Hồi 13: Tình cốt nhục

Hồi 13: Tình cốt nhục

Thạch Phá Thiên cứ ngẩn ngơ nhìn Mẫn Nhu, trong lòng đầy mối nghi ngờ. Mẫn Nhu hai mắt đẫm lệ, mỉm cười nói: “Thằng con ngốc nghếch này! Ngươi… ngươi không nhận ra gia gia cùng má má ư?” Rồi bà giang hai tay ra ôm chàng vào lòng.

Thạch Phá Thiên từ ngày có hiểu biết, chưa được người nào thương mến thật tình. Trong lúc này, lòng chàng đối với Mẫn Nhu vừa cảm kích lại vừa kính yêu, xiết bao xúc động, không biết nói thế nào cho phải. Hồi lâu chàng mới ấp úng: “Ông ấy… Thạch trang chúa là gia gia của cháu ư? Cháu thật sự chưa biết. Nhưng… nhưng… bà không phải má má của cháu. Cháu đang đi tìm má má đây.”

Mẫn Nhu thấy Thạch Phá Thiên không nhìn nhận mình thì lòng se thắt lại, cơ hồ sa lệ. Bà nói: “Thật là tội nghiệp! Chuyện này không thể trách con được. Đã xa cách bấy nhiêu năm, con không nhận ra được gia gia, má má nữa là phải. Khi con rời Huyền Tố trang mới đứng đến bụng má má, mà bây giờ đã cao hơn cả gia gia rồi. Tướng mạo con cũng biến đổi khá nhiều. Hôm gặp con trong miếu Thổ địa, nếu gia gia không biết trước con đã bị Bạch Vạn Kiếm bắt đi thì khó mà nhận ra con được.”

Thạch Phá Thiên càng nghe Mẫn Nhu nói càng thấy ngạc nhiên. Mẫu thân chàng mập mạp thấp lùn, da mặt vàng khè, bé nhỏ hơn Mẫn Nhu nhiều. Khi nào chàng nhìn lầm được? Chàng ấp úng nói: “Thạch phu nhân! Phu nhân nhận lầm rồi. Cháu… cháu không phải là con của phu nhân đâu.”

Mẫn Nhu quay lại nhìn Thạch Thanh, không kìm nổi đôi dòng nước mắt, run rẩy nói: “Thanh ca! Thanh ca xem thằng nhỏ này…”

Thạch Thanh thấy Thạch Phá Thiên không nhìn nhận cha mẹ thì nghĩ thầm: “Thằng nhỏ này tâm địa sâu xa, không muốn nhận cha mẹ hẳn là có thâm ý chi đây. Không chừng vì gã đã gây nên đại họa ở thành Lăng Tiêu, làm điều càn rỡ ở bang Trường Lạc mà danh tiếng xấu xa, nên không còn mặt mũi nào nhìn nhận cha mẹ nữa, lại sợ chúng ta trách phạt. Có khi gã lại sợ làm liên lụy đến cha mẹ cũng nên.” Ông nghĩ vậy liền hỏi: “Vậy ngươi có phải là Thạch bang chúa ở bang Trường Lạc không?”

Thạch Phá Thiên nói: “Ai cũng kêu cháu là Thạch bang chúa, nhưng thực ra không phải. Họ nhận lầm mà thôi.”

Thạch Thanh lại hỏi: “Thế tên ngươi là chi?”

Thạch Phá Thiên vẻ mặt bâng khuâng nói: “Cháu cũng không biết. Má má thường kêu cháu là Cẩu Tạp Chủng.”

Vợ chồng Thạch Thanh đưa mắt nhìn nhau, cùng nhận thấy Thạch Phá Thiên nói rất thành khẩn, hoàn toàn không có ý gì là lừa dối hay giấu giếm. Thạch Thanh đưa mắt ra hiệu cho Mẫn Nhu, rồi hai người lùi ra xa hơn mười bước. Thạch Thanh hỏi nhỏ: “Thằng nhỏ này có đúng là Ngọc nhi hay không? Chúng ta đã nghe nói Ngọc nhi làm bang chúa bang Trường Lạc. Nhưng người đã làm chúa tể một bang, khi nào lại ngớ ngẩn thế được?”

Mẫn Nhu nghẹn ngào đáp: “Ngọc nhi xa lìa song thân đã mười mấy năm, khi lớn lên thì thân hình cùng tướng mạo thay đổi rất nhiều. Nhưng, nhưng… tiểu muội nhận thấy nó đúng là con của chúng ta.”

Thạch Thanh nghĩ ngợi một lúc lâu, lại hỏi: “Trong lòng muội không có chút nào hoài nghi ư?”

Mẫn Nhu đáp: “Hoài nghi thì có, nhưng không hiểu tại sao tiểu muội vẫn tin chắc nó… nó đúng là con của chúng ta. Còn vì lý do gì, thì muội thật sự không thể nghĩ cho rõ được.”

Thạch Thanh sực nhớ ra một chuyện, liền nói: “Ồ! Đúng rồi! Sư muội có nhớ chuyện con tiểu tiện nhân kia đã hạ thủ hại mình không? Ngày đó…”

Đây là những việc mà vợ chồng họ suốt đời không thể quên được, nhưng không ai muốn nhắc tới. Thạch Thanh cũng chỉ nói có một câu, rồi thôi không nói tiếp nữa. Mẫn Nhu hiểu ra, bèn đáp: “Đúng rồi! Để muội kể lại cho nó biết.” Bà lại bên khối đá lớn ngồi xuống, quay lại nhìn Thạch Phá Thiên vẫy tay nói: “Hài tử, lại đây! Má má có câu chuyện này muốn nói với hài nhi.”

Thạch Phá Thiên vâng lời tiến lại. Mẫn Nhu trỏ phiến đá lớn bảo chàng ngồi xuống bên cạnh, rồi nói: “Hài tử! Lúc con mới lên một tuổi, một con nữ tặc đến gia hại má má. Gia gia con vắng nhà, còn má má mới sinh hạ em con chưa đầy một tháng, thì làm gì đủ hơi sức để đối phó với con nữ tặc kia? Con nữ tặc này tàn ác vô cùng, chẳng những định giết má má, mà còn muốn sát hại cả con cùng em con nữa.”

Thạch Phá Thiên khiếp sợ hỏi ngay: “Thế rồi y có giết chết cháu không?” Rồi chàng bật cười nói tiếp: “Cháu thật là hồ đồ. Dĩ nhiên là y chưa giết chết con.”

Mẫn Nhu vẫn không cười. Bà nói tiếp: “Má má tay trái bồng con, tay phải cầm kiếm, cố gắng duy trì tính mạng mấy mẹ con. Con nữ tặc kia võ công thật là ghê gớm, may mà đến lúc nguy cấp thì gia gia con về tới nơi. Con nữ tặc liền phóng ra ba mũi Kim Tiền Tiêu. Má má hất được hai mũi đi, còn mũi thứ ba bắn trúng vào sau mông con. Má má vừa hốt hoảng vừa mệt nhọc, ngất đi. Con nữ tặc thấy gia gia con về đến, liền bỏ trốn. Không ngờ lòng dạ nó rất là ác độc, lúc chạy trốn còn tiện tay bồng em con đi. Gia gia con vội lại cứu má má, trong lòng vẫn lo sợ nữ tặc còn có đồng đảng ẩn núp gần đó, sẽ thừa cơ giết hại má má, nên gia gia không dám rượt theo. Vả lại gia gia con nghĩ rằng nữ tặc kia… nữ tặc kia thật sự cũng chẳng hại con nít làm gì, bắt đi chỉ để hăm dọa mà thôi. Ngờ đâu đến ngày thứ ba, con nữ tặc kia cho người đưa thi thể em con đến trả. Ở chỗ trái tim đứa bé chưa đầy tháng còn cắm hai thanh đoản kiếm, một thanh hắc kiếm và một thanh bạch kiếm. Trên hai thanh kiếm lại khắc tên gia gia và má má vào…”

Mẫn Nhu kể tới đây, nước mắt tuôn ra như mưa. Thạch Phá Thiên nghe chuyện, khí tức xông lên tận cổ. Chàng nói: “Mụ nữ tặc này thật là ác quá! Đứa con nít đã biết gì, mà mụ cũng hạ độc thủ sát hại? Nếu không thế thì cháu đã có một đứa em rồi, như thế hay biết bao nhiêu? Thạch phu nhân! Sao má má cháu không kể cho cháu biết?”

Mẫn Nhu sa lệ nói: “Hài tử! Chẳng lẽ con thật sự đã quên cả người mẹ đã sinh ra con sao? Ta… ta chính là má má của con.”

Thạch Phá Thiên nhìn chăm chú vào mặt Mẫn Nhu, rồi từ từ lắc đầu đáp: “Không phải đâu! Phu nhân nhận lầm rồi.”

Mẫn Nhu nói: “Năm xưa mụ nữ tặc đã phóng Kim Tiền Tiêu trúng vào mông trái của con. Bây giờ tuy con đã lớn rồi, nhưng mũi tiêu kia nhất định hãy còn dấu vết. Con hãy cởi áo ra để mẹ xem thử.”

Thạch Phá Thiên ấp úng: “Hài nhi… hài nhi…” Chàng nghĩ tới trên vai mình có vết răng Đinh Đang cắn vào, trên đùi có vết kiếm thành sáu đóa tuyết hoa của Liêu sư thúc đâm vào, đều là những chuyện mà chàng không biết chi hết, nhưng lúc cởi áo ra xem lại thì vết sẹo còn rành rành trên da thịt. Chuyện này chàng đã nghĩ mãi mà vẫn không hiểu nổi. Bây giờ Thạch phu nhân lại nói chàng có vết thương do Kim Tiền Tiêu phóng trúng mông, chàng lại sợ có vết tiêu thật cũng chưa biết chừng.

Thạch Phá Thiên liền thò tay sờ vào mông trái của mình, thấy dường như chẳng có vết thương nào hết. Nhưng hai lần trước chàng đã thấy đúng rồi, nên trong lòng không khỏi hồi hộp, vẻ kinh hãi lộ ra ngoài mặt.

