “Hay lắm, hay lắm! Cha ngươi sắp chết vẫn nhớ con tiện tì đó, ngậm kim thoa của ả vào miệng.”

Mụ nhìn hai chữ “Ôn Nghi” khắc trên cây thoa mà mắt như phun ra lửa. Đột nhiên mụ ngậm cây thoa vào miệng mà cắn nhai ngấu nghiến, đến nỗi miệng đầy máu tươi.

Thanh Thanh thấy thần trí mụ đã loạn, thầm nghĩ: “Giờ chết của hai ta sắp đến rồi.” Nàng lấy trong người ra hũ tro cốt của mẹ mình, tháo tấm da bịt nắp, rồi lật úp hũ, đổ tro cốt vào trong huyệt. Hà Hồng Dược thấy vậy, ngẩn ra quát hỏi: “Ngươi làm gì vậy?”

Thanh Thanh không trả lời. Nàng đổ hết tro vào, hất đất vụn xung quanh lấp lên, lòng thầm khấn vái: “Gia gia má má trên trời có linh thiêng thì chứng giám, con đã hoàn thành tâm nguyện hợp táng song thân rồi.”

Hà Hồng Dược giật lấy cái hũ, nhìn là biết ngay. Mụ la lên: “Đây là hài cốt mẹ ngươi phải không?”

Thanh Thanh chậm rãi gật đầu. Mụ xoay tay phóng chưởng, Thanh Thanh rụt người lại nhưng không tránh kịp. Nàng bị phát chưởng đánh trúng vai, loạng choạng suýt nữa té nhào.

Hà Hồng Dược la lên như điên dại: “Không cho các ngươi hợp táng! Không cho các ngươi hợp táng!”

Mụ đưa tay cào bới loạn xạ, nhưng tro đã hòa lẫn vào đất, không hốt ra được nữa. Lửa ghen bốc lên, lòng bỏng như bị đốt, mụ lượm từng miếng hài cốt trong huyệt ra, la lên: “Ta phải đốt ngươi thành tro, rồi rải dưới chân núi Hoa Sơn cho ngươi bay tứ tán, vĩnh viễn không được sum họp với con tiện tì đó.”

Thanh Thanh kinh hãi, nhảy xổ vào ngăn cản. Nhưng chỉ mấy chiêu là nàng bị mụ đánh ngã nhào xuống đất. Hà Hồng Dược cởi áo ngoài trải dưới đất, bỏ hài cốt Kim Xà Lang Quân lên, rồi châm lửa đốt. Tay trái mụ kiềm chế Thanh Thanh không cho động đậy, còn tay phải quạt cho lửa hồng lên. Chỉ chốc lát là khói mù mịt trong thạch động.

Thạch động bị bít kín đã lâu, đầy chướng khí độc hại. Khi hai người mở lối vào động, chướng khí bên ngoài đã bị gió núi xua bớt, nên Hà Hồng Dược và Thanh Thanh bước vào mà không phát giác. Bây giờ Hà Hồng Dược đốt áo, hơi nóng bốc lên, hút chướng khí ở sâu trong động ùa ra ngoài. Hai người lập tức chóng mặt, ngạt thở. Thanh Thanh chạy ra ngoài được mấy trượng thì thần trí mơ hồ, té ngã xuống đất.

*

*   *

Trong phạn điếm Viên Thừa Chí nhìn thấy ký hiệu của Hà Hồng Dược đính ở góc tường, biết mụ đang triệu tập giáo chúng để truy kích Ôn Thị Tứ Lão. Thanh Thanh lại lọt vào tay Ôn Thị Tứ Lão rồi, bất kể bên nào thắng thì nàng cũng bị liên lụy. Vì thế chàng vô cùng lo lắng, lập tức ruổi ngựa rượt theo.

Dọc đường chàng biết mấy lão họ Ôn trúng độc chết dần, lại càng lo lắng hơn, ngày thì ăn không ngon miệng, đêm thì ngủ không yên giấc. May mà chúng rượt nhau về hướng Hoa Sơn, nên chàng không đến nỗi vì theo đuổi mà lỡ mất ngày hẹn trên núi.

Viên Thừa Chí cùng mọi người đi mấy hôm thì gặp Thôi Thu Sơn, An đại nương và An Tiểu Huệ. Tuy ba người này không phải môn nhân phái Hoa Sơn, nhưng xưa nay thân thiết như người nhà, lên Hoa Sơn họp mặt cũng không sao.

Đến chân núi Hoa Sơn, ghé vào quán lương đình hóng mát, Hồng Thắng Hải nhận thấy một khoảnh đất nhìn hơi lạ. Y dùng binh khí đào lên, phát hiện thi hài của Ôn Phương Đạt và một người nữa.

Viên Thừa Chí nói: “Nhất định Thanh đệ đã lọt vào tay bọn Ngũ Độc Giáo. Chúng ta mau lên núi đi.”

