Hồi 07: Trùng Dương di ngôn

Hồi 07: Trùng Dương di ngôn

Dương Quá cùng Tiểu Long Nữ chạy theo thông đạo ra khỏi nhà mồ, vui mừng không biết để đâu cho hết, dưới ánh sao hít mấy hơi dài, nói:

– Cô cô, đệ tử đi hạ hai phiến “Đoạn long thạch” để chôn vùi hai nữ nhân xấu xa kia ở trong mộ đây.

Tiểu Long Nữ lắc đầu, nói:

– Hãy khoan, chờ ta trở vào trong ấy đã.

Dương Quá kinh ngạc, vội hỏi:

– Vì sao?

Tiểu Long Nữ nói:

– Sư phụ đã dặn ta phải canh giữ tòa nhà mồ này thật tốt, không để kẻ khác chiếm giữ.

Dương Quá nói:

– Chúng ta lấp kín cửa nhà mồ, họ chết còn đâu mà chiếm giữ?

Tiểu Long Nữ nói:

– Nhưng như vậy thì ta cũng không vào được nữa. Lời dặn của sư phụ, vĩnh viễn ta không dám làm trái, không thể giống như ngươi!

Nói rồi trừng mắt nhìn Dương Quá một cái. Dương Quá máu nóng trào lên ngực, giơ tay nắm lấy cánh tay nàng, nói:

– Cô cô, đệ tử vâng lời cô cô thì được mà.

Tiểu Long Nữ cố nén lòng, sợ xúc động, một câu cũng không nói nữa, gỡ tay chàng ra, bước qua cửa mộ vào trong, nói:

– Ngươi hạ phiến đá xuống đi!

Nàng quay lưng ra ngoài, chỉ sợ chính mình đổi ý, cũng không ngoảnh nhìn Dương Quá lần cuối cùng.

Dương Quá tâm ý đã quyết, hít một hơi thật sâu toàn là mùi hương hoa và cây cỏ tươi mát, ngẩng đầu nhìn trời, muôn ngàn ngôi sao nhấp nháy không thôi, nghĩ thầm: “Đây là lần cuối cùng ta được ngắm trời sao”. Chàng đến mé trái tấm bia mộ, theo lời chỉ dẫn từ trước của Tiểu Long Nữ, vận sức đẩy một tảng đá lớn, quả nhiên bên dưới có một hòn đá tròn. Chàng kéo mạnh hòn đá ấy lên, thấy lộ ra một lỗ hổng, một dòng cát mịn từ trong lỗ chảy rất nhanh ra ngoài, hai khối đá lớn phía trên cửa mộ từ từ hạ xuống. Hai khối “Đoạn long thạch” này nặng cả vạn cân, hồi Vương Trùng Dương xây mộ, phải dùng sức cả trăm người mới lắp đặt chúng đúng vị trí. Bây giờ “Đoạn long thạch” đã lấp kín vĩnh viễn cửa mộ; Lý Mạc Sầu, Tiểu Long Nữ, Hồng Lăng Ba võ công cao mấy, cũng không tài gì ra khỏi nhà mồ.

Tiểu Long Nữ nghe tiếng hai khối đá nặng sập xuống, không nén được nữa, nước mắt trào ra, ngoảnh đầu nhìn lại. Dương Quá chờ lúc hai khối đá hạ xuống cách mặt đất chừng hai thước, đột nhiên sử chiêu “Ngọc nữ đầu thoa”, thân hình như một mũi tên bay vèo qua khoảng trống vào trong. Tiểu Long Nữ kêu lên kinh ngạc, Dương Quá đã đứng thẳng người dậy, cười nói:

– Cô cô muốn đuổi đệ tử ra cũng không kịp nữa rồi.

Lời chưa dứt, sầm sầm hai tiếng mạnh; hai khối đá lớn đã sập tới đất.

Tiểu Long Nữ vừa kinh ngạc vừa vui mừng, quá xúc động, suýt nữa ngất đi, phải tựa lưng vào tường đá thở hổn hển. Hồi lâu, nàng mới nói:

– Thôi được, hai ta cùng chết với nhau vậy.

Rồi nàng dắt tay Dương Quá đi vào nội thất.

Sư đồ Lý Mạc Sầu đang tìm kiếm cơ quan ở bốn phía, sờ chỗ này, nắn chỗ kia, không theo một trật tự nào cả, ruột nóng như lửa, bỗng thấy hai người trở lại, thì mừng hết chỗ nói. Lý Mạc Sầu vọt tới sau lưng Tiểu Long Nữ và Dương Quá để chặn đường rút của hai người. Tiểu Long Nữ lạnh lùng nói:

– Sư tỷ, để muội dẫn sư tỷ tới một chỗ.

Lý Mạc Sầu không đáp, nghĩ thầm: “Trong cái nhà mồ này, chỗ nào cũng có các cơ quan, chỉ một mình sư muội biết, nếu sư muội muốn lừa ta, ta thật khó đề phòng”.

Tiểu Long Nữ nói:

– Muội đưa sư tỷ đi bái kiến linh cữu sư phụ, sư tỷ không muốn đi thì thôi.

Lý Mạc Sầu nói:

– Sư muội khỏi cần mượn danh sư phụ để lừa ta.

Tiểu Long Nữ cười nhạt, không đáp, đi ra cửa. Lý Mạc Sầu thấy ngôn ngữ cử chỉ của Tiểu Long Nữ có một sự uy nghiêm tựa hồ buộc người ta không được phản kháng, sư đồ hai người bèn đi theo sau, có điều là từng bước sẵn sàng đề phòng bất trắc. Tiểu Long Nữ dắt tay Dương Quá đi trước, cũng chẳng sợ sư tỷ ở đằng sau ám toán, dẫn họ đi tới gian đặt các cỗ quan tài đá.

Lý Mạc Sầu chưa từng đến gian này, nghĩ đến ơn giáo dưỡng của sư phụ, thấy hơi thương cảm, nhưng lại nghĩ sư phụ thiên vị, thì từ thương chuyển thành giận, rốt cuộc không khấu đầu trước linh cữu sư phụ, nói:

– Sư đồ ta sớm đã đoạn tình tuyệt nghĩa, sư muội dẫn ta đến đây làm gì?

Tiểu Long Nữ thản nhiên nói:

– Ở đây còn hai cỗ quan tài trống, một dành cho sư tỷ một dành cho muội. Sư tỷ thích cỗ nào, thì hãy chọn đi.

Nói rồi giơ tay chỉ hai cỗ quan tài.

Lý Mạc Sầu cả giận, nói:

– Sư muội dám đùa giỡn với ta hả?

Liền xuất chưởng đánh tới ngực Tiểu Long Nữ, ai dè Tiểu Long Nữ thấy đòn chẳng buồn tránh. Lý Mạc Sầu sững lại, nghĩ thầm: “Chưởng này đủ đánh chết ngươi”, cạnh bàn tay còn cách ngực Tiểu Long Nữ vài tấc thì thu về, Tiểu Long Nữ tâm bình khí hòa, nói:

– Sư tỷ. “Đoạn long thạch” ở cửa mộ đã sập xuống rồi!

Sắc mặt Lý Mạc Sầu lập tức tái nhợt đi; các cơ quan trong mộ, nàng ta không biết nhiều, riêng cái cơ quan lợi hại nhất ở cửa nhà mồ là “Đoạn long thạch” dùng để lấp kín cửa thì biết rõ. Hồi trước sư phụ từng gặp đại địch, gần như khó địch nổi, chút nữa đã tính hạ “Đoạn long thạch” xuống để chặn địch ở bên ngoài; nhưng sau dùng “Băng phách ngân châm” và “Ngọc phong châm” đả thương được kẻ địch mới thôi. Nào ngờ cuối cùng sư muội lại nhốt chết nàng ta ở đây, thì kinh hoàng nói, giọng run run:

– Sư muội biết có lối khác thoát ra, phải không?

Tiểu Long Nữ lạnh lùng nói:

– “Đoạn long thạch” đã sập xuống, cửa mộ làm sao còn mở ra được nữa, sư tỷ chẳng lẽ không biết hay sao?

Lý Mạc Sầu thộp ngực áo của Tiểu Long Nữ, gằn giọng nói:

– Sư muội đánh lừa ta?

Tiểu Long Nữ thản nhiên, nói:

– “Ngọc nữ tâm kinh” mà sư phụ lưu lại ở bên kia kìa, sư tỷ muốn xem thì lại đó mà xem. Muội và Quá nhi ở đây, sư tỷ muốn giết, cứ việc ra tay; nhưng sư tỷ muốn sống ra khỏi cái nhà mồ này thì muội thấy chẳng có đường nào đâu!

Bàn tay của Lý Mạc Sầu nắm ngực áo thả lỏng dần, nàng chăm chú nhìn sư muội, thấy sắc mặt của sư muội hoàn toàn hờ hững, biết là sư muội không nói dối, bèn đổi ý, nói:

– Cũng được, để ta giết chết hai sư đồ các ngươi trước vậy?

Rồi vung chưởng đánh vào mặt Tiểu Long Nữ.

Dương Quá sấn lại, chắn ngay phía trước Tiểu Long Nữ, nói:

– Sư bá hãy giết ta đã?

Lý Mạc Sầu hạ tay xuống, chưa dồn sức ra tay, hầm hầm nhìn Dương Quá, hỏi:

– Ngươi che chở cho nàng ta, tức là sẵn lòng vì nàng ta mà chết, phải vậy không?

Dương Quá đáp, giọng sang sảng:

– Đúng thế!

Lý Mạc Sầu dùng tay trái rút phắt thanh kiếm đeo ở lưng Dương Quá, chĩa vào cổ chàng, gằn giọng:

– Ta chỉ muốn giết một người. Ngươi hãy nói lại lần nữa, ngươi chịu chết hay nàng ta chết?

Dương Quá không đáp, chỉ nhìn Tiểu Long Nữ mỉm cười. Lúc này hai người đã không còn nghĩ gì đến chuyện sống chết, Lý Mạc Sầu bất kể giết ai thì cũng vậy mà thôi.

Lý Mạc Sầu thở dài, nói:

– Sư muội, lời thề của sư muội coi như không còn nữa; sư muội có thể xuống núi.

Tổ sư phái Cổ Mộ Lâm Triêu Anh năm xưa si mê Vương Trùng Dương, nhưng hai người không thành được phu thê. Lâm Triêu Anh đau khổ, định ra môn qui, phàm là người được truyền y bát, tất phải thề suốt đời sống trong nhà mồ, không được rời khỏi núi Chung Nam; song nếu có một nam tử cam tâm tình nguyện chết thay, thì lời thề coi như được xóa bỏ. Có điều là không được cho nam tử biết trước điều đó. Lâm Triêu Anh cho rằng mọi nam tử trên thế gian đều vô ân bạc tình, anh hùng hiệp nghĩa như Vương Trùng Dương còn thế, huống hồ kẻ khác? Chắc chắn không thể có một nam tử nào cam tâm tình nguyện chết thay cho người mình yêu; giả dụ có được một nam tử như thế, thì đệ tử đời sau của Lâm Triêu Anh có theo nam tử đó xuống núi cũng không uổng phí một đời.

Lý Mạc Sầu gia nhập sư môn sớm hơn Tiểu Long Nữ, lẽ ra được truyền y bát, nhưng không chịu thề suốt đời không xuống núi, nên sau đó Tiểu Long Nữ trở thành người được chân truyền.

Lúc này Lý Mạc Sầu thấy Dương Quá chân thành đối đãi với Tiểu Long Nữ, thì không khỏi vừa ngưỡng mộ, vừa đau buồn; nhớ lại sự phụ bạc của Lục Triển Nguyên đối với mình, bèn nói:

– Sư muội, ngươi thật có phúc.

Bèn đâm mạnh kiếm vào cổ Dương Quá.

Tiểu Long Nữ thấy sư tỷ hạ độc thủ thật sự, thì không thể không cứu, bèn hất tay trái, hơn mười chiếc “Ngọc phong châm” phóng ra.

Lý Mạc Sầu nhún hai chân, nhảy sang bên tránh những chiếc châm độc. Tiểu Long Nữ đã kéo Dương Quá chạy ra cửa, ngoảnh lại nói:

– Sư tỷ, lời thề của muội còn hay hết hiệu lực cũng thế cả. Bốn chúng ta sẽ cùng chết trong cái nhà mồ này. Muội không muốn nhìn mặt sư tỷ nữa, mỗi người hãy chết theo cách của mình.

Nàng giơ tay ấn vào góc tường, cửa đá sập xuống, lại ngăn cách bốn người ở hai nơi.

Tiểu Long Nữ tâm tình kích động, nhất thời khó cất bước. Dương Quá dìu nàng đi tới buồng của Tôn bà bà ngồi nghỉ. Chàng rót mật ong ra chén, mời nàng uống một chén, chàng cũng uống một chén. Tiểu Long Nữ thở dài, nói:

– Quá nhi, ngươi sao lại cam nguyện chết thay ta?

Dương Quá nói:

– Thiên hạ chỉ có cô cô đối tốt với đệ tử, lẽ nào đệ tử không chết thay cho cô cô?

Tiểu Long Nữ im lặng, lát sau mới nói:

– Sớm biết thế này, hai ta cũng chả cần trở lại nhà mồ cùng chết với họ. Nhưng nếu không quay trở vào thì làm sao biết ngươi cam nguyện chết thay ta, lời thề của ta cũng chưa thể bỏ.

Dương Quá nói:

– Chúng ta nghĩ cách thoát ra khỏi mộ được chăng?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi không biết kiến trúc của cái nhà mồ này xảo diệu thế nào, chúng ta không thể thoát ra ngoài được đâu

Dương Quá thở dài não nuột.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi hối hận rồi phải không?

Dương Quá nói:

– Không, đệ tử được ở bên cạnh cô cô, thế giới bên ngoài lại chẳng có ai yêu thương đệ tử.

Tiểu Long Nữ dạo trước không cho phép Dương Quá nhắc đến hai chữ “yêu thương” nên Dương Quá cũng không dám nhắc đến; lúc này tâm tình của nàng đã thay đổi, nghe hai tiếng ấy cảm thấy rất ấm lòng, bèn hỏi:

– Thế sao ngươi lại thở dài?

Dương Quá nói:

– Đệ tử nghĩ giá như hai ta cùng xuống núi, thiên hạ có nhiều trò chơi thú vị, hai ta ở bên nhau thì sung sướng vô cùng.