Mẫn Nhu mỉm cười nói: “Ta là mẹ ruột sinh ra con, chẳng biết đã phải thay đổi tã lót đến bao nhiêu lần thì còn gì phải thẹn nữa? Thôi được! Hài nhi cứ để gia gia xem thử.” Bà nói xong, quay lưng tránh ra mấy bước.

Thạch Thanh nói: “Hài tử! Con cởi quần ra để gia gia xem cho.” Thạch Phá Thiên lại thò tay xuống sờ vào mông của mình lần nữa, vẫn chẳng thấy vết sẹo gì. Bấy giờ chàng mới cởi dây lưng kéo trễ quần xuống, quay đầu nhìn lại thì thấy trên mông trái quả có một vết thẹo dài chừng bảy tám phân. Nhưng vì lâu ngày quá nên dấu vết chỉ còn lờ mờ, nhìn kỹ mới thấy.

Thạch Phá Thiên kinh hãi vô cùng. Chàng tưởng chừng như trời đất quay cuồng, tựa hồ mình đã biến thành một con người xa lạ nào khác mà mình chẳng biết chi hết. Chàng sợ quá không nhịn được, bỗng khóc òa lên.

Mẫn Nhu vội quay lại, Thạch Thanh nhìn bà gật đầu, ra hiệu chàng đúng là Ngọc nhi. Mẫn Nhu vừa hớn hở vui mừng lại vừa thương xót Thạch Phá Thiên. Bà ôm chặt chàng vào lòng, sa lệ dỗ dành: “Ngọc nhi! Ngọc nhi! Con đừng sợ hãi gì hết. Dù gặp việc tày đình, cũng có gia gia cùng má má che chở cho con.”

Thạch Phá Thiên vừa khóc vừa nói: “Bao nhiêu việc về trước con chẳng nhớ tí gì hết, không biết bà là má má, ông là gia gia của con. Con không biết trên mông mình có vết thẹo như thế. Con chẳng nhớ gì… chẳng biết tí gì hết…”

Thạch Thanh hỏi: “Công lực của Ngọc nhi thâm hậu như vậy là đã học được ở đâu?”

Thạch Phá Thiên lắc đầu đáp: “Con cũng không biết.”

Thạch Thanh lại hỏi: “Vậy công phu độc chưởng Ngọc nhi mới học mấy hôm nay là do ai truyền thụ?”

Thạch Phá Thiên lại càng kinh hãi đáp: “Không có ai dạy cho con cả. Sao… sao bất luận điều gì con cũng thấy mơ hồ. Chẳng lẽ con thật sự đúng là Thạch Phá Thiên, là Thạch bang chúa ư? Con họ Thạch, và là con ruột của hai vị ư?”

Thạch Phá Thiên sợ đến tái mặt, hai tay nắm lấy cạp quần để quần khỏi bị rơi xuống. Chàng quên mất cả chuyện cột dây lưng quần lại. Vợ chồng Thạch Thanh thấy chàng sợ hãi đến mức như vậy cũng lộ vẻ cực kỳ thương xót. Mẫn Nhu không ngừng xoa đầu chàng, dịu dàng khuyên dỗ: “Ngọc nhi! Ngọc nhi! Con đừng sợ hãi gì.”

Thạch Thanh cũng dẹp bao nhiêu phẫn hận mấy năm nay sang một bên, bụng bảo dạ: “Mình đã thấy có người vì bị trọng thương ở đầu, hoặc vì bị bệnh nặng mà mất trí quên hết những việc trước đây. Chứng này, gọi là Ly hồn chứng gì gì đó, rất khó chữa trị cho phục hồi như cũ. Chẳng lẽ… Ngọc nhi mắc phải chứng bệnh này hay sao?” Ông chỉ nghĩ bụng vậy thôi, chứ không dám nhắc đến chuyện này cùng vợ. Ngờ đâu chính Mẫn Nhu cũng nghĩ thế, bất giác hai người đưa mắt nhìn nhau rồi cùng buột miệng lên tiếng: “Ly hồn chứng.”

Thạch Thanh đã nghe nói những người mắc phải chứng bệnh này thì càng tra hỏi càng bệnh nặng hơn, chỉ có cách nói xa nói gần để từ từ trợ giúp người ta lấy lại trí nhớ. Ông liền nói bằng một giọng rất ngọt ngào: “Hôm nay chúng ta cốt nhục trùng phùng, thật là vui mừng không sao nói hết. Hài tử! Con chắc chắn đã đói bụng rồi. Chúng ta đi về phía trước mua ít rượu thịt mà ăn nhé.”

Thạch Phá Thiên vẫn như người mất hồn, tự mình nói mình nghe: “Con… Rốt cuộc con là ai?”

Mẫn Nhu đưa tay ra thắt dây lưng cẩn thận lại cho Thạch Phá Thiên, rồi hỏi bằng một giọng rất dịu dàng: “Hài nhi! Con có bao giờ bị té nặng mà đau đầu không? Đã từng động thủ với ai rồi bị người ta đả thương vào đầu không?”

Thạch Phá Thiên lắc đầu đáp: “Không có! Không có!”

Mẫn Nhu lại hỏi: “Vậy mấy năm nay con có bị trọng bệnh, sốt cao quá không?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Bị bệnh thì có. Mấy tháng trước con bị phát sốt, toàn thân nóng như bị thiêu đốt trong một lò lửa lớn, rồi sau lại lạnh toát cả người. Ngày ấy… con đang ở trong núi, ngất đi rồi không biết gì nữa.”

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu hỏi ra căn bệnh của Thạch Phá Thiên thì trong bụng mừng thầm, đồng thời thở phào nhẹ nhõm. Mẫn Nhu chậm rãi nói: “Hài nhi bất tất phải lo ngại. Chỉ vì con bị bệnh nặng, sốt cao quá đâm ra mê sảng, nên quên hết những việc ngày trước mà thôi. Dần dần rồi con sẽ khỏi.”

Thạch Phá Thiên nửa tin nửa ngờ, ngập ngừng hỏi: “Bà là má má cháu thật ư? Thạch… Thạch trang chúa là gia gia của cháu ư?”

Mẫn Nhu nói: “Đúng thế! Hài nhi! Gia gia con cùng ta đi kiếm con khắp nơi, may ông trời thương xót khiến cho ba người cả nhà ta đoàn tụ. Hài nhi… sao hài nhi không gọi gia gia?”

Thạch Phá Thiên tin là Mẫn Nhu không lừa gạt mình, mà chính mình lại chưa biết cha, nên chỉ chần chừ một chút rồi hướng về phía Thạch Thanh cất tiếng gọi: “Gia gia!”

Thạch Thanh mỉm cười bảo chàng: “Hài nhi gọi má má đi!”

Thạch Phá Thiên nghe Thạch Thanh bảo mình kêu Mẫn Nhu bằng má má, thì lấy làm khó nghĩ hơn. Chàng nhớ rõ tướng mạo má má chàng khác hẳn Mẫn Nhu. Mấy năm trước đây má má đã bỏ chàng ra đi không thấy trở về. Bà ta tóc đã hoa râm rồi chứ không còn đen láy như Mẫn Nhu. Tính tình của má má lại nóng nảy dữ dội, động mở miệng là chửi mắng, động cất tay là đánh đập, đâu có dịu dàng ôn hòa như Mẫn Nhu? Nhưng chàng thấy vẻ mặt Mẫn Nhu ra chiều khao khát, đợi một lúc chưa thấy chàng kêu bằng má má thì hai mắt đỏ hoe. Thạch Phá Thiên thấy thế trong lòng không nỡ, khẽ cất tiếng gọi: “Má má!”

Mẫn Nhu mừng rỡ, đưa tay ôm Thạch Phá Thiên vào lòng thủ thỉ: “Con ngoan, con ngoan của ta!” Hai hàng châu lệ chảy xuống ròng ròng.

Khóe mắt Thạch Thanh cũng ướt, nhưng ông nghĩ bụng: “Thằng nhỏ này đã có những hành vi tội lỗi ở thành Lăng Tiêu và bang Trường Lạc, tội thật đáng chết, làm sao gọi là con ngoan được?” Nhưng ông lại nghĩ chàng vì mắc bệnh mà đổi tính, nhất thời không nên nổi giận. Rồi ông tự nhủ: “Con người phạm tội biết hối cải là quý. Sau này mình giáo huấn đàng hoàng, biết đâu nó chẳng ăn năn hối cải?”

Ông lại nghĩ tới chàng từ nhỏ phải xa rời cha mẹ, bản thân mình không chăm nom dạy dỗ thì cũng phải gánh một phần tội lỗi. Có điều Huyền Tố Song Kiếm thanh danh lừng lẫy mà sinh hạ ra thằng nhỏ bất tiếu này, thật là xấu hổ với bạn hữu giang hồ.

Trong lòng Thạch Thanh cùng lúc nổi lên rất nhiều tư tưởng như sóng cồn, vui mừng cũng có mà tức giận cũng có. Mẫn Nhu nhìn sắc mặt trượng phu, liền hiểu rõ tâm sự ngay. Bà chỉ sợ Thạch Thanh tra vấn đến tội lỗi của con, liền nói: “Thanh ca! Ngọc nhi! Ta đói lắm rồi! Chúng ta mau đi kiếm gì ăn đi.” Rồi bà chúm môi huýt một tiếng sáo, đôi tuấn mã một trắng một đen chạy lại ngay.

Mẫn Nhu mỉm cười nói: “Hài nhi! Con cùng má má cỡi con ngựa trắng.” Thạch Thanh thấy vợ đã mười mấy năm trời ít khi vui vẻ được như hôm nay. Ông cũng bất giác hớn hở trong lòng, mỉm cười nhảy vọt lên lưng con ngựa đen. Thạch Phá Thiên cùng Mẫn Nhu cưỡi chung con ngựa trắng, men theo con đường lớn chạy về phía trước.

Thạch Phá Thiên xiết nỗi hoài nghi. Chàng tự hỏi: “Thạch phu nhân đúng là má má của mình hay sao? Nếu đúng, thì người nuôi mình từ nhỏ đến lớn không phải là má má ư?”