An đại nương an ủi chàng: “Đã đến lúc Hoa Sơn hội họp. Cho dù Mục lão sư phụ chưa đến, thì Hoàng sư huynh, Quy sư huynh chắc đã đến đây, nhất định ra tay cứu giúp.”

Viên Thừa Chí nói: “Ngũ Độc Giáo có gan lên núi Hoa Sơn, chắc đã có chuẩn bị. Chỉ sợ đám sư điệt trúng phải độc thủ của chúng.”

Thôi Hy Mẫn nói: “Sư tổ cũng đến đây, có gì mà sợ nữa? Chúng ta mau lên núi đi.”

Mọi người gởi ngựa ở nhà dân, vội vã trèo lên núi. Lên gần đến đỉnh, đột nhiên họ nghe ba tiếng veo véo của ám khí bắn lên trời, lát sau mới đồng thời rơi xuống. Viên Thừa Chí mừng rỡ nói: “Mộc Tang đạo trưởng đang ở trên núi chào chúng ta đấy.”

Chàng lấy trong túi áo ra ba đồng tiền, búng mạnh lên trời. Ba cái chấm màu vàng mất hút trên mây, hồi lâu mới rơi xuống. Thôi Hy Mẫn lên tiếng khen ngợi: “Tiểu sư thúc! Thủ kình phóng ám khí của sư thúc mạnh quá.”

Viên Thừa Chí định nhảy lên đón bắt mấy đồng tiền, đột nhiên một cái bàn tính đen sì từ dưới bay lên, cản ba đồng tiền lại rồi cùng rơi xuống. Một người từ trong lùm cây nhảy vọt ra đón lấy cái bàn toán, cười hì hì mấy tiếng rồi bước tới. Đó chính là Đồng bút thiết toán bàn Hoàng Chân.

Ông mỉm cười nói: “Sư đệ! Ngươi hoang phí quá. Tiền bạc mà vứt ra tùy tiện như thế, chẳng phải xài tiền như nước hay sao? Dân buôn bán chúng ta thấy vậy, không khỏi đau lòng! Ta là người biết làm ăn, tiền đã vào tay thì không thể trả lại cho ngươi được.”

Thôi Hy Mẫn hô lớn: “Sư phụ! Thì ra lão nhân gia đã đến rồi.” Y chạy tới dập đầu ba cái xuống đất, vang lên những tiếng binh binh. Chú ngốc này không thèm ngó trước ngó sau, đang vui mừng nên dập đầu càng mạnh. Khi đứng dậy, trán y đã bị sỏi đá làm sưng lên một cục. An Tiểu Huệ vừa thương vừa giận, không ngớt nhỏ giọng trách mắng. Thôi Hy Mẫn đứng đó mà ngoác miệng ra cười, trông khờ khạo vô cùng.

Viên Thừa Chí cùng quần hùng bước tới thi lễ. Sau đó Mộc Tang đạo nhân cũng xuống gặp mặt. Mọi người bước tới bái kiến, nói mấy câu khách sáo chào hỏi lẫn nhau.

Viên Thừa Chí lo lắng cho Thanh Thanh, định hỏi xem đại sư ca có thấy tung tích của nàng hay không. Đột nhiên trong lùm cây bên cạnh có hai con vượn lớn nhảy ra, ôm lấy Viên Thừa Chí. Thôi Hy Mẫn giật mình kinh hãi, vung quyền đánh ngay.

Viên Thừa Chí đưa tay khẽ gạt thoi quyền, mỉm cười hỏi: “Đại Oai, Tiểu Oai! Hai ngươi khỏe chứ?”

Hai con vượn lớn kêu chí chóe, buông Viên Thừa Chí ra, nhanh chân chạy lên đỉnh núi. Thôi Hy Mẫn hỏi: “Hai con vượn này do tiểu sư thúc nuôi phải không? Trời ơi, chúng nổi giận rồi.”

Hai con vượn leo lên mỗi lúc một cao. Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Nhất định Đại Oai và Tiểu Oai đã giấu giếm thứ gì đó, bây giờ lấy ra cho mình xem.” Chàng dõi mắt nhìn theo chúng một lúc, đột nhiên thấy trên vách núi có khói mù bay ra. Chỗ đó chính là huyệt động an táng Kim Xà Lang Quân, Viên Thừa Chí bất giác sợ hãi. Hai con vượn lớn cứ múa tay múa chân chỉ trỏ, như ra dấu gọi chàng tới.

An Tiểu Huệ cũng cảm thấy vậy, bèn nói: “Thừa Chí đại ca! Hai con vượn gọi đại ca kìa.”

Viên Thừa Chí đáp: “Không sai!” Chàng đưa tay ra dấu với ông câm. Ông câm gật đầu hiểu ý, liền chạy vào thạch thất lấy đuốc và dây dài. Mọi người vòng ra con đường phía sau, trèo lên vách núi đó.

