Hồi 18: Ỷ thiên trường kiếm phi hàn mang
Hôm sau đoàn người đi tiếp về hướng tây, đi hơn một trăm dặm thì đã chính ngọ, mặt trời chói chang ngay trên đỉnh đầu, tuy đang là mùa đông mà cũng thấy nóng bức. Đang đi, bỗng nghe vọng lại đâu đây tiếng binh khí giao đấu, mọi người không chờ Tĩnh Huyền ra lệnh đã cùng chạy vội về phía đó.
Phía trước có mấy bóng người đang giao đấu với nhau; tới gần hơn, thấy ba bạch y đạo nhân cầm binh khí vây đánh một hán tử trung niên. Ba đạo nhân kia trên tay áo trái đều thêu ngọn lửa đỏ, rõ ràng là người của Ma giáo. Hán tử tay múa trường kiếm, kiếm quang loang loáng, đấu với ba đạo nhân đến hồi kịch liệt, tuy là một chọi ba nhưng không núng thế chút nào.
Vết thương ở hai chân Trương Vô Kỵ đã lành hẳn, song chàng còn giả vờ chưa đi lại được, vẫn ngồi trên xe trượt, cốt sao người của phái Nga Mi không đề phòng, dễ bề cùng Thù Nhi chạy trốn. Lúc này chàng bị một nam đệ tử phái Nga Mi đứng chắn trước mặt nên cứ phải nghiêng người nghển cổ mới thấy cảnh bốn người kia giao tranh. Chỉ thấy trường kiếm của hán tử trung niên càng lúc càng nhanh, đột nhiên hán tử xoay người, quát một tiếng, đâm một kiếm xuyên qua ngực một đạo nhân Ma giáo.
Các đệ tử phái Nga Mi lớn tiếng hoan hô, Trương Vô Kỵ thì kinh ngạc kêu lên một tiếng nhỏ, bởi chiêu “Thuận thủy thôi chu”[70] kia chính là một tuyệt chiêu của phái Võ Đang, còn hán tử trung niên sử chiêu kiếm pháp ấy chính là lục hiệp Ân Lê Đình.
Chúng đệ tử phái Nga Mi đứng xa xa xem giao đấu, không tiến lên trợ giúp. Hai đạo nhân Ma giáo thấy đối phương đã giết một đồng bọn của mình, nay lại có thêm nhiều trợ thủ mới tới, thì đột nhiên hú lên một tiếng, chia ra hai hướng nam bắc bỏ chạy.
Ân Lê Đình rượt theo gã đạo nhân chạy về phía nam. Ân lục hiệp chạy nhanh hơn hẳn kẻ địch, chỉ bảy tám bước đã tới sau lưng gã đạo nhân đó. Gã quay lại, múa song đao như điên, tựa hồ muốn liều chết với chàng.
Phái Nga Mi nghĩ Ân Lê Đình một mình chẳng thể đuổi hai kẻ địch; gã đạo nhân chạy về phía bắc khinh công lại rất cao cường, càng lúc càng nhanh, cứ tình thế này thì Ân Lê Đình dù có giết được gã đạo nhân chạy về phía nam đang quyết đấu với mình, thì cũng không cách gì đuổi kịp gã đạo nhân chạy về phía bắc. Đệ tử phái Nga Mi thù ghét Ma giáo, ai nấy nhìn Tĩnh Huyền, mong nhận lệnh chặn kẻ địch lại. Các nữ đệ tử đa số giao hảo với Kỷ Hiểu Phù, cho rằng nếu tên ma đầu của Ma giáo không gây tội ác thì vị lục hiệp của phái Võ Đang kia đã thành chú rể của bản phái rồi, nên ai cũng mong giúp Ân lục hiệp một tay.
Tĩnh Huyền trong lòng lưỡng lự, nghĩ Võ Đang lục hiệp được tôn sùng trong giới võ lâm, Ân Lê Đình không lên tiếng kêu gọi mà người ngoài lại nhúng tay vào, e phạm tội bất kính. Thành thử sau giây lát trù trừ, Tĩnh Huyền không ra lệnh chặn lại, thà để cho đạo nhân chạy thoát về phía bắc, còn hơn đắc tội với Ân Lê Đình.
Lúc ấy có một luồng thanh quang nhoáng lên, thanh trường kiếm từ tay Ân Lê Đình bay vút về phía bắc, nhanh như gió, xẹt như chớp phi thẳng tới lưng gã đạo nhân kia. Gã phát giác được, đang tính né tránh thì thanh kiếm đã xuyên thẳng qua người nhưng gã còn chạy tiếp về phía trước đến hơn hai trượng nữa mới ngã sấp xuống đất mà chết. Còn thanh kiếm thì sau khi xuyên qua người gã, còn bay thêm ba trượng mới rơi cắm thẳng xuống cát, tuy chỉ là một thanh kiếm vô tri, nhưng thần uy lẫm liệt.
Mọi người nhìn cảnh tượng kinh tâm động phách ấy thì không khỏi hoa mắt hết hồn, khó thốt nên lời. Khi quay lại phía Ân Lê Đình, chỉ thấy đạo nhân Ma giáo đang đấu với Ân lục hiệp thân hình loạng choạng, lảo đảo như kẻ say rượu, vứt song đao đi, hai tay múa may loạn xạ. Ân Lê Đình không thèm lý đến hắn nữa, bước về phía đệ tử phái Nga Mi. Ân lục hiệp đi được vài bước thì gã đạo nhân kia ngã lăn ra, không động đậy gì nữa. Ân lục hiệp đã dùng thủ pháp gì giết gã, không một ai nhìn thấy.
Các đệ tử phái Nga Mi bấy giờ mới lớn tiếng reo hò, ngay Diệt Tuyệt sư thái cũng gật gù, tiếp đó thở dài. Tiếng thở dài này có lẽ ngụ ý: phái Võ Đang có đệ tử tài giỏi như thế, phái Nga Mi lại không có truyền nhân sánh kịp. Hay có ngụ ý: Kỷ Hiểu Phù bạc mệnh, không lấy được người như thế này, lại bị hại bởi tên dâm đồ Ma giáo. Trong tâm trí Diệt Tuyệt sư thái, Kỷ Hiểu Phù dĩ nhiên bị Dương Tiêu làm hại, chứ không phải chính tay bà ta giết nàng.
Ba tiếng “Lục sư thúc” đã ra tới cửa miệng Trương Vô Kỵ, nhưng chàng cố kìm lại. Trong mấy vị sư bá sư thúc, Ân Lê Đình là người thân nhất với phụ thân chàng và cũng thương yêu chàng hơn cả. Vô Kỵ nhìn vị sư thúc sau chín năm xa cách, thấy sư thúc đầy vẻ phong trần, tóc mai đã điểm sợi bạc, lại nghĩ cái chết của Kỷ Hiểu Phù là một đòn nặng giáng vào tâm linh sư thúc. Trương Vô Kỵ gặp lại người thân, chỉ muốn chạy lên nhận họ, nhưng nghĩ đến ở đây tai mắt quá nhiều, không tiện để người ngoài hay biết để khỏi gây ra hậu họa. Chu Chỉ Nhược tuy đã biết chân tướng của chàng, nhưng sẽ không tiết lộ với người khác.
Ân Lê Đình cúi mình hành lễ với Diệt Tuyệt sư thái, nói:
– Đại sư huynh của tệ phái suất lãnh các sư đệ cùng đệ tử đời thứ ba, tổng cộng ba mươi hai người, đã tới Nhất Tuyến hiệp. Vãn bối phụng mệnh đại sư huynh đi trước đón quý phái.
Diệt Tuyệt sư thái nói:
– Hay lắm, vậy là phái Võ Đang tới trước rồi, nhưng đã giao chiến trận nào với yêu nhân chưa?
Ân Lê Đình nói:
– Đã giao chiến ba trận với hai kỳ Mộc, Hỏa của Ma giáo, giết được mấy tên yêu nhân, thất sư đệ Mạc Thanh Cốc có bị thương nhẹ.
Diệt Tuyệt sư thái gật gù, bà ta biết tuy Ân Lê Đình chỉ miêu tả sơ sài như thế nhưng thực chất ba trận ác đấu chắc phải tàn khốc dị thường, với tài nghệ của Võ Đang ngũ hiệp mà vẫn không hạ sát nổi chưởng kỳ sứ của Ma giáo, thất hiệp Mạc Thanh Cốc thậm chí còn bị thương. Diệt Tuyệt sư thái lại hỏi:
– Quý phái đã nắm rõ thực lực trên đỉnh Quang Minh hay chưa?
Ân Lê Đình đáp:
– Nghe nói Thiên Ưng giáo là chi phái của Ma giáo đã đem đại lực lượng tăng viện cho đỉnh Quang Minh, có người còn bảo Tử Sam Long Vương và Thanh Dực Bức Vương cũng đã tới.
Diệt Tuyệt sư thái ngạc nhiên:
– Tử Sam Long Vương cũng đã tới ư?
Hai người vừa nói chuyện, vừa đi song song bên nhau, chúng đệ tử lẽo đẽo theo sau cách một quãng xa, không dám lại gần nghe hai người nói những gì.
Lát sau Ân Lê Đình giơ tay từ biệt để đi liên lạc với phái Hoa Sơn. Tĩnh Huyền nói:
– Ân lục hiệp chạy đây chạy đó chắc đã đói rồi, mời dùng chút điểm tâm rồi hãy đi.
Ân Lê Đình cũng không làm khách, đáp:
– Nếu vậy, xin làm phiền quý vị vậy…
Các đệ tử phái Nga Mi thi nhau mang lương khô ra, người vun đất làm bếp, người nhóm lửa nấu mì. Bọn họ vốn ăn uống đơn giản, nhưng nay tiếp đãi Ân Lê Đình thì hết sức ân cần, cũng là vì nghĩ đến Kỷ Hiểu Phù.
Ân Lê Đình hiểu tâm ý của họ, khóe mắt rưng rưng, giọng nghẹn ngào:
– Đa tạ các vị sư tỷ sư muội.
Thù Nhi vốn chỉ lặng lẽ quan sát, lúc này đột nhiên lên tiếng:
– Ân lục hiệp, tiểu nữ muốn hỏi thăm một người, có được chăng?
Ân Lê Đình tay đang bưng bát mì nóng, quay đầu lại, hỏi:
– Vị tiểu sư muội quý tính đại danh là gì, không biết định hỏi thăm về ai? Nếu ta biết, tất sẽ trả lời rõ.
Thần thái chàng rất khiêm nhường. Thù Nhi nói:
– Tiểu nữ không phải người của phái Nga Mi, mà là tù nhân của họ.
Ân Lê Đình thoạt tiên ngỡ Thù Nhi là tiểu đệ tử phái Nga Mi, giờ nghe vậy không khỏi ngạc nhiên, nhưng thấy cô nương này rất thẳng thắn, bèn hỏi:
– Cô nương là người của Ma giáo ư?
Thù Nhi đáp:
– Không phải, tiểu nữ là người đối đầu với Ma giáo.
Ân Lê Đình không tiện hỏi kỹ lai lịch cô nương này, vì tôn trọng chủ nhân nên đưa mắt nhìn Tĩnh Huyền, hỏi ý. Tĩnh Huyền nói:
– Ngươi muốn hỏi Ân lục hiệp chuyện gì?
Thù Nhi đáp:
– Tiểu nữ muốn hỏi, lệnh sư huynh Trương Thúy Sơn Trương ngũ hiệp lần này có đến Nhất Tuyến hiệp hay không?
Lời vừa nghe, cả Ân Lê Đình lẫn Trương Vô Kỵ đều giật mình. Ân Lê Đình nói:
– Cô nương hỏi thăm ngũ sư ca của ta là có việc gì?
Thù Nhi hai má đỏ bừng, thấp giọng đáp:
– Tiểu nữ muốn biết công tử Trương Vô Kỵ có đến đó hay không?
Trương Vô Kỵ càng kinh ngạc, nghĩ thầm: “Thì ra nàng đã sớm biết chân tướng của ta, bây giờ mới nói trắng ra”.
Ân Lê Đình hỏi:
– Cô nương nói thực đấy chứ?
Thù Nhi đáp:
– Tiểu nữ thực tâm muốn hỏi thăm Ân lục hiệp, đâu dám gian dối gì.
Ân Lê Đình nói:
– Ngũ sư ca ta qua đời đã hơn mười năm, cây mọc bên mộ đã lớn, chẳng lẽ cô nương không biết hay sao?
Thù Nhi đứng bật dậy, kinh hãi kêu “Ôi” một tiếng, nói:
– Hóa ra Trương ngũ hiệp đã qua đời từ sớm, vậy là… công tử… chàng ta… đã mồ côi từ sớm.
Ân Lê Đình hỏi:
– Cô nương quen biết điệt nhi Vô Kỵ của ta ư?
Thù Nhi đáp:
– Năm năm trước, tiểu nữ từng đến nhà Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu, có gặp Trương công tử một lần, không hiểu hiện giờ Trương công tử ở đâu.
Ân Lê Đình nói:
– Ta phụng mệnh gia sư, có đến Hồ Điệp cốc thăm hỏi, nhưng khi đó vợ chồng Hồ Thanh Ngưu đã bị người ta giết hại, Vô Kỵ cũng chẳng rõ đi đâu. Sau đó ta có tìm nhiều nơi, nhưng không được tin gì, ôi, nào ngờ… nào ngờ…
Nói tới đây, sắc diện Ân Lê Đình buồn thảm vô cùng.
Thù Nhi vội hỏi:
– Sao, lục hiệp nhận được tin dữ hay sao?
Ân Lê Đình chăm chú nhìn Thù Nhi, hỏi:
– Tại sao cô nương lại quan thiết như vậy? Điệt nhi Vô Kỵ của ta có ân oán gì với cô nương?
Thù Nhi mắt nhìn về cõi xa xăm, buồn bã nói:
– Tiểu nữ chỉ muốn Trương công tử theo mình tới đảo Linh Xà…
Ân Lê Đình ngắt lời:
– Đảo Linh Xà ư? Kim Hoa bà bà và Ngân Diệp tiên sinh là thế nào với cô nương?
Thù Nhi không trả lời, chỉ lẩm bẩm một mình:
– Chàng chẳng những không chịu… lại còn đánh ta, mắng ta, cắn tay ta máu chảy dầm dề…
Nàng vừa lẩm bẩm, vừa lấy tay trái khẽ xoa xoa mu bàn tay phải.
– Có điều… sao ta vẫn không quên được chàng. Ta không muốn hại chàng. Ta chỉ muốn chàng theo về đảo Linh Xà, bà bà sẽ dạy chàng võ công, sẽ tìm cách chữa trị cho chàng khỏi chất âm độc của Huyền Minh thần chưởng. Ai ngờ chàng hung dữ quá, tưởng lầm lòng tốt của ta, ngỡ ta có ý hại chàng.
Bao nghi vấn trong lòng Trương Vô Kỵ bây giờ đã rõ: “Thì ra Thù Nhi chính là cô bé A Ly đã nắm tay ta ở Hồ Điệp cốc, kẻ tình lang mà nàng ấy khắc khoải không quên cũng chính là ta”. Chàng nhìn nghiêng sang, thấy mặt Thù Nhi sưng sưng, đâu còn chút xinh xắn nào của lần gặp đầu tiên? Chỉ có đôi mắt trong veo như nước hồ thu sâu thăm thẳm là vẫn như hồi xưa.
Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng nói:
– Sư phụ của nó là Kim Hoa bà bà nghe đâu cũng có dây dưa với Ma giáo. Mụ ta không phải chính nhân, nhưng hiện giờ chúng ta chưa muốn thêm kẻ thù, chỉ tạm giữ nó thôi.
Ân Lê Đình nói:
– Ồ, thì ra vậy! Cô nương đối với điệt nhi Vô Kỵ của ta quả là chí tình, chỉ tiếc Vô Kỵ bạc phúc, mấy bữa trước ta có gặp Võ trang chủ Võ Liệt của Chu Võ liên hoàn trang, mới biết Trương Vô Kỵ hơn năm năm trước đã sảy chân rơi xuống vực sâu mất xác. Than ôi, ta và phụ thân nó tình thân hơn thủ túc, nào ngờ ông Trời chẳng phù hộ người hiền, đến giọt máu cuối cùng…
Ân Lê Đình nói chưa hết câu, nghe huỵch một tiếng, thấy Thù Nhi ngã lăn ra bất tỉnh.
Chu Chỉ Nhược vội bước tới đỡ Thù Nhi dậy, xoa bóp ngực một hồi Thù Nhi mới hồi tỉnh. Trương Vô Kỵ thật là khó xử vô cùng. Nhìn cảnh Ân Lê Đình và Thù Nhi đau lòng như thế, mà chàng lại dửng dưng đứng đó. Chàng quay đầu lại, thấy ánh mắt Chu Chỉ Nhược đầy nghi vấn, tựa hồ muốn hỏi: “Vì sao nàng ta không nhận ra huynh nhỉ?” Trương Vô Kỵ tự biết mấy năm qua tướng mạo của mình thay đổi rất nhiều, nếu chàng không tự nhắc đến kỷ niệm trên sông Hán Thủy, Chu Chỉ Nhược cũng không thể nhận ra.
Thù Nhi nghiến răng, hỏi:
– Ân lục hiệp, kẻ nào hại chết Trương Vô Kỵ vậy?