Đôi ngựa chạy được mấy dặm, bỗng thấy bên đường có một ngôi chùa nhỏ. Mẫn Nhu nói: “Chúng ta hãy vào chùa vái lạy đức Bồ Tát.” Bà nói xong, xuống ngựa đi vào. Thạch Thanh cùng Thạch Phá Thiên cũng theo sau.

Thạch Thanh vốn biết vợ mình trước nay không tin ở quỷ thần, thế mà hôm nay bà tiến vào điện rồi quỳ xuống trước một pho tượng Phật, khấu đầu không ngớt. Ông quay lại nhìn Thạch Phá Thiên, trong lòng đột nhiên vô cùng cảm kích, tự nhủ: “Thằng nhỏ này tuy là một đứa hư đốn, đã làm rất nhiều việc bừa bãi, nhưng thực ra mình còn thương yêu nó hơn cả tính mạng của mình. Nếu có người định sát hại nó, thì ta nhất định phải liều mạng bảo toàn cho nó. Hôm nay phụ tử được trùng phùng, trời phật đối với Thạch Thanh này cũng là ơn trọng như núi.” Ông nghĩ vậy, cũng quỳ xuống dập đầu hành lễ.

Thạch Phá Thiên đứng bên, nghe Mẫn Nhu cầu khẩn rất khẽ: “Xin Phật Như Lai phù hộ, che chở cho hài nhi của đệ tử được mau lành bệnh. Nó còn nhỏ dại chưa biết gì đã làm nên tội nghiệt. Kẻ làm mẹ là đệ tử xin gánh vác hết mọi trách phạt, dù sấm sét búa rìu đệ tử cũng cam lòng chịu đựng, quyết không thoái thác. Chỉ cầu mong con của đệ tử từ nay về sau biết hối cải làm lại cuộc đời, không bị tai nạn gì, mãi mãi bình an hỉ lạc.”

Mẫn Nhu chỉ lâm râm cầu khẩn rất khẽ, nhưng Thạch Phá Thiên nội công cao cường, mắt tinh tai thính khác hẳn người thường, nên chàng nghe rõ hết từng chữ. Bất giác bầu nhiệt huyết của chàng sôi lên sùng sục, tự nhủ: “Nếu Thạch phu nhân không phải là mẹ ruột của mình thì đâu có tốt với mình đến thế? Vậy mà mình còn không chịu kêu người bằng má má, thì thật là hồ đồ đến cực điểm.” Trong lòng xúc động, chàng nhảy xổ đến sau lưng Mẫn Nhu, ôm lấy hai vai bà gọi luôn mấy tiếng: “Má má! Má má! Má má đúng là mẫu thân của hài nhi!”

Vừa rồi chàng xưng hô một cách miễn cưỡng lẽ nào Mẫn Nhu lại không hiểu? Bây giờ bà nghe chàng gọi mình một cách thương yêu thành thực, phát xuất tự đáy lòng, liền quàng tay lại ôm lấy Thạch Phá Thiên gọi nhỏ: “Con trai tội nghiệp của má má!”

Thạch Phá Thiên bỗng nhớ tới người mẹ đã ở với mình mười mấy năm trong núi hoang. Tuy bà ta đối với chàng chẳng có tình cảm gì, nhưng mẹ con đã nương tựa nhau mà sống bấy nhiêu năm, lòng chàng vẫn quyến luyến không lúc nào quên. Chàng không nhịn được liền hỏi: “Vậy má má trước kia của hài nhi bây giờ ở đâu? Chẳng lẽ… chẳng lẽ người đã lừa gạt hài nhi hay sao?”

Mẫn Nhu nhẹ nhàng xoa đầu chàng nói: “Má má của hài nhi ngày trước hình dạng thế nào? Hài nhi thử nói cho ta nghe.”

Thạch Phá Thiên đáp: “Người… đầu tóc đã đốm bạc, thấp hơn má má chừng nửa cái đầu. Người không biết võ công nhưng rất hay nổi giận. Người hay trợn mắt nhìn con, thường đánh mắng con.”

Mẫn Nhu hỏi: “Bà ấy xưng là mẹ của con, vậy cũng kêu con là hài tử hay sao?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Không! Người kêu con bằng Cẩu Tạp Chủng.”

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu bất giác động tâm nghĩ bụng: “Người đàn bà kia kêu Ngọc nhi bằng Chó Lộn Giống, tức là rất căm giận vợ chồng mình. Chẳng lẽ mụ… mụ… chính là người đàn bà đó?”

Mẫn Nhu vội hỏi: “Phải chăng người đàn bà đó mặt trái xoan, nước da trắng trẻo, tướng mạo rất đẹp, khi cười trên mặt có một lúm đồng tiền?”

Thạch Phá Thiên lắc đầu đáp: “Không phải! Má má đó người mập mạp, nước da nửa vàng nửa đen, suốt ngày cằn nhằn, rất ít khi cười. Còn má lúm đồng tiền là cái gì?”

Mẫn Nhu thở phào một cái rồi nói: “Thì ra không phải là bà ấy. Hài nhi! Tối hôm ấy trong miếu Thổ Địa, má má không cẩn thận để mũi kiếm đâm trúng hài nhi. Vết thương đó thế nào?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Thương thế nhẹ lắm, chỉ qua mấy ngày là khỏi.”

Mẫn Nhu lại hỏi: “Hài nhi làm thế nào mà trốn thoát được khỏi tay Bạch Vạn Kiếm? Con trai chúng ta thật là giỏi, ngay cả Khí Hàn Tây Bắc cũng không giữ được.” Câu sau cùng, dĩ nhiên là Mẫn Nhu nói với Thạch Thanh, giọng điệu đầy vẻ đắc ý.

Hôm ở trong miếu Thổ Địa, Thạch Thanh cùng Bạch Vạn Kiếm đã tỉ đấu có đến hàng ngàn chiêu, ông rất bội phục kiếm thuật tinh thâm của Bạch Vạn Kiếm. Bây giờ ông nghe vợ nói vậy thì không ra vẻ tán đồng, liền bảo: “Đừng khen con quá, coi chừng lại nuông chiều mà làm hư nó.”

Thạch Phá Thiên nói: “Không phải tự hài nhi trốn thoát được, mà là nhờ Đinh Bất Tam gia gia cùng Đinh Đinh Đang Đang cứu ra.”

Vợ chồng Thạch Thanh nghe đến tên Đinh Bất Tam đều giật mình kinh hãi, vội hỏi Thạch Phá Thiên cho rõ sự tình. Câu chuyện này khá dài, Thạch Phá Thiên lần lượt đem thuật lại từ gốc đến ngọn, Đinh Bất Tam cùng Đinh Đang đã cứu chàng, về sau Đinh Bất Tam muốn giết chàng. Đinh Đang dạy chàng cầm nã thủ pháp, Đinh Đang liệng chàng sang thuyền khác…

Mẫn Nhu lại hỏi đến những việc về trước. Thạch Phá Thiên liền kể lại những việc chàng cùng Đinh Đang bái thiên địa, lúc trở về bang Trường Lạc bị Bạch Vạn Kiếm bắt, gặp Sử bà bà cùng A Tú trên sông Trường Giang, cùng Đinh Bất Tứ tỉ võ, Sử bà bà lúc ở trên đảo Tử Yên thu chàng làm đại đệ tử phái Kim Ô. Chàng lần lượt kể đến những việc gặp chiếc thuyền chở xác chết bọn Phi Ngư Bang, rồi cùng Trương Tam Lý Tứ kết bái huynh đệ, đại náo Thiết Xoa Hội rồi lạc vào Thượng Thanh Quán.

Lúc Thạch Phá Thiên gặp những tay kỳ sĩ giang hồ, chàng cứ lơ mơ chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, nên bây giờ thuật lại không khỏi có nhiều chỗ lẫn lộn. Nhưng Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu chất vấn từng chút một, trong mười phần hai người cũng hiểu đến tám chín. Hai người càng nghe càng lấy làm kinh ngạc, đầu óc mỗi lúc một thêm nặng nề.

Thạch Thanh lại hỏi đến Thạch Phá Thiên đã vào bang Trường Lạc trong trường hợp nào. Thạch Phá Thiên liền kể lại chuyện bắt chim sẻ trên Ma Thiên Nhai, rồi thuật ngược lại việc xảy ra ở quán bánh tiêu tại Hầu Giám Tập và được Mẫn Nhu tặng bạc. Những chuyện Tạ Yên Khách cướp mất hai thanh kiếm Hắc Bạch của song thân, lão đưa chàng về Ma Thiên Nhai làm gì, nhất nhất chàng thuật lại hết.

Vợ chồng Thạch Thanh không ngờ đứa ăn xin dơ dáy năm xưa đã gặp ở Hầu Giám Tập lại chính là con mình. Mẫn Nhu hồi tưởng đến tình cảnh thằng nhỏ ăn xin lưu lạc gian truân, lòng bà se lại. Thạch Thanh nghĩ thầm: “Tính ra thì mình gặp Ngọc nhi ở Hầu Giám Tập đúng vào thời kỳ Ngọc nhi trốn khỏi thành Lăng Tiêu chưa lâu. Vậy mà sao bọn Cảnh Vạn Chung cũng không nhận ra nó?” Thạch Thanh nghĩ tới đây liền ngắm kỹ lại diện mạo Thạch Phá Thiên.

Ngày ở Hầu Giám Tập, chàng còn là một gã ăn xin nhỏ tuổi, ông chỉ nhớ mang máng gã mặc áo quần lam lũ, mặt mũi lem luốc. Thạch Thanh bèn cho là khi chàng ở thành Lăng Tiêu trốn đi, dọc đường để mặt mũi dơ dáy ăn xin, không chừng lại còn cố ý bôi bùn đất lên mặt để bọn Cảnh Vạn Chung không nhận diện được. Còn vợ chồng mình đã không gặp nó nhiều năm, trẻ con thay đổi rất nhanh, không nhận ra cũng là dễ hiểu.