Viên Thừa Chí nói: “Đường vào động ta quen thuộc nhất. Để một mình ta vào là được.”

Chàng xé vạt áo lấy hai mảnh vải nhỏ, nhét vào mũi, thắp đuốc, men theo sợi dây trèo xuống. Hai con vượn lớn đứng trên vách núi cứ nhảy chồm chồm, kêu la loạn lên, gãi đầu gãi tai ra vẻ lo lắng vô cùng.

Viên Thừa Chí xuống tới cửa động, thấy khói bay ra mù mịt. Chàng nín thở chạy vào trong, đến chỗ đường hẹp thì thấy một người nằm vật ra dưới đất. Đến gần nhìn kỹ, thì ra là Thanh Thanh.

Chàng vừa sợ hãi vừa vui mừng, sờ vào mũi nàng thì thấy hơi thở rất yếu. Nhìn vào thấy trong động vẫn còn ánh lửa, Hà Hồng Dược nằm giữa động. Chàng định vào cứu mụ ra, nhưng đột nhiên cảm thấy ngực mình bị đè chặt, chỉ muốn ngất xỉu, nên vội cúi xuống ôm lấy Thanh Thanh, nhanh chân chạy ra ngoài động.

Chàng nắm chặt sợi dây, ông câm và Hồng Thắng Hải vận sức kéo hai người lên. Viên Thừa Chí thấy xung quanh không còn khói độc nữa, mới dám hít sâu một hơi. Đột nhiên chàng nhịn không nổi, lơ lửng giữa trời mà nôn vọt ra.

Mọi người đứng trên vách núi vô cùng lo lắng, chỉ sợ chàng trúng chướng khí nặng quá, tuột tay buông dây là cả hai rơi xuống vực sâu. Ông câm và Hồng Thắng Hải run run kéo chậm lên. Hai chú cháu Thôi Thu Sơn và Thôi Hy Mẫn đứng bên nín thở theo dõi.

Viên Thừa Chí vì hít khí độc trong động hơi nhiều, chân vừa chạm đất đã chóng mặt đứng không vững nữa, bủn rủn ngồi phịch xuống. Mộc Tang đạo nhân thôi cung quá huyệt cho một lúc, chàng mới tỉnh lại, cố tự điều hòa hơi thở, thần trí vô cùng mệt mỏi. Lát sau Thanh Thanh cũng tỉnh lại, vừa thấy Viên Thừa Chí đã khóc òa.

Quần hùng thấy hai người hồi tỉnh mới yên tâm. Thanh Thanh từ từ khôi phục thần trí, kể lại tình hình trong động, chốc chốc lại ngắt quãng.

Viên Thừa Chí ủ rũ nói: “Di mệnh của mẫu thân Thanh đệ là được hợp táng với phu quân. Bây giờ thi hài hai người đều hóa thành tro, nhưng rốt cuộc đã được an nghỉ bên nhau.”

Thanh Thanh nói: “Mụ già ác ôn kia tuy hung dữ, nhưng tình cảm với phụ thân muội lại rất thâm sâu. Gia gia phụ lòng bà ấy, thật là không nên không phải. Đại ca! Chúng ta có nên cứu mạng bà ấy không?”

Viên Thừa Chí gật đầu đáp: “Nên chứ.”

Thôi Hy Mẫn lập tức xung phong vào động cứu người. Viên Thừa Chí dặn: “Khí trong động rất độc, cứu được người phải lập tức ra ngay.”

Thôi Hy Mẫn vào động chẳng bao lâu đã quay trở ra, nói: “Gió núi rất mạnh, uế khí trong động đã bị thổi tan gần hết, nhưng bà ấy chết rồi. Tại hạ không dám ở lâu trong động, nên lấp bừa bà ấy vào trong hố.”

Thanh Thanh gật đầu nói: “Thế là bà ấy được chôn cùng một huyệt với gia gia muội. Nếu bà ấy linh thiêng, chắc sẽ vui mừng. Chỉ mong ba người họ không tranh cãi nhau nữa.”

Thừa Chí nói: “Thanh đệ yên tâm đi. Gia gia muội nhất định sẽ bênh má má muội.”

Thanh Thanh giận dữ hỏi: “Má má muội đẹp hơn bà ấy, nên gia gia nhất định sẽ bênh má má. Sau này huynh cũng vậy phải không?”

Thừa Chí ngạc nhiên hỏi: “Ta cũng vậy là sao?”

Thanh Thanh vung tay lên tát. Thừa Chí mới gặp còn mừng, thấy nàng đánh mà không tránh né, bị tát vào má nghe “bốp” một tiếng. Thanh Thanh khóc rống lên, nói: “Sau này đại ca chỉ bênh A Cửu, không bênh muội. Để muội chết còn hay hơn.”