Ân Lê Đình nói:
– Không ai hại chết nó cả. Theo lời Võ Liệt, thì chính mắt ông ta thấy Trương Vô Kỵ trượt chân rơi xuống vực, cả huynh đệ kết nghĩa của Võ Liệt là Kinh Thiên Nhất Bút Chu Trường Linh cũng rơi xuống chết theo.
Thù Nhi thở dài, buồn bã ngồi xuống.
Ân Lê Đình nói:
– Quý tính đại danh của cô nương là gì?
Thù Nhi lắc đầu không đáp, ngẩn ngơ rơi lệ, rồi đột nhiên nằm phục xuống cát, khóc òa lên. Ân Lê Đình dỗ dành:
– Cô nương cũng đừng quá đau lòng. Vô Kỵ nếu không rơi xuống vực sâu thì chất âm độc cũng phát tác, e rằng không thể sống đến lúc này. Ôi, Vô Kỵ rơi xuống vực tan xương nát thịt có khi lại còn hơn phải chịu cái cảnh bị hành hạ đau đớn triền miên vì chất âm độc.
Diệt Tuyệt sư thái bỗng nói:
– Tên nghiệt chủng Trương Vô Kỵ chết sớm cũng là may, nếu không sẽ chỉ là cái mầm họa làm hại nhân gian mà thôi.
Thù Nhi cả giận, lớn tiếng nói:
– Lão tặc ni kia, đừng có hồ thuyết bát đạo!
Đám đệ tử phái Nga Mi nghe Thù Nhi dám cất lời nhục mạ sư tôn, tức thì có bốn năm người tuốt kiếm chĩa vào nàng. Thù Nhi không hề sợ hãi, chửi tiếp:
– Lão tặc ni, phụ thân của Trương Vô Kỵ là sư huynh của Ân lục hiệp, hiệp danh lừng lẫy thiên hạ, có gì là không hay?
Diệt Tuyệt sư thái cười khẩy, không đáp. Tĩnh Huyền nói:
– Ngươi nói hết chưa? Phụ thân của Trương Vô Kỵ quả là đệ tử danh môn chính phái, nhưng còn mẹ hắn thì sao? Đứa con do yêu nữ Ma giáo sinh ra, chẳng phải mầm họa nghiệt chủng thì là gì?
Thù Nhi hỏi:
– Mẫu thân của Trương Vô Kỵ là ai? Sao lại gọi là yêu nữ Ma giáo?
Các đệ tử phái Nga Mi cười ồ lên, chỉ một mình Chu Chỉ Nhược cúi đầu im lặng. Ân Lê Đình tỏ ra ngượng ngập. Trương Vô Kỵ thì đỏ mặt tía tai, nước mắt lưng tròng, nếu không định quyết ý che giấu lai lịch thì đã lên tiếng biện bạch cho mẹ vài câu.
Tĩnh Huyền là người trung hậu, nói với Thù Nhi:
– Vợ Trương ngũ hiệp là con gái của giáo chủ Thiên Ưng giáo Ân Thiên Chính, tên Ân Tố Tố… Thù Nhi kêu “ồ” một tiếng, tái mặt đi. Tĩnh Huyền nói:
– Trương ngũ hiệp vì lấy ả yêu nữ đó mà thân bại danh liệt, phải tự vẫn trên núi Võ Đang. Chuyện ấy cả thiên hạ đều biết, chẳng lẽ cô nương không biết gì?
Thù Nhi nói:
– Tiểu nữ ở đảo Linh Xà, mọi việc của võ lâm Trung nguyên, tiểu nữ không hay biết.
Tĩnh Huyền nói:
– Ra vậy. Cô nương đã đắc tội với sư phụ ta, mau tạ tội đi.
Thù Nhi lại hỏi:
– Ân Tố Tố thì sao? Bà ấy hiện giờ ở đâu?
Tĩnh Huyền nói:
– Đã tự vẫn cùng một lượt với Trương ngũ hiệp rồi.
Thù Nhi lại rùng mình, nói:
– Bà… bà ấy cũng chết rồi ư?
Tĩnh Huyền lấy làm lạ, hỏi:
– Cô nương biết Ân Tố Tố hay sao?
Lúc đó, bỗng thấy phía đông bắc có một ngọn lửa màu xanh bay vọt lên trời, Ân Lê Đình nói:
– Ồ, điệt nhi Thanh Thư của ta bị địch vây đánh rồi!
Ân Lê Đình cúi người hành lễ với Diệt Tuyệt sư thái, ôm quyền chào mọi người, rồi chạy về hướng ngọn lửa xanh.
Tĩnh Huyền phất tay một cái, các đệ tử phái Nga Mi liền chạy theo.
Khi tới gần, thấy ba người đang vây đánh một người. Ba người đội mũ vải, mặc áo ngắn kiểu nô bộc, tay cầm đơn đao. Mọi người mới xem vài chiêu đã kinh hãi, ba người kia tuy ăn mặc như gia nô, nhưng ra tay độc địa không kém gì đệ nhất hảo thủ, tài nghệ cao hơn hẳn ba đạo nhân đã bị Ân Lê Đình giết. Ba người này chạy như đèn cù quanh một thanh niên thư sinh mà tấn công. Thanh niên kia đã hoàn toàn núng thế, nhưng thanh trường kiếm vẫn bảo vệ môn hộ kín đáo lạ thường.
Gần chỗ bốn người đang giao đấu có sáu hoàng y hán tử, trên áo đều thêu ngọn lửa hồng, tức thị họ là người của Ma giáo. Sáu người ấy thấy Ân Lê Đình và phái Nga Mi kéo đến thì một người lùn và mập trong số đó liền gọi to:
– Huynh đệ Ân gia, các người nguy rồi, hãy cúp đuôi chạy cho mau, để bọn ta chặn hậu cho.
Một trong ba người đang giao đấu tức giận nói:
– Hậu Thổ kỳ chậm như rùa, họ Nhan kia, hãy chạy trước đi!
Tĩnh Huyền lạnh lùng nói:
– Chết đến nơi rồi, còn cãi nhau.
Chu Chỉ Nhược nói:
– Sư tỷ, mấy người kia là ai vậy?
Tĩnh Huyền đáp:
– Ba kẻ ăn mặc theo lối gia nô là nô bộc của Ân Thiên Chính, tên gọi Ân Vô Lộc, Ân Vô Phúc, Ân Vô Thọ.
Chu Chỉ Nhược kinh hãi nói:
– Ba tên gia nô mà… tài nghệ cao siêu vậy sao?
Tĩnh Huyền nói:
– Họ vốn là tướng cướp thành danh trong hắc đạo, không phải bọn tầm thường đâu. Đám mặc áo vàng thì là yêu nhân trong Hậu Thổ kỳ của Ma giáo. Gã mập lùn chắc là Nhan Viên, chưởng kỳ sứ của Hậu Thổ kỳ. Sư phụ bảo năm chưởng kỳ sứ của Ngũ kỳ trong Ma giáo tranh giành địa vị giáo chủ với Thiên Ưng giáo, vốn bất hòa.
Lúc đó thanh niên thư sinh gặp chiêu nguy hiểm, nghe “soạt” một tiếng, tay áo bên trái bị đơn đao của Ân Vô Thọ chém mất một mảnh.
Ân Lê Đình hú lên một tiếng, trường kiếm chém về phía Ân Vô Lộc. Ân Vô Lộc giơ đao chống đỡ, đao kiếm đụng nhau. Giờ đây nội lực của Ân Lê Đình đã hết sức lợi hại, nghe choang một tiếng, đơn đao của Ân Vô Lộc liền cong lại, biến thành một cái móc. Ân Vô Lộc cả kinh, vội nhảy ra ngoài ba bước.
Đột nhiên Thù Nhi vọt tới, ngón trỏ tay phải chọc trúng sau ót Ân Vô Lộc, rồi lại nhảy ngay về chỗ cũ.
Ân Vô Lộc võ công không phải tầm thường, có điều là vừa bị nội lực của Ân Lê Đình hất văng ra, khí huyết đang nhộn nhạo trong ngực, chân đứng chưa vững, bị trúng một đòn của Thù Nhi thì đau đớn gập cả người, rên rỉ, toàn thân run bần bật.
Ân Vô Phúc, Ân Vô Thọ cả kinh, không còn ham tấn công thanh niên thư sinh, chạy đến dìu Ân Vô Lộc, thấy y quằn quại, biết là y đã bị trọng thương. Hai người đưa mắt nhìn Thù Nhi, đột nhiên cùng kêu lên:
– Thì ra là Tam tiểu thư.
Thù Nhi nói:
– Hừ, còn nhận ra ta ư?
Mọi người cứ tưởng hai người kia sẽ xông lên thí mạng với Thù Nhi, không ngờ chỉ xốc Ân Vô Lộc lên, không nói một lời, chạy về phía bắc. Biến cố này xảy ra đột ngột, ai nấy há mồm tròn mắt, không hiểu chuyện gì.
Gã mập lùn giơ tay trái phất một cái, trong tay đã cầm một lá cờ lớn màu vàng, năm người kia cũng lấy cờ ra phất, tuy chỉ có sáu người, nhưng các lá cờ kêu phần phật, khí thế thật uy võ, chầm chậm lùi về phía bắc.
Người của phái Nga Mi thấy kỳ trận cổ quái, đều đứng ngẩn người. Hai nam đệ tử thét lên, phóng mình đuổi theo. Ân Lê Đình đảo người một cái, đi sau mà tới trước, chắn hai đệ tử kia, đẩy nhẹ họ lại, hai người đó không chịu nổi, phải lùi ba bước, mặt mũi đỏ bừng.
Tĩnh Huyền quát:
– Hai sư đệ mau lui về, Ân lục hiệp có hảo ý, bọn Hậu Thổ kỳ kia không đuổi theo được đâu.
Ân Lê Đình nói:
– Hôm trước ta cùng Mạc thất đệ đuổi theo Liệt Hỏa kỳ trận nên đã bị thua to, Mạc sư đệ đầu tóc, lông mày bị cháy sém một nửa đó.
Nói xong chàng vén tay áo bên trái lên cho mọi người nhìn thấy các vết bỏng. Hai nam đệ tử phái Nga Mi bất giác thầm kinh sợ.
Diệt Tuyệt sư thái trừng mắt lạnh lùng nhìn Thù Nhi một hồi, xẵng giọng hỏi:
– Là “Thiên thù vạn độc thủ” đấy chăng?
Thù Nhi nói:
– Còn chưa luyện thành.
Diệt Tuyệt sư thái nói:
– Nếu đã luyện thành thì sẽ ghê gớm tới mức nào? Vì sao ngươi đả thương gã đó?
Thù Nhi nói:
– Tiếc thay ta chưa giết được hắn.
Diệt Tuyệt sư thái hỏi:
– Vì sao?
Thù Nhi đáp:
– Chuyện riêng của tiểu nữ, không liên quan gì tới lão ni.
Diệt Tuyệt sư thái hơi ngả người sang bên, đã giật lấy thanh kiếm từ tay Tĩnh Huyền, tiếp đó Thù Nhi vội nhảy vọt về phía sau, mặt trắng bệch. Thì ra Diệt Tuyệt sư thái trong nháy mắt đã chém một kiếm vào ngón trỏ tay phải của Thù Nhi, thủ pháp cực nhanh, không ai nhìn thấy. Nào ngờ Thù Nhi vì cổ tay gãy chưa lành, bàn tay không có lực, lại lo Thiên thù vạn độc thủ luyện chưa thành nên đã dùng cái bao thép bao ngón tay lại trước khi xuất thủ. Diệt Tuyệt sư thái vừa rồi chỉ sử dụng kiếm thường, nên chưa chém đứt ngón tay của Thù Nhi.
Diệt Tuyệt sư thái ném trả thanh kiếm cho Tĩnh Huyền, hừ một tiếng:
– Lần này ta tha cho, lần sau còn sử dụng công phu tà ác đó thì đừng trách ta.
Bà ta đánh tiểu bối một chiêu không trúng, liền tự coi trọng thân phận, không ra tay lần thứ hai.
*
* *
Ân Lê Đình thấy Thù Nhi luyện môn võ công âm độc ấy, vốn phạm điều đại kỵ của con nhà võ; nhưng nàng ta dùng để tấn công Ân Vô Lộc, là giúp phe mình; hơn nữa, nàng ta một lòng chí tình với Trương Vô Kỵ, nên cảm động, không nỡ để Diệt Tuyệt sư thái đả thương nàng, bèn lên tiếng:
– Sư thái, tiểu cô nương này học nhầm võ công, chúng ta sẽ thong thả tìm cho nó một danh sư khác, hoặc giả… hoặc giả…
Ân Lê Đình vốn định nói hoặc giả Diệt Tuyệt sư thái thu nhận Thù Nhi làm môn hạ phái Nga Mi thì thật là hay, nhưng sực nhớ nàng ta vừa gọi Diệt Tuyệt sư thái là “lão tặc ni”, vội ngừng lại không nói nữa, kéo gã thư sinh kia lại, nói:
– Thanh Thư, mau bái kiến sư thái cùng các vị sư bá sư thúc.
Thư sinh kia tiến lên ba bước, quỳ xuống hành lễ với Diệt Tuyệt sư thái, khi y quay sang hành lễ với Tĩnh Huyền thì mọi người vội nói không dám, ai cũng hoàn lễ. Trương Tam Phong tuổi đã hơn trăm, tính vai vế còn cao hơn Diệt Tuyệt sư thái vài bậc. Ân Lê Đình chỉ vì đính hôn với Kỷ Hiểu Phù, mới coi như kém Diệt Tuyệt sư thái một bậc, chứ nếu tính Trương Tam Phong và tổ sư phái Nga Mi Quách Tương là ngang vai nhau thì Diệt Tuyệt sư thái phải gọi Ân Lê Đình là sư thúc. Vì hai phái Võ Đang và Nga Mi khác nhau về môn hộ, không tính chuyện vai vế, ai nấy tùy theo độ tuổi mà xưng hô. Khi chàng thư sinh kia gọi các đệ tử phái Nga Mi là sư bá sư thúc, thì bọn Tĩnh Huyền làm sao dám nhận lễ.
Mọi người thấy thư sinh một mình đấu với ba huynh đệ họ Ân, pháp độ nghiêm cẩn, chiêu số tinh kỳ, quả là phong thái của đệ tử danh môn. Khi bị ba cao thủ vây đánh, tuy đã ở vào thế hạ phong nhưng vẫn bình tĩnh chống trả, không chút hoảng loạn, quả không dễ gì. Lúc này y tới gần, mọi người đều không khỏi khen thầm: “Quả là một thiếu niên anh tuấn!”
Chàng thư sinh mi thanh mục tú, vẻ tuấn mỹ còn chứa đựng vài phần khí độ hiên ngang khiến người ta thoạt nhìn đã phải vì nể.
Ân Lê Đình nói:
– Đây là Thanh Thư, độc sinh ái tử của Tống đại sư ca ta.
Tĩnh Huyền nói:
– Mấy năm rồi từng nghe hiệp danh của Ngọc Diện Mạnh Thường, trên giang hồ đều khen Tống thiếu hiệp khẳng khái trượng nghĩa, giúp người giải khốn; hôm nay được gặp, thật là vinh hạnh.
Các đệ tử phái Nga Mi thì thầm bàn tán, ai cũng lộ vẻ tán thưởng “quả nhiên danh bất hư truyền”.
Thù Nhi đứng bên cạnh Trương Vô Kỵ, nói nhỏ:
– A Ngưu ca, chàng ta đẹp trai hơn hẳn ca ca.
Trương Vô Kỵ nói:
– Dĩ nhiên, khỏi cần nói.
Thù Nhi hỏi:
– Ca ca không ghen à?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Nực cười chưa, việc gì ta phải ghen?
Thù Nhi nói:
– Chàng ta cứ nhìn Chu cô nương chằm chằm, ca ca không ghen sao?
Trương Vô Kỵ nhìn về phía Tống Thanh Thư, quả nhiên thấy y đang mải ngắm Chu Chỉ Nhược, nhưng chàng cũng chẳng để tâm. Từ lúc biết Thù Nhi chính là cô bé A Ly năm xưa gặp tại Hồ Điệp cốc thì trong lòng xao xuyến bồi hồi, bấy giờ Thù Nhi cưỡng ép chàng đi theo về đảo Linh Xà, chàng vùng vẫy không thoát được nên đã cắn một cái thật mạnh vào mu bàn tay nàng, ai ngờ nàng lại cứ thương nhớ chàng mãi chẳng quên, khiến chàng không khỏi cảm kích.
Ân Lê Đình nói:
– Thanh Thư, ta đi thôi.
Tống Thanh Thư nói:
– Phái Không Động hẹn trưa nay cùng hội họp ở đây, giờ này vẫn chưa thấy đến, e rằng có chuyện bất trắc.
Ân Lê Đình lộ vẻ lo lắng:
– Kể cũng đáng ngại thật.
Tống Thanh Thư nói:
– Ân lục thúc, chi bằng mình cùng đi với các vị tiền bối phái Nga Mi về phía tây thì hơn.
Ân Lê Đình gật đầu:
– Phải lắm.