Ông lại hỏi tiếp: “Hôm đó ở ngoài tiệm bán bánh tại Hầu Giám Tập, thấy sư thúc Cảnh Vạn Chung cùng các vị tới nơi, Ngọc nhi có sợ không?” Mẫn Nhu vốn không muốn chồng nhắc tới chuyện phái Tuyết Sơn, nhưng bây giờ ông đã nói ra thì không ngăn trở được nữa. Bà chau mày, ra chiều lo lắng cho cậu con cưng sắp bị người cha nghiêm khắc truy vấn.

Bỗng nghe Thạch Phá Thiên nói: “Cảnh Vạn Chung đại hiệp là sư thúc của hài nhi thật hay sao? Khi ấy con không biết họ đến bắt mình, nên chẳng sợ chi hết.”

Thạch Thanh hỏi: “Khi ấy Ngọc nhi không biết họ đến bắt mình sao? Ngươi… ngươi không biết Cảnh Vạn Chung là sư thúc mình thật ư?”

Thạch Phá Thiên lắc đầu đáp: “Hài nhi không biết.”

Mẫn Nhu thấy mặt chồng như phủ một đám mây mờ, biết ông đang tức giận vô cùng nhưng còn cố nén. Bà liền nói: “Hài nhi! Con người ta ai mà không phạm lỗi lầm, nhưng có lỗi mà biết hối cải thì thật là chuyện tốt. Những hành động trước kia hài nhi đã làm, đương nhiên không có cách nào sửa chữa được nữa. Nhưng gia gia cùng má má thương yêu con hơn cả tính mạng mình, vậy con đừng giấu giếm điều chi, cứ kể hết mọi việc cho gia gia má má nghe. Phong sư phụ đối đãi với con thế nào?”

Thạch Phá Thiên lại hỏi: “Phong sư phụ? Phong sư phụ là ai?” Chàng nhớ lại lúc ở trong miếu Thổ Địa đã nghe song thân cùng Bạch Vạn Kiếm nhiều lần nhắc đến tên Phong Vạn Lý, liền hỏi tiếp: “Có phải là Phong Hỏa Thần Long Phong Vạn Lý không? Hài nhi đã nghe gia gia cùng má má nhắc đến tên, nhưng chưa từng gặp mặt ông ta.”

Vợ chồng Thạch Thanh đưa mắt nhìn nhau. Thạch Thanh lại hỏi: “Còn Bạch gia gia? Lão gia này tình tình nóng nảy lắm phải không?”

Thạch Phá Thiên lắc đầu đáp: “Hài nhi không quen biết Bạch gia gia nào, chưa từng gặp ông ấy.”

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu lại hỏi đến những chuyện trong thành Lăng Tiêu phái Tuyết Sơn, thì Thạch Phá Thiên không biết chi hết. Mẫn Nhu nói: “Sư ca! Chứng bệnh này chắc xuất phát ngay từ lúc đó.”

Thạch Thanh gật đầu rồi lẳng lặng không nói gì nữa. Hai người cùng bụng bảo dạ: “Lúc Ngọc nhi ở thành Lăng Tiêu trốn đi, nếu không phải vì rớt xuống núi tuyết mà chấn thương ở đầu óc, thì cũng vì sợ hãi quá độ mà sinh ra mất trí, quên sạch những việc đã qua. Nó có nói đến vụ ở Ma Thiên Nhai và bang Trường Lạc bị bệnh phát hàn phát nhiệt, nhưng gốc bệnh thì chắc đã mang trong người từ mấy năm trước rồi.”

Mẫn Nhu lại dò hỏi đến những việc thuở nhỏ của chàng, Thạch Phá Thiên cứ nói lui nói tới những chuyện trong núi hoang, nào là đi săn thú bẫy chim, nào là dẫn con A Hoàng đi chơi. Rút cục bà chẳng tìm ra được điều gì mới mẻ, tựa hồ mười mấy năm trời từ ngày sơ sinh đến lúc khôn lớn đối với chàng chỉ là một quãng thời gian trống rỗng.

Thạch Thanh lại lên tiếng: “Ngọc nhi! Có một việc rất trọng đại, quan hệ đến sự sống chết an nguy của hài nhi. Ta cần biết là hài nhi đã học võ công phái Tuyết Sơn đến đâu rồi.”

Thạch Phá Thiên ngơ ngẩn đáp: “Lúc hài nhi ở trong miếu Thổ Địa thấy bọn họ luyện kiếm, chỉ nhớ được chút ít mà thôi. Có phải họ nổi giận về chuyện con học lỏm võ nghệ mà định giết con không? Gia gia! Vị Bạch đại hiệp đó cứ nói con là đệ tử phái Tuyết Sơn, con không hiểu là vì lý do gì. Nhưng trên đùi con quả có dấu vết do kiếm thuật phái Tuyết Sơn lưu lại.”

Thạch Thanh quay lại bảo vợ: “Sư muội! Để ta thử kiếm pháp nó xem sao.” Đoạn ông rút kiếm ra nói: “Ngọc nhi hãy dùng kiếm pháp phái Tuyết Sơn tỉ đấu với gia gia, không được giấu giếm.” Mẫn Nhu đưa thanh trường kiếm của mình cho Thạch Phá Thiên, gắng mỉm cười để trấn an chàng.

Thạch Thanh từ từ phóng kiếm đâm tới. Thạch Phá Thiên vung kiếm lên gạt. Chàng sử chiêu Sóc Phong Đột Khởi trong kiếm pháp phái Tuyết Sơn. Chiêu này tuy hơi giống nhưng không đúng hẳn, để lộ hàng trăm chỗ sơ hở.

Thạch Thanh hơi nhíu cặp lông mày. Ông không để hai thanh kiếm chạm vào nhau, vừa biến chiêu vừa bảo: “Ngọc nhi trả đòn đi!” Thạch Phá Thiên dạ một tiếng, nghiêng chếch thanh kiếm đi rồi bổ xuống. Chiêu này chàng đã dùng kiếm làm đao, thi triển Kim Ô Đao Pháp chứ không phải là kiếm pháp.

Thạch Thanh phóng kiếm đâm tới từ từ tới, trong lòng nghĩ: “Thằng nhỏ này dù có tinh ranh đến đâu cũng đừng hòng thi triển võ công mà lừa gạt ta. Con người khi đã đến lúc cách cái chết chỉ chừng sợi tóc, thì tất nhiên không thể sử kiếm một cách giả dối.” Sau đó, những kiếm chiêu của Thạch Thanh đều nhằm yếu huyệt mà phóng tới. Trong lòng Thạch Phá Thiên đã hơi hoang mang, bỗng dưng thi triển những chiêu thức đã đấu với Xung Hư, Thiên Hư, dùng kiếm làm đao mà sử dụng Kim Ô đao pháp.

Thạch Thanh phóng kiếm nhanh như gió, mỗi lúc một thêm thần tốc. Thạch Phá Thiên biết đây là mình chiết chiêu với gia gia, sử dụng Kim Ô đao pháp hoàn toàn không dùng nội lực, chiêu thức của chàng đương nhiên không có chút oai lực nào.

Giả tỉ Thạch Phá Thiên không phải là con Thạch Thanh mà là đối thủ của ông thì đã mất mạng rồi. Đến chiêu thứ mười ông có thể xuyên kiếm qua ngực chàng, đến chiêu thứ hai mươi ba có thể đưa kiếm hớt đứt đầu chàng. Đến chiêu thứ hai mươi tám thì Thạch Phá Thiên lại càng sơ hở. Dưới bụng, vai trái, đùi phải, trước ngực, cả bốn chỗ đều khó lòng tránh khỏi mũi kiếm của đối phương.

Thạch Thanh đưa mắt nhìn vợ lắc đầu. Ông rung lưỡi kiếm, nhằm đâm vào bụng, phía dưới mỏ ác. Thạch Phá Thiên chân tay luống cuống, đưa kiếm lên gạt bừa một cái, bật lên một tiếng choang. Thanh kiếm trong tay Thạch Thanh lập tức bị bắn văng đi, đồng thời ông bị tức ngực nghẹn thở, phải lùi lại đến bốn năm bước. Luồng đại lực của Thạch Phá Thiên xô đẩy ông loạng choạng đến mức đứng không vững.

Thạch Phá Thiên la hoảng: “Gia gia! Gia gia làm sao thế?” Chàng liệng trường kiếm đi, hấp tấp chạy lại nâng đỡ phụ thân. Thạch Thanh thấy đầu óc choáng váng, vội phong tỏa hơi thở, xua tay ra hiệu cho chàng đừng đến gần.

Thì ra lúc Thạch Phá Thiên luống cuống vận sức đỡ gạt, chất kịch độc trong người chàng tự nhiên bị luồng nội lực xô đẩy mạnh mà phát tán ra ngoài. May mà Thạch Thanh đã biết trước, nín hơi không hô hấp nên mới không bị trúng độc nặng. Nhưng ông cũng bị một ít chất độc thấm vào nội thể nên đầu óc hơi choáng váng.

Mẫn Nhu rất lo lắng cho trượng phu, vừa chạy lại nâng đỡ Thạch Thanh, vừa hỏi Thạch Phá Thiên: “Gia gia chỉ muốn thử võ công của hài nhi, mà sao hài nhi lại ra tay nặng đến thế?”

Thạch Phá Thiên kinh hãi vô cùng, ấp úng: “Gia gia! Con… con không phải rồi. Gia gia! Gia gia không bị thương chứ?”

Thạch Thanh thấy chàng tỏ tình thân thiết một cách chân thành, thì trong lòng hoan hỉ, được an ủi rất nhiều. Ông mỉm cười, điều hòa hơi thở một chút rồi nói: “Gia gia không hề gì. Sư muội! Muội đừng phiền trách Ngọc nhi. Đích xác là nó không học được kiếm pháp phái Tuyết Sơn. Giả tỉ nó biết chiêu thức thì đã không đến nỗi vô lễ với ta. Nhưng nội lực nó thật là ghê gớm, trong võ lâm chẳng có mấy người hơn được nó.”