An Tiểu Huệ vội chuyển đề tài nói chuyện. Nàng xoa đầu hai con vượn mà nói: “May mà Đại Oai và Tiểu Oai phát hiện sớm. Nếu trễ một chút, e rằng Thanh tỉ và Thừa Chí đại ca trúng độc trong động còn nặng hơn.”

Mọi người đều nói: “Thật là nguy hiểm! May mà loại súc sinh có giác quan linh mẫn, từ xa đã cảm thấy khác thường.”

Quần hùng vừa bàn tán vừa trở lên đỉnh núi. An đại nương và An Tiểu Huệ dìu Thanh Thanh vào trong thạch thất, rửa mặt và thay đổi y phục cho nàng, rồi dìu lên giường nằm nghỉ.

Nội công Thanh Thanh đã không bằng Thừa Chí, lại hít khí độc nhiều hơn, nên đến hôm sau vẫn chưa bình phục hẳn. Nhiều lúc nàng thần trí mơ hồ, vừa khóc vừa la, cứ hôn mê là chửi mắng Viên Thừa Chí vô lương tâm, bất nghĩa, có mới nới cũ. Thấy Viên Thừa Chí bối rối, mọi người vừa buồn cười vừa lo lắng, sợ chàng khó xử nên im lặng lui ra.

Thừa Chí dịu dàng an ủi, hứa chắc không bao giờ phụ lòng Thanh Thanh. Mặt nàng lúc đỏ bừng lúc xám ngoét, không ngớt ói ra nước đen. Viên Thừa Chí không có cách nào chữa trị, chỉ biết ngồi bên giường mà rơi nước mắt.

Sơn động hoặc giếng sâu mà không được thông gió thì uế khí tích lại, vào trong sẽ trúng độc, thậm chí mất mạng. Chuyện này những người đi lại giang hồ vẫn thường gặp phải, nhưng nếu không mất mạng mà được cứu ra thì sẽ hồi phục dần dần. Phen này Thanh Thanh lại khác, cứ ọe nước đen ra mãi. Dường như ngoài uế khí trong động kín ra, nàng còn trúng phải chất độc gì đó trên người Hà Hồng Dược và hài cốt Kim Xà Lang Quân. Lúc này Viên Thừa Chí chỉ mong có Hà Thiết Thủ ở bên. Trên người cô này có đủ loại thuốc giải, không chừng biết cách chữa trị.

Mọi người bên ngoài cứ bàn luận mãi, đều nói tuy tính tình Thanh Thanh có lúc nhỏ nhen, nhưng bụng dạ rất tốt, nếu không chữa được thì Viên Thừa Chí chắc phải đau lòng tới hết đời. Ai cũng thở dài thở ngắn, không vui vẻ nổi.

*

*   *

Sắp hoàng hôn, hai con vượn lại kêu la. Bên ngoài tiếng người ồn ào, thì ra vợ chồng Quy Tân Thụ đã dẫn sáu đệ tử, có cả Mai Kiếm Hòa, Tôn Trọng Quân, Lưu Bội Sinh đến nơi. Quy nhị nương ẵm theo cậu con Quy Chung. Thằng bé này cười vẫn còn khờ khạo, nhưng sức khỏe đã tốt hơn nhiều. Quy nhị nương biết Thanh Thanh trúng độc, liền lấy lọ thuốc Phục Linh Thủ Ô Hoàn mà con mình chưa uống hết, cho nàng một viên. Thanh Thanh uống vào, chốc lát đã ngủ li bì.

Sau đó đại đệ tử của Hoàng Chân dẫn tám sư đệ và hai con trai lên núi. Y thi lễ với Mộc Tang đạo nhân trước, rồi khấu kiến sư phụ và vợ chồng nhị sư thúc. Y thấy Viên Thừa Chí còn trẻ hơn cả con trai lớn của mình, nghĩ đến chuyện quỳ xuống khấu đầu trước mặt chàng bỗng thấy khó khăn. Y gọi “sư thúc”, rồi ngần ngừ đứng đó.

Viên Thừa Chí thấy vị sư điệt này đã ngoại tứ tuần, eo gấu, lưng hổ, gân cốt như sắt, đứng cao hơn mình một cái đầu, không khỏi thầm khen. Chàng nghĩ: “Đại sư ca là bậc anh hùng, phải là nhân vật oai phong thế này mới xứng đáng làm đệ tử của huynh ấy. Thôi Hy Mẫn tính tình lỗ mãng, võ công lại kém, so với vị sư điệt này chênh lệch rất xa.” Thấy y ra vẻ định quỳ, chàng vội đưa tay cản trở, rồi vẫy tay với tám đệ tử khác của Hoàng Chân mà nói: “Mọi người đừng đa lễ nữa.”

Thôi Hy Mẫn đứng bên giới thiệu: “Đây là đại sư ca họ Phùng, tên Nan Địch. Người trên giang hồ gọi huynh ấy là Bát Diện Oai Phong.”