Diệt Tuyệt sư thái và bọn Tĩnh Huyền đều nghĩ thầm: “Những năm gần đây Trương Tam Phong chân nhân không để tâm tới các tục vụ nữa, thực chất chưởng môn phái Võ Đang giờ đây là Tống Viễn Kiều. Xem ra chưởng môn đời thứ ba của phái Võ Đang sẽ do vị Tống thiếu hiệp này tiếp nhiệm. Ân Lê Đình tuy là sư thúc, song phải nghe lời sư điệt”. Bọn họ không biết rằng Ân Lê Đình tính nết ôn hòa, ít khi tự đưa ra chủ trương; người khác nói sao, Ân lục hiệp cũng chẳng phản đối.
Đoàn người đi về hướng tây, chừng mười bốn mười lăm dặm thì tới trước một đồi cát lớn. Tĩnh Huyền thấy Tống Thanh Thư chạy lên đồi cát, bèn phất tay trái một cái, hai đệ tử phái Nga Mi cũng chạy lên ngay, không chịu kém phái Võ Đang. Ba người lên đến đỉnh ngọn đồi thì cùng kêu to kinh hãi, trên sa mạc phía tây đồi cát nằm ngổn ngang chừng ba mươi xác chết.
Cả đoàn nghe tiếng kêu của ba người cùng chạy lên, thấy trong đám tử thi kia có người già người trẻ, kẻ bị vỡ đầu, người thì thủng ngực, tựa hồ bị đánh bằng những cây gậy thật lớn.
Ân Lê Đình vốn hiểu biết rộng, nói:
– Bang Phiên Dương ở Giang Tây bị giết sạch là bởi tay Cự Mộc kỳ của Ma giáo đó.
Diệt Tuyệt sư thái cau mày hỏi:
– Bang Phiên Dương tới đây làm gì? Quý phái gọi họ đến ư?
Giọng bà ta có ý không vui. Trong võ lâm, các danh môn chính phái đối với bang hội vốn có thành kiến kỳ thị, Diệt Tuyệt sư thái không muốn hòa lẫn với họ thành một đám.
Ân Lê Đình vội nói:
– Không ai mời bang Phiên Dương cả. Chẳng qua Lưu bang chủ của bang Phiên Dương là đệ tử ký danh của phái Không Động, có lẽ họ nghe sáu phái vây đánh đỉnh Quang Minh nên tự kéo đến giúp sư môn đó thôi.
Diệt Tuyệt sư thái hừ một tiếng, không nói nữa.
Mọi người đem thi thể bang chúng bang Phiên Dương vùi xuống dưới cát. Mọi người vừa định tiếp tục lên đường thì đột nhiên nấm mồ tận cùng phía tây vỡ ra, trong đám bụi cát có một người vùng dậy, chộp ngay một nam đệ tử, chạy vụt đi.
Biến cố đột ngột khiến ai nấy sững sờ. Bảy, tám đệ tử phái Nga Mi kêu thất thanh. Diệt Tuyệt sư thái, Ân Lê Đình, Tống Thanh Thư, Tĩnh Huyền bốn người cùng rượt theo. Một hồi sau, mọi người cùng vỡ lẽ, từ trong nấm mộ vọt ra chẳng phải ai khác, chính là Thanh Dực Bức Vương của Ma giáo. Y mặc giả trang phục bang chúng bang Phiên Dương, nằm lẫn trong đám tử thi, nín thở giả chết. Đệ tử phái Nga Mi không để ý, đem y chôn luôn xuống cát. Y tài cao gan to, cứ để yên cho người khác đem chôn, nằm trong cát mềm nhịn thở một lát cũng chẳng sao, đợi khi mọi người không đề phòng mới đạp cát chui ra.
Lúc đầu nhóm Diệt Tuyệt sư thái bốn người chạy ngang hàng, được hơn nửa vòng đã phân cao thấp thành hai người chạy trước, hai người chạy sau. Ân Lê Đình và Diệt Tuyệt sư thái chạy trước, Tống Thanh Thư và Tĩnh Huyền chạy sau. Thanh Dực Bức Vương khinh công quá cao, quả là thế thượng vô song, tuy trong tay ôm thêm một người mà bọn Ân Lê Đình vẫn không sao đuổi kịp.
Chạy gần hết vòng thứ hai, Tống Thanh Thư bèn dừng lại, nói to:
– Sư thúc Triệu Linh Châu, sư thúc Bối Cẩm Nghi, hãy chặn đường ở vị trí cung Ly; sư thúc Đinh Mẫn Quân, sư thúc Lý Minh Hà, hãy chặn đường ở vị trí cung Chấn!
Tống Thanh Thư cứ thế liên tiếp ra lệnh cho hơn ba chục đệ tử phái Nga Mi chia ra chiếm giữ các phương vị bát quái. Các đệ tử phái Nga Mi đang như rắn mất đầu, giờ nghe Tống Thanh Thư ra lệnh rất uy nghiêm, ai nấy tức thời tuân theo. Bây giờ Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu không còn cách gì chạy vòng tròn được nữa, y cười phá lên, tung người đang ôm trong tay lên trời, rồi bỏ chạy ra xa.
Diệt Tuyệt sư thái giơ tay đỡ gã đệ tử từ trên không rơi xuống. Chỉ nghe tiếng Vi Nhất Tiếu từ xa vọng lại qua cát bụi:
– Phái Nga Mi có nhân tài như thế, Diệt Tuyệt lão ni quả không vừa!
Câu này rõ ràng khen ngợi Tống Thanh Thư. Diệt Tuyệt sư thái sầm mặt, cúi nhìn gã đệ tử, thấy chỗ yết hầu máu thịt bầy nhầy, lộ rõ hai hàng vết răng, gã đã chết rồi.
Mọi người vây quanh Diệt Tuyệt sư thái, ai nấy lặng thinh. Lát sau, Ân Lê Đình nói:
– Nghe đâu Vi Nhất Tiếu sau mỗi lần thi triển võ công lại phải uống no máu nóng của một người sống, lời đồn ấy quả không sai. Tội nghiệp cho vị sư đệ này… ô.
Diệt Tuyệt sư thái vừa xấu hổ vừa căm giận. Từ khi bà ta tiếp nhiệm chức chưởng môn, phái Nga Mi chưa từng bẽ bàng thế này bao giờ, hai đệ tử liên tiếp bị địch nhân hút máu chết tươi, thế mà mặt mũi kẻ địch ra sao cũng chưa nhìn rõ.
Bà ta thừ người ra một hồi, hỏi Tống Thanh Thư:
– Sao ngươi biết tên các đệ tử của ta?
Tống Thanh Thư đáp:
– Lúc nãy Tĩnh Huyền sư thúc có đưa đệ tử chào hỏi cả rồi.
Diệt Tuyệt sư thái nói:
– Ồ, nghe một lần nhớ liền! Phái Nga Mi ta sao có được nhân tài như thế?
Tối hôm đó, khi mọi người dừng chân nghỉ đêm, Tống Thanh Thư cung kính đến trước mặt Diệt Tuyệt sư thái hành lễ, nói:
– Tiền bối, vãn bối có một chuyện đáng ra không nên hỏi, muốn thỉnh cầu.
Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng nói:
– Chuyện đã không nên hỏi thì đừng mở miệng ra nữa.
Tống Thanh Thư lại cung kính hành lễ, nói:
– Thưa vâng.
Rồi quay về ngồi bên cạnh Ân Lê Đình.
Mọi người thấy Tống Thanh Thư khẩn cầu Diệt Tuyệt sư thái nhưng bị cự tuyệt, không ai dám hỏi thêm, nhưng đều tò mò muốn biết y định hỏi chuyện gì. Đinh Mẫn Quân nhịn không được, bèn tới gần, hỏi:
– Tống huynh đệ, cậu định hỏi sư phụ ta điều gì vậy?
Tống Thanh Thư đáp:
– Gia phụ khi truyền thụ kiếm pháp cho vãn bối, có nói rằng hiện nay trên đời kiếm thuật thông thần thì sư tổ của bổn phái đứng thứ nhất; kế đến Diệt Tuyệt tiền bối chưởng môn phái Nga Mi. Gia phụ nói kiếm pháp của hai phái Võ Đang và Nga Mi mỗi bên có chỗ mạnh chỗ yếu, như chiêu “Thủ huy ngũ huyền”[71] của bản môn so với chiêu “Khinh la tiểu phiến”[72] của quý phái là đại đồng tiểu dị. Nhưng kình lực dồn ra mũi kiếm quá mạnh, khi xuất chiêu không được linh hoạt uyển chuyển bằng chiêu “Khinh la tiểu phiến”.
Tống Thanh Thư vừa nói vừa rút kiếm ra múa cả hai chiêu, lúc sử chiêu Khinh la tiểu phiến thì không được thuần thục cho lắm.
Đinh Mẫn Quân cười nói:
– Chiêu này chưa đúng đâu.
Tiếp lấy trường kiếm từ tay Tống Thanh Thư, làm mẫu cho y xem, nói:
– Cổ tay ta còn đau, không dùng lực, nhưng kiểu cách phải như thế.
Tống Thanh Thư rất lấy làm thán phục, nói:
– Gia phụ vẫn thường nói, ông tự hận mình phúc mỏng, không được xem kiếm thuật của tôn sư. Hôm nay vãn bối được xem Đinh sư thúc sử chiêu Khinh la tiểu phiến, đúng là sáng mắt ra. Vãn bối ban nãy định xin sư thái chỉ dạy cho vài chiêu, để làm sáng tỏ một vài điều vãn bối chưa tỏ tường về kiếm pháp, song vãn bối không phải là đệ tử của quý phái nên chưa dám hé miệng.
Diệt Tuyệt sư thái ngồi ở đằng xa, những lời Tống Thanh Thư nói, bà ta đều nghe thấy cả, lại nghe bảo Tống Viễn Kiều tôn bà ta đứng thứ hai trong thiên hạ về kiếm pháp thì trong lòng vô cùng đắc ý. Trương Tam Phong là Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ học thời nay, ai ai cũng kính phục, bà ta chưa bao giờ dám mơ tưởng theo kịp vị đại tông sư cổ kim hiếm có này. Nay đại đệ tử phái Võ Đang lại công nhận kiếm thuật của bà ta là tinh diệu nhất, chỉ đứng sau Trương Tam Phong, thì thật là vinh hạnh. Diệt Tuyệt sư thái thấy Đinh Mẫn Quân múa chiêu kia, tinh thần và kình lực chỉ đạt ba bốn phần hỏa hầu, kiếm pháp lừng danh thiên hạ của phái Nga Mi há chỉ như thế thôi ư? Bà liền tới gần, chẳng nói chẳng rằng, cầm lấy thanh kiếm từ tay Đinh Mẫn Quân, tay đưa lên ngang mũi, rung nhẹ một cái, mũi kiếm réo lên vù vù, chém liền chín nhát từ phải qua trái, lại từ trái qua phải, nhanh vô cùng, song vẫn nhìn rõ từng nhát chém một.
Chúng đệ tử thấy sư phụ thi triển kiếm pháp tinh diệu như thế, ai nấy hồi hộp, mồ hôi rịn ra ướt cả gan bàn tay.
Ân Lê Đình thốt lên:
– Hảo kiếm pháp, hảo kiếm pháp! Hay quá!
Tống Thanh Thư ngưng thần nín thở. Y vốn chỉ muốn nói vài lời lấy lòng Diệt Tuyệt sư thái, tán thưởng kiếm pháp phái Nga Mi, ai ngờ khi bà ta biểu diễn thực là cao diệu ngoài sức tưởng tượng, trong lòng không khỏi thán phục, thành tâm thành ý xin bà ta chỉ dạy. Tống Thanh Thư hỏi tới đâu, Diệt Tuyệt sư thái dạy tới đó, xem ra còn tận tình hơn cả khi dạy cho đệ tử bản môn. Tống Thanh Thư có vốn võ học cao siêu, lại thông minh, câu nào cũng hỏi toàn chỗ hiểm hóc. Các đệ tử phái Nga Mi vây quanh hai người, xem sư phụ thi triển từng chiêu thức, tất cả đều tinh diệu kỳ ảo; có kẻ theo sư phụ đã hơn mười năm, chưa từng thấy bà hiển lộ thần kỹ thế này bao giờ.
Trương Vô Kỵ và Thù Nhi đứng bên ngoài vòng người, đều cảm thấy không tiện xem lén tuyệt kỹ kiếm thuật của phái Nga Mi. Thù Nhi bỗng nói với Trương Vô Kỵ:
– A Ngưu ca, nếu muội học được khinh công như Thanh Dực Bức Vương, có chết cũng cam lòng.
Trương Vô Kỵ nói:
– Công phu tà môn ấy, học làm gì? Ân lục… Ân lục hiệp nói đó, Vi Nhất Tiếu mỗi lần thi triển võ công đều phải hút máu người, như thế có khác gì ma quỷ?
– Y giỏi võ công, nên mới giết được đệ tử phái Nga Mi. Giả dụ khinh công của y kém một chút tất bị lão ni cô tóm được, khi đó y cũng bị người ta giết, chỉ là không bị hút máu thôi. Đằng nào thì người cũng chết, có bị hút máu hay không, có khác gì kia chứ? Danh môn chính phái với tà ma ngoại đạo cũng như nhau cả thôi.
Trương Vô Kỵ nhất thời chưa biết nói sao. Bỗng thấy từ trong đám đông có một thanh trường kiếm sáng lấp lánh bay thẳng lên trời. Thì ra Tống Thanh Thư đang đối chiêu với Diệt Tuyệt sư thái, đến chiêu thứ năm bà ta dùng chiêu “Hắc chiểu linh hồ” hất văng trường kiếm của Tống Thanh Thư lên không trung. Chiêu này là do tổ sư phái Nga Mi là Quách Tương nghĩ ra, để kỷ niệm năm xưa cùng Dương Quá tới đầm lầy bắt chồn.
Mọi người cùng ngẩng lên nhìn theo thanh kiếm, đột nhiên thấy ở góc đông bắc xa hàng chục dặm có một ngọn lửa màu vàng bốc lên trời. Ân Lê Đình kêu lên:
– Phái Không Động gặp địch rồi, mau đi tiếp ứng!
Lần này sáu đại môn phái đến Tây Vực vây đánh Ma giáo, để hành động kín đáo, theo phương lược chia nhau tấn công, ước định với nhau dùng hỏa tiễn sáu màu làm tín hiệu, hỏa tiễn màu vàng là tín hiệu của phái Không Động.
Mọi người chạy về phía có hỏa tiễn bắn lên, thấy tiếng kêu thét chém giết, càng đến gần nghe càng thảm thiết, chốc chốc lại có tiếng rú của người trước khi chết. Lúc đến gần thì ai nấy cả kinh. Trước mắt là một đại đấu trường chém giết, mỗi bên phải có tới vài trăm người tham chiến; dưới ánh trăng sáng, đao quang kiếm ảnh, ai nấy đang liều chết đâm chém nhau.
Trương Vô Kỵ trong đời chưa từng chứng kiến một trường đại chiến thế này bao giờ, chỉ thấy đao kiếm lấp loáng, máu đổ thịt rơi, tình cảnh thảm khốc không nỡ nhìn. Chàng không mong Ma giáo đắc thắng, cũng không muốn phe của Ân lục thúc đắc thắng, một bên là phe của cha, một bên là phe của mẹ, song hai phe lại ở thế không đội trời chung, mỗi người bị giết đều khiến chàng đau lòng.
Ân Lê Đình vừa quan sát tình thế vừa nói:
– Phe địch bao gồm Nhuệ Kim, Hồng Thủy, Liệt Hỏa ba kỳ. Ồ, phe ta có phái Không Động, phái Hoa Sơn… phái Côn Luân cũng đã tới. Ba phái phe ta đấu với ba kỳ bên địch. Thanh Thư, chúng ta cũng tham chiến đi thôi!
Ân Lê Đình giơ trường kiếm đánh dứ một nhát, kiếm phát ra tiếng ong ong.
Tống Thanh Thư nói:
– Khoan đã, lục thúc xem kìa, đằng kia còn một đám đông bọn địch đang chờ thời cơ hành sự.
Trương Vô Kỵ nhìn theo ngón tay Tống Thanh Thư chỉ về phía đông, quả nhiên thấy ở ngoài xa mấy chục trượng có ba đội nhân mã lẫn trong bóng đêm, hàng ngũ chỉnh tề, mỗi đội phải hơn trăm người. Cục diện hiện thời ba phái đấu với ba kỳ là ngang ngửa, nếu ba đội kia tham chiến, chắc chắn ba phái Không Động, Hoa Sơn, Côn Luân sẽ đại bại; nhưng không hiểu vì sao ba đội nhân mã ấy vẫn án binh bất động.
Diệt Tuyệt sư thái và Ân Lê Đình thầm kinh hãi. Ân Lê Đình hỏi Tống Thanh Thư:
– Bọn kia vì cớ gì chưa động thủ?
Tống Thanh Thư lắc đầu:
– Tiểu điệt cũng không hiểu.
Thù Nhi đột nhiên cười khẩy, nói:
– Có gì mà nghĩ không ra? Chuyện rõ như ban ngày.
Tống Thanh Thư đỏ mặt, lặng thinh. Diệt Tuyệt sư thái định hỏi, nhưng đành nhịn vậy. Ân Lê Đình nói:
– Xin cô nương chỉ điểm cho.
Thù Nhi nói:
– Ba đội kia là lực lượng của Thiên Ưng giáo. Thiên Ưng giáo tuy là một bàng chi của Minh giáo, nhưng lâu nay vẫn bất hòa với Ngũ Hành kỳ. Các vị nếu giết sạch được Ngũ Hành kỳ, xem ra Thiên Ưng giáo còn mừng thầm là đằng khác. Ân Thiên Chính có khi lên ngôi giáo chủ Minh giáo cũng nên.