Tiểu Long Nữ từ lọt lòng lớn lên trong nhà mồ, bao năm nay lòng như nước ao tù, sư phụ và Tôn bà bà chưa bao giờ kể cho nàng biết sự việc ở thế giới bên ngoài, dĩ nhiên nàng không hề tưởng tượng, lúc này nghe Dương Quá nhắc đến, bất giác tâm sự như sóng trào, nhiệt huyết cứ từng đợt trào dâng trong ngực, định vận khí khắc chế, nhưng vẫn không sao trấn tĩnh được; thì không khỏi kinh dị, tự thấy bình sinh chưa bao giờ trải qua cảnh này, nghĩ chắc là do sau khi bị trọng thương, khó phục hồi công lực. Nàng không biết rằng dùng tĩnh công áp chế thất tình lục dục, vốn là hành sự trái tự nhiên, chỉ khắc chế bản thân mình, chứ hoàn toàn không thể nhờ đó mà tiêu trừ được tình dục. Bây giờ nàng đã hơn hai mươi tuổi bất ngờ gặp nạn, lại có một thiếu niên sẵn lòng chết thay cho nàng, thì khó tránh khỏi xúc động chân tình, đủ mọi cảm xúc ào ra như vỡ đê. Nàng ngồi trên giường vận công một hồi, thấy nóng lòng sốt ruột, bèn xuống đất đi đi lại lại, càng đi lại càng sầu muộn, bèn gia tăng cước bộ, chạy loanh quanh. Dương Quá thấy hai má nàng hồng lên, thần tình kích động, từkhi biết nàng đến nay chưa thấy cảnh này lần nào, thì không khỏi kinh hãi. Tiểu Long Nữ chạy một hồi, lại ngồi xuống giường nhìn Dương Quá, thấy sắc mặt chàng đầy vẻ quan thiết, trong lòng bỗng xúc động: “Nhưng ta với chàng đều sắp chết cả rồi, đôi bên còn phân biệt sư đồ cô điệt làm gì kia chứ? Giá chàng lại ôm ta, ta sẽ không đẩy chàng ra, mà để cho chàng ôm chặt lấy ta”.

Dương Quá thấy mắt nàng long lanh, ngực nàng phập phồng, tưởng ra thương thế tái phát, vội hỏi:

– Cô cô, có sao không?

Tiểu Long Nữ dịu giọng, nói:

– Quá nhi, lại đây nào.

Dương Quá y lời tới bên giường. Tiểu Long Nữ cầm lấy bàn tay chàng, đưa lên xoa xoa nhẹ má mình, hỏi nhỏ:

– Quá nhi, có thích ta không?

Dương Quá chỉ thấy mặt nàng nóng bừng bừng, thì lo cuống lên, run run hỏi:

– Cô cô bị đau ngực hay sao?

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Không, ta cảm thấy rất dễ chịu. Quá nhi, ta sắp chết rồi, ngươi hãy nói cho ta biết, có thật là ngươi thích ta hay không?

Dương Qua nói:

– Đương nhiên, trên thế gian chỉ có cô cô là thân nhân của đệ tử mà thôi.

Tiểu Long Nữ nói:

– Nếu có một nữ nhân khác đối với ngươi cũng tốt như ta, thì ngươi có tốt với người ấy hay không?

Dương Quá nói:

– Ai tốt với đệ tử, đệ tử cũng sẽ tốt với người ấy.

Chàng thấy bàn tay nàng đang cầm tay mình run run, rồi lạnh hẳn đi, sắc mặt nàng đang ửng hồng bỗng lại tái trắng như mọi khi.

Dương Quá lo lắng hỏi:

– Đệ tử nói saiư?

Tiểu Long Nữ nói:

– Nếu ngươi còn thích nữ nhân khác trên thế gian, thì đừng thích ta là hơn.

Dương Quá cười, nói:

– Hai ta còn vài hôm nữa đã chết rồi, đệ tử còn thích nữ nhân nào khác sao được? Chẳng lẽ đệ tử đi thích Lý Mạc Sầu và nữ đồ đệ của sư bá hay sao?

Tiểu Long Nữ cười, nói:

– Ta hồ đồ thật. Nhưng ta vẫn muốn nghe chính miệng ngươi thề với ta một điều.

Dương Quá hỏi:

– Điều gì nào?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta muốn ngươi nói, từ nay trong lòng ngươi chỉ có một mình ta, nếu có nữ nhân khác, thì ta sẽ giết chết ngươi.

Dương Quá cười, nói:

– Đừng nói đệ tử vĩnh viễn không có nữ nhân khác, mà giả dụ đệ tử không tốt, không vâng lời cô cô thì cũng đáng bị cô cô giết.

Thế rồi chàng liền thề:

– Đệ tử Dương Quá suốt kiếp này trong lòng chỉ có một mình cô cô; nếu về sau thay lòng đổi dạ, thì khỏi cần cô cô đến giết, chỉ cần nhìn thấy mặt cô cô, là đệ tử sẽ tự sát.

Tiểu Long Nữ rất hài lòng, nói:

– Ngươi nói rất hay, vậy thì ta yên tâm rồi.

Nàng cứ nắm chặt tay chàng không buông. Dương Quá cảm thấy từng luồng hơi ấm từ tay nàng truyền sang.

Tiểu Long Nữ nói:

– Quá nhi, ta thật không tốt.

Dương Quá vội nói:

– Không đâu, cô cô lúc nào cũng tốt.

Tiểu Long Nữ lắc đầu, nói:

– Hồi trước ta đối với ngươi quá dữ, thoạt đầu còn đuổi ngươi đi, may mà Tôn bà bà giữ ngươi lại. Nếu ta không đuổi ngươi đi, thì Tôn bà bà đã chẳng bị chết!

Nói đến đây, bất giác nước mắt muốn trào ra.

Nàng từ năm tuổi bắt đầu luyện công, từ đấy không khóc bao giờ; lúc này khóc trở lại, tâm thần chấn động mạnh, khớp xương toàn thân kêu tanh tách, tựa hồ nội lực đang rời bỏ thân thể. Dương Quá kinh hãi, gọi:

– Cô cô, cô cô làm sao… thế?

Lời chưa dứt, bỗng có tiếng ken két, cánh cửa đá mở ra, Lý Mạc Sầu và Hồng Lăng Ba đã tiến vào. Nguyên Lý Mạc Sầu nghĩ rằng “Đoạn long thạch” đã ập xuống, đằng nào cũng chết, chẳng cần e ngại các cơ quan mai phục nguy hiểm gì nữa, cứ xông xáo bừa đi, cuối cùng vượt qua liền mấy gian thạch thất, đến gian buồng của Tôn bà bà.

Nàng ta cứ tưởng là gặp vận may, không động chạm tới cơ quan vây khốn, không biết rằng các cơ quan trong mộ vốn được bố trí để chống đại đội quân Kim, toàn làm bằng đá lớn, vừa thô vừa nặng, phải có người vận hành thì mới hoạt động, Tiểu Long Nữ đã không định ám toán, thì các cơ quan ấy cũng không hoạt động.

Dương Quá lập tức đứng chắn cho Tiểu Long Nữ.

Lý Mạc Sầu nói:

– Ngươi tránh ra, để ta nói chuyện với sư muội.

Dương Quá sợ Lý Mạc Sầu gian trá, hãm hại sư phụ, đáp:

– Sư bá có gì cứ nói là được.

Lý Mạc Sầu trừng trừng nhìn chàng hồi lâu, thở dài, nói:

– Nam tử như ngươi, quả trong thiên hạ hiếm thấy.

Tiểu Long Nữ bỗng đứng dậy, hỏi:

– Sư tỷ, sư tỷ bảo y tốt hay không tốt?

Lý Mạc Sầu nói:

– Sư muội chưa từng xuống núi, không biết lòng người trên thế gian hiểm ác, người nặng tình nặng nghĩa như y khắp thiên hạ không tìm được người thứ hai đâu.

Lý Mạc Sầu đã bị trúng thương trên tình trường, vô cùng bi phẫn, nên khó tránh khỏi nói quá, cho rằng trên thế gian không có lấy một nam tử chân tình.

Tiểu Long Nữ rất vui, nói nhỏ:

– Thế thì có y cùng chết theo muội, cũng không uổng phí một đời của muội.

Lý Mạc Sầu nói:

– Sư muội, rốt cuộc thì y là người thế nào với sư muội? Sư muội đã lấy y rồi à?

Tiểu Long Nữ nói:

– Không, y là đồ nhi của muội. Y bảo là muội đối tốt với y; nhưng rốt cuộc tốt hay không tốt, chính muội cũng không biết.

Lý Mạc Sầu lấy làm lạ, lắc đầu, nói:

– Sư muội, để ta coi cánh tay của sư muội xem nào.

Nói rồi tay trái khẽ nắm tay Tiểu Long Nữ, tay phải vén ống tay áo của sư muội, thấy trên làn da trắng như tuyết có một điểm hồng, chính là vết son trinh nữ mà sư phụ chấm ở đó, gọi là “Thủ cung sa”.

Lý Mạc Sầu thầm thán phục: “Hai người này sống kề bên nhau trong nhà mộ, mà vẫn giữ lễ, sư muội vẫn là xử nữ trinh trắng”. Bèn vén ống tay áo của mình, vết son trinh nữ đỏ hồng như máu; hai cánh tay ngọc giơ cạnh nhau, thật khiến người động lòng. Có điều là Lý Mạc Sầu chẳng thể làm gì khác, đành giữ thân nguyên vẹn, còn sư muội thì lại có người tình nguyện vì nàng mà chết, sướng khổ cùng ở bên nhau mãi mãi; nghĩ đến đây, Lý Mạc Sầu không khỏi thở dài não nuột, buông tay Tiểu Long Nữ ra.

Tiểu Long Nữ hỏi:

– Sư tỷ có điều gì muốn nói với muội?

Lý Mạc Sầu vốn định nhiếc móc sư muội một phen, rằng đã dụ dỗ nam tử, làm bại hoại sư môn, để sư muội trong lúc vừa thẹn vừa tức sẽ vô tình tiết lộ lối ra khỏi nhà mồ; nhưng lúc này không thể làm thế được nữa; nàng ta ngẫm nghĩ giây lát, lại có chủ ý, nói:

– Sư muội, ta tới đây để xin lỗi sư muội.

Tiểu Long Nữ hoàn toàn bất ngờ, nàng vốn biết vị sư tỷ tâm cao khí ngạo, không đời nào chịu cúi đầu trước người khác, câu nói vừa rồi không hiểu có dụng ý gì, bèn thản nhiên nói:

– Sư tỷ làm việc của sư tỷ, muội làm việc của muội, ai việc nấy làm, khỏi cần xin lỗi.

Lý Mạc Sầu nói:

– Sư muội, hãy nghe ta nói. Chúng ta là nữ nhân, cái phúc lớn nhất của cả một đời là có một đức lang quân chân tình. Cổ nhân có câu “Muốn tìm báu vật dễ không, tình lang được kẻ hết lòng khó thay”(°) ((°)易求無價寶 , 難得有情郎-Dị cầu vô giá bảo, nan đắc hữu tình lang (Tặng lân nữ, Ngư Huyền Cơ – Đường). Số mệnh của ta hẩm hiu, thôi khỏi nói làm gì. Gã trai này đối với sư muội tốt quá, sư muội quả thật chẳng còn thiếu cái gì nữa.

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Muội đúng là rất sung sướng. Quá nhi vĩnh viễn sẽ không phụ bạc muội, muội biết chứ.

Lý Mạc Sầu buồn bã nói:

– Thế thì sư muội hãy xuống núi mà sống cho sướng đời mới phải. Thế giới tươi đẹp, hai người như đôi uyên ương cùng đậu cùng bay, thưởng tâm lạc sự, thật sung sướng tận cùng.

Tiểu Long Nữ ngẩng lên, xuất thần giây lát, nhẹ nhàng nói:

– Đúng vậy, tiếc rằng đã muộn mất rồi.

Lý Mạc Sầu hỏi:

– Sao lại muộn?

Tiểu Long Nữ nói:

– “Đoạn long thạch” đã sập xuống, dẫu sư phụ tái sinh, chúng ta cũng chẳng tài gì thoát khỏi nơi đây.

Lý Mạc Sầu thất vọng, phí cả một phen thuyết phục, những mong gợi ý ham sống cho sư muội, để sư muội vốn thông thuộc địa hình tòa nhà mồ mà tìm một lối thoát, ai dè chẳng kết quả gì, chỉ là vô vọng, nàng ta đổi sang tức giận, sát ý nảy sinh, cổ tay lật nhẹ, giơ chưởng đánh xuống đỉnh đầu sư muội.

Dương Quá đứng bên nghe hai người đối đáp với nhau, chợt thấy Lý Mạc Sầu bỗng nhiên hạ sát thủ, trong lúc hoảng loạn tự nhiên rùn mình xuống, quát một tiếng, song chưởng đẩy ra, sử dụng “Cáp mô công” do Âu Dương Phong truyền thụ. Món này chàng học mấy năm trước, từ hồi vào sống trong nhà mồ thì không luyện nữa, nhưng nó khắc sâu trong trí não, vào lúc nguy cấp nhất tự dưng bật ra.

Một chưởng của Lý Mạc Sầu chưa vỗ xuống đầu Tiểu Long Nữ, thì đột nhiên phát giác có luồng chưởng phong cực kỳ lợi hại từ bên cạnh ào sang, vội hồi chưởng chém ngang xuống. Dương Quá tu tập hai năm trong nhà mồ, nội lực đã mạnh, lực đẩy đã mạnh hơn xưa rất nhiều, sầm một tiếng, Lý Mạc Sầu bị đẩy bay vào bức tường đá phía sau, chắc là đau điếng.

Lý Mạc Sầu cả giận, xoa xoa hai tay vào nhau, trong thạch thất mùi tanh lan rộng, ngửi phải chỉ muốn nôn oẹ. Tiểu Long Nữ biết vừa rồi một đòn của Dương Quá may mắn đắc thủ, chứ một khi sư tỷ thi triển công phu Xích Luyện thần chưởng lợi hại, thì nàng và Dương Quá hợp lực cũng không chống đỡ nổi, bèn kéo tay Dương Quá chạy ra cửa buồng.

Lý Mạc Sầu vung chưởng đánh tới, nào ngờ bàn tay đang ở giữa chừng, thì má bên trái bỗng bị một cái tát, tuy không đau, nhưng nghe tiếng “bốp” rất vang, rồi giọng nói của Tiểu Long Nữ:

– Sư tỷ muốn học “Ngọc nữ tâm kinh”, thì đây!

Lý Mạc Sầu đang sững sờ, thì má phải lại trúng một chưởng nữa. Nàng ta biết công phu “Ngọc nữ tâm kinh” của sư phụ vô cùng lợi hại, vừa rồi Tiểu Long Nữ xuất thủ cực nhanh, thế chưởng biến ảo như thần, hiển nhiên là kiểu cách võ công bản môn, song nàng ta lại hoàn toàn không hiểu sự ảo diệu của nó, đây hẳn là công phu “Ngọc nữ tâm kinh”, trong bụng khiếp vía, trơ mắt nhìn Tiểu Long Nữ dắt Dương Quá đi sang gian khác, đóng cửa buồng này lại. Nàng ta đưa tay sờ má, nghĩ thầm: “Đấy là sư muội thủ hạ lưu tình, chứ nếu dùng sức vào hai chưởng vừa rồi, thì mình đã mất mạng.” Lý Mạc Sầu không biết rằng môn võ công ấy Tiểu Long Nữ vẫn chưa luyện thành, chưởng pháp tuy tinh diệu, song chưởng lực không thể đả thương người khác.

Dương Quá thấy sư phụ đường hoàng giáng cho Lý Mạc Sầu hai cái tát thì vô cùng cao hứng, nói:

– Cô cô, công phu “Ngọc nữ tâm kinh” của cô cô, Lý Mạc Sầu địch chẳng nổi…

Lời chưa dứt, bỗng thấy Tiểu Long Nữ cứ run rẩy như không kiềm chế được, hoảng sợ hỏi:

– Cô cô có sao… sao không?