Mẫn Nhu biết chồng mình trước nay ít khi ca tụng võ công ai. Bây giờ bà nghe ông khen cậu con cưng thì mặt mày hớn hở nói: “Nhưng võ công nó thật là kỳ cục, phải được gia gia huấn luyện thêm mới xong.”

Thạch Thanh mỉm cười đáp: “Lúc ở trong miếu Thổ Địa, Nhu muội đã huấn luyện nó rồi. Xem chừng đối với đứa con nghịch ngợm này thì nghiêm phụ không khéo bằng từ mẫu được.”

Mẫn Nhu mỉm cười nói: “Cha con hai người đều đói cả rồi. Chúng ta đi ăn cơm thôi!”

* * *

Ba người đưa nhau vào thị trấn ăn một bữa cơm ngon. Hôm nay Mẫn Nhu vui mừng khôn xiết, ăn được nhiều hơn một chén. Ba người ăn xong lại vào một khu núi hoang, Thạch Thanh đem những chỗ vi diệu về kiếm pháp giải thích từng chiêu từng thức cho Thạch Phá Thiên nghe.

Thạch Phá Thiên mấy tháng nay đã gặp được rất nhiều cao thủ, lĩnh ngộ được không ít võ học. Bây giờ chàng lại được Thạch Thanh là một tay kiếm pháp siêu quần chỉ điểm cho, nên mau chóng hiểu rõ và quán thông tất cả. Sử bà bà tuy nhận chàng làm đồ đệ nhưng ở cạnh nhau chẳng được bao lâu, mới dạy xong bảy mươi ba chiêu Kim Ô đao pháp đã chia tay. Huống hồ Sử bà bà cũng chưa từng chỉ điểm cặn kẽ như Thạch Thanh, tựa hồ chỉ mong chàng khắc chế được kiếm pháp phái Tuyết Sơn, hoàn toàn không có mong muốn gì khác. Trong lúc dạy đao, bà nói tới nói lui toàn là chuyện làm sao đánh bại kiếm pháp của phái Tuyết Sơn, không giống như Thạch Thanh dạy rõ đạo lý võ học trong binh khí và quyền cước.

Vợ chồng Thạch Thanh thay nhau chỉ điểm cho chàng đến nơi đến chốn, vạch cho chàng thấy những chỗ sơ hở khi xuất chiêu. Ngày trước ở trong miếu Thổ Địa, Mẫn Nhu đã truyền dạy kiếm pháp cho chàng nhưng không tiện lên tiếng nên kết quả kém hôm nay rất nhiều.

Thạch Phá Thiên gặp chỗ nào nghi vấn khó hiểu cũng lập tức hỏi lại. Vợ chồng Thạch Thanh nghe chàng hỏi, thì biết rằng kể cả những đạo lý thô thiển nhất của võ học chàng cũng hoàn toàn không biết, nên càng hiểu rõ thì càng trách phái Tuyết Sơn ích kỷ, dạy dỗ con mình không đúng cách. Hai người giận dữ vô cùng.

Thạch Phá Thiên nội lực bền bỉ, chuyên tâm luyện kiếm từ trưa đến tối chẳng thấy mệt nhọc chút nào. Chàng luyện võ cả nửa ngày trời mà mặt vẫn không đỏ, vẫn giữ được hơi thở điều hòa. Vợ chồng Thạch Thanh thay phiên nhau dạy chàng đến lúc cả hai mệt lả, mồ hôi đầy người.

Thạch Phá Thiên cứ thế học võ công được bảy tám ngày, tiến bộ rất mau. Chàng cũng lĩnh hội không ít kiếm pháp của Thượng Thanh Quán do cha mẹ truyền thụ. Trong những ngày này, vợ chồng Thạch Thanh cứ thừa lúc bữa ăn hay nghỉ giải lao mà dẫn dụ chàng nhắc tới những chuyện ngày xưa, mong rằng có thể giúp chàng khôi phục lại trí nhớ. Nhưng những việc sau khi tỉnh lại ở tổng đà bang Trường Lạc thì chàng kể ra vanh vách, dù là việc nhỏ cũng thuật lại được rõ ràng. Còn những việc hồi nhỏ ở Huyền Tố Trang, hoặc lúc học võ ở thành Lăng Tiêu thì chàng cứ ngơ ngác chẳng biết gì cả.

Một hôm sau giờ ngọ, ba người ăn cơm xong lại đến dưới gốc cây liễu chỗ hàng ngày luyện kiếm ngồi nói chuyện. Mẫn Nhu lượm một cành cây nhỏ viết xuống đất bốn chữ Hắc Bạch Phân Minh rồi hỏi Thạch Phá Thiên: “Ngọc nhi! Con còn nhớ được bốn chữ này không?”

Thạch Phá Thiên lắc đầu nói: “Hài nhi không biết chữ.” Vợ chồng Thạch Thanh giật mình kinh hãi vì con mình trước khi rời khỏi nhà đã được Mẫn Nhu dạy hơn ngàn chữ, nào Tam Tự Kinh, nào Đường thi đã đọc làu làu, thế mà bây giờ lại nói không biết chữ.

Hắc Bạch Phân Minh là bốn chữ viết trên bức hoành phi lớn treo ở giữa sảnh đường tại Huyền Tố Trang, do một danh gia trong võ lâm viết để tặng Thạch Thanh. Bốn chữ này rất hợp với ngoại hiệu Hắc Bạch Song Kiếm, lại ngụ ý khen vợ chồng họ chủ trì công lý, nâng đỡ kẻ yếu, áp chế cường đồ. Năm Thạch Phá Thiên bốn tuổi đã biết bốn chữ này, Mẫn Nhu đã ôm con vào lòng, hai vợ chồng đều khen nó thông minh. Lúc này bà viết mấy chữ này mong gợi cho chàng từ đó mà nhớ lại việc cũ. Ngờ đâu Thạch Phá Thiên đã quên mất cả bốn chữ mình học hồi bốn tuổi.

Mẫn Nhu lại cầm cành cây vạch xuống đất một chữ “nhất” rồi mỉm cười hỏi: “Chữ này thì Ngọc nhi còn nhớ không?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Hài nhi không biết chữ nào hết. Chưa có ai dạy con học chữ.” Trong lòng Mẫn Nhu đau khổ vô cùng, mắt bà long lanh như sắp phải trào lệ ra ngoài.

Thạch Thanh bảo: “Ngọc nhi! Con qua bên kia ngồi nghỉ đi!” Thạch Phá Thiên vâng lời, nhưng chàng lại cầm kiếm đem ra chỗ khác luyện tập.

Thạch Thanh khuyên nhủ vợ: “Sư muội! Ngọc nhi đã bị bệnh nặng lắm, không thể một sớm một chiều mà chữa khỏi được.” Ông ngừng một chút rồi nói tiếp: “Vả lại, Ngọc nhi mà quên hết những việc đã qua, cũng chưa chắc là hoàn toàn không tốt. Thằng nhỏ này trước kia rất phù phiếm hiếu động. Bây giờ tuy nó có hơi… hơi tâm thần bất ổn, nhưng lại thành thực hơn trước nhiều. Thế là tốt hơn đấy chứ.”

Mẫn Nhu nghe Thạch Thanh nói rất có lý liền đổi buồn làm vui, nghĩ bụng: “Không biết chữ thì đã sao? Cùng lắm ta lại dạy cho nó từ đầu là xong.” Bà nghĩ tới những lúc vui vẻ năm xưa khi ngồi dạy dỗ con thì trong lòng nảy ra bao mối yêu thương. Tuy hiện giờ cậu con đã trưởng thành, nhưng trong lòng bà thì nó vẫn ngây thơ ấu trĩ, hồ đồ chẳng biết gì. Bây giờ bà lại cảm thấy vừa hoan hỉ vừa thương xót.

Đột nhiên Thạch Thanh lên tiếng: “Có một điều mà ta vẫn không sao hiểu được, là thằng nhỏ này phải bị ly hồn chứng lúc rời khỏi thành Lăng Tiêu, về sau nó lại mắc chứng hàn nhiệt chi đó thì bất quá cũng làm cho bệnh tật trầm trọng hơn mà thôi. Nhưng… nhưng…”

Mẫn Nhu nghe giọng điệu chồng có vẻ lo lắng, cũng không khỏi hoang mang hỏi lại: “Sư ca đang nghĩ tới chuyện gì vậy?”

Thạch Thanh nói: “Ngọc nhi về văn tài thì không biết một chữ, về võ công cũng chẳng lấy gì làm cao minh, chỉ được nội công thâm hậu mà thôi. Còn về lịch duyệt, mưu cơ thì nó lại càng tệ hại. Thế mà mấy năm nay bang Trường Lạc lại trở nên một bang phái lớn trên chốn giang hồ, chỉ trong tám chín năm đã khởi nên đại nghiệp. Sao họ có thể…”

Mẫn Nhu gật đầu nói: “Đúng vậy! Làm sao họ lại đưa một đứa con nít lên làm bang chúa?”

Thạch Thanh trầm ngâm một chút rồi nói: “Lần trước chúng ta qua Từ Châu, được nghe Lỗ Đông Tam Hùng nói đến người sáng lập Trường Lạc Bang tên là Tư Đồ Hoành, làm bang chúa cũng không giỏi giang gì, nhưng phó bang chúa là Trước thủ hồi xuân Bối Hải Thạch lại là một tay kiệt hiệt. Rồi không hiểu sao chức bang chúa lại giao cho một thiếu niên tên là Thạch Phá Thiên. Lỗ Đông Tam Hùng còn nói bang chúa bang Trường Lạc tên gọi Thạch Phá Thiên, là người mê hoa đắm sắc, hành vi xảo trá, võ công cao cường. Đáng lẽ không ai biết được lai lịch của hắn, nhưng về sau một nữ đệ tử phái Tuyết Sơn là Hoa Vạn Tử nhận ra hắn đúng là Thạch Trung Ngọc, một tên phản đồ phái đó. Lúc đó phái Tuyết Sơn đang đi đến bang Trường Lạc để đòi người. Nhưng bây giờ chúng ta có thấy nó hành vi xảo trá, võ công cao cường gì đâu? Tám chữ này thật không xứng với nó chút nào.”