Diệt Tuyệt sư thái bây giờ mới vỡ lẽ. Ân Lê Đình nói:
– Đa tạ cô nương chỉ điểm.
Diệt Tuyệt sư thái trừng mắt nhìn Thù Nhi, nghĩ thầm: “Kim Hoa bà bà võ công như thế, hèn chi một tên đồ đệ nhóc con cũng vô cùng lợi hại”.
Lúc này các đệ tử phái Nga Mi đã lục tục kéo đến, đứng sau lưng Diệt Tuyệt sư thái. Tĩnh Huyền nói:
– Tống thiếu hiệp, nói về tài bố trí trận đánh, chúng tôi không ai bằng thiếu hiệp. Mọi người xin nghe lệnh thiếu hiệp xông lên giết địch, mong thiếu hiệp đừng khách sáo.
Tống Thanh Thư nói:
– Lục thúc, việc này… việc này… điệt nhi làm sao dám nhận?
Diệt Tuyệt sư thái nói:
– Lúc này còn nói chuyện lễ nghĩa gì nữa? Cứ ra lệnh đi!
Tống Thanh Thư thấy tình thế chiến trường cấp bách, phái Côn Luân đấu với Nhuệ Kim kỳ, đang thắng thế; phái Hoa Sơn đấu với Hồng Thủy kỳ, đôi bên ngang ngửa; phái Không Động càng đánh càng núng thế, bị Liệt Hỏa kỳ vây chặt vào trong mà chém giết, bèn ra lệnh:
– Chúng ta chia ra ba lộ xông vào, cùng tấn công Nhuệ Kim kỳ. Sư thái dẫn một cánh từ phía đông đánh vào; lục thúc dẫn một cánh đánh từ phía tây, còn Tĩnh Huyền sư thúc cùng vãn bối thì đánh vào từ phía nam.
Tĩnh Huyền lấy làm lạ, nói:
– Phái Côn Luân đang thắng thế, phái Không Động mới đang vô cùng nguy ngập.
Tống Thanh Thư nói:
– Phái Côn Luân đã chiếm thượng phong, ta đánh thốc vào như thế chẻ tre, trong giây lát có thể tiêu diệt Nhuệ Kim kỳ, hai kỳ còn lại thấy vậy sẽ khiếp vía. Nếu ta tiếp viện cho phái Không Động, hai bên sẽ thành thế giằng co, chỉ có Thiên Ưng giáo là ngư ông đắc lợi mà thôi.
Tĩnh Huyền hết sức thán phục, nói:
– Tống thiếu hiệp nói chí phải.
Liền chia các đệ tử thành ba cánh.
Thù Nhi kéo chiếc xe trượt chở Trương Vô Kỵ, nói:
– Ta đi thôi, ở đây chẳng có gì hay.
Nói rồi kéo xe đi. Tống Thanh Thư vội đuổi theo, giơ kiếm ngăn lại:
– Cô nương không đi được.
Thù Nhi lạ lùng hỏi:
– Ngươi giữ ta làm gì?
Tống Thanh Thư nói:
– Cô nương lai lịch lạ lùng, không thể để cô nương đi như thế được.
Thù Nhi cười khẩy:
– Lai lịch của ta lạ lùng thì đã sao? Không lạ lùng thì sao?
Diệt Tuyệt sư thái đang nóng lòng, bực bội chưa được đại khai sát giới giết sạch bọn Ma giáo, nghe Thù Nhi đấu khẩu với Tống Thanh Thư, liền lắc mình một cái phóng tới, giơ tay điểm vào ba huyệt ở lưng, hông và đùi Thù Nhi. Thù Nhi võ công thua bà ta quá xa, không chống đỡ gì được, đầu gối bủn rủn, ngã ngồi xuống.
Diệt Tuyệt sư thái múa trường kiếm, quát to:
– Hôm nay đại khai sát giới, trừ diệt yêu tà!
Nói rồi cùng Ân Lê Đình, Tĩnh Huyền, mỗi người dẫn một cánh xông thẳng vào đánh Nhuệ Kim kỳ.
Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn của phái Côn Luân chỉ huy đệ tử đấu với Nhuệ Kim kỳ, đã chiếm ưu thế, được thêm hai phái Nga Mi, Võ Đang tăng viện nên thanh thế càng mạnh mẽ hơn. Diệt Tuyệt sư thái kiếm pháp tuyệt luân, không một giáo chúng nào của Minh giáo đỡ nổi ba chiêu của bà ta, chỉ thấy thân hình cao lớn của lão ni qua lại như con thoi giữa đám đông, đâm bên đông, chém bên tây, trong giây lát đã có bảy giáo chúng bỏ mạng dưới trường kiếm của bà ta.
Chưởng kỳ sứ của Nhuệ Kim kỳ là Trang Tranh thấy tình thế bất lợi, cầm lang nha bổng tới ngăn chặn Diệt Tuyệt sư thái. Đôi bên qua lại hơn chục chiêu, Diệt Tuyệt sư thái thi triển kiếm pháp phái Nga Mi, càng đánh cành nhanh, tận lực công kích. Nhưng Trang Tranh võ công rất cao cường, nhất thời đôi bên ngang ngửa. Lúc này Ân Lê Đình, Tĩnh Huyền, Tống Thanh Thư, Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn đang ra tay tàn sát; Nhuệ Kim kỳ tuy có không ít cao thủ, nhưng làm sao địch nổi ba phái Võ Đang, Côn Luân, Nga Mi liên thủ, trong giây lát đã chết một số.
Trang Tranh đánh liên tiếp ba đòn lang nha bổng buộc Diệt Tuyệt sư thái phải thối lui ba bước, tiếp đòn thứ tư từ trên giáng xuống cực mạnh. Diệt Tuyệt sư thái nghiêng thanh trường kiếm, điểm vào thân lang nha bổng, dùng chiêu “Thuận thủy thôi chu” đẩy cây bổng ra. Nào ngờ Trang Tranh là nhân vật lợi hại của Minh giáo, thuộc hàng đệ nhất cao thủ võ lâm, trời phú cho có cánh tay khỏe lạ thường, cả nội công lẫn ngoại công đều vào mức thượng thừa. Khi cảm thấy nội lực của đối phương ở thanh kiếm đẩy vào lang nha bổng, y liền quát một tiếng, vận sức mạnh ra cánh tay, nghe “cách cách”, thanh kiếm của Diệt Tuyệt sư thái bị gãy thành ba đoạn.
Diệt Tuyệt sư thái binh khí đã gãy, cánh tay tê chồn, nhưng không né tránh hay thối lui, mà đưa tay ra sau rút phắt thanh kiếm Ỷ Thiên đeo trên lưng, một luồng sáng vụt lóe như sao băng, sử chiêu “Thiết tỏa hoành giang”[73] chém ngang một nhát. Trang Tranh cảm thấy tay mình nhẹ bẫng, cái đầu lởm chởm răng cưa của cây lang nha bổng đã bị kiếm Ỷ Thiên chẻ đôi; tiếp đó một nửa bên sọ của y cũng bị thanh kiếm sắc hơn nước kia bổ vỡ luôn.
Giáo chúng Nhuệ Kim kỳ thấy chưởng kỳ sứ bỏ mạng thì cùng thét lớn, căm hận lao vào đấu thí mạng, mấy đệ tử phái Côn Luân và phái Nga Mi liên tiếp bị chém chết.
Một người trong Hồng Thủy kỳ gọi to:
– Trang kỳ sứ đã tuẫn giáo quy thiên, Nhuệ Kim, Liệt Hỏa hai kỳ hãy rút đi, để Hồng Thủy kỳ chặn hậu!
Cờ hiệu của Liệt Hỏa kỳ trong trận thế lập tức biến đổi, theo lệnh lùi về hướng tây; riêng giáo chúng Nhuệ Kim kỳ càng đánh càng hăng, không ai chịu lùi bước.
Người của Hồng Thủy kỳ lại lớn tiếng nói:
– Đường kỳ sứ của Hồng Thủy kỳ có lệnh, tình thế bất lợi, giáo chúng Nhuệ Kim kỳ hãy mau rút lui, ngày sau sẽ báo thù cho Trang kỳ sứ.
Mấy người của Nhuệ Kim kỳ cùng lên tiếng:
– Hồng Thủy kỳ hãy mau lui trước, ngày sau báo thù rửa hận cho chúng tôi. Huynh đệ Nhuệ Kim kỳ chúng tôi quyết đồng sinh cộng tử với Trang kỳ sứ.
Hồng Thủy kỳ đột nhiên giơ cờ đen lên, một người nói to như sấm:
– Chư vị huynh đệ Nhuệ Kim kỳ! Hồng Thủy kỳ nhất định sẽ báo thù cho các vị.
Nhuệ Kim kỳ lúc này còn độ hơn bảy chục người, cùng lên tiếng:
– Đa tạ Đường kỳ sứ!
Chỉ thấy các lá cờ của Hồng Thủy kỳ phất lên, rút về phía tây. Hai phái Hoa Sơn, Không Động thấy trận thế địch nhân chỉnh tề, hơn hai chục người đi chặn hậu tay cầm các ống vàng sáng loáng, không biết có gì kỳ quái, nên không dám đuổi theo, liền quay sang giáp công Nhuệ Kim kỳ.
Lúc này tình thế đã định. Năm phái Côn Luân, Không Động, Nga Mi, Võ Đang, Hoa Sơn cùng vây đánh Nhuệ Kim kỳ của Minh giáo; trừ phái Võ Đang chỉ có hai người, bốn phái kia đều đã dốc hết lực lượng. Chưởng kỳ sứ của Nhuệ Kim kỳ đã tử trận, tàn quân mất chủ tướng như rắn mất đầu, dĩ nhiên không thể địch nổi. Song người của Nhuệ Kim kỳ ai nấy trọng nghĩa khí, quyết ý tuẫn giáo theo Trang Tranh.
Ân Lê Đình giết được vài giáo chúng, cảm thấy tuy thắng nhưng chẳng vẻ vang chút nào, bèn nói to:
– Yêu nhân Ma giáo hãy nghe đây: trước mắt các ngươi chỉ có một đường, mau quăng vũ khí đầu hàng, sẽ được tha chết!
Gã phó chưởng kỳ sứ cười ha hả, nói:
– Ngươi xem thường giáo chúng Minh giáo quá vậy?! Trang đại ca chết rồi, bọn ta cũng chẳng thiết sống nữa.
Ân Lê Đình nói:
– Các vị bằng hữu phái Côn Luân, phái Nga Mi, phái Hoa Sơn, phái Không Động, tất cả hãy lùi lại mười bước để bọn yêu nhân dễ bề đầu hàng.
Mọi người ai nấy lùi lại.
Diệt Tuyệt sư thái căm hận Ma giáo, vẫn tiếp tục múa kiếm cuồng sát. Bảo kiếm Ỷ Thiên đánh tới đâu, đao kiếm đều gãy, tay rơi đầu rụng đến đấy. Phái Nga Mi thấy sư phụ không lùi lại, những người đã lùi về lại xông lên chém giết, thành cục diện một mình phái Nga Mi đánh nhau với Nhuệ Kim kỳ.
Nhuệ Kim kỳ lúc này còn hơn sáu chục giáo chúng, số hảo thủ giỏi võ chừng hơn hai chục, do phó chưởng kỳ sứ Ngô Kình Thảo suất lĩnh, chống chọi hơn ba mươi người phái Nga Mi, là hai đánh một, đáng lý phải chiếm thượng phong. Nhưng bảo kiếm Ỷ Thiên trong tay Diệt Tuyệt sư thái quá ư sắc bén, kiếm chiêu của bà ta lại cực kỳ lợi hại, bà ta tới đâu là chỗ đó nguy ngập, trong chốc lát có thêm bảy tám người chết dưới kiếm bà ta.
Trương Vô Kỵ không nỡ nhìn cảnh đó, bèn nói với Thù Nhi:
– Chúng ta đi thôi!
Chàng đưa tay giải huyệt cho Thù Nhi, nào ngờ xoa bóp mấy lần ở sau lưng và ngang hông cho nàng mà Thù Nhi vẫn thấy tê dại, các huyệt chưa mở được, mới biết Diệt Tuyệt sư thái nội lực thâm hậu, chỉ ra tay nhẹ nhàng nhưng kình lực nhập sâu vào huyệt đạo, tuy cách giải huyệt của chàng là đúng nhưng chưa kiến hiệu ngay.
Chàng thở dài, ngoảnh nhìn lại, thấy mấy chục người của Nhuệ Kim kỳ đã bị gãy hết vũ khí, một mặt các phái Côn Luân, Hoa Sơn, Không Động vây kín xung quanh; mặt khác, giáo chúng không ai chịu bỏ chạy, vẫn tay không chống trả các đệ tử phái Nga Mi.
Diệt Tuyệt sư thái tuy căm hận Ma giáo, nhưng ở địa vị chưởng môn phái, không muốn dùng binh khí giết người tay không, nên ngón tay trái liên tiếp phóng ra, chân như hành vân lưu thủy chạy vòng quanh, trong giây lát đã điểm huyệt hơn năm chục người của Nhuệ Kim kỳ, khiến bọn họ đứng bất động như trời trồng. Mọi người vây quanh thấy Diệt Tuyệt sư thái hiển lộ thân thủ cao cường như thế thì hò reo ầm ỹ.
Lúc này trời đã sáng, bỗng thấy ba đội giáo chúng Thiên Ưng giáo chia ba hướng đông, nam, bắc từ từ chuyển dịch tới gần, còn cách hơn mười trượng thì dừng, rõ ràng định đứng ngoài quan sát, chưa tiến vào khiêu chiến.
Thù Nhi nói:
– A Ngưu ca, mình phải chạy nhanh, kẻo rơi vào tay bọn Thiên Ưng giáo là khốn khổ đấy.
Trương Vô Kỵ đối với Thiên Ưng giáo vẫn có mối cảm tình thân thiết khó nói thành lời, bởi đấy là giáo phái của mẫu thân chàng. Mỗi lần nhớ đến mẫu thân, chàng vẫn tự nhủ: “Mẫu thân thì mình không bao giờ được gặp nữa, nhưng còn ông ngoại và cậu, khi nào mình được gặp đây?” Bây giờ người của Thiên Ưng giáo đang ở ngay kia, chàng muốn biết ông ngoại và cậu có trong đó hay không, nên chưa muốn bỏ đi vội.
Tống Thanh Thư bước lên, nói với Diệt Tuyệt sư thái:
– Tiền bối, chúng ta phải mau xử quyết bọn Nhuệ Kim kỳ, để còn xoay sang đối phó với Thiên Ưng giáo, khỏi lo hậu họa.
Diệt Tuyệt sư thái gật đầu.
Mặt trời bắt đầu ló dạng ở phía đông, ánh ban mai chiếu vào thân hình cao to của Diệt Tuyệt sư thái thành một cái bóng dài, trông vừa oai vệ vừa ghê rợn. Bà ta muốn làm nhụt nhuệ khí của Ma giáo, không muốn dùng kiếm giết ngay họ, bèn lạnh lùng nói:
– Bọn Ma giáo các ngươi nghe đây, kẻ nào muốn sống, chỉ cần mở miệng xin tha, ta sẽ cho đi.
Đáp lại chỉ nghe tiếng hì hì, ha ha, ồ hồ, à hà không dứt, người của Minh giáo nhất tề cười vang.
Diệt Tuyệt sư thái cả giận, hỏi:
– Có gì đáng cười?
Phó chưởng kỳ sứ Nhuệ Kim kỳ Ngô Kình Thảo lớn tiếng trả lời:
– Bọn ta thề cùng sống chết với Trang đại ca, có muốn thì hãy mau mau giết bọn ta đi.
Diệt Tuyệt sư thái hừ một tiếng, nói:
– Được, đến nước này còn làm bộ anh hùng hảo hán! Ngươi tưởng sẽ được chết một cách sảng khoái ư, đâu có dễ thế?
Bà ta rung nhẹ trường kiếm một cái đã chặt đứt cánh tay phải của Ngô Kình Thảo.
Ngô Kình Thảo cười ha hả, thần sắc vẫn như không, nói:
– Minh giáo thế thiên hành đạo, tế thế cứu dân, sinh tử thủy chung như nhất. Lão tặc ni chớ hòng mong bọn ta quỳ gối đầu hàng.
Diệt Tuyệt sư thái càng tức giận, soẹt soẹt soẹt” ba nhát, lại chém đứt cánh tay của ba giáo chúng nữa, hỏi người thứ tư:
– Ngươi có xin tha hay không thì bảo?
Người kia chửi:
– Mụ vãi già nói thối như cứt!
Tĩnh Huyền vọt lên vung kiếm chém phăng cánh tay phải của người kia, nói:
– Hãy để đệ tử chém hết đám yêu nghiệt này!
Tĩnh Huyền bắt chước sư phụ, hỏi luôn mấy người, giáo chúng Minh giáo không một ai chịu khuất phục, Tĩnh Huyền chém đến mỏi nhừ cả tay, quay lại nói:
– Sư phụ, bọn yêu nhân này ngoan cố quá…
Ý muốn xin sư phụ cho qua. Diệt Tuyệt sư thái bất chấp, nói:
– Chém tất cả tay phải trước, nếu vẫn cứ ngoan cố, hãy chém nốt tay trái.