Tiểu Long Nữ run run đáp:

– Ta… ta lạnh quá…

Vừa rồi nàng đánh hai chưởng, tuy dùng lực rất nhẹ, nhưng sau khi bị trọng thương nguyên khí chưa phục hồi, việc dùng sức gây tổn hại không nhỏ. Nàng cả đời luyện công trên giường hàn ngọc, vốn là vật chí hàn, lúc này không còn sức chế ngự, giống như người bị chìm xuống dòng sông băng, cái lạnh thấm vào tận xương, hai hàm răng cứ đánh vào nhau cầm cập. Dương Quá vội hỏi:

– Làm thế nào bây giờ?

Chàng cuống lên, ôm chặt Tiểu Long Nữ vào lòng, định dùng hơi ấm của mình giúp nàng đỡ lạnh; ôm một lát, chàng cảm thấy thân thể Tiểu Long Nữ càng lúc càng lạnh, dần dần chính mình cũng không chịu nổi.

Tiểu Long Nữ tự biết nội lực của mình đang mất đi từng chút, từng chút một, bèn nói:

– Quá nhi, ta không xong mất, ngươi… ngươi bế ta đến chỗ đặt quan tài đi.

Dương Quá đau lòng vô cùng, không nói nên lời, nhưng chàng lại nghĩ, mấy người chỉ sống vài ngày nữa thôi, bây giờ chết cùng với nàng thì cũng vậy, thế là vui vẻ nói:

– Vâng.

Chàng bế nàng đến gian thạch thất đặt quan tài, đặt nàng ngồi trên nắp quan tài, đốt nến. Dưới ánh nến, cỗ quan tài to nặng càng tương phản với sự mảnh dẻ yếu đuối của Tiểu Long Nữ.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi mở nắp cỗ quan tài… kia ra, đặt ta vào trong đó.

Dương Quá nói:

– Vâng!

Tiểu Long Nữ cảm thấy giọng nói của chàng không lộ chút gì thương cảm, thì hơi lạ; Dương Quá mở nắp cỗ quan tài, bế nàng đặt nhẹ nằm vào trong, rồi chàng cũng chui vào nằm trở đầu đuôi với nàng. Hai người nằm chung, vừa vặn không còn chỗ dư.

Tiểu Long Nữ vừa hoan hỉ vừa lấy làm lạ, hỏi:

– Ngươi làm gì vậy?

Dương Quá nói:

– Đệ tử đương nhiên ở bên cạnh cô cô. Để cho hai nữ nhân xấu xa nằm chung cỗ quan tài bên kia.

Tiểu Long Nữ thở dài thật sâu, trong lòng thập phần bình an, cái lạnh của cơ thể không ghê gớm như trước nữa. Nàng đưa mắt nhìn Dương Quá, thấy chàng cũng đang chăm chú nhìn nàng. Thân hình hai người áp sát vào nhau, đầu nàng nóng bừng, chỉ mong chàng choàng tay ôm chặt lấy mình, song Dương Quá lại đặt hai cánh tay thẳng dọc hai bên đùi tựa hồ sợ chạm vào người nàng không bằng.

Tiểu Long Nữ cảm thấy hơi ngượng ngùng, má đỏ bừng, quay mặt đi không dám nhìn chàng nữa, đầu óc mê loạn một hồi. Bỗng nhiên nàng thấy ở nắp quan tài tựa hồ có viết chữ, căng mắt nhìn, quả đọc được mười sáu chữ to: “Ngọc nữ tâm kinh, kỹ áp Toàn Chân. Trùng Dương nhất sinh, bất nhược vu nhân” (Tuyệt kỹ “Ngọc nữ tâm kinh” lấn át phái Toàn Chân. Một đời Vương Trùng Dương chẳng hề thua kém người). Mười sáu chữ viết bằng mực đậm, bút lực cứng cát. Lúc này nắp quan tài mới đậy một nửa, nhìn nghiêng thấy rõ rành rành. Tiểu Long Nữ ngạc nhiên kêu lên:

– Câu ấy ngụ ý gì vậy?

Dương Quá nhìn theo ánh mắt nàng, thấy dòng chữ, ngẫm nghĩ một lát, nói:

– Do Vương Trùng Dương viết phải không?

Tiểu Long Nữ nói:

– Chắc thế. Vương Trùng Dương muốn nói rằng “Ngọc nữ tâm kinh” của chúng ta tuy thắng được võ công phái Toàn Chân, nhưng bản thân lão đạo sĩ thì hoàn toàn không thua kém tổ sư bà bà của chúng ta, có phải vậy chăng?

Dương Quá cười:

– Lão đạo sĩ ấy khoác lác.

Tiểu Long Nữ nhìn kỹ lại mười sáu chữ kia, thấy sau đó còn viết tiếp nhiều chữ nữa, nhưng chữ nhỏ hơn, nằm đầu này khó đọc, bèn nói:

– Quá nhi, hãy ra khỏi quan tài đi?

Dương Quá lắc đầu:

– Đệ tử không ra đâu.

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Ra một lát, rồi lại trở vào với ta.

Bấy giờ Dương Quá mới chịu bò ra.

Tiểu Long Nữ ngồi dậy, bảo Dương Quá đưa đĩa nến, nàng chuyển đầu về phía ngược lại để đọc các chữ nhỏ. Ở tư thế này, các chữ trở thành ngược, nàng đọc chầm chậm hai lần, bỗng cảm thấy tay rã rời, đĩa nến chao nghiêng, rơi xuống ngực, Dương Quá vội nhặt lên, đỡ nàng ra khỏi quan tài, hỏi:

– Sao, các chữ ấy viết gì vậy, cô cô?

Tiểu Long Nữ sắc mặt tái đi, định thần lại, thở dài, nói:

-Thì ra sau khi tổ sư bà bà qua đời, Vương Trùng Dương có trở lại nhà mồ.

Dương Quá hỏi:

– Lão trở lại làm gì?

Tiểu Long Nữ nói:

– Vương Trùng Dương đến viếng tổ sư bà bà. Lão đạo sĩ thấy tổ sư bà bà khắc để lại trên trần nhà “Ngọc nữ tâm kinh”, hóa giải toàn bộ võ công của phái Toàn Chân. Lão đạo sĩ bèn viết ở mặt trong nắp quan tài này, nói rằng những chiêu thức mà tổ sư bà bà của chúng ta hóa giải chẳng qua chỉ là thứ võ công thô thiển của phái Toàn Chân mà thôi, chứ “Ngọc nữ tâm kinh” làm sao địch nổi võ công thượng thừa của phái Toàn Chân?

Dương Quá nói:

– Hừ, tổ sư bà bà đã chết rồi, lão ta nói thế nào chả được.

Tiểu Long Nữ nói:

– Vương Trùng Dương viết rằng lão có lưu lại cách hóa giải “Ngọc nữ tâm kinh” trong một gian thạch thất khác, hậu nhân có duyên tới đó khắc biết.

Dương Quá nổi tính hiếu kỳ, nói:

– Cô cô chúng ta đi xem đi.

Tiểu Long Nữ nói:

– Vương Trùng Dương viết rằng gian thạch thất đó ở dưới gian này. Ta sống cả đời ở đây mà không biết dưới chỗ này còn có một gian thạch thất khác.

Dương Quá nói, giọng cầu khẩn:

– Cô cô chúng ta nghĩ cách xuống đó xem đi.

Lúc này Tiểu Long Nữ đối với Dương Quá đã không còn nghiêm nghị như trước nữa, người lại đang mệt mỏi, nghĩ nên chiều chàng thì hơn, bèn mỉm cười nói:

– Được thôi.

Nàng nhìn quanh gian thạch thất, ngẫm nghĩ, cuối cùng chăm chú nhìn đáy cỗ quan tài mình vừa nằm một lát, nói:

– Thì ra cỗ quan tài này cũng là do Vương Trùng Dương để lại, dưới đáy có chỗ mở.

Dương Quá cả mừng, nói:

– Ồ đệ tử biết rồi, đấy chính là lối xuống gian thạch thất bên dưới.

Bèn chui vào cỗ quan tài, sờ bốn phía, quả nhiên gặp một chỗ lõm bằng bàn tay, chàng bèn bẩy lên, nhưng không suy suyển chút nào. Tiểu Long Nữ nói:

– Hãy đẩy sang bên trái trước, rồi mới kéo lên.

Dương Quá làm theo lời, chỉ nghe cạch một tiếng, đáy cỗ quan tài bật lên. Chàng mừng rỡ nói:

– Được rồi.

Tiểu Long Nữ nói:

– Hãy khoan, để cho uế khí tản bớt đi đã.

Dương Quá đứng ngồi nhấp nhổm, mới được một lát đã giục:

– Cô cô, thế nào?

Tiểu Long Nữ thở dài, nói:

– Nôn nóng như ngươi, không biết sẽ theo ta được mấy năm đây.

Nàng thong thả đứng dậy, cầm đĩa nến, cùng Dương Quá theo lối đáy cỗ quan tài đi xuống, bên dưới có các bậc đá, hết mươi bậc đá quả nhiên tiến vào một gian thạch thất.

Nơi đây cũng không có gì lạ. Hai người không hẹn cùng ngước nhìn lên trần nhà, thấy trên đó chi chít chữ viết và phù hiệu, góc cuối cùng bên phải viết bốn chữ to “Cửu Âm chân kinh”.

Hai người chưa biết rằng “Cửu Âm chân kinh” chứa đựng cảnh giới võ học tối cao, nhìn một hồi, chỉ thấy khó hiểu nổi chỗ ảo diệu của nó. Tiểu Long Nữ nói:

– Nghe bảo công phu này lợi hại vô cùng, nhưng đối với chúng ta lại hoàn toàn vô dụng.

Dương Quá thở dài, định cúi xuống không xem nữa, bỗng phát hiện ở góc tây nam trên trần nhà có vẽ địa đồ, hình như không liên quan gì đến võ công, bèn hỏi:

– Cái gì kia?

Tiểu Long Nữ nhìn theo tay chỉ của Dương Quá, chỉ nhìn thoáng qua, lập tức người cứng đơ ra, không cử động.

Nàng đứng như tượng đá một hồi, nhìn bức địa đồ xuất thần. Dương Quá sợ hãi, kéo kéo vạt áo của nàng, hỏi:

– Cô cô sao thế?

Tiểu Long Nữ kêu “ôi” một tiếng, rồi gục đầu vào ngực chàng khóc nấc lên. Dương Quá dịu dàng hỏi:

– Cô cô lại bị đau chỗ nào phải không?

Tiểu Long Nữ nói:

– Không, không phải.

Lát sau, mới nói:

– Chúng ta có thể ra khỏi chốn này.

Dương Quá cả mừng, nhảy cẫng lên, hỏi:

– Thật ư?

Tiểu Long Nữ gật đầu, nói:

– Bức địa đồ kia vẽ lối đi bí mật ra khỏi mộ.

Nàng thông thạo địa hình trong nhà mồ, nên vừa nhìn là hiểu ngay hàm nghĩa của bức địa đồ đó.

Dương Quá mừng không để đâu cho hết, nói:

– Hay quá! Thế sao cô cô lại khóc?

Tiểu Long Nữ nuốt nước mắt, cười, nói:

– Ta từ trước vốn không sợ chết, vì suốt đời ở trong nhà mồ, chết sớm hay chết muộn thì có gì khác nhau? Hai hôm nay, ta lại nghĩ muốn ra bên ngoài xem sao. Quá nhi, cho nên ta vừa sợ vừa mừng.

Dương Quá kéo tay nàng, nói:

– Cô cô, cô cô cùng đệ tử đi với nhau, đệ tử sẽ hái hoa cho cô cô cài đầu, bắt dế cho cô cô chơi, thế nhé?

Chàng tuy đã lớn, nhưng vẫn nghĩ đến mấy trò chơi thích thú của trẻ con. Tiểu Long Nữ chưa chơi đùa với người khác bao giờ, nghe chàng nói với vẻ đầy cao hứng, thì cũng chăm chú nghe, tuy nghĩ thầm: “Phải mau ra khỏi đây thì hơn”, nhưng thân thể rã rời vô lực, lại chưa muốn rời nhà mồ. Lát sau quá mệt, nàng không chịu nổi nữa, từ từ ngả đầu vào vai Dương Quá. Dương Quá nói một hồi, không thấy nàng trả lời, ngoảnh sang, thấy nàng hai mắt lim dim, hơi thở rất nhẹ, rõ là đang ngủ say. Chàng tự dưng cũng thấy mỏi mệt, nhắm mắt lại ngủ thiếp đi lúc nào không hay.

Không biết bao lâu sau, đột nhiên thắt lưng đau tức, huyệt Trung Khu ở lưng bị người điểm huyệt, chàng bừng tỉnh, định bật dậy kháng cự, gáy liền bị người khác tóm lấy, ấn xuống, không cựa quậy nổi; ngoảnh nhìn, thấy sư đồ Lý Mạc Sầu cười cười đứng bên cạnh, sư phụ cũng đã bị điểm huyệt. Thì ra Dương, Long hai người chưa từng trải cách phòng thân ứng địch trên giang hồ, trong lúc quá vui mừng đã không trở lên đậy đáy cỗ quan tài lại để cho Lý Mạc Sầu phát hiện, mò xuống đây đánh lén thành công.

Lý Mạc Sầu cười khẩy, nói:

– Gớm nhỉ, không ngờ lại có một chốn thú vị như thế này để hai đứa ngươi chui xuống hưởng phúc. Sư muội, hãy cố nghĩ xem, không chừng lại có lối thoát ra khỏi mộ cũng nên.

Tiểu Long Nữ nói:

– Muội dẫu có biết, cũng không nói với sư tỷ đâu.

Lý Mạc Sầu vốn tin lời nói lúc trước của Tiểu Long Nữ là thật, “Đoạn long thạnh” đã sập xuống, không còn hi vọng gì thoát ra khỏi mộ, nhưng câu nói vừa rồi của sư muội, với giọng điệu và sắc mặt, hiển nhiên là sư muội biết đường thoát ra. Lý Mạc Sầu nghe thế thì cả mừng, nói:

– Sư muội quý hóa, hãy dẫn ta ra khỏi nhà mồ, từ nay ta sẽ không gây khó dễ cho sư muội nữa.

Tiểu Long Nữ nói:

– Sư tỷ tự vào được thì hãy tự tìm cách mà thoát ra, vì sao phải nhờ muội dẫn dắt?

Lý Mạc Sầu vốn biết tính sư muội quật cường cố chấp, ngay sư phụ lúc sinh thời cũng phải nhường nàng ta vài phần, dùng cách cưỡng bức thì chẳng ăn thua gì, nhưng bây giờ là lúc sống chết, gì thì gì cũng phải cưỡng bức mới xong; thế là giơ tay điểm mạnh vào huyệt Thiên Đột trên gáy và huyệt Ngũ Khu ở mông của hai người. Huyệt Thiên Đột là nơi giao hội của Âm Duy và mạch Nhâm trên cơ thể người, huyệt Ngũ Khu là nơi giao hội của Túc Thiếu Dương đới mạch; Lý Mạc Sầu đã sử dụng thủ pháp điểm huyệt bí truyền của phái Cổ Mộ, biết rằng không lâu sau hai người sẽ bị ngứa ngáy toàn thân đến mức không chịu nổi, phải nói ra lối đi bí mật.