Viên Thừa Chí nói: “Nhất định Phùng huynh đã được chân truyền của đại sư ca.”

Hoàng Chân thấy Phùng Nan Địch không chịu quỳ lạy tiểu sư thúc, nhưng nghĩ y đã là một nhân vật thành danh trong giang hồ, nên không miễn cưỡng. Hơn nữa, trước nay ông thích đùa giỡn nên không nghiêm khắc về mặt lễ số. Ông mỉm cười nói: “Ta là sư phụ tính toán kỹ lưỡng, quả nhiên dạy ra đồ đệ không chịu thiệt thòi. Chúng biết khấu đầu trước mặt tiểu sư thúc chưa chắc đã có tiền lì xì kiến diện.”

Nghe sư phụ nói mấy câu này, Phùng Nan Địch cảm thấy khó xử, tính quỳ trước mặt Viên Thừa Chí, nhưng lại bị chàng ngăn cản. Phùng Nan Địch bèn bảo con trai lớn là Phùng Bất Phá, con trai thứ là Phùng Bất Thôi đến bái kiến Mộc Tang đạo nhân và hai vị sư thúc tổ Quy, Viên, các vị sư thúc như Mai Kiếm Hòa. Viên Thừa Chí không có quà kiến diện cho anh em Bất Phá, Bất Thôi cũng có phần áy náy.

Năm nay Phùng Bất Phá hai mươi ba tuổi, Phùng Bất Thôi hai mươi mốt tuổi. Hai anh em dựa vào oai thế phụ thân nên được giới võ lâm Cam Túc, Lương Châu nhường nhịn mấy phần, mà cũng có chút ít công phu chân chính. Phen này chúng thấy Viên Thừa Chí chỉ chừng hai mươi tuổi mà mình phải kêu bằng sư tổ, trong lòng rất không phục. Chúng lại thấy cặp mắt chàng sưng đỏ, nước mắt chưa khô, bèn nghĩ: “Không biết tên này khóc nhè chuyện gì, thật là tồi tệ. Anh hùng hảo hán dù bị đánh rụng răng cửa thì cũng nuốt máu vào trong, sao có thể khóc vì bị người ta ăn hiếp?” Đối với Viên Thừa Chí, chúng càng coi thường hơn.

Hai anh em này quen biết đám đệ tử Quy Tân Thụ đã lâu, biết trong đó Tôn Trọng Quân kiêu ngạo hiếu thắng nhất, võ công cũng khá. Ngay đêm hôm đó, chúng lén lút bàn nhau, tìm cách khích bác cho Tôn sư cô tỷ thí với tiểu sư thúc tổ, để Viên Thừa Chí xấu mặt một phen. Lỡ bị phụ thân hoặc sư tổ biết được, anh em mình cũng không đến nỗi bị trách mắng.

Sáng hôm sau hai anh em dậy rất sớm, chạy ra ngoài đi tìm Tôn Trọng Quân, nhưng mới ra cửa đã gặp Bát sư thúc Thạch Tuấn. Thạch Tuấn tuổi trẻ hiếu sự, võ công cũng ngang ngửa Phùng thị huynh đệ. Y quát hỏi: “Này! Hai anh em ngươi lén lút đi tìm cái gì vậy?”

Phùng Bất Thôi mỉm cười đáp: “Bọn điệt đang tìm Tôn sư cô. Nghe nói ở Sơn Đông cô ấy đã dẹp yên phái Bột Hải, chúng điệt muốn xin cô ấy kể cho nghe.”

Thạch Tuấn hoan hỉ nói: “Hay quá! Vừa rồi ta thấy cô ấy ở bên kia núi, đang luyện võ với Mai sư ca.”

Ba người vui vẻ đi ra sau núi. Anh em họ Phùng thầm thì bàn tính, nói thế nào để lôi kéo Tôn Trọng Quân đi tìm Viên sư thúc tổ mà tỉ võ. Phùng Bất Thôi khẽ nói: “Nếu Tôn sư cô vẫn đang luyện kiếm, thì chúng ta nói là họ Viên chê sư cô sử chiêu này, chiêu kia không đúng.” Phùng Bất Phá vừa cười vừa gật đầu.

Ra đến sau núi, đột nhiên nghe tiếng Tôn Trọng Quân kêu la giận dữ. Cả ba đều bị bất ngờ, nhanh chân chạy tới thì thấy Tôn Trọng Quân đang xách đơn câu đuổi theo một người.