Tĩnh Huyền không còn cách nào khác, lại chém thêm mấy người nữa.
Trương Vô Kỵ hết nhịn nổi, từ trong cái cáng trượt nhảy ra, chắn ngay trước mặt Tĩnh Huyền, nói:
– Dừng tay!
Tĩnh Huyền kinh ngạc, lùi lại một bước. Trương Vô Kỵ lớn tiếng, nói:
– Các ngươi tàn nhẫn hung ác như thế, không biết hổ thẹn ư?
Mọi người bất ngờ thấy một thanh niên lam lũ rách rưới đứng ra, thảy đều ngạc nhiên, khi nghe chàng lời nghiêm lẽ chính chất vấn Tĩnh Huyền, thì các cao thủ danh môn chính phái bất giác đều cảm thấy thán phục.
Tĩnh Huyền cười một tiếng dài, nói:
– Tà ma ngoại đạo, ai ai cũng cứ việc tru diệt, có gì gọi là tàn nhẫn với hung ác?
Trương Vô Kỵ nói:
– Những người này tất cả đều coi nhẹ mạng sống, trọng nghĩa khí, khẳng khái chịu chết, quả là các anh hùng hảo hán hiên ngang, đâu có gì là tà ma ngoại đạo?
Tĩnh Huyền nói:
– Bọn chúng là giáo đồ Ma giáo, còn không phải tà ma ngoại đạo hay sao? Tên Thanh Dực Bức Vương hút máu giết người, hại chết sư đệ sư muội của ta, chính mắt ngươi cũng nhìn thấy, còn chưa phải là yêu tà hay sao?
Trương Vô Kỵ nói:
– Thanh Dực Bức Vương chỉ giết một người, các vị giết mười lần nhiều hơn. Hắn dùng răng giết người, sư tôn dùng kiếm Ỷ Thiên giết người, cùng là giết người cả, đâu có phân biệt gì thiện ác?
Tĩnh Huyền cả giận, quát lên:
– Hảo tiểu tử, ngươi dám ví sư phụ ta với bọn yêu tà hả?
Nghe vù một chưởng, Tĩnh Huyền đánh thẳng vào mặt Trương Vô Kỵ, Trương Vô Kỵ vội né tránh. Tĩnh Huyền là đại đệ tử của phái Nga Mi, võ công được sư môn chân truyền, chưởng đánh vào mặt chỉ là hư chiêu, đợi Trương Vô Kỵ nghiêng người né tránh, lập tức tung chân trái đá lên, trúng ngay ngực chàng.
Chỉ nghe “hịch”, rồi “rắc” hai tiếng, chân trái Tĩnh Huyền đã gãy, thân hình bay về phía sau đến mấy trượng, rồi ngã lăn xuống. Thì ra ngực Trương Vô Kỵ trúng chiêu của địch, Cửu dương thần công trong cơ thể chàng tự động phát sinh lực kháng cự.
Chiêu số của chàng thua xa Tĩnh Huyền, nhưng uy lực của Cửu dương thần công quá ư lợi hại, địch phát chiêu càng mạnh, sức phản kích càng nặng, Tĩnh Huyền tựa hồ đá vào chính ngực mình. Cũng may Tĩnh Huyền chưa có ý định giết chàng, cú đá chỉ có năm thành kình lực nên Tĩnh Huyền chưa đến nỗi bị nội thương trầm trọng.
Trương Vô Kỵ khiêm nhường nói:
– Xin lượng thứ!
Chàng chạy tới đỡ, nhưng Tĩnh Huyền giận dữ quát:
– Xéo đi! Xéo đi!
Trương Vô Kỵ đành lùi lại, nói:
– Vâng!
Hai nữ đệ tử phái Nga Mi vội chạy tới dìu đại sư tỷ dậy.
Mọi người đứng ngoài đều biết Tĩnh Huyền là hảo thủ số một số hai dưới trướng Diệt Tuyệt sư thái, không hiểu sao lại kém cỏi như thế, chỉ một chiêu đã bị anh chàng rách rưới kia đánh văng đi mấy trượng? Nếu nói Tĩnh Huyền chỉ có hư danh cũng không phải, ban nãy đấu với Nhuệ Kim kỳ, kiếm pháp của Tĩnh Huyền lợi hại ra sao, ai ai cũng thấy. Không lẽ nhìn người không thể chỉ nhìn vẻ bên ngoài, anh chàng lam lũ kia thân mang võ công tuyệt thế chăng?
Diệt Tuyệt sư thái thầm kinh hãi: “Gã thiếu niên kia rốt cuộc theo bên nào? Ta bắt giữ hắn bấy lâu nay, không hề để ý đến hắn, thì ra là chân nhân bất lộ tướng, chẳng phải kẻ tầm thường. Ta muốn hất Tĩnh Huyền văng xa như thế cũng chẳng nổi. Trên đời này, ngoài Trương Tam Phong lão đạo có nội công tu luyện cả trăm năm, may ra mới làm được như thế thôi”. Diệt Tuyệt sư thái thuộc loại gừng quế càng già càng cay; tuy không dám coi thường Trương Vô Kỵ, nhưng cũng chẳng e ngại chút nào. Bà ta đưa mắt nhìn chàng từ đầu xuống chân để đánh giá.
Lúc này Trương Vô Kỵ đang ra tay cầm máu, băng bó vết thương cho giáo chúng của Nhuệ Kim kỳ. Thủ pháp của chàng vô cùng thành thạo, giơ tay điểm mỗi người vài nơi huyệt đạo, máu đang chảy từ cánh tay bị chém đứt lập tức giảm hẳn. Trong đám người vây quanh có không ít hảo thủ điểm huyệt trị thương, song ai cũng phải tự thẹn mình không bằng chàng; thậm chí có huyệt Trương Vô Kỵ điểm mà họ còn chưa biết. Phó chưởng kỳ sứ Ngô Kình Thảo nói:
– Đa tạ thiếu hiệp trượng nghĩa, thỉnh vấn quý tính đại danh?
Trương Vô Kỵ nói:
– Tại hạ họ Tăng, tên A Ngưu.
Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng nói:
– Hảo tiểu tử, hãy lại đây tiếp ta ba kiếm.
Trương Vô Kỵ nói:
– Xin sư thái đợi một lát, cứu người hệ trọng hơn.
Cho đến khi băng bó xong vết thương cho người cuối cùng bị chặt tay, chàng mới quay lại, ôm quyền nói:
– Diệt Tuyệt sư thái, tại hạ không phải đối thủ của sư thái, cũng không muốn động thủ với lão nhân gia; chỉ mong đôi bên bãi đấu, bỏ qua hết oán cừu quá khứ.
Bốn chữ “hai bên bãi đấu”, giọng nói của chàng vô cùng chân thành; “hai bên” mà chàng nhắc đó chính là phụ mẫu đã qua đời của chàng, một bên là Võ Đang danh môn chính phái của cha, một bên là Thiên Ưng giáo tà ma ngoại đạo của mẹ.
Diệt Tuyệt sư thái nói:
– Ha ha, chỉ một lời của tiểu tử thối tha như ngươi mà đòi chúng ta bãi đấu ư? Ngươi là bậc chí tôn trong võ lâm chăng?
Trương Vô Kỵ động lòng, nói:
– Xin hỏi, là bậc chí tôn trong võ lâm thì sao?
Diệt Tuyệt sư thái nói:
– Nếu ngươi có bảo đao Đồ Long trong tay thì cũng phải đấu với kiếm Ỷ Thiên của ta, xem ai cao thấp đã. Đến khi trở thành bậc chí tôn trong võ lâm rồi, hãy ra lệnh cũng chưa muộn.
Các đệ tử phái Nga Mi nghe sư phụ chế nhạo Trương Vô Kỵ thì tất thảy đều cười rộ. Các phái khác cũng có kẻ phụ họa theo.
Dựa vào thân phận và độ tuổi của Trương Vô Kỵ mà nói hai bên “bãi đấu” thì quả không hợp chút nào. Nghe nhiều người cười giễu mình, Trương Vô Kỵ đỏ mặt, nhưng không nhịn được, nói:
– Sư thái sao lại giết quá nhiều người như vậy? Mỗi người đều có phụ mẫu thê tử, sư thái giết họ rồi, hài tử của họ sẽ bơ vơ cô khổ, bị người ta khinh rẻ. Lão nhân gia là người xuất gia, xin hãy mở lòng từ bi!
Chàng vốn không phải người khéo nói, nhưng nghĩ đến thân thế mình nên lời nói ra cũng thật chân tình. Mấy câu đó vô cùng khẩn thiết, mọi người nghe thấy không khỏi động tâm.
Diệt Tuyệt sư thái mặt vẫn trơ trơ, giọng vẫn lạnh như băng:
– Hảo tiểu tử, ta phải để cho ngươi giáo huấn hay sao? Ngươi tự phụ nội lực thâm hậu, đứng đó mà ba hoa lớn lối. Được, ngươi mà tiếp được ta ba chưởng, ta sẽ tha cho bọn này đi!
Trương Vô Kỵ nói:
– Đến đệ tử của sư thái, tại hạ còn không tiếp nổi một chưởng, nữa là sư thái? Tại hạ không dám tỷ võ với lão nhân gia, chỉ xin sư thái mở lòng từ bi, thể hiện đức hiếu sinh của thượng thiên mà thôi.
Ngô Kình Thảo nói to:
– Tăng công tử, khỏi cần nhiều lời với lão tặc ni đó làm chi. Chúng tôi thà chết tất cả dưới tay bà ta, còn hơn trông chờ lòng từ bi giả dối của mụ ấy.
Diệt Tuyệt sư thái liếc Trương Vô Kỵ, hỏi:
– Sư phụ ngươi là ai?
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Phụ thân, nghĩa phụ ta tuy có dạy ta võ công, nhưng đâu phải là sư phụ của ta”, bèn đáp:
– Tại hạ không có sư phụ.
Lời đó nói ra, ai nấy cùng cho là lạ. Bọn họ vốn nghĩ chàng thiếu niên này chỉ một chiêu đã hất văng Tĩnh Huyền, ắt phải là đồ đệ của cao nhân nào đó, nên ai ai cũng có vài phần e sợ, nào ngờ chàng lại bảo mình không có sư phụ. Người trong võ lâm, tôn sư là đạo chính, không nói lộ tính danh sư phụ cũng là chuyện thường, song không khi nào có mà lại bảo không, bởi vậy nếu chàng bảo không có sư phụ, tức là quả thật không có.
Diệt Tuyệt sư thái không nhiều lời với chàng nữa, nói:
– Tiếp chiêu đi!
Tay phải bà ta liền đánh ngay ra.
Trong tình thế đó, Trương Vô Kỵ không thể không tiếp. Chàng không dám khinh suất, đưa cả hai tay đẩy ra để chống đỡ một chưởng của bà ta. Nào ngờ Diệt Tuyệt sư thái liền hạ tay xuống, y như một con lươn vừa trơn vừa nhanh, luồn qua bên dưới hai tay Vô Kỵ, nghe “pạch” một tiếng, đánh trúng ngay giữa ngực chàng.
Trương Vô Kỵ kinh hãi, Cửu dương thần công bảo hộ cơ thể tự động phát sinh lực chống trả đối phương; nhưng khi hai luồng kình lực sắp tiếp xúc với nhau, thì chưởng lực của Diệt Tuyệt sư thái đột nhiên biến mất không còn tăm hơi. Trương Vô Kỵ còn đang ngơ ngẩn, ngẩng nhìn bà ta, thì ngực chàng bỗng như bị một cái búa sắt nện vào. Chàng đứng không vững, bị hất nhào ra phía sau, ọe một tiếng, hộc ra một ngụm máu tươi, người sụm xuống như một tảng bùn mềm.
Chưởng lực của Diệt Tuyệt sư thái bất chợt dồn ra, bất chợt thu vào nhập nhằng bất định như thế, dẫn dụ nội lực của địch nhân, sau đó mới phát lực, thực là công phu tu luyện tinh diệu của võ học nội gia. Một vài người võ công cao siêu đứng ngoài nhận biết được cái xảo diệu của chưởng vừa rồi, không khỏi tấm tắc khen ngợi.
Thù Nhi hốt hoảng chạy tới, giơ tay đỡ Trương Vô Kỵ, không ngờ đầu gối bủn rủn, cũng ngã luôn xuống. Thì ra tuy nàng đã được Trương Vô Kỵ giải huyệt, nhưng huyết mạch chưa lưu thông, thấy chàng bị thương, hốt hoảng chạy đến giúp, nhưng được vài bước đã ngã, miệng ấp úng:
– A Ngưu ca, ca ca…
Trương Vô Kỵ cảm thấy trong ngực máu nóng nhộn nhạo, xua xua tay:
– Không chết đâu.
Chàng từ từ bò dậy. Chỉ nghe Diệt Tuyệt sư thái nói với ba nữ đệ tử:
– Chặt hết cánh tay phải của bọn yêu nhân cho ta.
Ba đệ tử kia đáp:
– Tuân lệnh.
Rồi cầm kiếm tiến về phía giáo chúng Nhuệ Kim kỳ. Trương Vô Kỵ vội nói:
– Sư… sư thái nói vãn bối chịu được ba chưởng sẽ tha cho họ đi. Vãn… vãn bối chịu một chưởng rồi, còn… còn hai chưởng…
Diệt Tuyệt sư thái đánh Trương Vô Kỵ một chưởng, thấy nội công của chàng chính đại hồn hậu, hoàn toàn không thuộc loại yêu tà, thậm chí còn rất giống sở học của mình; thấy chàng đứng ra bênh vực giáo chúng Ma giáo, song quả thực không phải là người của bọn họ, bèn nói:
– Kẻ ít tuổi chớ đa quản nhàn sự, chính tà phải phân biệt cho rõ ràng. Chưởng vừa rồi ta chỉ dùng ba thành lực đạo, ngươi hiểu chứ?
Trương Vô Kỵ biết bà ta thân phận chưởng môn phái, ắt không nói sai, đã bảo chỉ dùng ba thành lực đạo thì đúng là mới dùng ba thành. Thế nhưng bất kể hai chưởng nữa khó chịu đựng tới mức nào, dù là mất mạng, chàng cũng không thể giương mắt nhìn giáo chúng Nhuệ Kim kỳ bị tàn sát, bèn nói:
– Vãn bối không lượng sức mình, xin chịu… thêm hai chưởng nữa của sư thái.
Ngô Kình Thảo nói to:
– Tăng công tử, chúng tôi cảm tạ đại đức của công tử. Công tử anh hùng hiệp nghĩa, người người cảm phục. Hai chưởng còn lại xin chớ có chịu làm gì.
Diệt Tuyệt sư thái thấy Thù Nhi ở bên cạnh Trương Vô Kỵ, e nàng làm vướng víu chân tay, bèn phất ống tay áo bên trái một cái, cuốn nàng lên quẳng về phía sau. Chu Chỉ Nhược chạy lên đón lấy, nhẹ nhàng đặt Thù Nhi xuống đất. Thù Nhi vội nói:
– Chu tỷ tỷ, hãy mau khuyên chàng đừng chịu thêm hai chưởng nữa, tỷ tỷ nói, chắc chàng sẽ nghe lời đấy.
Chu Chỉ Nhược lạ lùng, hỏi:
– Tại sao chàng sẽ nghe lời tôi?
Thù Nhi nói:
– Chàng rất thích tỷ tỷ, chẳng lẽ tỷ tỷ không biết hay sao?
Chu Chỉ Nhược đỏ mặt, ấp úng:
– Đâu phải thế.
Diệt Tuyệt sư thái lớn tiếng nói:
– Ngươi đã muốn tỏ ra anh hùng hảo hán, ấy là tự ngươi tìm lấy cái chết, đừng có trách ta.
Tay phải bà ta vung lên, kình phong ào ạt, đánh thẳng vào ngực Trương Vô Kỵ.
Lần này Trương Vô Kỵ không dám giơ tay ra đỡ; thân hình nghiêng đi để tránh chưởng lực của đối phương. Diệt Tuyệt sư thái bỗng dưng xoay tay lại, bàn tay vòng trở về từ góc chết, “bộp” một tiếng, trúng ngay hậu tâm chàng. Thân hình chàng giống như thằng bù nhìn bằng rơm, bay là là lên không trung, rồi rớt phịch xuống đất, nằm sấp trên mặt cát, không động đậy, hình như chết rồi.
Chiêu này của Diệt Tuyệt sư thái, thủ pháp tinh diệu vô tỉ, lẽ ra người đứng xem hò reo mới phải, nhưng tấm lòng hiệp nghĩa của Trương Vô Kỵ đã khiến họ thầm kính phục, thấy chàng gặp sự bất hạnh, mọi người chỉ hoảng sợ thở dài, không một ai lên tiếng hoan hô.
Thù Nhi nói:
– Chu tỷ tỷ, xin tỷ tỷ mau tới xem chàng bị thương có nặng hay không đi!
Trống ngực Chu Chỉ Nhược đập thình thình, nghe lời cầu xin của Thù Nhi, nàng đã định chạy tới xem, nhưng trước hàng trăm cặp mắt đổ dồn vào, một thiếu nữ mười tám mười chín tuổi như nàng làm sao dám tới xem thương thế cho một chàng trai? Huống hồ người đả thương chàng ta lại chính là sư phụ của nàng, làm như thế, tuy chưa phải công khai phản bội sư môn, song cũng là hành động đại bất kính đối với sư phụ, thành thử nàng vừa dợm bước, liền dừng ngay lại.