Tiểu Long Nữ nhắm mắt vào, không thèm nhìn nữa. Dương Quá nói:

– Nếu cô cô của ta biết lối thoát ra, thì hai ta còn ở lại đây làm gì kia chứ

Lý Mạc Sầu cười, nói:

– Câu nói của nàng ta vừa rồi đã tiết lộ, không giấu nổi ta đâu. Sư muội ta dĩ nhiên biết lối ra, chờ hai ngươi lấy lại sức thì mới đi đó thôi. Sư muội, rốt cuộc sư muội có chịu nói hay không thì bảo?

Tiểu Long Nữ nhẹ nhàng nói:

– Sư tỷ ra bên ngoài, chẳng qua chỉ nghĩ cách sát hại người khác, thế thì đừng ra là hơn.

Lý Mạc Sầu ngồi ôm gối bên cạnh, cười hi hi không nói. Lát sau, Dương Quá bắt đầu cảm thấy khó chịu, nói:

– Hừ, Lý Mạc Sầu, tổ sư bà bà truyền thụ thủ pháp điểm huyệt là để ngươi đối phó với kẻ địch, hay là để bắt nạt người đằng mình vậy? Ngươi sử dụng để hãm hại sư muội của ngươi, như thế có tội với tổ sư bà bà hay không?

Lý Mạc Sầu mỉm cười, nói:

– Ngươi gọi trống không ta là Lý Mạc Sầu, thế là đôi bên không phải người một nhà nữa rồi.

Dương Quá ghé tai nói nhỏ với Tiểu Long Nữ:

– Dù thế nào cô cô cũng chớ nói cho Lý Mạc Sầu biết lối ra bí mật, nàng ta không biết, thì sẽ chưa dám giết chúng ta; chỉ khi biết rồi, nàng ta mới lập tức hạ độc thủ.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ừ, ngươi nói đúng lắm, ta chưa nghĩ ra đấy.

Lúc này nàng nằm ngửa dưới đất, mở mắt ra là nhìn thấy bức địa đồ vẽ trên trần nhà. Nàng nghĩ thầm: “Không thể để sư tỷ thấy bức địa đồ kia được; mình đừng nhìn lên chỗ ấy nữa”. Năm xưa Vương Trùng Dương khi biết Lâm Triêu Anh qua đời trong nhà mồ, nghĩ đến mối tình si mà Lâm Triêu Anh cả đời dành cho mình, mối ân tình ấy quả không nhỏ, nay âm dương đôi ngả, lòng đau đớn muôn phần, bèn theo lối đi bí mật vào trong nhà mồ, không để cho đệ tử của Lâm Triêu Anh hay biết, đứng ngắm di dung của vị cựu lữ giang hồ hồi lâu, khóc lóc một hồi, mới đi xem lại một vòng tòa nhà mồ do mình xây dựng năm nào, thấy bức chân dung của mình do Lâm Triệu Anh vẽ quay lưng ra ngoài, lại thấy hai gian thạch thất trên trần khắc đầy phù hiệu. Thấy thuật rõ võ công “Ngọc nữ tâm kinh” hết sức tinh vi ảo diệu, mỗi chiêu đều là khắc tinh của võ công phái Toàn Chân, thì bất giác tái mặt, lập tức rời tòa nhà mồ.

Lão đạo sĩ một mình vào rừng sâu, dựng lều cỏ, ba năm liền không xuống núi, nghiền ngẫm cách hóa giải “Ngọc nữ tâm kinh”, tuy một số chỗ có thành tựu, nhưng cuối cùng vẫn không tạo thành một bộ võ công hoàn chỉnh. Lão đạo sĩ chán nản, càng khâm phục tài trí của Lâm Triêu Anh, cam bái hạ phong, không nghiên cứu nữa.

Hơn mười năm sau, tại cuộc Hoa Sơn luận kiếm, lão đạo sĩ có được kỳ thư “Cửu Âm chân kinh”. Lão quyết ý không luyện võ công ghi trong bộ kinh đó, nhưng bị tính hiếu kỳ thôi thúc, bèn mở ra xem một lượt.Thời đó võ công của Vương Trùng Dương đã là đệ nhất thiên hạ. Các tinh nghĩa bí ẩn hàm chứa trong “Cửu Âm chân kinh” đọc qua một lần, suy nghĩ mất hơn mười ngày thì hiểu tất thảy, VươngTrùng Dương ngẩng mặt lên trời cười vang, trở lại “Hoạt tử nhân mộ”, tại gian thạch thất kín đáo nhất trong tòa nhà mồ, khắc lên trên trần tinh yếu của “Cửu Âm chân kinh” đồng thời chỉ rõ cách hóa giải “Ngọc nữ tâm kinh”. Lão đạo sĩ đoán biết mấy cỗ quan tài trống sẽ được đệ tử của Lâm Triêu Anh sử dụng; chắc là lúc lâm chung họ sẽ tự chui vào quan tài nằm chờ chết, lúc đó họ sẽ đọc thấy rằng tổ sư của phái Toàn Chân một đời không chịu thua kém ai; thế là ở mặt trong tấm thạch thiên của mỗi cỗ quan tài trống, lão viết mười sáu chữ, để hậu nhân của Lâm Triệu Anh biết rằng võ học của tổ sư sáng phái Toàn Chân không phải là thứ mà “Ngọc nữ tâm kinh” có thể khắc chế.

Đấy chỉ là xuất phát từ tính hiếu thắng của Vương Trùng Dương, chứ lão đạo sĩ không hề có ý tiết lộ “Cửu Âm chân kinh”, bởi vì khi đệ tử của Lâm Triêu Anh được thấy “Cửu Âm chân kinh”, thì họ đã thoi thóp hấp hối, chỉ có thể mang theo bí mật xuống âm phủ mà thôi.

Vương Trùng Dương và Lâm Triêu Anh đều là bậc kỳ tài võ học, nguyên là một cặp tạo hóa sinh ra, hai người vốn không bị chia rẽ bởi sóng gió bể tình của kẻ thứ ba, cũng không hề bị chia rẽ bởi oán cừu của thân hữu sư đồ. Vương Trùng Dương thoạt tiên chỉ chuyên tâm đại sự kháng Kim, không lúc nào nghĩ đến tư tình nhi nữ; sau khi khởi nghĩa thất bại, lui vào sống một mình trong nhà mồ, Lâm Triêu Anh tới an ủi, nhu tình cao nghĩa, cảm động sâu xa, nhưng bấy giờ Vương Trùng Dương đã chán nản hết thảy, thế là thành mối tình thiên trường hận, chàng thì xuất gia làm đạo sĩ, nàng thì ôm hận lầm lũi sống trong tòa nhà mồ. Nguyên do bên trong, các đệ tử như Khưu Xứ Cơ không hay biết, ngay giữa hai người Vương, Lâm cũng khó nói với nhau, chỉ qui về hai chữ “vô duyên” mà thôi. Họ không biết rằng, “vô duyên” chỉ là “quả”, còn “nhân” là hai người võ công đều cao, quá ư tự phụ, mỗi lần đôi bên đàm luận võ học, thì không ai chịu ai, cứ cạnh tranh với nhau cho đến lúc chết. Lâm Triêu Anh thì sáng tạo “Ngọc nữ tâm kinh” khắc chế võ công phái Toàn Chân, còn Vương Trùng Dương không chịu thua kém, đem “Cửu Âm chân kinh” khắc trong mộ. Có điều là Vương Trùng Dương cho rằng, “Ngọc nữ tâm kinh” là do Lâm Triệu Anh tự sáng tạo ra, còn mình thì phải dựa vào di thư của người khác, so ra kém một bậc, nên sau đó lão đạo sĩ tự khiêm nhường, thường dặn đệ tử phải theo cái đạo nghiêm khắc với mình, nhường nhịn người khác, nhận phần thiệt thòi.

Về bức địa đồ bí mật ở trên trần, thì đã khắc ngay từ hồi mới xây dựng tòa nhà mồ. Nguyên đề phòng nếu nhà mồ bị quân Kim trường kỳ vây khốn, thì sẽ theo lối đi bí mật thoát ra. Lâm Triệu Anh không biết điều này, chỉ biết một khi “Đoạn long thạch” sập xuống, ta với địch sẽ cùng chết; không ngờ Vương Trùng Dương khi xây dựng tòa nhà mồ, mưu đại sự khôi phục Trung Nguyên, tràn đầy hùng tâm tráng chí, há chịu để mình bị dồn vào tuyệt địa? Sau này, khi Vương Trùng Dương nhường lại tòa nhà mồ, sợ Lâm Triệu Anh chế giễu rằng mình dự phòng tẩu thoát, mất cái khí khái của nam nhi, nên không nói cho nàng ta biết lối đi bí mật thoát ra khỏi mộ, cũng là do tính hiếu thắng mà nên.

Tiểu Long Nữ không dám nhìn lên chỗ địa đồ, chỉ đưa mắt nhìn sang góc khác; đột nhiên thoáng thấy bốn chữ nhỏ “Bí quyết giải huyệt”, vội nhìn kỹ chỗ đó, cả mừng, suýt nữa không kiềm lòng được, cơ hồ muốn reo lên. Bí quyết chỉ rõ cách tự thông huyệt đạo, nếu trong khi tu luyện nội công bị tẩu hỏa, bế tắc huyệt đạo, thì có thể dùng cách này tự đả thông. Ai luyện tới “Cửu Âm chân kinh”, võ công ắt đã đạt tới cảnh giới hạng nhất, thì rất hiếm khi để cho kẻ khác điểm trúng huyệt đạo; bí quyết này vốn dùng để đối phó với ma đầu do nội tâm mình sinh ra. Nhưng đối với tình cảnh hiện thời của Tiểu Long Nữ, nó quả là diệu pháp cứu mạng.

Nàng nghĩ thầm: “Ta có đả thông được huyệt đạo, cũng không địch nổi sư tỷ, hóa ra vô dụng”. Bèn nhìn kỹ kinh văn trên trần, xem có môn võ công nào có thể sử dụng ngay tức thời để chế ngự Lý Mạc Sầu hay chăng; nhưng xem qua một lượt, thấy rằng môn dễ nhất cũng phải vài chục ngày mới luyện thành, thì nàng thôi không nhìn thêm nữa, sợ Lý Mạc Sầu theo mình đưa mắt nhìn lên trần sẽ phát hiện bức địa đồ và “Cửu Âm chân kinh”. Cũng may Dương Quá cứ luôn miệng đấu khẩu với Lý Mạc Sầu, nên vị sư tỷ rất khôn ngoan tinh ý kia mới không để ý đến ánh mắt của Tiểu Long Nữ. Nàng đột nhiên nảy ra một ý, mở mắt học thuộc “Bí quyết giải huyệt” và “Bí quyết nhịn thở” trong “Cửu âm chân kinh”, rồi ghé tai truyền lại cho Dương Quá. Dương Quá lập tức lĩnh hội. Tiểu Long Nữ dặn nhỏ :

– Trước tiên hãy giải huyệt.

Dương Quá sợ sư đồ Lý Mạc Sầu phát giác, cứ luôn miệng nói loạn cả lên:

– Úi chao, Lý sư bá, sư bá hạ thủ quá ư tàn ác, đúng là có tội với tổ sư bà bà, lại càng có tội với bà bà của tổ sư bà bà, với thái bà của bà bà…

Hai người ngầm vận công dựa theo “Bí quyết giải huyệt” do Vương Trùng Dương khắc trên trần, nội công của họ vốn có căn bản, nên trong giây lát đã giải khai hai huyệt bị điểm. Hai người bề ngoài không để lộ động tĩnh, song Lý Mạc Sầu phát hiện không bình thường, liền đứng dậy, quát:

– Làm gì thế?

Tiểu Long Nữ bật dậy, lật tay xuất chưởng đánh nhẹ vào vai Lý Mạc Sầu, chính là võ công thượng thừa trong “Ngọc nữ tâm kinh”. Lý Mạc Sầu hoàn toàn không ngờ sư muội lại có thể tự giải huyệt, cả kinh, vội nhảy lùi lại. Tiểu Long Nữ nói:

– Sư tỷ có muốn thoát ra hay không?

Lý Mạc Sầu nghe vậy cả mừng, nàng ta tự phụ võ công cao cường, tài trí càng ít ai sánh kịp, mới rồi lại bị tiểu sư muội, một kẻ chưa từng nếm mùi đời, cho hai cái tát, không khỏi tức giận dị thường, nhưng nghĩ lại tạm phải nín nhịn, cốt ra khỏi nhà mồ rồi trị sư muội cũng chưa muộn, sư muội tuy có vài chiêu quái dị, song đã mất sức; ban nãy tựa hồ không phải thủ hạ lưu tình, mà là không còn sức lực, chả có gì đáng ngại, bèn cười nói:

– Thế mới đúng là sư muội tốt bụng, ta xin lỗi sư muội nhé, sư muội dẫn ta đi nào.

Dương Quá nghĩ thầm đây là cơ hội tốt để ly gián sư đồ nàng ta, bèn nói:

– Cô cô của đệ tử bảo rằng chỉ có thể dẫn một trong hai vị ra khỏi chốn này, sư bá nói xem là dẫn sư bá, hay đồ đệ của sư bá?

Lý Mạc Sầu nói:

– Tên tiểu tử lắm lời này, mau câm miệng lại cho ta coi.

Tiểu Long Nữ chưa rõ dụng ý của Dương Quá, nhưng bênh vực chàng, nói:

– Đúng thế, muội chỉ có thể dẫn một người ra, nhiều hơn thì không được.

Dương Quá cười, nói:

– Sư bá, hay là để cho Hồng sư tỷ cùng chúng tôi thoát ra thì hơn, sư bá đã nhiều tuổi, sống ngần ấy đủ rồi. Hồng sư tỷ dung mạo lại xinh đẹp hơn hẳn sư bá.

Kỳ thực Lý Mạc Sầu tuy hơn cả chục tuổi, nhưng xinh đẹp hơn hẳn Hồng Lăng Ba, nghe vậy thì càng tức giận, nhưng không nói gì. Dương Quá nói:

– Thôi được, chúng ta đi thôi! Cô cô đi trước dẫn đường, đệ tử đi thứ hai. Người đi sau cùng sẽ không thể ra khỏi nhà mồ.

Tiểu Long Nữ lúc này đã hiểu ý, khẽ cười, cầm lấy tay Dương Quá. Lý Mạc Sầu và Hồng Lăng Ba không hẹn mà tranh nhau đi thứ ba, hai người cùng chen ra cửa, chỉ sợ Tiểu Long Nữ bấm chốt đóng cửa, bỏ người cuối cùng ở lại trong nhà mồ. Lý Mạc Sầu giận dữ nói:

– Ngươi dám chen trước ta.

Tay trái giơ ra, đặt ngay lên vai Hồng Lăng Ba. Hồng Lăng Ba biết sư phụ xuất thủ tàn bạo, nếu không dừng bước, sẽ lập tức bỏ mạng dưới tay sư phụ, đành nhường Lý Mạc Sầu đi trước, trong bụng vừa hận vừa sợ.