Mẫn Nhu nhíu mày nói: “Chúng ta cứ tưởng Ngọc nhi tuy còn nhỏ tuổi mà đã mưu cơ quỷ quyệt ghê gớm, nếu võ công nó lại cao cường thì làm bang chúa cũng chẳng có chi kỳ lạ. Lúc đó chúng ta cũng chẳng hoài nghi gì, chỉ bàn cách cứu nó ra để khỏi mắc vào độc thủ của phái Tuyết Sơn. Nhưng tình trạng như thế này thì…” Bà trầm ngâm một lúc, đột nhiên cao giọng nói tiếp: “Sư ca! Trong vụ này nhất định có một âm mưu gì ghê gớm lắm. Sư ca thử nghĩ xem, Trước thủ hồi xuân Bối Hải Thạch là một người rất tinh tế thâm trầm, có thể làm việc này…”

Bà nói tới đây bỗng trong lòng phát sợ, giọng nói cũng run rẩy đi. Thạch Thanh hai tay chắp sau lưng, từ từ dạo bước quanh gốc cây liễu, miệng không ngớt lẩm bẩm: “Bảo nó làm bang chúa là vì cái gì… vì cái gì?” Ông đi quanh gốc liễu được năm vòng, tự nhiên trong đầu vụt nảy ra một tia sáng, rồi hiểu rõ mọi sự. Ông thấy mọi chi tiết đều rất phù hợp, chỉ vì câu chuyện đáng sợ quá nên chưa dám nói ra.

Thạch Thanh đi quanh gốc cây hết vòng thứ bảy, quay lại nhìn vợ thì thấy mục quang Mẫn Nhu cũng hướng về phía mình. Bốn mắt chạm nhau, đều lộ ra thần sắc vô cùng sợ hãi. Hai vợ chồng sững sờ nhìn nhau một chập, rồi đột nhiên cùng nói lên: “Thưởng Thiện Phạt Ác!”

Bốn chữ “Thưởng Thiện Phạt Ác” vang lên, Thạch Phá Thiên đứng đằng xa cũng nghe rõ. Chàng vội chạy lại hỏi: “Gia gia! Má má! Thưởng Thiện Phạt Ác là cái gì vậy? Lúc ở Thiết Xoa Hội hài nhi đã nghe thấy người ta nói tới, cả những vị đạo trưởng ở chùa Thượng Thanh cũng đề cập đến mấy lần.”

Thạch Thanh không trả lời câu hỏi của chàng. Ông hỏi lại: “Lúc Ngọc nhi cùng bọn Trương Tam, Lý Tứ kết nghĩa anh em, họ có biết Ngọc nhi là bang chúa bang Trường Lạc không?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Họ không nói gì tới chuyện đó, chắc là không biết.”

Thạch Thanh lại hỏi: “Tình hình lúc Ngọc nhi cùng họ thách nhau uống rượu độc ra sao? Ngọc nhi hãy kể tỉ mỉ cho ta nghe.”

Thạch Phá Thiên kinh ngạc hỏi: “Đó là rượu độc ư? Sao hài nhi uống vào lại chẳng việc gì?” Rồi chàng đem chuyện gặp Trương Tam, Lý Tứ ra sao, tình hình uống rượu ăn thịt thế nào, thuật lại từ đầu đến cuối.

Thạch Thanh lẳng lặng nghe chàng kể hết, suy nghĩ một lúc lâu rồi nói: “Ngọc nhi! Có việc này ta cần nói rõ cho con biết, bây giờ may ra còn có thể cứu vãn được. Ngọc nhi bất tất phải kinh hãi và hoảng sợ…” Ông ngừng lại một chút rồi nói tiếp: “Ba mươi năm trước đây, trong võ lâm có rất nhiều môn phái lớn cùng bang hội lớn. Những vị thủ lĩnh của các môn phái bang hội này đều kẻ trước người sau nhận được thiệp mời, mời họ vào ngày tám tháng chạp năm đó đến Hiệp Khách Đảo ngoài Nam Hải để ăn cháo Lạp Bát.”

Thạch Phá Thiên gật đầu nói: “Đúng rồi! Nhiều người nghe nói tới chuyện đến Hiệp Khách Đảo để ăn cháo Lạp Bát thì rất sợ hãi, không biết là lý do gì. Cháo Lạp Bát có độc hay sao?”

Thạch Thanh nói: “Chuyện đó thì không ai biết được. Các thủ lĩnh của môn phái cùng bang hội lớn này nhận được thiệp mời bằng đồng bài đó…”

Thạch Phá Thiên hỏi xen vào: “Họ dùng đồng bài làm thiếp mời ư? Có phải là hai tấm bài đồng đó không?”

Thạch Thanh đáp: “Đúng lắm, chính là hai tấm bài đồng mà Ngọc nhi đã lấy được trong mình Chiếu Hư sư bá. Trên một tấm khắc bộ mặt tươi cười tức là Thưởng Thiện, còn tấm kia khắc bộ mặt tức giận hung dữ là Phạt Ác. Người đưa bài đồng là hai gã thiếu niên một mập một gầy.”

Thạch Phá Thiên hỏi: “Thiếu niên ư?” Chàng nghĩ ngay đến Trương Tam Lý Tứ, nhưng gọi họ là thiếu niên thì không đúng.

Thạch Thanh nói: “Đây là chuyện ba mươi năm về trước, khi ấy họ còn nhỏ tuổi. Những vị thủ lĩnh các bang các phái khi nhận được đồng bài đó, hỏi chủ nhân mời khách là ai, thì hai vị sứ giả kia chỉ đáp: “Khi tới nơi dĩ nhiên sẽ biết rõ”. Rồi họ còn nói: “Người nhận được thiếp mời mà đến nơi đúng hẹn thì bình yên vô sự, còn không thì cả môn phái bang hội chẳng thể tránh khỏi đại họa lâm đầu.” Dĩ nhiên người ta phải tự hỏi nên đi hay không đi.”

“Người nhận được bài đồng đầu tiên là Húc Sơn đạo trưởng của phái Thanh Thành ở Xuyên Tây. Ông ta cười rộ lên rồi nắm hai tấm bài đồng trong tay, vận nội lực bóp bẹp, vo viên lại. Đạo trưởng khét tiếng về nội công trên giang hồ lúc bấy giờ, tin chắc rằng hai gã thiếu niên ngông cuồng kia thấy vậy phải lùi bước. Ngờ đâu hai gã thiếu niên đó vừa thấy bài đồng bị bóp nát thì đột nhiên phóng ra bốn chưởng đánh vào trước ngực Húc Sơn đạo trưởng, giết chết vị lãnh tụ ở Xuyên Tây.”

Thạch Phá Thiên “ồ” lên một tiếng rồi hỏi: “Họ hạ thủ ác độc đến thế ư?”

Thạch Thanh lại nói tiếp: “Lúc ấy dĩ nhiên là quần đạo phái Thanh Thành hợp lực lại để công kích. Ngày ấy võ công hai gã thiếu niên còn chưa ghê gớm bằng sau này, thế mà chúng đoạt được hai thanh trường kiếm, hạ sát ba vị đạo nhân rồi mới bỏ đi. Phái Thanh Thành thanh thế lẫy lừng, Húc Sơn đạo trưởng danh vọng hơn đời, thế mà chịu để hai gã thiếu niên hỗn xược đến tận nơi hạ sát chưởng môn cùng môn hạ rồi yên ổn bỏ đi. Vụ này chỉ nửa tháng sau là đồn đại khắp giang hồ.”

“Hai mươi hôm sau, Điêu lão tiêu đầu của Tây Trúc tiêu cục ở Dự Châu mở đại tiệc mừng thọ lục tuần, khách khứa đến rất đông. Hai gã thiếu niên kia đột ngột đến nơi, đưa bài đồng ra. Tân khách vốn đang xôn xao bàn luận về vụ này, vừa thấy chúng đến liền nổi lòng công phẫn, nhất tề bao vây lại tấn công. Không ngờ hai gã thiếu niên này lại ung dung chạy thoát. Ba hôm sau, Điêu lão tiêu đầu cùng ba mươi mạng người của Tây Trúc tiêu cục đều bị giết sạch không rõ ràng. Ngay bọn tiêu sư, chạy cờ cũng phải chết, chỉ còn lại những người già yếu và đàn bà trẻ con. Ngay cổng chính Tây Trúc tiêu cục có đóng hai tấm bài đồng này.”

Thạch Phá Thiên thở một hơi rồi nói: “Hài nhi lần đầu được nhìn thấy hai tấm bài đồng này là đóng trên cửa khoang thuyền đựng đầy xác chết của Phi Ngư Bang. Không ngờ rằng… không ngờ rằng đó là thiếp mời của Diêm Vương gửi tới.

Thạch Thanh nói: “Vụ này truyền tụng ra ngoài, mọi người đều muốn thỉnh chưởng môn nhân Diệu Đế đại sư của phái Thiếu Lâm ra mặt lãnh đạo võ lâm đối phó. Không ngờ khi đến Thiếu Lâm Tự thì những tăng nhân trong chùa nói là phương trượng đại sư đã ra ngoài vân du chưa về. Họ nói chuyện ấp úng, xem ra có vẻ không thật. Mọi người liền lên Võ Đang định tìm chưởng môn nhân là Ngu Trà đạo chưởng, không ngờ những đạo nhân trong Chân Võ Quán cũng buồn rầu nói là chưởng môn đã xuất quan rồi. Mọi người đều phải suy nghĩ là hai cao thủ tuyệt đỉnh võ lâm này đồng thời đột nhiên mất tích, nếu không phải là trúng độc thủ của sứ giả Hiệp Khách Đảo, thì cũng đã đi trốn tai họa này rồi. Thiện Bản trưởng lão của Ngũ Đài Sơn và Khổ Bách đạo trưởng của phái Côn Lôn bèn ra mặt mời các chưởng môn phái lớn trong võ lâm cùng thương nghị tìm cách đối phó. Họ bèn cử người đi khắp nơi để điều tra lại lịch của hai sứ giả này.”