Sách Minh Lý Bắc Lược:

Khí trời nóng nực, mây đen tứ bề kéo tới. Ngoài thành khói đen mù mịt, mưa nhỏ không dứt lại có tuyết rơi. Thành Bắc Kinh bị hạ. Có người nói giặc mai phục sẵn bên trong, thông đồng với em của thái giám Tào Hóa Thuần là Tào Nhị Công mở cửa thành. Có người nói thái giám Vương Tương Hiệu dẫn cả ngàn binh lính trong hoàng cung ra đón tướng giặc Lưu Tông Mẫn dẫn trọn đội quân vào. Lại có người nói Thái giám Tào Hóa Thuần cùng Binh bộ thượng thư Trương Tấn Nham mở cửa Chương Nghĩa đón giặc… Đại để kinh thành thất thủ là do kẻ gian làm nội ứng… Giặc hô to: “Ai mở cửa sẽ không giết”, nên quân sĩ và dân chúng đều cầm nhang đứng hai bên cửa, hễ giặc đi ngang qua là phủ phục xuống đất nghênh đón. Trên cửa nhà dân đều dán những chữ “Thuận Dân”, hoặc “Vĩnh Xương nguyên niên, Thuận Thiên Vương vạn vạn tuế”.

Vào thành hết rồi, binh mã giặc xông bừa vào nhà dân. Tướng giặc hễ thấy phủ đệ to lớn là vào chiếm. Lưu Tông Mẫn chiếm phủ đệ của Đường Hoàng. Lý Mậu chiếm phủ đệ của Chu Toàn.

Bọn cung nữ chưởng quản thư quán của hoàng đế là Đỗ Thị, Trần Thị, Đẩu Thị bị Lý Tự Thành bức hiếp. Trong đó Đẩu Thị được sủng ái nhất, phong làm Đẩu Phi. Lại có Trương Thị cũng được ân sủng. Lý Tự Thành tập họp cung nữ để chia cho bộ hạ, mỗi tướng giặc được khoảng ba mươi cô. Ngưu Kim Tinh, Tống Kiến Sách cũng được mấy cô.

Ngày mùng một tháng tư, Tống Kiến Sách tấu: “Thiên tượng thay đổi, mặt trời mờ tối, phải đình chỉ các loại hình phạt.”

Ngày mùng bảy, Lý Tự Thành tới phủ Lưu Tông Mẫn, thấy trong sân nhốt hơn ba trăm người, một nửa đã không la hét nổi nữa. Lý Tự Thành nói: “Thiên tượng thay đổi, Tống quân sư nói phải giảm hình. Thả chúng ra đi.” Trong đó có mười một thân sĩ giàu có, còn lại đều là võ quan trong triều và bọn giúp việc. Chỉ ngày hôm đó đã thả cả ngàn người, nhưng số đã chết phải tới năm trăm.

Lúc mới vào thành giặc không giết nhiều, vài ngày sau chém giết mạnh tay… Lính giặc đầy đường, tay cầm sẵn dây, hễ thấy ai mập mạp là nghĩ có tiền, bắt trói đòi hối lộ. Có kẻ dọc đường nộp tiền được thả. Có kẻ dẫn về nhà, cho giặc muốn lấy gì thì lấy rồi được thả. Còn ai đã bị trói dẫn đến phủ Lưu Tông Mẫn thì không thể nào sống sót.

Ban đầu giặc còn giả vờ giết những kẻ lạm sát, tuyên bố “Ai cướp bóc, gian dâm dân chúng thì lập tức xử lăng trì”. Chúng bắt bốn tên cướp bóc dân chúng, tuyên án rồi chặt mỗi tên làm năm đoạn. Dân chúng tin tưởng, nên yên tâm mở tiệm sinh hoạt, buôn bán bình thường. Bốn năm ngày sau giặc mới tiến hành cướp, giết. Chúng ghép mười nhà thành một bảo, một người chạy trốn thì cả mười nhà bị chém. Nhà thượng lưu thì bọn tướng giặc kiểm kê, tịch thu. Nhà trung lưu, hạ lưu thì chúng cho quân lính cướp bóc chia nhau. Lại có lệnh, tất cả lừa ngựa và đồ đồng của dân gian đều phải tịch thu, đưa về doanh trại. Vì thế dân chúng trong thành, nhà nào cũng khánh kiệt.

Quân giặc vào nhà dân, đầu tiên là mượn nồi niêu chén bát; sau đó mượn giường chiếu, phòng ở; cuối cùng mượn tới vợ con để tìm lạc thú. Người nào giấu giếm mà bị lục soát ra, lập tức chém chết. Chúng thấy nữ nhân nào vừa mắt là lôi lên yên ngựa bắt đi. Có tên tay ôm một cô, trên ngựa trói theo hai ba cô nữa. Cô nào không chịu là giết ngay, nếu chịu mà chúng không vừa ý cũng bị giết. Trong hẻm An Phước, một đêm chúng giết chết ba trăm bảy mươi mấy nữ nhân, thê thiếp của các quan lại đầu hàng cũng không tránh khỏi số phận. Tướng giặc vào chiếm các nhà lớn, chiếm cả con gái họ làm thú vui.