Lý Mạc Sầu bám sát theo Dương Quá từng bước, không dám cách xa, chỉ thấy Tiểu Long Nữ quẹo ngang rẽ dọc, càng đi càng xuống thấp. Đồng thời chân giẫm phải bùn, thì biết rằng đã rời khỏi khu vực nhà mồ. Nhưng nhìn trong bóng tối, thấy có quá nhiều chỗ rẽ. Đi thêm một hồi, đường quá dốc, nếu bốn người võ công non kém, thì đã ngã lăn xuống từ sớm. Lý Mạc Sầu nghĩ thầm: “Núi Chung Nam vốn không cao lắm, đi lối này chắc không lâu nữa sẽ tới chân núi”.

Đi xuống dốc chừng nửa canh giờ, đường bớt dốc dần, song khí ẩm càng lúc càng tăng, sau đó nghe tiếng chảy rì rào, rồi chân đã đặt xuống nước; càng đi nước càng cao dần, tới gối, tới bụng, rồi ngập tới ngực. Tiểu Long Nữ hỏi nhỏ Dương Quá:

– “Bí quyết nín thở” ngươi còn nhớ hay không?

Dương Quá hạ giọng đáp:

– Thưa còn.

Tiểu Long Nữ nói:

– Khi nín thở rồi, cứ yên tâm mà lội dưới nước.

Dương Quá nói:

– Vâng, cô cô cũng hãy cẩn thận.

Tiểu Long Nữ gật đầu.

Lúc này nước đã ngập tới cổ họng. Lý Mạc Sầu cả kinh, hỏi:

– Sư muội, sư muội có biết bơi không đấy?

Tiểu Long Nữ nói:

– Muội từ lúc sinh ra chỉ sống trong nhà mồ, làm sao biết bơi?

Lý Mạc Sầu hơi yên tâm, bước dài một bước, không ngờ dưới chân hụt hẫng, nước xộc ngay vào miệng, nàng cả kinh, vội lùi lại, nhưng Tiểu Long Nữ và Dương Quá đã hụp xuống nước, đến bước này, phía trước dẫu là rừng đao biển kiếm, nàng ta cũng phải lao tới, chợt sau lưng bị Hồng Lăng Ba túm chặt lấy áo; vội hất tay lại đằng sau một cái khá mạnh, song áo vẫn bị túm chặt. Lúc này tiếng nước réo ào ào, nước chảy rất mạnh, Lý Mạc Sầu và Hồng Lăng Ba đều không biết bơi, bị cuốn trôi đi.

Lý Mạc Sầu võ công tuy cao thâm, lúc này cũng hết hồn, hai tay chới với túm loạn cả lên, bỗng chạm vào một vật, vội túm chặt lấy, hóa ra là cánh tay trái của Dương Quá. Dương Quá đang nín thở, được Tiểu Long Nữ dắt tay đi dưới nước, từng bước tiến lên phía trước, không ngờ bị Lý Mạc Sầu túm tay, bèn vận cầm nã thủ pháp gỡ ra, song Lý Mạc Sầu đã túm được, đời nào chịu buông? Dương Quá cố thoát ra mấy lần không xong, sợ dùng sức quá độ, sẽ uống nước vào bụng, đành để im cho nàng ta túm vậy.

Bốn người lôi kéo nhau đi dưới nước bằng thời gian ăn xong một bữa cơm, Tiểu Long Nữ và Dương Quá đã tức thở hết chịu nổi, hai người đã uống no một bụng nước, thì may sao nước chảy chậm lại và địa thế lên cao dần, chẳng bao lâu đã nhô đầu lên khỏi mặt nước. Lại đi chừng tàn một nén nhang, càng đi phía trước càng sáng, cuối cùng ra tới một cái hang đá. Hai người kiệt sức, trước tiên vận khí nôn hết nước trong bụng ra, rồi mới nằm nghỉ.

Lúc này Lý Mạc Sầu vẫn nắm chặt cánh tay của Dương Quá. Chàng phải gỡ mãi mới xong. Tiểu Long Nữ điểm huyệt trên vai hai thầy trò sư tỷ, rồi mới đặt họ nằm xuống một tảng đá tròn, dốc cho nước trong bụng họ chảy ra đằng miệng.

Một hồi lâu sau, Lý Mạc Sầu kêu mấy tiếng, tỉnh lại trước, thấy ánh nắng chói chang, quả nhiên được thấy lại ánh sáng ban ngày, nhớ lại cảnh nguy khốn vừa trải qua trong nhà mồ và dòng suối ngầm, thì không lạnh mà run, tuy nửa thân trên tê dại, nhưng trong lòng dễ chịu hơn hẳn khi trước. Một hồi lâu nữa thì Hồng Lăng Ba cũng tỉnh lại.

Tiểu Long Nữ nói với Lý Mạc Sầu:

– Sư tỷ, hai người đi đâu thì đi?

Sư đồ Lý Mạc Sầu hai tay tê dại, nửa thân dưới hành động như thường, liền đứng dậy, lẳng lặng nhìn nhau một cái, rồi người trước kẻ sau bước đi.

Dương Quá đưa mắt nhìn tứ phía, chỉ thấy cây xanh bạt ngàn, ánh nắng chan hòa phía trên, lòng dạt dào vui sướng, nói:

– Cô cô, cô cô thấy có đẹp không?

Tiểu Long Nữ gật đầu, mỉm cười. Hai người nhớ lại tình cảnh mấy hôm rồi, tưởng như ở kiếp khác.

Xung quanh tĩnh mịch không một tiếng người, nguyên cái hang này ở dưới chân núi Chung Nam, một nơi vô cùng hoang vắng. Tối hôm ấy hai người nằm ngủ trên cỏ dưới một gốc cây.

Hôm sau tỉnh dậy, theo lời Dương Quá thì phải đi du ngoạn một chuyến, nhưng Tiểu Long Nữ chưa từng nhìn thấy thế giới phồn hoa, chưa biết thế nào, nên rất lo ngại, nói:

– Không, ta cần trước hết dưỡng thương cho khỏe, rồi hai ta luyện hết “Ngọc nữ tâm kinh” đã.

Dương Quá đánh vào đầu mình một cái, nói:

– Đáng chết? Tên tiểu tử hồ đồ này đáng ăn đòn. Đệ tử quên mất cả việc cô cô đang bị thương.

Chàng nghĩ sau khi xuống núi, lại cùng sư phụ cởi bỏ quần áo mà luyện công, thực là hết sức bất tiện, bèn giúp Tiểu Long Nữ vận công trị thương.

Không đầy nửa tháng, Tiểu Long Nữ đã khỏi nội thương. Dưới gốc một cây tùng lớn, hai người dựng hai gian nhà tranh nhỏ để tránh mưa gió. Dương Quá thích mùi hoa nồng đậm, nên trồng trước gian của mình các thứ như hoa hồng, hoa nhài. Tiểu Long Nữ thì thích đạm nhã, bảo lá tùng có mùi thơm mát, hơn hẳn các thứ kỳ hoa dị thảo, cho nên trước cửa gian của nàng cứ để tự nhiên, chỉ có dã thảo mà thôi.

Sư đồ hai người ban ngày thì ngủ, ban đêm luyện công. Mấy tháng sau, Tiểu Long Nữ luyện xong trước, thêm vài tháng nữa, Dương Quá cũng luyện thành.

Hai người diễn đi diễn lại hết sức thành thạo rồi, Dương Quá lại nhắc đến chuyện nhập thế.

Tiểu Long Nữ cảm thấy cứ sống yên ổn như thế này là được, khỏi phải vướng bận việc gì khác trên thế gian, song nghĩ Dương Quá lưu luyến hồng trần, khó lòng chịu giam mình ở chốn rừng núi hoang vu thế này, bèn nói:

-Quá nhi, võ công hai ta tuy đã tiến hơn hẳn trước nhưng nếu đem so với Quách bá phụ, Quách bá mẫu của ngươi thì sao?

Dương Quá nói:

– Dĩ nhiên là còn thua xa.

Tiểu Long Nữ nói :

– Quách bá phụ của ngươi truyền võ công cho con gái và huynh đệ họ Võ, khi hai ta gặp bọn họ, sẽ bị bọn họ làm nhục.

Vừa nghe vậy, Dương Quá đứng bật dậy, tức giận nói:

– Bọn họ còn làm nhục đệ tử, đệ tử há để họ yên lành?

Tiểu Long Nữ lạnh lùng nói:

– Ngươi đánh không lại bọn họ, còn đòi này nọ.

Dương Quá nói:

– Thì cô cô giúp đệ tử.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta không địch nổi Quách bá mẫu của ngươi, thì cũng vô dụng.

Dương Quá cúi đầu không đáp, ngẫm nghĩ một lát rồi nói:

– Nể mặt Quách bá phụ, đệ tử sẽ không tranh chấp với họ nữa.

Tiểu Long Nữ nghĩ thầm: “Dương Quá ở trong nhà mồ hơn hai năm, đã luyện nội công phái Cổ Mộ cho nên tính nóng bớt hẳn, thật là tốt.” Kỳ thực là do Dương Quá đã lớn, hiểu thêm sự lý, nghĩ Quách Tĩnh đối với chàng quả rất chân tình, chàng lấy làm cảm kích, cam nguyện nhường nhịn; huống hồ chàng cũng chẳng có thâm cừu đại oán gì với Quách Phù và huynh đệ họ Võ; chẳng qua đôi bên chỉ vì tranh nhau con dế mà đánh nhau, bây giờ nghĩ lại, đúng là chuyện trẻ con.

Tiểu Long Nữ nói:

– Quá nhi, ngươi chịu nhường nhịn người khác thì không còn gì bằng. Nhưng nghe ngươi nói, ở bên ngoài, dù ngươi chịu nhường nhịn người khác, song người ta vẫn cứ bắt nạt ngươi, nếu hai ta không luyện võ công mà Vương Trùng Dương để lại, thì khi gặp người võ công cao cường, hai ta vẫn không địch nổi.

Dương Quá biết nàng vẫn chưa muốn rời bỏ chốn thanh tịnh này, nên không nỡ làm phật ý nàng, bèn nói:

-Cô cô, đệ tử vâng lời cô cô, từ ngày mai trở đi, chúng ta bắt đầu luyện “Cửu Âm chân kinh”.

Thế là hai người lại sống trong sơn cốc hơn một năm nữa. Tiểu Long Nữ và Dương Quá theo lối đi bí mật quay lại “Hoạt tử nhăn mộ”, bỏ ra mấy ngày học thuộc lòng di khắc của Vương Trùng Dương, mới trở ra bắt đầu luyện tập. Sau hơn một năm, nội công ngoại công của cả hai người đều tinh tiến.

Nhưng di khắc của Vương Trùng Dương ở trong mộ chỉ là pháp môn đối phó với “Ngọc nữ tâm kinh”, chỉ là một phần nhỏ của “Cửu Âm chân kinh” mà thôi. Sở học của hai người nếu so với Quách Tĩnh, Hoàng Dung thì còn thua xa, song hai người không biết điều đó.

Một hôm luyện võ xong, hai người đều cảm thấy rất có tiến cảnh. Dương Quá thì hết sức vui sướng, Tiểu Long Nữ lại rầu rĩ không vui. Dương Quá luôn niệng nói cười để giải sầu cho nàng, Tiểu Long Nữ vẫn không nói năng gì. Dương Quá bây giờ đã học xong di khắc của Vương Trùng Dương, nếu nói phải hoàn toàn quán thông, thì chả biết đến ngày nào năm nào; chứ bí ẩn quyết khiếu của thứ võ công đó thì chàng đã hiểu hết cả; chỉ cần tiếp tục luyện tập công phu sẽ càng cao thâm, uy lực sẽ càng mạnh mẽ.

Đoán biết Tiểu Long Nữ không muốn xuống núi, chưa tìm ra lý do giữ chàng ở lại nên mới buồn rầu như thế, chàng bèn nói:

– Cô cô, cô cô không muốn xuống núi, thì hai ta vĩnh viễn ở đây cũng được.

Tiểu Long Nữ vui mừng, nói:

– Hay quá…

Hai chữ “hay quá” vừa buột ra, nàng ngừng luôn, biết rằng Dương Quá vì mình mà miễn cưỡng ở lại, thì mình cũng chẳng thể vui sướng thật sự, thế nên buồn bã nói tiếp:

– Để mai hãy hay.

Bữa tối nàng không ăn, đi vào gian của mình ngủ sớm.

Dương Quá ngồi ngẩn ngơ trên cỏ một lúc, mãi khi trăng sau núi mọc lên, chàng mới vào gian của mình nằm ngủ. Ngủ đến nửa đêm, nghe mơ màng có tiếng gió ù ù, âm thanh gấp gáp, đáng ngại. Dương Quá choàng tỉnh, dỏng tai nghe, đúng là có tiếng quyền, chưởng phong của hai người đang đánh nhau. Chàng vội chạy sang cửa gian nhà của sư phụ, gọi nhỏ:

– Cô cô, cô cô có nghe gì không?

Lúc này chưởng phong vù vù, nghe rõ hơn trước, lẽ ra Tiểu Long Nữ đã phải nghe thấy, song bên trong vẫn không có tiếng trả lời. Dương Quá gọi thêm hai lần, đẩy cánh cửa, thấy giường trống, sư phụ đã không nằm ở đó. Chàng vội vàng chạy về phía có tiếng động, chạy hơn mười trượng, chưa thấy người giao đấu, nhưng nghe chưởng phong đã biết một người chính là sư phụ, còn chưởng phong của đối thủ thì trầm hùng lợi hại, võ công dường như cao hơn sư phụ.

Dương Quá lao tới, dưới ánh trăng thấy Tiểu Long Nữ đang giao đấu kịch liệt với một người thân hình rất cao lớn. Tiểu Long Nữ tuy thân pháp khinh linh, nhưng đối phương võ công cao siêu, nàng bị chưởng lực của y chế ngự, chỉ miễn cưỡng chống đỡ mà thôi.

Dương Quá cả kinh, kêu lên:

– Sư phụ, có đệ tử đây!

Chàng vọt tới chỗ hai người, vừa đối diện với người kia, thì không khỏi vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, thì ra cái người cao lớn, râu ria tua tủa như lông nhím kia chính là nghĩa phụ Âu Dương Phong xa cách đã lâu.

Chỉ thấy Âu Dương Phong đứng sừng sững như núi, đòn chưởng cứ thong thả tung ra liên tiếp, Tiểu Long Nữ chỉ tránh né chứ không dám đối chưởng.

Dương Quá kêu lên:

– Là người một nhà, xin đừng đấu nữa.

Tiểu Long Nữ hơi sững, nghĩ thầm gã hán tử điên khùng râu ria kia mà lại là người một nhà ư, thân pháp hơi chậm lại; một chưởng đánh xéo của Âu Dương Phong đã đánh thẳng tới mặt nàng, chưởng thế mạnh mẽ ghê gớm. Dương Quá kinh hãi, sấn tới, thấy tả chưởng của Tiểu Long Nữ đã đụng hữu chưởng của Âu Dương Phong, biết sư phụ công lực thua xa nghĩa phụ, thời khắc lâu một chút tất bị nội thương, liền giơ năm ngón tay đẩy nhẹ vào cùi chỏ bên phải của Âu Dương Phong, chính là công phu thượng thừa “Thủ huy ngũ huyền” trong “Cửu Âm chân kinh” mà chàng mới học được. Chàng luyện tuy chưa thành thạo, nhưng ra đòn đúng chỗ, Âu Dương Phong thấy cánh tay hơi tê, toàn thân mất lực.