Lúc này trời đã sáng rõ, ánh nắng chan hòa khắp nơi. Một lát sau, thấy lưng Trương Vô Kỵ động đậy, chàng từ từ ngồi dậy, nhưng cánh tay chống lên được một thước thì đột nhiên không nhịn nổi, mồm phun ra một ngụm máu to, lại nằm gục xuống. Chàng nửa mê nửa tỉnh, nằm bất động, song vẫn nhớ là mình còn phải chịu một chưởng nữa mới cứu sống được giáo chúng Nhuệ Kim kỳ.
Chàng hít một hơi dài, cuối cùng cũng ngồi dậy được; nhưng thân hình run lẩy bẩy, có thể gục xuống bất cứ lúc nào. Mọi người nín thở đứng trông. Tuy xung quanh có đến vài trăm người, nhưng tất cả im phăng phắc, tưởng chừng một cái kim rơi xuống đất cũng nghe thấy được.
Trong khoảnh khắc yên tĩnh ấy, Trương Vô Kỵ chợt nhớ mấy câu trong Cửu dương chân kinh:
Dẫu rằng người có hung hăng,
Chẳng qua gió nhẹ thoảng ngang núi này.
Dẫu rằng người có bài bây,
Chẳng qua trăng sáng dãi đầy trường giang.
Hồi ở thung lũng hoang sơn đọc mấy câu ấy, chàng chưa hiểu ý nghĩa của chúng; lúc này chàng chợt nghĩ ra, dù cho Diệt Tuyệt sư thái hung hăng tàn ác đến mấy, chàng vẫn cứ coi như không. Chiếu theo yếu nghĩa của Cửu dương chân kinh, dù kẻ địch có hùng mạnh đến mấy, hung ác đến mấy, cũng hãy coi đó như gió mát thoảng qua núi, trăng sáng chiếu trên sông, dù có chạm vào thân thể ta thì cũng không thể gây tổn thương chút nào.
Nhưng phải làm thế nào để thân thể ta không bị tổn thương? Đoạn kinh tiếp theo viết:
Dẫu người hung ác tới đâu,
Cốt sao chân khí ta sâu, đủ rồi.
Chàng nghĩ tới đây, trong lòng liền vỡ lẽ, bèn ngồi xếp bằng dựa theo cách nói trong kinh văn mà điều hòa hơi thở. Chỉ cảm thấy từ đan điền có luồng khí ấm trào dâng, trong giây lát chân khí lưu động toàn thân, tới từng thớ thịt, từng đốt xương. Đại uy lực của Cửu dương thần công lúc này mới hiển lộ. Ngoại thương của chàng tuy nặng, máu hộc ra cả bát, nhưng chân khí nội lực không bị tiêu hao chút nào.
Diệt Tuyệt sư thái nhìn chàng vận khí trị thương, trong bụng không khỏi kinh ngạc, thấy chàng thanh niên này quả có khả năng phi thường. Chưởng thứ nhất bà ta đánh chàng là một chiêu trong “Phiêu tuyết xuyên vân chưởng”[74]. Chưởng thứ hai lợi hại hơn, là thức thứ ba của “Tiệt thủ cửu thức”[75], đều là tinh hoa của chưởng pháp phái Nga Mi. Chưởng thứ nhất bà ta dùng ba thành kình lực, chưởng thứ hai, bà ta tăng lực đạo lên tới bảy thành, nghĩ rằng nếu chưa đánh chàng chết tươi tại trận thì tối thiểu cũng làm gãy xương đứt gân, hoàn toàn tàn phế, bại liệt. Nào ngờ chàng chỉ nằm phủ phục một lát, lại ngồi dậy được, quả là ngoài mọi dự liệu của bà ta.
Theo quy củ tỷ thí trong võ lâm, Diệt Tuyệt sư thái không cần phải chờ chàng vận khí trị thương; nhưng bà ta tự trọng thân phận, không muốn lợi dụng cơ hội đối phương đang lâm nguy, ra tay đánh một kẻ thuộc hàng hậu bối.
Đinh Mẫn Quân lớn tiếng:
– Này gã họ Tăng kia, nếu ngươi không dám tiếp thêm chưởng thứ ba của sư phụ ta thì hãy mau xéo đi cho rảnh mắt. Ngươi cứ ngồi ỳ đó dưỡng thương, không lẽ bọn ta cũng phải đứng chờ ngươi hay sao?
Chu Chỉ Nhược nhỏ nhẹ khuyên:
– Đinh sư tỷ, cho y nghỉ thêm một lát, cũng chẳng đáng gì.
Đinh Mẫn Quân giận dữ nói:
– Ngươi… ngươi lại đi bênh người ngoài, có phải thấy gã tiểu tử này…
Y thị vốn định nói “có phải thấy gã tiểu tử này anh tuấn, nên đã phải lòng hắn chăng?” Nhưng chợt nghĩ ở đây có không ít cao nhân danh tiếng của các môn phái, những lời thô lậu như thế chẳng thể nói ra, nên đành bỏ lửng giữa chừng. Song ý tứ của y thị thế nào, người xung quanh làm gì chẳng hiểu? Nửa câu sau có nói hay không cũng vậy thôi.
Chu Chỉ Nhược vừa thẹn vừa lo, mặt tái đi, nhưng không cãi lại, chỉ thủng thẳng nói:
– Tiểu muội chẳng qua nghĩ đến uy danh của bản môn và sư tôn, không muốn người ngoài nói ra nói vào.
Đinh Mẫn Quân ngạc nhiên hỏi:
– Nói ra nói vào cái gì?
Chu Chỉ Nhược nói:
– Võ công bản môn dương danh thiên hạ, sư phụ là cao nhân tiền bối số một số hai thời nay, đâu thèm chấp một tiểu tử hậu sinh. Chẳng qua thấy y cả gan cuồng vọng, nên mới ra tay giáo huấn y một phen, chứ đâu có ý định giết y? Danh tiếng hiệp nghĩa của bản môn đã có cả trăm năm nay, sư tôn nhân hậu độ lượng, ai chẳng kính phục? Con đom đóm trẻ tuổi kia làm sao tranh sáng được với hai vầng nhật nguyệt? Dù y có luyện thêm trăm năm nữa, cũng chẳng phải là đối thủ của sư tôn chúng ta, y có dưỡng thương thêm một lúc, cũng chả bõ bèn gì.
Câu nói đó khiến ai nghe cũng thầm gật đầu. Diệt Tuyệt sư thái lại càng hoan hỉ khi thấy nữ đệ tử nhỏ tuổi này hiểu biết, làm rạng rỡ bản môn trước mắt cao thủ các môn phái.
Chân khí trong cơ thể Trương Vô Kỵ vừa lưu chuyển, tinh thần liền trở lại minh mẫn, nghe rõ từng lời của Chu Chỉ Nhược, hiểu rằng nàng muốn giúp mình, nên nói chặn trước, để Diệt Tuyệt sư thái không tiện hạ độc thủ. Chàng không khỏi cảm kích, đứng dậy, nói:
– Sư thái, vãn bối xả mệnh bồi quân tử, xin tiếp một chưởng nữa.
Diệt Tuyệt sư thái thấy chàng chỉ ngồi xếp bằng một lát mà tinh thần đã phấn chấn trở lại, nghĩ thầm: “Gã tiểu tử này nội lực thâm hậu như thế, quả là tà môn”, nói:
– Sao ngươi không ra tay đánh ta? Ai bảo ngươi chỉ chịu đòn mà không trả đòn?
Trương Vô Kỵ nói:
– Chút công phu thô lậu của vãn bối, đến cái mép áo của sư thái còn không động tới được, nói chi trả đòn?
Diệt Tuyệt sư thái nói:
– Ngươi đã tự biết thân biết phận như thế, sao không sớm tránh ra. Ngươi còn trẻ mà có chí khí như vậy, kể cũng hiếm gặp. Diệt Tuyệt sư thái ta lâu nay chưa từng tha cho ai, hôm nay ta phá lệ tha cho ngươi đó.
Trương Vô Kỵ cúi mình nói:
– Đa tạ tiền bối, các vị đại ca của Nhuệ Kim kỳ kia cũng được tha luôn chứ?
Cặp đuôi lông mày dài của Diệt Tuyệt sư thái càng xuôi xuống, bà ta lạnh lùng hỏi:
– Pháp danh của ta là gì, ngươi biết chứ?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Tôn danh của tiền bối là trước “Diệt” sau “Tuyệt”.
Diệt Tuyệt sư thái nói:
– Ngươi biết thế là tốt. Yêu ma tà đồ, ta quyết giết hết sạch, không chứa một mống, chẳng lẽ hai chữ “Diệt Tuyệt” chỉ để gọi suông thôi ư?
Trương Vô Kỵ nói:
– Đã vậy, mời tiền bối đánh chưởng thứ ba.
Diệt Tuyệt sư thái nhìn nghiêng, một thiếu niên cứng cổ, ngoan cường như thế này, cả đời bà ta chưa từng gặp; bà ta vốn lạnh lùng, nhưng lúc này đột nhiên thấy nên quý chuộng tài năng, nghĩ thầm: “Chưởng thứ ba ta đánh ra, thể nào y cũng mất mạng. Y không phải hạng người yêu tà, còn ít tuổi mà đã chết thì thật uổng!” Bà ta định bụng chưởng thứ ba này sẽ đánh vào yếu huyệt ở đan điền, vận nội lực xoáy vào huyệt khiến cho chàng lập tức bế khí bất tỉnh, đợi sau khi giết hết đám Ma giáo Nhuệ Kim kỳ sẽ cứu chàng tỉnh lại.
Diệt Tuyệt sư thái phất tay áo trái, chưởng thứ ba toan đánh ra, bỗng có người nói lớn:
– Diệt Tuyệt sư thái, chưởng hạ lưu nhân!
Tám tiếng đó ai nấy nghe chói buốt cả tai, tựa hồ kim chọc vào tai vậy.
Chỉ thấy từ góc tây bắc có một bạch y nam tử tay cầm quạt, đi xuyên qua đoàn người, đi nhanh mà không cuốn bụi, đi trên cát mà như lướt trên mặt nước. Vạt áo bên trái người ấy thêu một con chim ưng nho nhỏ màu đen, đang dang rộng đôi cánh. Mọi người vừa nhìn, biết ngay đó là nhân vật cao thủ trong Thiên Ưng giáo. Bởi vì y phục của Minh giáo và Thiên Ưng giáo giống nhau, chỉ khác là trên áo của Minh giáo thêu ngọn lửa đỏ, còn áo của Thiên Ưng giáo thêu con chim ưng đen.
Người kia tới cách Diệt Tuyệt sư thái chừng ba trượng, chắp tay, nói:
– Xin phép sư thái, chưởng thứ ba ấy hãy để tại hạ chịu thay, có được chăng?
Diệt Tuyệt sư thái hỏi:
– Ngươi là ai?
Người kia đáp:
– Tại hạ họ Ân, thảo tự Dã Vương.
Ba tiếng Ân Dã Vương lập tức khiến tất cả mọi người xôn xao. Tên tuổi của Ân Dã Vương đã lừng lẫy trên giang hồ hai chục năm nay, trong võ lâm nhiều người bảo võ công của Ân Dã Vương cao siêu hầu như không thua kém gì phụ thân Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính. Ân Dã Vương là đường chủ Thiên Vi đường của Thiên Ưng giáo, chỉ dưới quyền giáo chủ mà thôi.
Diệt Tuyệt sư thái thấy người kia trạc tứ tuần, cặp mắt như hai tia chớp rọi ra tứ phía, khí thế ghê gớm, biết là chẳng thể coi thường, huống hồ bà ta cũng từng nghe tên tuổi, nên lạnh lùng nói:
– Tên tiểu tử kia là thế nào với ngươi, mà ngươi muốn thay hắn tiếp chưởng của ta?
Trương Vô Kỵ thầm kêu lên: “Người ấy là cậu ruột ta, cậu ruột của ta đây rồi, không lẽ cậu đã nhận ra ta?”
Ân Dã Vương cười ha hả, nói:
– Tại hạ vốn chẳng biết y là ai cả, chẳng qua thấy y tuổi còn nhỏ, song lại rất cứng đầu, không giống bọn giả nhân giả nghĩa hám danh chuộng tiếng trong võ lâm, thấy thích y nên muốn đứng ra lĩnh giáo công lực của sư thái, như thế được chưa?
Câu cuối cùng nói ra chẳng còn vẻ khách khí nữa, tựa hồ không coi Diệt Tuyệt sư thái là cái thá gì.
Diệt Tuyệt sư thái lại không hề tức giận, nói với Trương Vô Kỵ:
– Tiểu tử, nếu ngươi còn muốn sống thêm vài năm, lúc này chạy đi vẫn còn kịp.
Trương Vô Kỵ nói:
– Vãn bối không dám tham sống mà quên nghĩa khí.
Diệt Tuyệt sư thái gật đầu, quay sang nói với Ân Dã Vương:
– Tiểu tử kia còn nợ ta một chưởng, để ta và hắn thanh toán xong xuôi, ta sẽ không để các hạ phải thất vọng đâu.
Ân Dã Vương cười hắc hắc, nói:
– Diệt Tuyệt sư thái, có giỏi cứ thử giết gã thiếu niên kia ta coi. Y mà chết, ta cũng sẽ cho bọn ngươi chết không có đất mà chôn.
Nói xong, Ân Dã Vương lùi về, lướt qua đám người, miệng quát:
– Hiện thân!
Đột nhiên từ dưới cát vô số đầu người đội cát nhô lên, mỗi người một cái khiên che phía trước, ai nấy giương cung tên chĩa thẳng vào bọn người chính phái. Thì ra giáo chúng Thiên Ưng giáo đã đào địa đạo, vây kín người các môn phái lại từ lúc nào rồi.
Mọi người chăm chú xem cảnh Diệt Tuyệt sư thái và Trương Vô Kỵ đối chưởng, đâu ai để ý chuyện bên ngoài. Dẫu khôn ngoan như Tống Thanh Thư cũng chỉ biết đề phòng giáo chúng Thiên Ưng giáo bất ngờ xông vào tấn công, chứ đâu thể ngờ họ lại lợi dụng cát mềm, đào địa đạo, chiếm lĩnh hết các địa hình thuận lợi. Chuyện xảy ra như thế khiến ai nấy tái mặt, lại thấy các đầu mũi tên lấp lánh màu xanh dưới ánh nắng, hẳn là có tẩm thuốc độc. Chỉ cần Ân Dã Vương hạ lệnh, trừ một vài vị võ công cao siêu nhất của các phái, hết thảy mọi người còn lại e rằng không một ai sống sót.
Trong năm phái ở đây, nói về tư cách và tuổi tác thì Diệt Tuyệt sư thái cao hơn hết, nên tất cả mọi người đều nhìn bà ta chờ ra quyết định.
Diệt Tuyệt sư thái là người cực kỳ cố chấp, tuy thấy tình thế biến chuyển nguy hiểm nhưng vẫn không động tâm chút nào, nói với Trương Vô Kỵ:
– Tiểu tử, ngươi chỉ còn cách oán trách số mệnh ngươi chẳng ra gì mà thôi!
Đột nhiên xương cốt toàn thân bà ta phát ra những tiếng lép bép lách tách nho nhỏ như tiếng ngô rang nở. Tiếng đó chưa dứt, hữu chưởng đã nhắm ngực Trương Vô Kỵ mà đánh tới.
Chưởng này là tuyệt học của phái Nga Mi, gọi là “Phật quang phổ chiếu”[76]. Dù là chưởng pháp hay kiếm pháp, bao giờ các chiêu cũng liên tiếp nối với nhau thành bài bản, nhiều thì vài trăm chiêu, ít cũng dăm ba thức, thậm chí dù chỉ dăm ba thức nhưng mỗi thức cũng ẩn tàng sự biến hóa, một thức ẩn giấu hai ba, thậm chí tới mười chiêu. Riêng chưởng pháp “Phật quang phổ chiếu” chỉ có một chiêu và chiêu này cũng không hề có biến hóa. Một chiêu đánh ra, trúng ngực kẻ địch hay trúng lưng cũng được, trúng vai cũng được, trúng mặt cũng được, chiêu thức hết sức bình thường, nhất thành bất biến, nhưng uy lực hoàn toàn dựa vào Cửu dương công của phái Nga Mi.
Chưởng này đã đánh ra, đối phương không thể chống đỡ, cũng không thể né tránh. Trong phái Nga Mi hiện nay, ngoài Diệt Tuyệt sư thái, không người thứ hai biết sử dụng. Bà ta vốn chỉ định đánh vào đan điền của Trương Vô Kỵ, làm cho chàng bất tỉnh thôi. Nhưng sau lời đe dọa của Ân Dã Vương, nếu bà ta nương tay cũng chẳng ai nghĩ là bà ta khoan dung, lại cho rằng bà ta tham sống sợ chết, quỳ gối đầu hàng địch nhân. Thành thử chiêu này bà ta phải sử dụng toàn lực, không nương nhẹ gì nữa.