Quân giặc tràn đầy các ngõ hẻm, lấy danh nghĩa tìm kiếm lừa ngựa và đồ đồng để cướp bóc khắp nơi, ai phản đối thì lập tức bắt trói. Chúng canh gác rất nghiêm, khó mà trốn khỏi kinh thành, ngay cả ban ngày cũng gian dâm bừa bãi.

Giặc còn nhiều biện pháp khác. Đến đâu, chúng cũng cho binh lính giả trang thành người đi buôn để tuyên truyền, nào là: “Giặc không giết người, không cướp tài sản, không gian dâm, mua bán đàng hoàng, không thu thuế lương. Giặc sẽ lấy tiền bạc của nhà quan để cứu tế người nghèo. Giặc rất yêu những người có học, trước tiên là thưởng tiền bạc, sau này cho dự thi, hạng nhất làm quan phủ, hạng hai làm quan huyện…” Vì thế bọn người chưa đậu tú tài thì mơ được làm quan, bọn người thiếu hiểu biết thì mong có tiền, bọn người còn nợ thuế lương thì mong được miễn thuế. Trong dân gian thật sự có câu ca dao: “Hãy mở cổng lớn để đón Sấm Vương, Sấm Vương đến rồi ta khỏi nạp lương…” Vậy là mưu kế của giặc đã thành.

Hơn bốn mươi vạn tên giặc vào thành, tên nào cũng lo cướp bóc. Khi Lý Tự Thành cấm chỉ thì quân sĩ la hét: “Ngôi hoàng đế thì để ông làm. Còn tiền bạc, nữ nhân chẳng lẽ không để bọn ta?”

Ghi chú của tác giả:

Sách Minh Lý Bắc Lược do Kế Lục Kỳ viết những năm đầu nhà Thanh, ghi chép tường tận hành động của Lý Tự Thành ở Bắc Kinh từng ngày một. Tác giả này rất chủ quan, chống đối nghĩa quân cực độ, nên những sự kiện trong sách chưa chắc chính xác hoàn toàn.

Khởi nghĩa nông dân ở các triều đại Trung Quốc đều không có kỷ luật nghiêm ngặt. Lúc khởi sự thì ai cũng lên tiếng trả thù, giết kẻ có tội với dân, dựng lại chính nghĩa. Nhưng khi đã có thanh thế thì những chuyện cướp bóc, bức hiếp, đốt nhà, giết chóc không thể nào tránh khỏi. Thất bại của Hoàng Sào, Lý Tự Thành, Trương Hán Trung, Thái Bình Thiên Quốc… đều có liên quan đến quân kỷ không tốt.

Những anh hùng Lương Sơn Bạc trong Thủy hử truyện cũng thế. Lý Quỳ cướp pháp trường, tấn công thành trì, không cần hỏi ai là quân quan ai là bá tính, cứ giết cho xác đầy mặt đất, máu chảy thành sông (hồi 39). Trấn Tam Sơn náo loạn Thanh Châu Đạo, mấy trăm gian nhà ngoài thành Thanh Châu bị đốt thành bình địa, trên những đống tro tàn ngổn ngang vô số xác chết đàn bà con nít, không sao đếm xuể (hồi 33).

Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử đương đại thích tô hồng những cuộc khởi nghĩa nông dân, cho rằng Lý Tự Thành không ham rượu sắc, quân kỷ rất tốt. Có người nói, chuyện quân sĩ Lý Tự Thành tàn hại bá tính Bắc Kinh không phải là chuyện thật. Có người bình chú Bích Huyết Kiếm, cho rằng tác giả công kích kỷ luật trong quân đội Lý Tự Thành không tốt là ngụy tạo. Những cách nhìn này không có căn cứ sử liệu. Hoặc giả có thể bàn cãi về hành vi cá nhân, nhưng về lịch sử thì những nhà nghiên cứu đã có không ít thành tựu, không thể xóa bỏ.

Khoảng trước sau năm 1949, bài văn Giáp Thân Tam Bách Niên Tế của Quách Mạt Nhược có ảnh hưởng rất lớn. Tác phẩm này không hề phủ định chuyện quân đội Lý Tự Thành có gian dâm, cướp bóc. Trong đó viết: “Lưu khấu đều là dân đói bị ép phải khởi nghĩa. Quân ô hợp chưa qua huấn luyện, ban đầu dĩ nhiên đánh trận không thắng quan binh; nhưng nói về gian dâm, cướp bóc, đốt nhà, tàn sát, thì so với quan binh quyết không thua kém”… “Lưu Tông Mẫn bắt bớ quan lại đầu hàng, vơ vét tài sản, dụng nghiêm hình để giết người… không ngày nào không giết… Cho binh lính cướp bóc tiền bạc của dân… Bắt trói cha của Ngô Tam Quế là Ngô Tương, để ép Ngô Tam Quế giao nộp ái thiếp Trần Viên Viên nhưng không được, nên tra khảo rất dã man.”… “Lý Nham có tấu thư, khuyên Lý Tự Thành phải yêu mến bá tính, phải hạ lệnh cho quân binh không được mượn nhà dân mà ở, sợ mất lòng dân. Lý Tự Thành không vui lắm, phê mấy chữ “Biết rồi”, không thực hiện.”