Tiểu Long Nữ chớp ngay lấy thời cơ, thấy thế địch hơi yếu đi, thì lập tức tung đòn; trong chớp mắt này, Âu Dương Phong toàn thân vô lực, chỉ cần một ngón tay ra đòn cũng đủ khiến lão bị trọng thương. Dương Quá lật tay giữ lấy bàn tay của sư phụ, đứng xen giữa hai người, cười nói:

– Xin hai vị dừng tay, là người một nhà cả.

Âu Dương Phong chưa nhận ra Dương Quá, chỉ thấy gã thiếu niên này võ công rất cao, không thể xem thường, tức giận hỏi:

– Mi là ai? Cái gì mà người một nhà với chả hai nhà?

Dương Quá biết nghĩa phụ điên điên khùng khùng, chỉ sợ lão đã quên biến mình, bên kêu to:

– Cha ơi, con đây, nhi tử của cha đây mà.

Câu này tràn ngập tình cảm. Âu Dương Phong ngẩn ra, kéo tay chàng, xoay mặt chàng ra phía ánh trăng mà nhìn, đúng là nghĩa nhi mấy năm nay lão tìm kiếm khắp nơi, bây giờ một là thân hình đã cao lớn, hai là võ nghệ cao cường nên ban đầu khó bề nhận ra. Lão lập tức ôm chầm lấy Dương Quá, kêu to :

– Hài nhi, ta tìm con khổ sở biết bao?

Hai người ôm chặt nhau, cùng ứa nước mắt.

Tiểu Long Nữ vốn lãnh đạm, chỉ biết trên đời có một mình Dương Quá là người nhiệt tình như lửa, lúc này thấy Âu Dương Phong cũng như thế, thì đối với việc xuống núi càng lo ngại, ngồi lặng im một bên, lòng buồn bã.

Âu Dương Phong từ ngày chia tay với Dương Quá ở miếu Thiết Thương phủ Gia Hưng, trốn trong chiếc chuông lớn khiến Kha Trấn Ác không làm gì được. Lão tiềm vận thần công, trị liệu nội thương, sau bảy ngày đêm nội lực đã phục hồi, nhưng vết ngoại thương bởi thiết trượng của Kha Trấn Ác thì vẫn chưa đỡ. Lão chui ra khỏi chuông, tới khách điếm dưỡng thương hai mươi ngày nữa, nội thương ngoại thương đều khỏi cả, liền đi tìm Dương Quá.

Nhưng đã một tháng trôi qua, đất trời bao la, biết tìm đâu tung tích của đứa con nuôi? Lão nghĩ bụng: “Hài tử chín phần mười ra Đào Hoa đảo”, bèn thuê một chiếc thuyền nhỏ, giong buồm tới Đào Hoa đảo, ban ngày không dám lại gần đảo, ban đêm mới lên bờ ở sau núi. Lão tự biết không địch nổi hai người Quách Tĩnh, Hoàng Dung; lại không biết Hoàng Dược Sư vắng mặt ở đảo, nghĩ mình có bản lĩnh gấp đôi, cũng chẳng địch nổi ba cha con họ; vì thế ban ngày phải trốn trong một cái hang cực kỳ hoang vu, ban đêm mới dám len lén tuần du. Trên đảo bố trí kỳ diệu, lão cũng chả dám đi lại tùy tiện.

Cứ thế hơn một năm, lão vẫn thận trọng vạn phần, ban ngày không dám rời hang nửa bước, không phát giác được tung tích Dương Quá, mãi một buổi tối nọ, tình cờ nghe huynh đệ Võ Tu Văn trò chuyện, mới biết Quách Tĩnh đã đưa Dương Quá đến giáo phái Toàn Chân học nghệ. Âu Dương Phong cả mừng, lập tức lấy trộm thuyền rời đảo, tìm đến cung Trùng Dương, núi Chung Nam.

Nào ngờ bấy giờ Dương Quá đã làm náo loạn cả phái Toàn Chân, vào sống trong “Hoạt tử nhân mộ”. Việc đó quả là nỗi nhục lớn đối với phái Toàn Chân, nên mọi người trong giáo phái đều tuyệt nhiên không nhắc tới, Âu Dương Phong tìm thiên phương bách kế cũng không dò la được chút tin tức gì.

Lão lặn lội xung quanh núi Chung Nam hàng trăm dặm, đâu biết Dương Quá đang ở trong lòng đất, dĩ nhiên tìm chẳng ra.

Đêm nay tình cờ lão đang đi trong sơn cốc, bỗng thấy một bạch y thiếu nữ ngồi bó gối dưới ánh trăng mà thở dài. Âu Dương Phong điên điên khùng khùng hỏi:

– Này, hài nhi của ta ở đâu hả? Ngươi có trông thấy nó hay không?

Tiểu Long Nữ nhìn lão một cái, không thèm để ý.

Âu Dương Phong sấn tới, giơ tay chộp lấy cánh tay nàng, quát:

– Này, hài nhi của ta ở đâu hả?

Tiểu Long Nữ thấy lão ta xuất thủ mạnh mẽ, võ công cao cường, bình sinh chưa từng gặp, các cao thủ phái Toàn Chân không thể sánh bằng, thì nàng không khỏi kinh hãi, vội sử thủ pháp tiểu cầm nã để thoát ra.

Âu Dương Phong đã chộp phải trúng, ai dè đối phương lại nhẹ nhàng khôn khéo hóa giải được, thì cũng chẳng buồn hỏi nàng là ai, tay trái tung đòn liền. Hai người giao đấu với nhau không một chút nguyên do.

Nghĩa phụ nghĩa tử hàn huyên một hồi. Âu Dương Phong thần trí nửa tỉnh nửa mê, chuyện quá khứ đã kể không thật rõ, mà đối với những gì Dương Quá thuật lại cũng chẳng hiểu mấy, chỉ biết mấy năm rồi Dương Quá lúc nào cũng ở bên cạnh Tiểu Long Nữ luyện công, lão nói to:

– Nàng ta võ công không bằng ta, hà tất theo nàng luyện? Để ta dạy cho con.

Tiểu Long Nữ đâu có so bì với lão ta, nàng nghe vậy chỉ cười nhạt, tự lánh sang một bên.

Dương Quá cảm thấy khó xử, nói:

– Cha ơi, sư phụ đối với con rất tốt.

Âu Dương Phong thấy ghét, nói:

– Nàng ta rất tốt, còn ta thì không tốt hay sao?

Dương Quá cười, nói:

-Cha cũng rất tốt. Trên đời này chỉ có hai vị đối xử rất tốt với con.

Lời kể của Âu Dương Phong tuy không rõ ràng, nhưng Dương Quá cũng biết mấy năm nay nghĩa phụ lặn lội tìm kiếm mình khắp nơi, thật là thiên tân vạn khổ.

Âu Dương Phong nắm lấy bàn tay Dương Quá, cười hi hi ngớ ngẩn một hồi, rồi nói:

Dương Quá hỏi:

– Là kỳ công gì vậy?

Cặp lông mày rậm của Âu Dương Phong dựng ngược, lão quát:

– Ngươi là con nhà võ, mà có hai đại kỳ công cũng không biết, thử hỏi ngươi bái nàng ta làm sư phụ có được cái gì?

Dương Quá thấy Âu Dương Phong chợt vui chợt giận, không khỏi lo ngại, nghĩ thầm: “Bệnh của nghĩa phụ thế này, chẳng biết bao giờ mới khỏi?” Âu Dương Phong cười ha hả, nói:

– Hừ, để ta dạy cho con. Hai đại kỳ công, thứ nhất là “Cáp mô công”, thứ hai là “Cửu Âm chân kinh”. Trước tiên ta dạy cho con công phu nhập môn của “Cáp mô công”.

Nói đoạn liền đọc khẩu quyết. Dương Quá mỉm cười, nói:

– Cha đã dạy con rồi, cha quên rồi sao?

Âu Dương Phong gãi gãi đầu, nói:

– Thì ra con đã học qua, thế thì còn gì hay bằng, vậy con làm thử ta coi.

Dương Quá sau khi vào “Hoạt tử nhân mộ”, không còn luyện công phu kinh dị mà Âu Dương Phong từng truyền thụ cho chàng lúc này nghe lão nói vậy, bèn làm theo. Tại Đào Hoa đảo chàng đã luyện, bây giờ vận dụng thêm nội công thượng thừa, lập tức diễn đâu ra đấy. Âu Dương Phong nói:

– Khá lắm, khá lắm! Nhưng như thế chưa đủ, chỉ nhìn đẹp mắt chứ vô dụng. Thôi để ta đem quyết khiếu truyền hết cho con mới được?

Rồi hoa chân múa tay, miệng thao thao bất tuyệt, cũng chẳng cần biết Dương Quá có nhớ nổi hay không, cứ nói liên tục một chập về “Cáp mô công”, lại một chập về “Cửu Âm chân kinh”. Dương Quá nghe một hồi, thấy mỗi câu đều có hàm nghĩa sâu xa, đã phồn tạp lại cổ quái, nhất thời làm sao có thể lĩnh hội nhiều chừng ấy?

Âu Dương Phong nói một hồi, bỗng liếc sang thấy Tiểu Long Nữ ngồi gần đó, bèn kêu lên:

– Úi chao, hỏng rồi, không được để cho ả sư phụ của con nghe lén.

Lão tới trước mặt Tiểu Long Nữ, nói:

– Này con tiểu a đầu, ta đang truyền võ công cho hài nhi của ta, ngươi đừng có mà nghe trộm.

Tiểu Long Nữ nói:

– Võ công của lão có gì quý hóa, ai thèm nghe trộm?

Âu Dương Phong nghiêng đầu nghĩ một chút, nói:

– Được thế thì ngươi đi ra chỗ khác đi.

Tiểu Long Nữ dựa vào gốc cây, lạnh lùng nói:

– Tại sao ta lại phải làm theo lời của lão? Ta thích đi thì đi, không thích đi thì thôi.

Âu Dương Phong cả giận, lông mày trợn ngược, giơ tay như sắp trảo vào mặt nàng, song Tiểu Long Nữ coi như không thấy. Dương Quá gọi to:

– Cha ơi, cha chớ nên đắc tội với sư phụ của con.

Âu Dương Phong thu tay về, nói:

– Thôi được, thế thì bọn ta đi ra chỗ khác vậy, nhưng ngươi không được bám theo nghe lén đấy.

Tiểu Long Nữ nghĩ thầm nghĩa phụ của Dương Quá là một kẻ vô lại, nàng chẳng buồn đếm xỉa đến nữa, ngoảnh đi không đáp; không ngờ sau lưng đột nhiên tê dại, thì ra Âu Dương Phong bất ngờ điểm huyệt sau lưng nàng. Lão xuất thủ cực lẹ, Tiểu Long Nữ lại không hề đề phòng, đến lúc muốn chống cự thì toàn thân đã khó bề cử động. Âu Dương Phong lại điểm thêm một huyệt ở thắt lưng nàng, cười nói:

– Này con tiểu a đầu, đừng lo, chờ ta dạy võ cho con ta xong, ta sẽ trở lại thả ngươi ra.

Nói xong cười lớn mà đi. Dương Quá chính đang mải ghi nhớ “Cáp mô công” và “Cửu Âm chân kinh” do nghĩa phụ truyền thụ, cảm thấy một số khẩu quyết luyện công có sự lẫn lộn không rõ, song diệu dụng cực nhiều, không có gì nghi ngờ, nên chú tâm suy nghĩ, không biết Tiểu Long Nữ bị đánh lén. Âu Dương Phong bước tới cầm tay chàng, nói:

– Chúng ta lại đằng kia, không cho tiểu sư phụ của con nghe trộm.

Dương Quá nghĩ thầm, Tiểu Long Nữ cần gì phải nghe trộm, nghĩa phụ dẫu có muốn truyền cho nàng, nàng cũng không chịu học; nhưng biết nghĩa phụ tâm tính thất thường, cũng chẳng nên tranh cãi với lão làm gì, bèn đi theo lão.

Tiểu Long Nữ ngồi phệt xuống đất, vừa bực tức vừa buồn cười, nghĩ bụng mình luyện võ cũng khá tinh thâm, song lại chưa có kinh nghiệm lâm địch, sau khi bị Lý Mạc Sầu ám toán, lại bị lão râu xồm điên khùng này đánh lén, bèn vận “Cửu Âm thần công” tự thông huyệt đạo, hít một hơi dài, xung hướng huyệt đạo mấy lần, ai dè hai chỗ huyệt đạo chẳng những không có dấu hiệu giải khai, mà còn ê ẩm hơn, thì không khỏi kinh hãi. Nguyên thủ pháp của Âu Dương Phong nghịch chuyển với “Cửu Âm chân kinh”; nàng dùng di pháp của Vương Trùng Dương xung giải mấy lần, chỉ thấy huyệt đạo đau đau, thì không dám thử thêm, nghĩ thầm lão khùng truyền dạy xong trở lại giải huyệt, nàng cũng chẳng có việc gì phải vội, thế nên cũng không lo lắng, ngẩng đầu nhìn bầu trời sao một lát rồi ngủ thiếp đi.

Rất lâu sau, cảm thấy trên mắt có sự đụng chạm, nàng có khả năng nhìn mọi vật trong bóng đêm rõ như ban ngày, song lần này không thấy gì, hóa ra hai mắt đều bị người ta dùng băng vải bịt lại. Tiếp đó có người vòng tay ôm lấy nàng. Người đó lúc mới ôm còn rụt rè, sau cứ bạo dạn dần lên. Tiểu Long Nữ vô cùng kinh hãi, há miệng để kêu to, song miệng lưỡi khó cử động, lại bị người kia dùng miệng mà hôn vào miệng nàng. Thoạt tiên nàng còn tưởng Âu Dương Phong giở trò cường bạo, nhưng khi người kia áp mặt vào má nàng, thì da dẻ nhẵn nhụi, không có râu. Nàng không sợ nữa, tình dục nảy sinh, đoán là Dương Quá lại đùa giỡn với nàng.

Chỉ cảm thấy hai tay chàng càng lúc càng lộn xộn, thong thả cởi quần áo nàng ra. Tiểu Long Nữ không thể cử động, đành để người kia muốn làm gì tùy ý, vừa thinh thích, vừa ngượng ngùng.

Âu Dương Phong thấy Dương Quá cực kỳ thông minh, lão truyền thụ khẩu quyết, chàng tuy không lĩnh hội hết, nhưng ghi nhớ cực nhanh. Lão thích chí, càng nói càng cao hứng, thao thao bất tuyệt mãi đến khi trời sáng mới nói xong yếu chỉ hai đại kỳ công, Dương Quá lẳng lặng ghi nhớ, rồi nói:

– Hài nhi cũng đã học “Cửu Âm chân kinh” nhưng lại khác hẳn với những gì cha nói là vì sao?

Âu Dương Phong nói:

– Nói bậy, ngoài thứ này ra, làm gì còn có thứ “Cửu Âm chân kinh” nào khác?