“Hai vị sứ giả thật là thần xuất quỷ mạt, khi đối phương có chuẩn bị đề phòng thì tìm đâu cũng không thấy bóng hai người, nhưng khi cảnh giới vừa hơi lỏng lẻo là chúng không biết từ ở đâu chui ra để truyền hai miếng lệnh câu hồn. Hai người này chẳng những hành tung xuất quỷ nhập thần, bản lãnh cao cường mà còn thiện nghề dùng độc. Thiện Bản trưởng lão, Khổ Bách đạo nhân vừa nhận được đồng bài là lập tức hủy đi. Ngay lúc ấy thì họ không sao, nhưng sau một tháng thì hai người kế tiếp nhau phát bệnh kỳ quái mà chết. Mọi người đều cho là Thiện Bản trưởng lão cùng Khổ Bách đạo nhân võ công quá cao, hai sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác biết mình không thể dùng võ công để thủ thắng. Họ liền bôi chất kịch độc trên bài đồng, ai sờ vào sẽ bị nhiễm độc chết người.”

Thạch Phá Thiên nghe mà không khỏi nổi da gà. Chàng nói: “Chẳng lẽ hai vị nghĩa huynh Trương Tam, Lý Tứ của hài nhi lại là… lại là hạng người độc ác đó ư? Họ kiếm chuyện rắc rối với các môn phái, bang hội rốt cuộc là vì lý do gì?”

Thạch Thanh lắc đầu nói: “Ba mươi năm nay, cũng không ai hiểu được chuyện này cho thấu đáo. Diệu Đế phương trượng phái Thiếu Lâm, Ngu Trà đạo trưởng phái Võ Đang, hai người tự nhiên mất tích. Nhiều năm sau mới lộ ra chút xíu tin tức, quả nhiên hai vị này đã được mời đi Hiệp Khách Đảo. Ngoài chùa Thiếu Lâm đã có trận ác đấu bảy ngày bảy đêm, còn trên núi Võ Đang thì không có động thủ, chắc là Ngu Trà đạo trưởng vừa rút kiếm ra đã thua rồi. Một tăng một đạo này võ công trên giang hồ khó ai sánh kịp. Lại thêm vào Húc Sơn đạo nhân phái Thanh Thành, Điêu lão tiêu đầu của Tây Trúc tiêu cục, Thiện Bản đại sư của phái Ngũ Đài, Khổ Bách đạo nhân của phái Côn Lôn, bốn vị kế tiếp nhau mắc độc thủ. Các nhân vật võ lâm khác tự biết võ công của mình so với sáu cao thủ này còn kém rất xa, nên khi nhận được đồng bài thì có người đồng ý đi ăn cháo Lạp Bát. Hai vị sứ giả bèn nói: “Các vị chịu ghé thăm, Hiệp Khách Đảo vinh hạnh vô cùng. Đến ngày ấy tháng ấy, các vị hãy tới chỗ này chỗ nọ, sẽ có người đón tiếp xuống thuyền.” Trong năm đó, có cả thảy mười bốn vị chưởng môn, bang chúa bị hai sứ giả ra mặt tấn công hoặc ngấm ngầm ám toán, dùng ám khí có mà hạ độc cũng có. Lại có ba mươi bảy người đồng ý đi dự tiệc, nhưng ba mươi bảy người này đi rồi không thấy tung tích đâu nữa. Đến nay đã ba chục năm vẫn chưa nhận được tin tức gì.”

Thạch Phá Thiên hỏi: “Hiệp Khách Đảo ở chỗ nào ngoài Nam Hải? Sao không tụ họp đông người tới đó để cứu ba mươi bảy người kia ra?”

Thạch Thanh nói: “Người ta đã đem ba chữ Hiệp Khách Đảo hỏi khắp các vị lão luyện về nghề hàng hải mà chưa một ai nghe thấy. Dường như không có đảo này, chỉ là chuyện hai gã thiếu niên kia bịa đặt ra. Thế rồi từng năm này cứ trôi qua, chỉ trừ con cháu thân nhân mấy chục gia đình đó là còn nhớ tới, ngoài ra ai cũng lãng quên dần đi. Không ngờ qua mười năm sau, hai tấm bài đồng này lại xuất hiện trên chốn giang hồ.”

“Lần này võ công hai sứ giả lại tiến bộ rất nhiều. Mới trong vòng mười ngày mà ba môn phái, hai bang hội lớn đã bị giết sạch hơn trăm người vì không chịu dự yến tiệc. Vụ này làm cho giang hồ náo động, nên mọi người đã mời ba vị trưởng lão của phái Nga Mi ra mặt, triệu tập ba mươi mấy cao thủ mai phục ở tổng đà Hồng Thương Hội tỉnh Hà Nam để chờ hai tên hung thủ này đến. Ngờ đâu hai sứ giả lại né tránh Hồng Thương Hội, thậm chí không bước chân vào tới địa phận tỉnh Hà Nam, cứ tiếp tục đem bài đồng đưa đi các nơi khác. Thủ lĩnh nào chịu tiếp đồng bài, nhận lời đi phó hội, là cả môn phái bang hội từ trên xuống dưới đều được vô sự. Nếu không, thì bất luận đề phòng nghiêm mật đến đâu, sớm muộn cũng mắc phải độc thủ của hai người.”

“Năm đó Sa bang chúa Hắc Long Bang tiếp được đồng bài. Ngay lúc đó ông ta trả lời là đồng ý, nhưng ngấm ngầm phái người đến thông tri cho Hồng Thương Hội biết. Ba mươi mấy cao thủ lập tức lên đường đến chỗ hẹn để mai phục, chẳng hiểu bị tiết lộ cơ mưu thế nào mà chẳng thấy ai đến đón. Mọi người phòng thủ mấy ngày, rồi hết người nọ đến người kia trúng độc mà chết. Số người còn lại sợ quá phải giải tán, nhưng chưa về đến nhà, dọc đường đã nghe tin hoặc là toàn gia ngộ hại, hoặc là toàn bang bị tru diệt. Vì thế mà không ai dám phản kháng nữa, hễ nhận được đồng bài thì cứ theo lệnh mà đi. Năm ấy tổng cộng có bốn mươi tám người lên thuyền đến đảo Hiệp Khách, nhưng ra đi rồi không thấy tung tích đâu nữa, từ đó đến giờ không có chút tin tức nào. Đây thật sự là một kiếp nạn trong võ lâm, ai nghĩ tới cũng không khỏi khủng khiếp than thầm.”

Thạch Phá Thiên rất muốn không tin, nhưng chính mắt chàng đã thấy một thuyền đầy xác chết của bang chúng Phi Ngư Bang, cùng toàn thể hội chúng Thiết Xoa Hội bị giết sạch. Lúc Thiết Xoa Hội bị tiêu diệt, chính chàng đã vô ý trợ lực cho Trương Tam, Lý Tứ. Nghĩ tới đó, chàng không khỏi run sợ.

Thạch Thanh lại kể tiếp: “Mười năm sau nữa, phái Vô Cực tại Giang Tây nhận được đồng bài mời khách của đảo Hiệp Khách đầu tiên. Các vị thủ lĩnh những môn phái bang hội lớn đã bàn định với nhau từ một năm trước, bất luận là ai tiếp được bài đồng đều ưng thuận đi phó hội. Họ đồng ý phen này cùng đến đảo Hiệp Khách xem cho rõ, phải vào hang cọp mới bắt được cọp con. Hết thảy mọi người đồng tâm hiệp lực, may rủi gì cũng quyết trừ khử cho bằng được kẻ thù chung của võ lâm. Vì thế mà năm ấy, bài đồng đưa đến đâu cũng vô sự, không một người nào bị giết. Tất cả năm mươi ba người nhận được đồng bài đều đi dự hội hết. Những người này đều là anh hùng hảo hán, có kẻ võ công tuyệt thế, có người mưu trí hơn đời, nhưng sau khi ra đi rồi cũng mất tích, từ bấy đến nay chẳng thấy chút tăm hơi.”

“Đảo Hiệp Khách quấy nhiễu giang hồ như vậy, khiến cho bao nhiêu nhân tài trong võ lâm có cũng như không, khắp thiên hạ không có một người học võ nào có kế sách hay, đành chịu mười năm một lần để cho họ muốn chém thì chém, muốn giết thì giết. Thượng Thanh Quán của chúng ta vốn ẩn náu trong bóng tối, trước nay không đụng chạm với một ai trên chốn giang hồ. Gia gia cùng má má tuy học võ công tại Thượng Thanh Quán, nhưng ra ngoài hành đạo cũng chỉ dùng danh hiệu Huyền Tố Trang mà thôi. Các vị sư bá sư thúc của con tuy võ công cao cường, nhưng rất ít khi cùng người động thủ. Người ngoài đều cho là các đạo nhân ở Thượng Thanh Quán chỉ chuyên tu tâm dưỡng tánh, không hiểu võ công…”

Thạch Phá Thiên hỏi xen vào: “Phải chăng là các vị sợ Hiệp Khách Đảo?”

Thạch Thanh lộ vẻ khó chịu, ngần ngừ một chút rồi nói: “Các vị sư bá sư thúc hoàn toàn không tranh chấp gì với thế gian, là những đạo sĩ xuất gia thanh tu, không muốn tranh danh đoạt lợi. Nhưng nói là họ sợ Hiệp Khách Đảo cũng không phải là sai. Trong võ lâm, bất luận bang to phái lớn, người nhiều thế mạnh, võ công cao cường, hễ ai nghe nhắc tới ba chữ Hiệp Khách Đảo cũng phải chau mày. Thật không ngờ Thượng Thanh Quán đã giữ gìn nghiêm cẩn đến thế mà cũng không thoát khỏi kiếp vận này.” Ông nói xong, thở dài một tiếng.

Thạch Phá Thiên lại hỏi: “Gia gia, má má muốn làm chưởng môn Thượng Thanh Quán, phải chăng là để đi Hiệp Khách Đảo thám thính thực hư? Nhưng ba toán người đầy bản lãnh đã ra đi không một ai về được, thì đủ biết là chuyện này cực kỳ khó khăn.”

Thạch Thanh nói: “Dĩ nhiên là khó rồi. Nhưng chúng ta lấy việc cứu khốn phò nguy làm tôn chỉ, huống chi lại là chuyện có liên quan đến sư môn của mình, chẳng lẽ phủi tay đứng nhìn hay sao? Ta và má má của con đều nghĩ, chẳng lẽ ông trời không có mắt, cứ để kẻ ác hoành hành mãi? Võ công của gia gia và má má mà so với Diệu Đế, Ngu Trà, đương nhiên khó mà sánh kịp. Nhưng trước nay tà không thắng chính, không chừng ông trời sẽ mượn tay cha mẹ con mà diệt được Hiệp Khách Đảo, ít ra là khám phá được những bí mật của Hiệp Khách Đảo.”

Ông nói đến đây quay sang nhìn vợ, cả hai cùng nghĩ: “Chúng ta liều mạng xả thân định làm việc lớn này, thật ra cũng vì con. Con gian dâm, phạm thượng, khi sư, thực sự không còn chỗ dung thân trong võ lâm. Vợ chồng ta không còn mặt mũi mà gặp bằng hữu giang hồ, đành lên Hiệp Khách Đảo. Nếu mưu sự không thành đương nhiên mất mạng, nếu có thể lập công cho đồng đạo võ lâm, thì thiên hạ có thể tha lỗi mà không truy cứu tội lỗi của con nữa.” Những điều này thật hết sức đau khổ, họ cũng không muốn nói rõ cho Thạch Phá Thiên biết.

Thạch Phá Thiên suy nghĩ hồi lâu rồi hỏi: “Hai vị nghĩa huynh Trương Tam, Lý Tứ của hài nhi có phải là sứ giả ở Hiệp Khách Đảo được đi đưa bài đồng không?”

Thạch Thanh đáp: “Đúng là như thế, không còn nghi ngờ gì nữa!”

Thạch Phá Thiên lại hỏi: “Họ đã là người ác, tại sao còn kết bái huynh đệ với hài nhi?”

Thạch Thanh bỗng thấy buồn cười, đáp: “Khi đó Ngọc nhi ngốc nghếch, đưa ra đề nghị ngớ ngẩn đó khiến họ không tiện từ khước. Huống hồ họ phát thệ đó là giả dối, đâu phải là chuyện thật?”

Thạch Phá Thiên ngạc nhiên hỏi: “Sao gia gia lại nói là thề giả?”

Thạch Thanh đáp: “Trương Tam, Lý Tứ chắc là tên giả. Họ cứ thề ẩu Trương Tam thế này, Lý Tứ thế nọ thì đã chết ai? Tên họ đã giả, thì bất luận họ nói gì cũng là giả hết.”

Thạch Phá Thiên đáp: “Thì ra là thế.” Chàng nghĩ đến chuyện hai vị nghĩa huynh đã lừa dối mình thì cũng hơi buồn, nhưng lại cho rằng lập luận của gia gia chưa chắc đã đúng, không chừng họ thật sự là Trương Tam, Lý Tứ thì sao? Chàng bèn nói: “Lần sau gặp họ, con sẽ hỏi cho rõ ràng.”

Mẫn Nhu từ nãy vẫn ngồi yên không lên tiếng, bây giờ bỗng nói xen vào: “Ngọc nhi! Lần sau gặp họ, con phải cẩn thận lắm mới được. Hai người này giết người không nháy mắt. Tỉ đấu đường hoàng không được, thì họ tìm cách ám toán. Ám toán không được thì họ dùng thuốc độc, thật là hung ác đến cực độ.”

Thạch Thanh cũng bảo: “Ngọc nhi phải nhớ lấy lời của mẹ. Đừng nói là con quá thật thà trung hậu, cho dù những người linh mẫn nhạy bén gấp mười con mà gặp phải hai gã sứ giả này cũng khó tránh khỏi độc thủ, thật sự là không thể đề phòng được. Lần sau mà con gặp họ thì lập tức phải xuất chiêu sát thủ, ra tay trước là hơn. Dù chỉ giết được một gã cũng là trừ mối đại hại, tạo phúc cho võ lâm rồi.”

Thạch Phá Thiên ngần ngừ một chút rồi nói: “Hài nhi đã kết nghĩa huynh đệ với họ. Họ là đại ca nhị ca của con, không thể giết được.”

Thạch Thanh buông tiếng thở dài rồi không nói gì nữa. Dường như ông hối hận vì đã lỡ lời bảo con giết nghĩa huynh, làm điều bất nghĩa. Mẫn Nhu mỉm cười nói: “Sư ca! Chính sư ca cũng nói là Ngọc nhi thật thà trung hậu. Vậy con chúng ta đã ngoan rồi, có đúng thế không?”

Thạch Thanh gật đầu đáp: “Đúng là nó thật sự ngoan ngoãn rồi. Nhưng vì thế mà có người lợi dụng nó để gánh thay tai họa cho họ.” Rồi ông hỏi Thạch Phá Thiên: “Ngọc nhi! Ngọc nhi có biết bang Trường Lạc đưa con lên làm bang chúa là có dụng ý gì không?”

Thạch Phá Thiên vốn không phải là người ngu dốt. Chỉ vì hồi bé chàng ở với mẫu thân tại chốn thâm sơn cùng cốc, lớn lên một chút lại ở với Tạ Yên Khách tại Ma Thiên Nhai, hai người này đều ít khi chuyện trò với chàng, vì thế mà chàng ít hiểu nhân tình thế thái. Bây giờ chàng nghe Thạch Thanh diễn thuyết một phen, lập tức tỉnh ngộ. Chàng thất thanh la lên: “Họ tôn hài nhi làm bang chúa phải chăng… phải chăng là để hài nhi chết thay cho họ?”

Thạch Thanh thở dài nói: “Có thể là vậy. Hiện giờ chưa biết rõ đầu đuôi, chúng ta cũng không nên vội lấy bụng dạ tiểu nhân mà đo lòng người quân tử. Nhưng nếu không phải vậy thì bang Trường Lạc thiếu gì anh hùng hảo hán, lại phải tôn Ngọc nhi là một gã thiếu niên không hiểu việc đời lên làm bang chúa? Bang Trường Lạc mới quật khởi mấy năm gần đây, các lãnh tụ trong bang thấy đã gần đến hạn kỳ đồng bài của Hiệp Khách Đảo tái xuất giang hồ, lần này Trường Lạc Bang nhất định sẽ nhận được thiệp mời. Vì thế mà họ đã chuẩn bị trước một người để làm bang chúa, đến lúc gặp chuyện thì đứng ra gánh lấy kiếp nạn này.”

Thạch Phá Thiên trong lòng thật sự hoang mang, chàng không ngờ lòng người lại hiểm độc đến thế. Nhưng suy luận của gia gia lại hợp tình hợp lý, ai cũng chẳng thể không tin được.

Mẫn Nhu cũng nói: “Hài nhi! Bang Trường Lạc nổi tiếng là một bang phái tệ hại trên giang hồ. Tuy họ cũng không phải chỉ làm việc ác như đốt nhà giết người, nhưng những chuyện lấy mạnh hiếp yếu, giành giật cướp bóc cũng không phải là ít. Hơn nữa, họ cũng không chịu giữ điều nhân nghĩa nên trong võ lâm có rất nhiều người chán ghét bang này. Bọn hương chủ đà chủ trong bang đó, phần nhiều cũng không phải là người tốt. Giả tỉ họ đã sắp xếp cạm bẫy để con chui vào, thì cũng là chuyện dễ hiểu, chẳng lấy chi làm kỳ lạ.”

Thạch Thanh hắng giọng một tiếng rồi nói: “Nếu họ muốn chọn một người ngoài bang để làm bang chúa thì Ngọc nhi quả là thích hợp. Ngọc nhi đã quên hết chuyện cũ, những sóng gió hiểm nghèo trên chốn giang hồ lại hoàn toàn không hiểu. Chỉ có điều họ không bao giờ ngờ tới cậu tiểu bang chúa này lại là con trai của Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu ở Huyền Tố Trang. Vì thế mà mưu tính của họ tưởng đã là như ý, rốt cuộc không được như ý lắm”. Ông nói tới đây, tay cầm thanh kiếm vung lên trỏ về phía Đông, phía tổng đà của bang Trường Lạc.

Mẫn Nhu nói: “Chúng ta đã biết được gian mưu của họ thì chẳng còn lo gì nữa. May ở chỗ Ngọc nhi cũng chưa nhận được tấm bài đồng đó. Thanh ca! Hiện giờ nên làm thế nào?”

Thạch Thanh suy nghĩ một chút rồi nói: “Bây giờ ba chúng ta cùng đến bang Trường Lạc để nói huỵch toẹt việc này ra. Có điều mình tới đó thì bọn họ thẹn quá hóa giận, khó mà tránh khỏi đánh nhau, bên mình chỉ có ba người không thể địch nổi. Hơn nữa, cũng nên có mấy nhân vật nổi danh trong võ lâm đứng ra làm chứng, để tránh khỏi phiền lụy sau này cho Ngọc nhi.”

Mẫn Nhu nói: “Ngân kích Dương Quang đại ca ở phủ Tùng Giang, Giang Nam giao du rất rộng, lại là bạn thân với chúng ta. Chúng ta nên nhờ ông ra mặt để mời đông đảo võ lâm đồng đạo đến bang Trường Lạc một phen.”

Thạch Thanh cả mừng nói: “Kế ấy tuyệt diệu. Bạn bè võ lâm một giải Giang Nam chắc cũng nể mặt vợ chồng mình, mời họ đi là phải.”

Vợ chồng Thạch Thanh nổi tiếng hào hiệp trong võ lâm. Hai mươi năm nay, hai ông bà luôn trọng nghĩa khinh tài, cứu giúp người hoạn nạn, nâng đỡ kẻ khốn cùng. Chỉ có vợ chồng ông cứu giúp người ta, chứ ông bà chưa từng cầu cạnh ai việc gì. Bây giờ ông bà cần trợ giúp, chắc chắn chỉ cần hô lên một tiếng là tập hợp được rất đông.

comments

HIỆP KHÁCH HÀNH