Trương Vô Kỵ thấy trước khi chưởng của bà ta đánh tới, xương cốt đối phương kêu lép bép, biết rằng chưởng này sẽ vô cùng ghê gớm, sự sống chết mất còn của chàng là ở giây phút này đây, làm sao dám khinh suất? Trong sát-na ấy, chàng chỉ còn nhớ hai câu trong “Cửu dương chân kinh”:
Dẫu người hung ác tới đâu
Chỉ cần chân khí ta sâu, đủ rồi.
Chàng hoàn toàn không nghĩ tới việc chống đỡ, chỉ vận chân khí tập trung ở vùng ngực bụng.
Chỉ nghe “bình” một tiếng lớn, Diệt Tuyệt sư thái đã đánh trúng ngay giữa ngực chàng.
Mọi người xung quanh cùng kêu lên hốt hoảng, đoán rằng toàn thân Trương Vô Kỵ xương cốt đã gãy nát, không chừng thân hình chàng còn bị đòn bài sơn đảo hải này đánh đứt đôi rồi cũng nên. Nào ngờ sau khi trúng chưởng rồi mà Trương Vô Kỵ vẫn đứng thản nhiên như không, vẻ mặt thư thái; còn Diệt Tuyệt sư thái mặt xám như tro, bàn tay run rẩy.
Thì ra chiêu “Phật quang phổ chiếu” vừa rồi của Diệt Tuyệt sư thái hoàn toàn dựa vào Cửu dương công của phái Nga Mi, trong khi Trương Vô Kỵ tu luyện lại chính là Cửu dương thần công. Cửu dương công của phái Nga Mi là do năm xưa Quách Tương nghe Giác Viễn tụng Cửu dương chân kinh mà nhớ được vài phần rồi chế thành, uy lực làm sao sánh nổi nguyên bản Cửu dương thần công. Tuy uy lực nội công hai môn có lớn nhỏ, song bản chất là cùng một gốc, Cửu dương công của phái Nga Mi đụng phải Cửu dương thần công thì khác nào sông chảy vào biển, như nước pha vào sữa, tức khắc không còn tăm hơi gì nữa.
Chưởng thứ nhất Diệt Tuyệt sư thái đánh Trương Vô Kỵ là “Phiêu tuyết xuyên vân chưởng”, chưởng thứ hai là “Tiệt thủ cửu thức”, đều không thuộc về Cửu dương thần công, nên khi đánh trúng Trương Vô Kỵ đã làm cho chàng thụ thương thổ huyết.
Đạo lý bên trong đó, bấy giờ không ai hiểu nổi. Trương Vô Kỵ dĩ nhiên hoang mang chẳng biết gì. Diệt Tuyệt sư thái tuy kiến thức sâu rộng nhưng cũng chỉ nghĩ rằng gã tiểu tử này nội công thâm hậu, mình không đả thương nổi hắn thôi. Còn mấy trăm người vây quanh, vòng trong vòng ngoài, trừ bản thân Diệt Tuyệt sư thái ra, ai ai cũng nghĩ bà ta nhẹ tay; phần vì thương Trương Vô Kỵ có ý chí ngoan cường, phần vì bà ta nghĩ tới đại cục, không muốn để cho Thiên Ưng giáo bắn tên tẩm độc hạ sát người của cả năm phái, phần khác cũng có thể do bà ta nhát gan, đành khuất phục trước lời đe dọa của Ân Dã Vương.
Trương Vô Kỵ vái một cái, nói:
– Đa tạ tiền bối chưởng hạ lưu tình!
Diệt Tuyệt sư thái hừ một tiếng, vẻ ngượng ngùng, lúc đầu đã nói rõ là chỉ đánh ba chưởng, nên không thể đánh thêm; nhưng nếu đến đây lại thôi thì hóa ra bà ta phải đầu hàng Thiên Ưng giáo, thật là mối sỉ nhục quá lớn.
Trong lúc bà ta còn đang phân vân, Ân Dã Vương đã cười ha hả, nói:
– Ngươi thức thời là kẻ tuấn kiệt, Diệt Tuyệt sư thái không hổ là cao nhân thời nay.
Rồi hạ lệnh:
– Triệt bỏ cung tên!
Các giáo đồ Thiên Ưng giáo lập tức lùi ra xa, một hàng cầm khiên, một hàng cầm cung tên, đứng thật chỉnh tề, xem ra Ân Dã Vương huấn luyện binh pháp cho giáo chúng nên tiến thoái công thủ đều rất có bài bản.
Diệt Tuyệt sư thái mặt mày xám ngoét, lại không biết trần tình ra sao với mọi người, chẳng lẽ lại bảo chưởng của mình vừa đánh không hề lưu tình? Ai ai cũng thấy bà ta mới đánh nhẹ hai chưởng mà Trương Vô Kỵ đã trọng thương, hộc máu mồm máu mũi; thế mà Ân Dã Vương vừa dọa vài câu, chưởng thứ ba bà đánh ra làm như ghê gớm lắm, song lại chẳng dồn vào đó mảy may sức lực. Dẫu bà ta có ra sức giãi bày, mọi người cũng sẽ chẳng ai tin, huống hồ trước nay bà ta vốn quen cao ngạo, không lẽ lại hạ mình xin mọi người hãy tin mình? Bà ta hậm hực nhìn Trương Vô Kỵ, rồi lớn tiếng nói với Ân Dã Vương:
– Ân Dã Vương, ngươi muốn thử chưởng lực của ta thì hãy lại đây.
Ân Dã Vương chắp tay, nói:
– Hôm nay được sư thái dành cho chút tình, đâu dám đắc tội thêm, hẹn ngày sau có dịp gặp lại.
Diệt Tuyệt sư thái phất tay trái một cái, không nói gì nữa, dẫn các đệ tử đi về hướng tây. Người các phái Côn Luân, Hoa Sơn, Không Động, cùng Ân Lê Đình và Tống Thanh Thư cũng đi theo.
*
* *
Thù Nhi hai chân còn chưa đi nổi, vội gọi:
– A Ngưu ca, mau đưa muội chạy theo họ.
Trương Vô Kỵ muốn cùng Ân Dã Vương nói vài lời, bèn nói:
– Đợi một chút!
Chàng đi tới gần Ân Dã Vương, nói:
– Đại đức ra tay trợ giúp của tiền bối, vãn bối không bao giờ dám quên.
Ân Dã Vương cầm tay chàng, nhìn chàng đánh giá một hồi, rồi hỏi:
– Ngươi họ Tăng ư?
Trương Vô Kỵ chỉ muốn sà vào lòng ông, gọi “Cậu ơi, cậu ơi!” nhưng phải kìm lòng lại, hai mắt bỗng rưng rưng. Người đời có câu “Thấy cậu như thấy mẹ”, chàng từ nhỏ đã mồ côi cả cha lẫn mẹ, Ân Dã Vương là thân nhân mười mấy năm nay mới gặp lần đầu, bảo làm sao chàng không xúc động?
Ân Dã Vương thấy ánh mắt chàng trai đối với ông đầy vẻ thân thiết, lại nghĩ là chàng cảm ân cứu mạng nên cũng không để tâm, đưa mắt sang phía Thù Nhi ngồi dưới cát, cười nhạt một tiếng, nói:
– A Ly, ngươi đó ư?
Thù Nhi ngẩng đầu lên, đôi mắt đầy vẻ oán hận, rồi lại cúi xuống, lát sau mới nói:
– Cha!
Tiếng “Cha” vừa thốt ra, Trương Vô Kỵ vô cùng kinh ngạc, bao nhiêu ý nghĩ hiện ra trong đầu, trong giây lát chàng đã hiểu ra rất nhiều chuyện: “Thì ra Thù Nhi là con gái của cậu mình, vậy nàng là biểu muội của mình. Nàng giết bà vợ lẽ của cha, dẫn tới cái chết của mẹ nàng, lại từng nói cha nàng mà gặp nàng sẽ giết ngay… Ôi, nàng dùng Thiên thù vạn độc thủ đả thương Ân Vô Lộc, chắc là vì mấy gia nhân đó đã về hùa với chủ nhân đối xử không tốt với hai mẹ con nàng. Ân Vô Phúc, Ân Vô Thọ tuy rất thống hận, nhưng không dám động thủ với nàng, chỉ nói ‘Thì ra là Tam tiểu thư’, rồi dìu Ân Vô Lộc chạy đi”.
Chàng quay lại nhìn Thù Nhi, chợt nhớ: “Thảo nào mình thấy nàng rất giống mẹ mình, thì ra nàng với ta có tình huyết nhục, mẹ mình chính là cô ruột của nàng”.
Ân Dã Vương cười khẩy, nói:
– Mi còn biết gọi ta là cha sao? Ta chỉ biết mi đi theo Kim Hoa bà bà, không thèm biết đến Thiên Ưng giáo nữa. Thật chẳng ra gì, mi giống hệt mẹ mi, lại đi luyện ‘Thiên thù vạn độc thủ’. Hừ, mi thử soi gương xem mi đã thành cái giống gì. Nhà họ Ân ta lẽ đâu lại có đứa con gái nửa người nửa quỷ như mi?
Thù Nhi vốn sợ run toàn thân, đột nhiên quay đầu lại, nhìn chằm chằm vào mặt cha, xẵng giọng:
– Cha! Cha không nhắc đến chuyện cũ thì con cũng chẳng nói làm gì. Nhưng cha đã nói, vậy giờ con hỏi cha, mẹ con đã lấy cha rồi, vì cớ gì cha lại còn lấy thêm tiểu thiếp?
Ân Dã Vương ấp úng:
– Chuyện đó… chuyện đó… con nhãi ranh, nam tử hán đại trượng phu, ai chẳng năm thê bảy thiếp? Mi ngỗ nghịch bất hiếu, hôm nay có cãi cũng bằng thừa. Thiên Ưng giáo ta không coi Kim Hoa bà bà, Ngân Diệp tiên sinh là cái thá gì hết!
Ông khoát tay một cái, nói với Ân Vô Phúc và Ân Vô Thọ:
– Xách cổ con nhãi này về.
Trương Vô Kỵ giơ hai tay ngăn lại:
– Khoan đã! Ân… Ân tiền bối, tiền bối định bắt Ân cô nương làm gì?
Ân Dã Vương nói:
– Con a đầu này là đứa con bất hiếu của ta, nó đã giết mẹ kế, hại mẹ đẻ, so với loài cầm thú cũng không bằng, còn để cho sống làm gì?
Trương Vô Kỵ nói:
– Bấy giờ Ân cô nương còn nhỏ, thấy mẹ mình bị người ta khinh rẻ, nhất thời không nhịn được nên mới gây ra chuyện sai trái, cúi mong tiền bối nghĩ tình cha con, trách phạt nhẹ tay cho.
Ân Dã Vương ngửa mặt lên cười ha hả:
– Hảo tiểu tử, ngươi rốt cuộc là ai mà chuyện gì trong thiên hạ cũng xen vào thế? Ngay cả chuyện riêng nhà họ Ân ta, ngươi cũng muốn can dự ư? Hay ngươi là “võ lâm chí tôn”?
Trương Vô Kỵ xúc động, đã định nói: “Tôi chính là cháu ruột của cậu, đâu phải người ngoài”, nhưng nén lại được.
Ân Dã Vương cười, nói tiếp:
– Tiểu tử, từ rày ngươi phải biết giữ thân, nếu cứ lo chuyện bao đồng trong giang hồ, dẫu có đến mười cái mạng cũng không đủ đâu.
Nói rồi phất tay trái một cái. Ân Vô Phúc, Ân Vô Thọ liền bước tới nắm lấy Thù Nhi kéo về phía sau Ân Dã Vương.
Trương Vô Kỵ biết rằng một khi Thù Nhi rơi vào tay cha nàng thì tính mạng khó bề toàn vẹn, bèn xông tới toan cướp lại. Ân Dã Vương cau mày, tay trái thộp lấy ngực áo hất nhẹ ra ngoài; Trương Vô Kỵ thân hình bay như đằng vân giá vụ, rồi nặng nề rơi phịch xuống bãi cát vàng. Chàng có Cửu dương thần công hộ thể, tuy không bị thương nhưng khi rơi xuống, tai mắt mồm mũi toàn cát là cát, hết sức khó chịu. Chàng chưa chịu thôi, lại nhổm dậy xông tới.
Ân Dã Vương cười khẩy, nói:
– Tiểu tử, lần thứ nhất ta nhẹ tay, lần thứ hai sẽ không nể nang gì đâu.
Trương Vô Kỵ khẩn cầu:
– Ân… cô nương là con ruột của tiền bối kia mà, hồi nàng còn thơ, tiền bối đã từng bế, từng thơm, xin tiền bối hãy tha cho nàng!
Ân Dã Vương chợt động tâm, quay nhìn Thù Nhi, thấy mặt mũi con sưng vều, càng thêm chán ghét, bèn quát:
– Tránh ra!
Trương Vô Kỵ cứ xông vào để cướp lấy Thù Nhi. Thù Nhi nói:
– A Ngưu ca, đừng lo cho muội nữa. Muội sẽ mãi mãi ghi nhớ lòng tốt của ca ca. Ca ca mau chạy đi, ca ca không chống cự nổi cha muội đâu!
Ngay lúc đó, từ dưới cát có một người áo xanh trồi lên, hai tay vươn dài, thộp gáy Ân Vô Phúc, Ân Vô Thọ hai người, dập lại một cái, trán hai người ấy đập mạnh vào nhau, cả hai lập tức ngất đi. Người kia ôm lấy Thù Nhi mà phóng đi. Ân Dã Vương giận dữ quát to:
– Vi Bức Vương, ngươi cũng lo chuyện bao đồng ư?
Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu cười một tràng, ôm Thù Nhi chạy về phía trước, tên y là “Nhất Tiếu”, tiếng cười của y liên miên bất tuyệt, có thể nói là bách tiếu, thiên tiếu. Ân Dã Vương và Trương Vô Kỵ cùng cất bước đuổi theo.
Lần này Vi Nhất Tiếu không chạy vòng quanh nữa, mà lao thẳng về hướng tây nam. Thân pháp y cực nhanh, thật ngoài sức tưởng tượng. Ân Dã Vương nội lực thâm hậu, khinh công cao siêu, Trương Vô Kỵ chân khí lưu chuyển trong cơ thể, càng chạy càng nhanh, song Vi Nhất Tiếu vẫn nhanh hơn. Thoạt đầu hai người chỉ cách y vài trượng, dần dần thành ra hơn mười trượng, hai chục trượng, ba chục trượng… sau cùng không còn thấy hình bóng y đâu nữa.
Ân Dã Vương giận dữ cười khẩy, thấy Trương Vô Kỵ trước sau vẫn chạy ngang vai với mình, không chịu thua nửa bước, thì trong bụng thầm kinh ngạc, lúc này biết rằng không còn cách gì đuổi kịp Vi Nhất Tiếu, song lại muốn thử xem cước lực của gã thiếu niên này thế nào. Ông ta gia tăng kình lực xuống chân, thân hình như mũi tên rời khỏi cung, bắn vọt về phía trước, nhưng thấy Trương Vô Kỵ vẫn cứ sánh vai mình mà chạy, chẳng tụt lại chút nào. Ân Dã Vương nghe chàng nói:
– Ân tiền bối, Vi Nhất Tiếu tuy chạy nhanh thật, nhưng chắc gì đã bền hơi, mình cứ đuổi theo đến cùng xem sao.
Ân Dã Vương giật mình, đứng ngay lại, tự nhủ: “Ta thi triển khinh công như vậy là đã hết sức bình sinh, đừng nói mở miệng trò chuyện, ngay thở hụt một hơi cũng chẳng xong; vậy mà tiểu tử này vẫn nói năng như thường, chân không chậm lại chút nào, là thứ công phu gì chứ?” Ông ta vừa dừng bước, Trương Vô Kỵ đã vọt xa mấy trượng, vội quay đầu chạy trở lại bên cạnh Ân Dã Vương, chờ ông ta chỉ dẫn.
Ân Dã Vương nói:
– Tăng huynh đệ, sư phụ của huynh đệ là ai?
Trương Vô Kỵ vội nói:
– Ấy chết, xin lão nhân gia đừng gọi vãn bối là huynh đệ, vãn bối vào hàng con cháu, xin cứ gọi vãn bối là “A Ngưu” thôi. Vãn bối không có sư phụ.
Ân Dã Vương chợt nghĩ: “Tên tiểu tử này võ công vô cùng quái dị, để nó sống sẽ lưu hậu họa lớn, chi bằng xuất kỳ bất ý, giáng cho nó một chưởng chết tươi là hơn”.
Bỗng có tiếng tù và ốc biển lảnh lót từ rất xa vẳng tới, chính là tín hiệu báo động của Thiên Ưng giáo. Ân Dã Vương cau mày, nghĩ thầm: “Chắc là Hồng Thủy, Liệt Hỏa hai kỳ giận ta không cứu Nhuệ Kim kỳ, nên đến tấn công chăng? Nếu không thể một chưởng đánh chết tên tiểu tử này, ta đâu có thời gian đấu dằng dai với hắn? Chi bằng ta mượn dao giết người, đẩy y đến cho Vi Nhất Tiếu sát hại luôn”. Bbèn nói:
– Thiên Ưng giáo gặp địch rồi, ta phải quay về ứng phó. Ngươi hãy một mình đuổi theo Vi Nhất Tiếu. Kẻ đó nham hiểm hung ác, ngươi nên ra tay trước.
Trương Vô Kỵ nói:
– Vãn bối bản lĩnh thấp kém, làm sao đánh nổi ông ta? Kẻ nào tấn công Thiên Ưng giáo vậy?
Ân Dã Vương nghiêng đầu lắng nghe tiếng tù và, nói:
– Quả nhiên là Hồng Thủy, Liệt Hỏa, Hậu Thổ ba kỳ của Minh giáo đều tới rồi.
Trương Vô Kỵ hỏi:
– Cùng là Minh giáo cả, sao các vị lại tàn sát lẫn nhau?
Ân Dã Vương sầm mặt lại, nói:
– Trẻ con thì hiểu gì, lại tính chuyện bao đồng !
Nói xong, ông ta quay người chạy đi.
*
* *
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Thù Nhi rơi vào tay tên đại ác ma Vi Nhất Tiếu, nếu bị hắn cắn cổ hút máu, làm sao sống nổi?” Nghĩ thế, chàng nóng lòng sốt ruột vội hít mạnh một hơi, co chân chạy. Cũng may Vi Nhất Tiếu tuy khinh công rất giỏi, nhưng ôm thêm một người, không thể không để lại dấu chân rõ ràng trên cát. Trương Vô Kỵ định bụng: “Hắn dừng nghỉ, ta không dừng nghỉ; hắn nằm ngủ, ta không ngủ; chạy ba ngày ba đêm ắt phải đuổi kịp hắn”.
Dưới ánh nắng gay gắt trên sa mạc, chạy ba ngày đêm đâu phải chuyện dễ. Chàng chạy đến gần tối đã thấy miệng khô lưỡi đắng, mồ hôi đầm đìa khắp người. Nhưng cũng lạ thay, chân chàng không hề mỏi, chân khí Cửu dương thần công súc tích từng chút từng chút một trong cơ thể mấy năm qua bắt đầu phát huy tác dụng, càng sử dụng lực, tinh thần càng phấn chấn.
Đến một dòng suối, chàng uống no một bụng nước rồi lại chạy tiếp, cứ theo dấu chân của Vi Nhất Tiếu mà đuổi.
Chàng chạy đến nửa đêm, thấy trăng lên tới đỉnh đầu, chàng chợt cảm thấy sợ hãi, chỉ lo bỗng nhiên bắt gặp thi thể của Thù Nhi đã bị hút hết máu vứt đâu đây. Ngay lúc đó, chàng nghe hình như đằng sau có tiếng chân người, chàng quay lại nhìn, không thấy ai. Chàng không dám chần chừ thêm, lại chạy tiếp, nhưng liền nghe có tiếng chân ai lẽo đẽo theo sau.
Trương Vô Kỵ lạ lắm, quay lại nhìn lần nữa, vẫn không thấy ai. Nhìn kỹ hơn, trên sa mạc rõ ràng in hằn ba vết chân người, một vết của Vi Nhất Tiếu, một vết của chàng, còn vết thứ ba là của ai? Chàng quay lại nhìn lần nữa, đằng trước chỉ có một đường vết chân của Vi Nhất Tiếu, vậy là quả thực có kẻ đuổi theo chàng, tại sao không nhìn thấy đâu, chẳng lẽ người ấy có phép tàng hình hay sao?
Lòng đầy nghi hoặc, chàng chạy tiếp, lại nghe có tiếng chân người sau lưng.
Trương Vô Kỵ kêu lên:
– Ai đó?
Đằng sau có tiếng đáp:
– Ai đó?
Trương Vô Kỵ cả kinh, quát to:
– Ngươi là người hay là ma?
Tiếng phía sau cũng quát to:
– Ngươi là người hay là ma?
Trương Vô Kỵ quay phắt lại, lần này thấy sau lưng mình có bóng người thấp thoáng, mới biết là có người thân pháp cực nhanh kịp ẩn nấp sau lưng chàng, bèn hỏi to:
– Ngươi theo ta làm chi?
Người kia đáp:
– Ta theo ngươi để làm gì nào?
Trương Vô Kỵ cười, nói:
– Làm sao ta biết được? Ta không biết nên mới hỏi các hạ.
Người kia nói:
– Làm sao ta biết được? Ta không biết nên mới hỏi ngươi.
Trương Vô Kỵ nghĩ rằng người kia không có ác ý, y theo sau chàng đã lâu, nếu muốn ra tay sát hại thì chàng đã chẳng còn mạng nữa rồi, bèn hỏi:
– Các hạ tên gì?
Người kia đáp:
– Thuyết Bất Đắc[77].
Trương Vô Kỵ hỏi:
– Vì sao nói không được?
Người kia đáp:
– Thuyết Bất Đắc là Thuyết Bất Đắc, cần gì phải có lý do. Còn ngươi tên gì?
Trương Vô Kỵ nói:
– Tại hạ là Tăng A Ngưu.
Người kia hỏi:
– Vì sao đêm hôm khuya khoắt ngươi lại cứ chạy loạn lên như kẻ khùng vậy?
Trương Vô Kỵ biết đây là một dị nhân thân mang tuyệt kỹ, bèn nói:
– Một bằng hữu của tại hạ bị Thanh Dực Bức Vương bắt đi, tại hạ phải cứu về.
Người kia nói:
– Ngươi cứu chẳng nổi đâu.
Trương Vô Kỵ hỏi:
– Vì sao?
Người kia đáp:
– Thanh Dực Bức Vương võ công cao hơn ngươi, ngươi đánh không lại y đâu.
Trương Vô Kỵ nói:
– Đánh không lại cũng cứ đánh.
Người kia nói:
– Giỏi lắm, ngươi quả có chí khí! Bằng hữu của ngươi là một cô nương chứ gì?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Đúng thế. Tại sao các hạ biết?
Người kia nói:
– Nếu không phải là một cô nương, thì một thiếu niên đâu có liều mạng đuổi theo như thế. Đẹp lắm hả?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Không, rất xấu xí!
Người kia hỏi:
– Thế còn ngươi, có xấu không?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Các hạ đến trước mặt tại hạ thì biết liền.
Người kia nói:
– Ta không cần nhìn. Thế cô nương ấy có biết võ công không?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Có, nàng là con gái của Ân Dã Vương tiền bối trong Thiên Ưng giáo, từng theo Kim Hoa bà bà ở đảo Linh Xà học võ.
Người kia nói:
– Ngươi đừng đuổi theo nữa, Vi Nhất Tiếu bắt được nàng ta rồi, chẳng chịu thả ra đâu.
Trương Vô Kỵ lại hỏi vì sao.
Người kia hừ một tiếng, đáp:
– Ngươi ngốc lắm, không chịu suy nghĩ gì cả. Ân Dã Vương là người thế nào với Ân Thiên Chính?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Họ là hai cha con.
Người kia nói:
– Bạch Mi Ưng Vương và Thanh Dực Bức Vương, võ công ai cao hơn?
Trương Vô Kỵ nói:
– Tại hạ không biết. Xin tiền bối cho hay, ai cao hơn?
Người kia nói:
– Mỗi người có sở trường riêng. Thế lực của hai người thì ai mạnh hơn?
Trương Vô Kỵ nói:
– Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính là giáo chủ Thiên Ưng giáo, chắc thế lực mạnh hơn.
Người kia nói:
– Đúng vậy. Do đó, một khi Thanh Dực Bức Vương bắt được cháu gái của Ân Thiên Chính, là một món hàng đắt giá, đâu chịu trả lại, thể nào y chẳng dùng để uy hiếp Ân Thiên Chính.
Trương Vô Kỵ lắc đầu:
– E rằng không phải thế. Ân Dã Vương tiền bối chỉ chăm chăm muốn giết con gái mình thôi.
Người kia lấy làm lạ, hỏi:
– Vì sao vậy?
Trương Vô Kỵ liền đem chuyện Thù Nhi giết ái thiếp của Ân Dã Vương, dẫn đến chỗ mẹ nàng phải chết, kể lại sơ qua. Người kia nghe xong, tấm tắc khen:
– Giỏi thật, giỏi thật, quả là mỹ chất lương tài[78]!
Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, hỏi:
– Cái gì mà mỹ chất lương tài?
Người kia nói:
– Tuổi còn nhỏ như thế mà đã dám giết ái thiếp của cha, hại chết cả mẹ ruột, lại được Kim Hoa bà bà ở đảo Linh Xà dạy võ, ngay ta còn thích, Vi Nhất Tiếu nhất định sẽ nhận nàng ta làm đồ đệ.
Trương Vô Kỵ lo lắng hỏi:
– Sao các hạ lại biết?
Người kia nói:
– Vi Nhất Tiếu là hảo bằng hữu của ta, tâm tính y thế nào, ta đâu có lạ.
Trương Vô Kỵ thừ người ra, đột nhiên kêu to:
– Nguy rồi!
Đoạn chàng chạy như bay. Người kia vẫn bám sát chàng.
Trương Vô Kỵ vừa chạy, vừa hỏi:
– Tại sao các hạ cứ bám theo tại hạ thế?
Người kia đáp:
– Ta nổi tính hiếu kỳ, muốn xem trò vui. Còn ngươi đuổi theo Vi Nhất Tiếu để làm gì?
Trương Vô Kỵ nói:
– Thù Nhi vốn đã nhiễm một ít tà khí rồi, tại hạ nhất quyết không để cho nàng bái Vi Nhất Tiếu làm thầy, học cái môn ma quỷ hút máu người, đâu có gì tốt lành?
Người kia hỏi:
– Ngươi thích Thù Nhi lắm hả? Tại sao ngươi quan hoài đến nàng ta thế?
Trương Vô Kỵ thúc đẩy, đáp:
– Tại hạ cũng chẳng biết mình có thích hay không thích nàng ta, có điều là nàng ta… nàng ta có nhiều nét giống mẫu thân của tại hạ.
Người kia nói:
– Ồ, thế ra mẹ ngươi xấu xí, chắc ngươi cũng khó coi lắm hả?
Trương Vô Kỵ vội nói:
– Mẫu thân của tại hạ rất đẹp, các hạ đừng nói nhăng nói cuội.
Người kia nói:
– Tiếc thật, tiếc thật!
Trương Vô Kỵ hỏi:
– Tiếc cái gì thế?
Người kia nói:
– Ngươi là một thiếu niên can đảm, có chí khí, thật đáng quý, chỉ tiếc không lâu nữa sẽ bị hút hết máu tươi, thành cái xác khô!
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Người này nói không sai, dù ta có đuổi kịp Vi Nhất Tiếu cũng chẳng cứu được Thù Nhi, chỉ khờ dại đem chính mình tới nộp mạng cho hắn mà thôi”. Chàng bèn nói:
– Tiền bối giúp vãn bối một tay có được chăng?
Người kia đáp:
– Không được! Thứ nhất, Vi Nhất Tiếu là hảo bằng hữu của ta; thứ hai, ta đánh cũng chẳng thắng y.
Trương Vô Kỵ hỏi:
– Vi Nhất Tiếu đã là hảo bằng hữu của tiền bối, sao tiền bối không khuyên can ông ta?
Người kia thở dài:
– Khuyên đâu có được. Chính Vi Nhất Tiếu cũng đâu có muốn hút máu người, chẳng qua là việc bất đắc dĩ, thực là vô cùng khổ tâm.
Trương Vô Kỵ lấy làm lạ, hỏi:
– Việc bất đắc dĩ, nghĩa là thế nào?
Người kia nói:
– Vi Nhất Tiếu luyện nội công bị tẩu hỏa nhập ma, từ đó mỗi lần kích dẫn nội lực lại phải uống máu người, nếu không toàn thân sẽ bị lạnh run, chết cóng liền.
Trương Vô Kỵ trầm ngâm nói:
– Có lẽ ba mạch âm của y bị tổn thương chăng?
Người kia ngạc nhiên, hỏi:
– Ủa, ngươi cũng biết thế ư?
Trương Vô Kỵ nói:
– Là vãn bối đoán vậy thôi, nhưng không biết có đúng hay không.
Người kia nói:
– Ta đã ba lần vào núi Trường Bạch tìm bắt một con cóc lửa về chữa trị cho y, nhưng cả ba lần đều trở về tay không. Lần thứ nhất trông thấy con cóc lửa, cách hai trượng mà không bắt được. Hai lần sau thì chẳng thấy tăm hơi con cóc lửa nào cả. Chờ vụ này qua rồi, ta sẽ lại đi tìm một chuyến nữa.
Trương Vô Kỵ nói:
– Để vãn bối cùng đi với tiền bối. Được chăng?
Người kia nói:
– Ồ, ngươi đủ nội lực, nhưng khinh công quá kém, nói trắng ra là không có chút hỏa hầu nào, chuyện đó để sau hãy tính. À, mà ta hỏi ngươi, tại sao ngươi muốn giúp ta đi kiếm con cóc lửa?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Nếu bắt được cóc lửa, chẳng những trị khỏi bệnh cho Vi Nhất Tiếu mà còn cứu được bao nhiêu người khỏi bị hút máu. À này tiền bối, y chạy lâu thế rồi, kích dẫn nội lực, liệu y có hút luôn cả máu của Thù Nhi hay không?
Người kia ngẩn ra, nói:
– Cái đó không chừng! Dù y có ý định nhận Thù Nhi làm đồ đệ, nhưng lúc lạnh run lên, máu trong người đóng thành băng, lúc ấy chỉ e ngay cả con ruột y cũng…
Trương Vô Kỵ càng nghĩ càng lo, cố sức mà chạy. Người kia bỗng nói:
– Này, đằng sau ngươi có cái gì thế?
Trương Vô Kỵ ngoảnh lại nhìn, đột nhiên trước mắt tối om, toàn thân bị một cái gì rất lớn chụp vào, tiếp đó thân hình treo lơ lửng, hình như chàng bị người kia bỏ vào một cái túi rất lớn. Chàng vội dùng tay xé cái túi, nào ngờ cái túi bền chắc dị thường, sờ mãi không thấy đường chỉ khâu, chắc chắn may bằng một loại vải dày, không thể dùng tay xé rách.
Người kia ném cái túi xuống đất, cười ha hả, nói:
– Ngươi làm sao chui ra khỏi cái túi của ta, mới thực là giỏi.
Trương Vô Kỵ vận nội lực, hai tay đẩy mạnh ra, nhưng cái túi mềm nhũn, không dùng sức vào đâu được. Chàng giơ chân phải đạp mạnh, cái túi chỉ lồi ra phía ngoài một chút, dù chàng có chọc xé, kể cả húc đầu, lăn lộn cách chi, cái túi vẫn cứ trơ trơ. Người kia cười hỏi:
– Ngươi chịu chưa?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Chịu rồi.
Người kia vỗ một cái, qua lần vải trúng ngay vào mông Trương Vô Kỵ, cười nói:
– Tiểu tử, hãy ngoan ngoãn nằm trong cái túi Càn Khôn Nhất Khí của ta, đừng vùng vẫy. Ta sẽ đưa ngươi tới một nơi dễ chịu. Ngươi mà mở miệng nói một câu, để người ngoài hay biết, ta không cứu nổi ngươi đâu.
Trương Vô Kỵ hỏi:
– Tiền bối đưa vãn bối đi đâu?
Người kia đáp:
– Ngươi đã chui vào trong cái túi Càn Khôn Nhất Khí của ta, ta muốn lấy mạng ngươi, ngươi đâu có chạy được? Chỉ cần ngươi đừng động đậy, đừng lên tiếng, thì sẽ có lợi cho ngươi.
Trương Vô Kỵ nghĩ lời nói đó quả không sai, nên không vùng vẫy nữa.
Người kia nói:
– Ngươi được nằm trong cái túi của ta là có phúc lắm đó.
Rồi người ấy vác cái túi lên vai mà chạy.
Trương Vô Kỵ hỏi:
– Việc của Thù Nhi sẽ ra sao?
Người kia nói:
– Ta làm sao biết được? Ngươi còn lải nhải nữa, ta sẽ tống cổ ngươi ra khỏi cái túi này.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Ông mà tống cổ tôi ra khỏi cái túi này thì còn gì hay bằng?” Song chàng không dám nói ra, chỉ cảm thấy cước bộ của người kia cực nhanh.
Người ấy chạy một mạch mấy canh giờ liền, Trương Vô Kỵ ở bên trong cái túi thấy nóng dần lên, biết rằng trời đã sáng, ánh nắng chiếu vào. Lát sau cảm thấy người kia chạy lên cao, hình như đang lên núi. Lại đi hơn hai canh giờ nữa, Trương Vô Kỵ thấy hơi lạnh, nghĩ thầm: “Hình như đã lên tới đỉnh núi cao có tuyết nên mới lạnh thế này”. Đột nhiên thân hình chàng bay lên, chàng cả kinh, nhịn không nổi phải kêu lên.
Tiếng kêu chưa dứt, cảm thấy thân hình chựng lại, người kia đã chạm đất. Trương Vô Kỵ lúc này mới biết là người kia vừa vác cái túi nhảy đi. Có lẽ đây là đỉnh núi rất cao, vách đá cheo leo. Người kia vác chàng nhảy vọt như thế, đá núi có tuyết phủ rất trơn, chỉ sảy chân một cái là cả hai người sẽ tan xương nát thịt. Vừa nghĩ như thế thì người kia lại nhảy vọt đi, cứ thế nhảy liên tục, lúc cao lúc thấp, lúc gần lúc xa. Trương Vô Kỵ ở trong cái túi, không có chút ánh sáng nào, song cũng đoán biết địa thế nơi đây hiểm trở dị thường.