Dương Quá nói:

– Tỷ như luyện thuật “Dịch cân đoạn cốt”, cha bảo bước thứ ba là khí huyết nghịch hành, xung huyệt Thiên Trụ. Sư phụ con lại bảo ý thủ đan điền, thông huyệt Chương Môn.

Âu Dương Phong lắc đầu, nói:

– Không đúng, không đúng, hừ, khoan đã…

Lão vận hành theo lời Dương Quá, bỗng thấy nội lực phát triển, ý cảnh khác hẳn. Lão tự nghĩ không thể ngờ rằng kinh văn mà Quách Tĩnh chép cho lão kỳ thực đã bị thay đổi, bất giác đầu óc rối loạn, lão lẩm bẩm một mình:

– Sao nhỉ, cuối cùng là ta sai, hay là ả sư phụ của ngươi sai? Sao lại có chuyện lung tung như thế?

Dương Quá thấy nghĩa phụ tròn mắt, ngơ ngơ ngẩn ngẩn, gọi liền mấy tiếng lão cũng chẳng đáp, sợ lão lại nổi cơn điên, trong lòng rất lo, bỗng nghe có tiếng soạt, một bóng người lướt sau một gốc cây cách xa mấy trượng, thấp thoáng một góc áo đạo sĩ màu vàng. Nơi đây không dấu chân người, sao lại có kẻ lạ mò tới? Hơn nữa hắn lại lén lén lút lút, hiển nhiên không có thiện ý, bất giác chàng nghi ngờ, vội vã đuổi theo. Người kia cước bộ cực nhanh, chạy như bay, chỉ thấy sau lưng, thì ra là một đạo sĩ. Dương Quá gọi:

– Này người kia, là ai vậy? Đến đây làm gì?

Chàng thi triển khinh công, đuổi thật gấp. Đạo sĩ kia nghe tiếng gọi càng chạy nhanh hơn.

Dương Quá dấn lên, thân hình lao đi như một mũi tên, giơ tay túm được vai người kia, kéo lại, thì ra là Doãn Chí Bình phái Toàn Chân. Dương Quá thấy y áo mũ không tề chỉnh, mặt lúc đỏ lúc trắng, bèn quát hỏi:

– Ngươi làm trò gì thế?

Doãn Chí Bình là thủ tòa đệ tử đời thứ ba của phái Toàn Chân, võ công cao cường, thường ngày cử chỉ rất đường hoàng, nhưng không hiểu vì sao lúc này vẻ mặt lại hết sức bối rối, không nói nên lời. Dương Quá thấy y sợ hãi, nhớ lại ngày nào y tự chặt hai ngón tay để thề, kể ra không phải là kẻ xấu, bèn buông vai y, ôn tồn nói:

– Đã không có việc gì, thì hãy đi đi!

Doãn Chí Bình vừa vội vã bước đi, vừa mấy lần ngoảnh lại sợ sệt nhìn chàng.

Dương Quá cười thầm: “Gã đạo sĩ này hồn vía lên nây, trông thật tức cười”. Chàng quay về chỗ hai gian nhà tranh, thấy từ sau gốc cây chìa ra hai chân của Tiểu Long Nữ, hoàn toàn bất động, tựa hồ nàng đang ngủ. Dương Quá gọi :

– Cô cô?

Chàng gọi liền hai tiếng, không thấy nàng thưa, bên vòng ra sau gốc cây, thấy Tiểu Long Nữ nằm đó, mắt bị một mảnh vải bịt kín.

Dương Quá hơi kinh ngạc, cởi mảnh vải ra, thấy ánh mắt nàng thần sắc lạ lùng, đầy vẻ thẹn thùng.

Dương Quá hỏi:

– Cô cô, ai bịt mắt cô cô thế?

Tiểu Long Nữ không trả lời, ánh mắt thoáng lộ vẻ trách móc. Dương Quá thấy thân thể nàng bất động, hình như bị điểm huyệt, giơ tay lay lay nàng, quả nhiên nàng không cử động gì được, chàng chợt hiểu nguyên do: “Chắc là nghĩa phụ dùng phép điểm huyệt nghịch kình, điểm huyệt cô cô, nếu không thì cô cô đã tự giải huyệt được rồi”. Thế là chàng bèn dựa theo cách Âu Dương Phong vừa dạy, đả thông huyệt đạo cho nàng.

Không ngờ sau khi Dương Quá đã giải huyệt cho nàng, người nàng vẫn cứ mềm nhũn ngả hẳn vào người chàng, tựa hồ xương cốt toàn thân nhũn đi vậy. Dương Quá đỡ vai nàng, nói:

– Cô cô, nghĩa phụ đệ tử hành sự thất thường, mong cô cô đừng giận.

Tiểu Long Nữ giấu mặt vào ngực chàng, nói:

– Ngươi hành sự thất thường thì có, không biết xấu còn chê người khác?

Dương Quá thấy cửchỉ của nàng khác hẳn mọi khi, thì đâm hoảng, ấp úng:

– Cô cô, đệ tử… đệ tử…

Tiểu Long Nữ ngẩng mặt lên, có vẻ giận, nói:

– Chàng còn gọi ta là cô cô ư?

Dương Quá càng hoảng thêm, nói:

– Đệ tử không gọi là cô cô, chẳng lẽ lại gọi là sư phụ hay sao?

Tiểu Long Nữ mỉm cười ngượng nghịu, nói:

– Chàng đã làm thế đối với ta, ta còn có thể là sư phụ của chàng được sao?

Dương Quá kinh ngạc, hỏi:

– Đệ tử… đệ tử làm gì kia?

Tiểu Long Nữ vén tay áo lên, để lộ cánh tay trắng ngần như ngọc, điểm son trinh nữ màu đỏ đã biến mất, nàng xấu hổ nói:

– Chàng nhìn xem.

Dương Quá không hiểu gì hết, vò đầu bứt tai, nói:

– Cô cô, đệ tử không hiểu gì cả.

Tiểu Long Nữ bực mình:

– Ta đã bảo chàng đừng gọi ta là cô cô nữa.

Tiểu Long Nữ thấy chàng lộ vẻ hoảng sợ, lòng bỗng nảy sinh muôn phần trìu mến, dịu dàng nói:

– Môn hạ phái Cổ Mộ chúng ta mấy đời toàn là xửnữ truyền xử nữ. Sư phụ của ta điểm một dấu son trinh nữ ở đây, đêm qua… đêm qua chàng… làm thế với ta, bây giờ dấu son trinh nữ có còn nữa không?

Dương Quá nói:

– Đêm qua đệ tử làm gì với cô cô kia chứ?

Tiểu Long Nữ đỏ mặt, nói:

– Đừng hỏi nữa. Dạo trước ta sợ xuống núi, bây giờ khác rồi, bất luận chàng đi đâu, ta cũng cam tâm tình nguyện đi theo chàng.

Dương Quá cả mừng, reo lên:

– Cô cô, hay lắm!

Tiểu Long Nữ nghiêm mặt, nói:

– Đấy, chàng lại gọi ta là cô cô rồi. Chẳng lẽ chàng không chân tình với ta hay sao?

Nàng thấy Dương Quá không trả lời, thì sốt ruột, run giọng, hỏi:

– Rốt cuộc chàng coi ta là người thế nào?

Dương Quá chân thành nói:

– Cô cô là sư phụ của đệ tử, cô cô thương đệ tử, dạy đệ tử, đệ tử xin thề suốt đời kính trọng cô cô, vâng lời cô cô.

Tiểu Long Nữ cao giọng:

– Chẳng lẽ chàng không coi ta là thê tử của chàng?

Dương Quá chưa bao giờ nghĩ đến việc đó, đột nhiên bị nàng hỏi đến thì ngớ ra, chưa biết trả lời thế nào cho phải, lẩm bẩm một mình: “Không, không, cô cô không thể làm thê tử của ta, ta làm sao xứng nổi? Cô cô là sư phụ của ta, là cô cô của ta”.

Tiểu Long Nữ giận run cả người, bỗng ọe ra một ngụm máu tươi.

Dương Quá chân tay luống cuống, chỉ kêu lên:

– Cô cô, cô cô!

Tiểu Long Nữ thấy chàng vẫn cứ gọi như thế, thì hầm hầm nhìn chàng, liền giơ tả chưởng đánh xuống đỉnh đầu Dương Quá, song đòn ấy trước sau vẫn không đánh xuống; ánh mắt nàng từ não hận chuyển thành oán trách, từ oán trách lại chuyển thành thương yêu; nàng thở dài, nhẹ nhàng nói:

– Đã thế, từ rày chàng đừng gặp mặt ta nữa.

Rồi phất tay áo, quay người chạy xuống núi.

Dương Quá gọi to:

– Cô cô, cô cô đi đâu vậy? Đệ tử cùng đi với.

Tiểu Long Nữ quay mặt lại, nước mắt lưng tròng, thong thả nói:

– Chàng còn gặp mặt ta, chỉ e… chỉ e ta… ta không làm chủ được mình, khó bề tha chết cho chàng.

Dương Quá nói:

– Cô cô trách đệ tử không nên học võ công của nghĩa phụ phải không?

Tiểu Long Nữ buồn rầu nói:

– Chàng học võ công của người khác, ta đâu trách làm gì?

Đoạn quay mình đi thẳng.

Dương Quá sững sờ, không biết mình có lỗi gì, thấy bóng áo trắng của nàng xa dần, cuối cùng biến mất ở chỗ quành của sơn đạo, thì bất giác bi phẫn khóc tướng lên. Ngẫm đi nghĩ lại, thực không biết mình đắc tội gì với sư phụ, tại sao thần tình của nàng lại kỳ dị như thế, lúc thì nhu mì âu yếm, lúc lại oán hận quyết tuyệt? Vì sao nàng lại bảo muốn làm thê tử của ta, lại không cho phép ta gọi nàng là cô cô? Nghĩ chán chê, tự nhủ thầm: “Việc này chắc chắn liên quan đến nghĩa phụ, ắt là nghĩa phụ đã đắc tội với sư phụ”.

Thế là chàng đi tới trước mặt Âu Dương Phong, chỉ thấy lão mắt mở trừng trừng, ngồi không động đậy. Dương Quá nói:

– Cha ơi, cha đắc tội thế nào với sư phụ của con vậy?

Âu Dương Phong nói:

– Cửu Âm chân kinh, Cửu Âm chân kinh.

Dương Quá hỏi:

– Tại sao cha lại điểm huyệt sư phụ con, để sư phụ con tức giận đến thế?

Âu Dương Phong nói:

– Rốt cuộc là nghịch xung huyệt Thiên Trụ, hay là thuận thông huyệt Chương Môn.

Dương Quá sốt ruột, hỏi:

– Cha ơi, vì sao sư phụ con lại bỏ đi? Cha nói đi, cha đã làm gì?

– Sư phụ người là ai? Ta là ai? Ai là Âu Dương Phong?

Dương Quá thấy lão lại nổi cơn điên khùng, thì vừa sợ hãi, vừa đau lòng, ôn tồn nói:

– Cha ơi, cha mệt rồi, cha con mình vào trong nhà nghỉ thôi.

Âu Dương Phong đột nhiên lộn người trồng cây chuối, chống đầu xuống đất, nói to:

– Ta là ai? Ta là ai? Âu Dương Phong đi đâu rồi?

Hai chân lão múa loạn lên, thân hình di chuyển nhanh chóng, đi bằng hai tay, nhanh như gió xuống núi. Dương Quá gọi to:

– Cha ơi?

Chàng định kéo lão lại, bị lão phóng cước đá cho một cái trúng cằm, may mà lão không dùng lực mạnh. Dương Quá đứng không vững, ngã ngửa ra sau, lúc đứng thẳng dậy, thì Âu Dương Phong đã đi xa ngoài chục trượng.

Dương Quá đi mấy bước, bỗng dừng chân, ngẩn người giây lát, Âu Dương Phong đã biến mất dạng. Dương Quá nhìn tứ phía, chỉ là cảnh núi rừng tĩnh mịch, thoảng có tiếng chim hót. Chàng cuống lên, gọi to:

– Cha ơi, cô cô ơi! Cha ơi, cha ơi!

Lát sau tứ phía sơn cốc hồi âm vọng lại “Cha ơi, cô cô ơi?”

Mấy năm vừa qua chàng với Tiểu Long Nữ không rời nhau nửa bước, vừa như mẫu tử, lại như chị em, giờ đây bỗng dưng không hiểu vì sao nàng lại tuyệt tình bỏ đi, lẽ nào chẳng làm cho chàng ruột đứt từng đoạn? Chàng quá đau lòng, tưởng muốn đập đầu vào đá mà chết quách.

Nhưng trong lòng còn chút hi vọng; sư phụ đã bỗng dưng bỏ đi, chắc sẽ bỗng dưng trở lại. Nghĩa phụ tuy có đắc tội với nàng, song nàng nghĩ ta hoàn toàn không phạm lỗi gì tự nhiên nàng sẽ trở lại tìm chàng.

Đêm ấy chàng ngủ sao yên? Hễ nghe một tiếng động nhỏ, chàng đều tưởng là Tiểu Long Nữ trở về, lại vội bò dậy, gọi to “Cô cô!” chạy ra đón; và lần nào cũng thất vọng buồn bã. Sau đó chàng không nằm nữa, chạy ra sườn núi, căng mắt nhìn bốn phía, mãi cho tới lúc trời sáng hẳn, chỉ thấy dưới đáy sơn cốc sương mù như mây, trời đất mênh mông, song chỉ có mỗi một người là Dương Quá mà thôi.

Dương Quá vỗ vào ngực, chợt nghĩ: “Sư phụ không trở về, thì ta đi tìm nàng, chỉ cần gặp được nàng, bất kể nàng muốn đánh muốn chửi ta thế nào, ta cũng sẽ không rời nàng. Nàng muốn đánh chết ta thì cứ để nàng đánh”.

Lòng đã quyết, tinh thần lập tức phấn chấn, chàng vơ đại quần áo vật dụng của hai người gói lại, đeo sau lưng rồi đi xuống núi. Cứ đến chỗ nào có nhà dân, chàng lại hỏi thăm có thấy một bạch y thiếu nữ xinh đẹp hay chăng. Nửa ngày trời, hỏi thăm mười mấy hương dân, ai cũng lắc đầu bảo không thấy. Dương Quá nóng lòng sốt ruột, khi hỏi thăm lời lẽ không tránh khỏi thiếu lễ độ; một số hương dân thấy chàng còn ít tuổi mà luôn miệng hỏi về một thiếu nữ xinh đẹp nào đó, thì họ có phần bực mình, có người hỏi lại, thiếu nữ kia là thế nào với chàng. Dương Quá đáp:

– Các hạ khỏi cần biết, ta chỉ hỏi các hạ có nhìn thấy bạch y thiếu nữ đi qua đây hay không?

Người được hỏi bĩu môi giễu cợt. Một lão nhân đứng cạnh kéo áo chàng, chỉ con đường nhỏ ở mé đông, cười nói:

– Tối qua lão phu thấy có một tiên nữ đi về hướng đông, lão phu cứ ngỡ là Quan Thế Âm Bồ Tát giáng trần, không ngờ lại là hiền thê của tiểu huynh đệ…

Dương Quá chưa nghe xong đã vội vái tạ, rồi cắm đầu chạy về hướng đó, chỉ nghe sau lưng tiếng cười ồ, chàng cũng chàng để ý, đâu biết rằng lão nhân thấy chàng trẻ tuổi vô lễ, đã cố tình đánh lừa chàng.