Những người lãnh đạo Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc vô cùng chú ý đến tác phẩm này. Trước khi quân đội tiến vào những thành phố lớn, họ ba lần năm lượt hạ lệnh không được quấy nhiễu dân chúng. Có tài liệu ghi lại, năm trước Mao Trạch Đông thống lãnh những quan chức cao cấp tiến vào Bắc Kinh, từng mỉm cười nói: “Chúng ta vào thành Bắc Kinh là dự một cuộc khảo thí lớn”, ý nói phải giữ nghiêm quân kỷ, phải thắng được sự quyến rũ của cuộc sống đồi bại xa hoa, phải tránh vết xe đổ của Lý Tự Thành.

Trần Nghị trước khi vào Thượng Hải đã nghiêm khắc hạ lệnh không được ở nhà dân, dù là thương bệnh binh gặp trời mưa lớn cũng không được vào nhà dân hoặc cửa tiệm để trú. Thuộc hạ của ông tuân lệnh rất nghiêm. Nhiều nhân sĩ Trung Quốc và ngoại quốc kể, quân cộng sản nửa đêm kéo vào Thượng Hải, sáng hôm sau họ thức dậy thấy ngoài đường đầy quan binh nằm ngủ.

Đời sơ Thanh có một quyển tiểu thuyết bạch thoại lưu truyền rộng rãi trong dân gian, tựa là Thiết Quán Độ, kể chuyện cung nữ Quế Cung Nga của Sùng Trinh giả vờ ưng thuận tướng quân La Mỗ của Lý Tự Thành, sau đó tìm cơ hội đâm chết. Tôi cho rằng quyển tiểu thuyết đó có phần thổi phồng những chuyện cướp bóc gian dâm của quân Lý Tự Thành, nên không lấy đó làm bằng chứng.

Vấn đề Lý Tự Thành giết hại công thần

Minh Sử, quyển 309, Lý Tự Thành truyện chép:

Lúc đó Tả Giáp Ngũ Doanh quy phục dưới trướng Lý Tự Thành, có Mã Thủ Ưng xưng là Lão Hồi Hồi (Mã Thủ Ưng là người Hồi tộc nên tự xưng là Lão Hồi Hồi, chữ Hồi là người Hồi. Triều đình khinh miệt dân quân tạo phản, nên viết chữ Hồi có bộ Khuyển, coi như súc sinh); Hạ Nhất Long xưng là Giáp Lý Nhãn, Hạ Cẩm xưng là Tả Kim Vương, Lưu Huy Hiểu xưng là Tranh Thế Vương, Quách Dưỡng Thành xưng là Loạn Thế Vương.

Lý Tự Thành còn có bộ hạ là La Nhữ Tài. Tự Thành thiện công, Nhữ Tài thiện chiến, hai người cần nhau như tay trái tay phải. Lý Tự Thành hà khắc, thấy La Nhữ Tài binh cường tướng mạnh bèn đem lòng đố kỵ, triệu La Nhữ Tài và bạn là Hạ Nhất Long đến ăn tiệc, dùng hai mươi kỵ mã bắt trói La Nhữ Tài và tùy tùng, sáng sớm hôm sau chém ngay trong trướng. Lý Tự Thành giết La Nhữ Tài và Hạ Nhất Long rồi, lại giết Quách Dưỡng Thành, đoạt lấy binh lính của Mã Thủ Ưng, giết Viên Thời Trung ở Kỷ Huyện…

Lý Nham từng khuyên Lý Tự Thành đừng giết đồng bọn để thu phục nhân tâm. Ông ở ngôi vị Sĩ đại phu, không phạm lỗi gì để buộc tội, nên Ngưu Kim Tinh và đồng bọn khá kiêng nể. Sau thất bại ở Đình Châu, nhiều châu huyện ở Hà Nam phản lại Lý Tự Thành. Lý Tự Thành hội nghị tướng lãnh, Lý Nham xin dẫn binh tấn công. Ngưu Kim Tinh lén tâu với Lý Tự Thành: “Lý Nham võ dũng lại đa mưu, không phải người chịu ở dưới lâu. Hà Nam là quê hương của Lý Nham, hắn có thể chiêu mộ đại binh, đã rời khỏi đây thì không thể chế ngự nữa. Câu sấm Thập Bát Tử không phải hắn thì còn ai, nhất định Lý Nham muốn tạo phản.” Lý Tự Thành bèn sai Ngưu Kim Tinh mời Lý Nham uống rượu, giết chết ông trong tiệc. Từ đó quân giặc hoàn toàn tan rã.

comments

Bích Huyết kiếm