Chạy độ một tuần trà, trước mắt có ngã ba, không biết nên rẽ hướng nào. Chàng nghĩ thầm: “Cô cô không thích ồn ào, chắc sẽ chọn nơi nào hẻo lánh”, bèn quẹo sang một con đường mòn nhỏ bên trái, không ngờ đường này càng đi càng rộng dần, sau mấy đoạn quành, lại thông ra một con đường lớn. Từ hôm qua đến giờ chàng chưa có chút gì vào bụng, thấy trời sắp tối, bụng đói cồn cào, nhìn phía trước nhà cửa san sát, là một thị trấn, bèn rảo bước, tìm một khách điếm, bước vào gọi cơm ăn.

Điếm tiểu nhị bưng ra một suất ăn thông thường.

Dương Quá ăn vài miếng, cổ họng cứ nghẹn lại khó nuốt, thì không ăn nữa, nghĩ thầm: “Dù trời tối, mình cũng phải đi tìm cô cô, bỏ lỡ đêm nay, chỉ e mãi mãi không được gặp lại”. Thế là chàng buông đũa, gọi:

– Điếm bạn, ta hỏi ngươi một câu.

Điếm tiểu nhị cười, nói:

– Thiếu gia có gì sai bảo ạ? Món ăn không hợp khẩu vị chăng? Tiểu đích sẽ dọn món khác hầu thiếu gia.

Dương Quá xua tay lia lịa, nói:

– Không phải chuyện ăn uống, ta hỏi ngươi, ngươi có thấy một bạch y cô nương mỹ mạo ghé qua đây chăng?

Điếm tiểu nhị ngẫm nghĩ, nói:

– Bạch y à, ồ vị cô nương ấy mặc đồ tang ư? Gia đình có thân nhân qua đời à?

Dương Quá sốt ruột, hỏi:

– Rốt cuộc là có hay không?

Điếm tiểu nhị đáp:

– Cô nương thì có, đúng là mặc đồ màu trắng…

Dương Quá mừng rơn, hỏi:

– Nàng đi lâu chưa?

Điếm tiểu nhị nói:

– Đi lâu rồi? Nhưng mà thiếu gia ơi, cô nương ấy không hay đâu…

Đột nhiên y hạ thấp giọng, nói:

– Tiểu đích khuyên thiếu gia đừng tìm nàng ta thì hơn.

Dương Quá cả mừng, biết là đã lần theo tung tích cô cô vội hỏi:

– Nàng ta… làm sao?

Điếm tiểu nhị nói:

– Tiểu đích hỏi thiếu gia câu này, thiếu gia có biết nàng ta giỏi võ hay không đã?

Dương Quá nghĩ thầm: “Sao ta lại không biết?” bèn đáp:

– Biết chứ, nàng ta giỏi võ lắm.

Điếm tiểu nhị nói:

– Thế thì thiếu gia còn đi tìm nàng ta làm gì, nguy hiểm đấy!

Dương Quá hỏi:

– Rốt cuộc là có chuyện gì?

Điếm tiểu nhị nói:

– Thiếu gia hãy cho tiểu đích biết, bạch y mỹ nữ là người thế nào với thiếu gia đã.

Dương Quá hết cách, biết rằng nếu không nói vài điều về Tiểu Long Nữ, thì điếm tiểu nhị sẽ không chịu cho biết hành tung của nàng, bèn nói:

– Nàng ta là… tỷ tỷ của ta, ta cần tìm nàng.

Điếm tiểu nhị nghe vậy liền tỏ vẻ kính nể hơn, nhưng lại lắc đầu lẩm bẩm:

– Không giống, không giống…

Dương Quá sốt ruột, túm lấy cổ áo điếm tiểu nhị, quát:

– Rốt cuộc ngươi có chịu nói hay không thì bảo?

Điếm tiểu nhị lè lưỡi, nói:

– Đúng, đúng, giờ thì giống!

Dương Quá quát hỏi:

– Cái gì mà lúc thì không giống, lúc lại giống?

Điếm tiểu nhị nói:

– Thiếu gia, hãy buông tay ra đã, cổ họng tiểu đích bị nghẹn không nói được đây này, kể ra nói cũng được nhưng mà…

Dương Quá nghĩ gã này tính nết như thế, mình có dùng vũ lực cũng bằng thừa, liền buông tay. Điếm tiểu nhị ho vài tiếng, nói:

– Thiếu gia, tiểu đích bảo không giống, bởi vì cô nương… tỷ tỷ của thiếu gia vừa trẻ vừa xinh hơn thiếu gia, trông là muội muội thì đúng hơn là tỷ tỷ. Còn bảo giống, là vì cả hai vị đều nóng như lửa, động một tí đã giở vũ lực.

Dương Quá nghe vậy thì cả mừng, tươi cười, nói:

– Tỷ tỷ của ta động võ với người khác hả?

Điếm tiểu nhị nói:

– Chứ sao nữa, không chỉ động võ, mà còn đánh bị thương mấy người, thiếu gia xem đây.

Gã chỉ vết đao kiếm chém mặt bàn, đắc ý nói:

– Nguy hiểm thật, tỷ tỷ của thiếu gia võ công tài quá, một đao mà chém đứt tai cả hai vị đạo gia.

Dương Quá cười, hỏi:

– Đạo gia nào?

Chàng đoán thầm chắc hai gã đạo sĩ phái Toàn Chân bị Tiểu Long Nữ giáo huấn một phen. Điếm tiểu nhị nói:

– Hai vị ấy…

Nói tới đó, mặt liền biến sắc, nhún vai, quay người đi.

Dương Quá đoán có chuyện gì, không đuổi theo gã mà bưng đũa bát lên lùa cơm vào miệng; mắt thì liếc vội thấy từ ngoài cổng khách điếm có hai đạo sĩ sánh vai nhau tiến vào. Hai người đó trạc hai mươi sáu, hai mươi bảy tuổi, băng tai, tới ngồi xuống bàn bên cạnh. Gã đạo sĩ lông mày rậm liên tiếp hối thúc mang cơm rượu lên. Điếm tiểu nhị cười cười, nháy mắt ra hiệu với Dương Quá, rồi bĩu môi. Dương Quá làm như không trông thấy, cúi đầu ăn. Chàng biết được tin tức của Tiểu Long Nữ thì vui mừng, ăn hết một bát rồi, đang ăn thêm bát nữa. Chàng mặc bộ quần áo vải thô do Tiểu Long Nữ khâu cho chàng, trông giản dị, lại lấm bụi hơn một ngày đêm qua, trông chàng y hệt một thiếu niên bình thường ở thôn quê. Hai gã đạo sĩ bàn bên cạnh cũng chằng để ý tới chàng, trò chuyện nho nhỏ với nhau.

Dương Quá cố ý nhai thật to, nhưng lại dỏng tai chăm chú nghe xem hai đạo sĩ nói gì.

Chỉ thấy gã đạo sĩ lông mày rậm nói:

– Bì sư đệ, theo sư đệ thì hai vị Hàn, Trần tối nay có đến đúng hẹn hay không?

Gã đạo sĩ thứ hai cằm bạnh, giọng ồ ồ, đáp:

– Hai vị ấy đều là hán tử chắc chắn bên Cái Bang, rất thân với Thân sư thúc, Thân sư thúc đã mời, họ thể nào cũng đến.

Dương Quá liếc mắt, thấy hai đạo sĩ đều lạ mặt, nghĩ thầm: “Cung Trùng Dương có hàng ngàn đạo sĩ, mình không quen họ, họ cũng chẳng nhận ra mình; song họ đều biết mình là tên tiểu tử từ bỏ giáo phái Toàn Chân, đừng để họ nhìn thấy mặt là hơn. Hừ, họ đánh không lại cô cô của ta, lại phải đi nhờ bọn ăn mày giúp sức”. Gã đạo sĩ lông mày rậm nói:

– Không chừng đường xa quá, tối nay họ không đến kịp…

Gã đạo sĩ họ Bì nói:

– Ồ Cơ sư huynh, việc đã như thế, lo lắng cũng vô dụng, một mình nàng ta thì…

Gã đạo sĩ lông mày rậm họ Cơ, vội nói:

– Uống rượu đi nào, đừng nhắc đến nó.

Rồi gọi điếm tiểu nhị, sai chuẩn bị một gian phòng để đêm nay nghỉ ở đây.

Dương Quá nghe hai đạo sĩ nói chuyện với nhau, nghĩ rằng cứ bám theo họ hẳn sẽ có thể gặp được sư phụ, nghĩ vậy lòng mừng vô hạn. Chờ họ đi ngủ, chàng cũng bảo điếm tiểu nhị bố trí cho chàng một phòng nhỏ bên cạnh họ.

Điếm tiểu nhị cầm đèn, ghé tai Dương Quá nói nhỏ:

– Thiếu gia hãy cẩn thận đó, tỷ tỷ của thiếu gia cắt mất tai của hai đạo gia, họ chuẩn bị trả thù đó.

Dương Quá nói nhỏ:

– Tỷ tỷ của ta tính rất hiền, sao lại cắt tai của người ta thế?

Điếm tiểu nhị cười nhăn nhở, thấp giọng nói:

– Nàng ta đối với thiếu gia thì hiền, nhưng đối với người khác chẳng hiền tí nào. Tỷ tỷ của thiếu gia đang ăn cơm ở đây, hi hi, có đúng là tỷ tỷ hay không? Tiểu đích chưa tin lắm, nhưng thôi, cứ coi như tỷ tỷ, một đạo gia ngồi bàn bên nhìn chân nàng ta mấy lần, thế là nàng ta nổi giận, rút kiếm ra động thủ liền…

Điếm tiểu nhị cứ thao thao bất tuyệt, còn định kể tiếp. Dương Quá thấy gian bên đã tắt đèn, vội xua tay ra hiệu bảo hắn ngừng lời, trong bụng nghĩ thầm: “Hai gã đạo sĩ thối tha kia hẳn là thấy cô cô xinh đẹp, cứ nhìn chằm chằm, khiến cô cô tức giận. Hừ, giáo phái Toàn Chân làm gì có người nào tửtế kia chứ?” Lại nghĩ thầm: “Cô cô từng đến cung Trùng Dương động thủ, hai gã đạo sĩ kia tất nhiên nhận ra cô cô”.

Chờ điếm tiểu nhị đi ra, chàng tắt đèn lên giường, quyết ý đêm nay không ngủ, đọc thuộc lại lần nữa bí quyết hai đại thần công mà Âu Dương Phong truyền thụ, song hai bí quyết đó quá ư thâm ảo, Âu Dương Phong lại truyền thụ tạp loạn vô chương, chàng chỉ nhớ được vài ba phần là cùng, lúc này cũng không dám tập trung suy ngẫm, sợ mải nghĩ sẽ không biết được động tĩnh ở buồng bên. Lặng lẽ canh chừng như thế đến nửa đêm, bỗng ngoài sân có hai tiếng bịch bịch nhẹ, có người vượt tường nhảy vào. Tiếp đó cửa sổ buồng bên cạnh khẽ kẹt một tiếng. Gã đạo sĩ họ Cơ hỏi:

– Có phải hai vị Hàn, Trần đó chăng?

Một người ngoài sân đáp:

– Đúng vậy.

Đạo sĩ họ Cơ nói:

– Mời vào!

Cửa buồng mở ra, đèn được thắp sáng. Dương Quá dỏng tai lắng nghe bốn người kia nói chuyện.

Đạo sĩ họ Cơ nói:

– Bần đạo là Cơ Thanh Hư và Bì Thanh Huyền, bái kiến Hàn, Trần hai vị anh hùng.

Dương Quá nghĩ thầm: “Giáo phái Toàn Chân xếp thứ tự theo bốn chữ ‘Xứ Chí Thanh Tịnh’, hai gã đạo sĩ này là đệ tử đời thứ tư trong phái Toàn Chân, không hiểu là môn hạ của Hách Đại Thông hay Lưu Xứ Huyền”. Nghe một người giọng the thé nói:

– Hai ta nhận được thiếp mời của Thân sư thúc các vị, đi suốt ngày đêm tới đây. Kẻ tiểu tặc ấy tài giỏi lắm sao?

Cơ Thanh Hư nói:

– Nói ra thật hổ thẹn, sư huynh đệ tại hạ đấu với nàng ta một trận, không thể địch nổi.

Người kia nói:

– Võ công của nữ nhân ấy thuộc môn phái nào?

Cơ Thanh Hư đáp:

– Thân sư thúc nghi rằng nàng ta là truyền nhân của phái Cổ Mộ, tuy ít tuổi nhưng thân thủ rất lợi hại.

Dương Quá nghe ba chữ “phái Cổ Mộ” thì bất giác khẽ “à” một tiếng.

Chỉ nghe Cơ Thanh Hư nói:

– Nhưng khi Thân sư thúc nhắc đến phái Cổ Mộ, tiểu a đầu ấy lại nói lời khinh bỉ Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu, hóa ra không phải.

Người kia nói:

– Đã thế thì cũng chẳng có gì ghê gớm. Ngày mai hẹn nhau ở đâu?

Cơ Thanh Hư nói:

– Thân sư thúc và nàng ta hẹn nhau, chính ngọ ngày mai sẽ gặp nhau ở Sài Lang Cốc, cách đây bốn chục dặm về phía tây nam, đôi bên tỷ võ quyết thắng. Đối phương có bao nhiêu người, hiện vẫn chưa biết. Chúng tại hạ đã có hai vị cao thủ anh hùng Hàn, Trần của Cái Bang áp trận trợ quyền, thì không sợ bọn họ đông người.

Một giọng già dặn hơn nói:

– Được, trưa mai huynh đệ ta sẽ tới đó, Hàn lão đệ, chúng ta đi nào.

Cơ Thanh Hư tiễn hai người kia ra cửa, nói nhỏ:

– Nơi đây cách cung Trùng Dương không xa, chuyện tỷ võ này không thể để các vị sư bá Mã, Lưu, Khưu, Vương hay biết, nếu không chúng tại hạ sẽ bị trách phạt rất nặng.

Người họ Hàn cười ha hả, nói:

– Thân sư thúc của các vị đã nói rõ trong thư rồi, nếu không thế, cung Trùng Dương cao thủ nhiều như mây, hà tất phải nhờ hai người ngoài bọn ta trợ giúp?

Người họ Trần nói:

– Ngươi cứ yên tâm, bọn ta quyết không tiết lộ phong thanh là được. Đừng nói sáu vị chân nhân Mã, Lưu, Khưu, Vương, Hách, Tôn hay biết, mà các vị sư bá, sư thúc khác của hai ngươi cũng không biết được.

Hai đạo sĩ cùng khen phải. Dương Quá nghĩ thầm: “Các người liên thủ với nhau ăn hiếp cô cô của ta, lại sợ người phe khác hay biết, hừ, lén lén lút lút, thật là gian xảo”.

Chỉ nghe bốn người bàn thêm vài câu, rồi Hàn, Trần hai người vượt tường mà ra, Cơ Thanh Hư và Bì Thanh Huyền tiễn theo ra bên ngoài.

comments

THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP