Hồi 02 – Tuyết Sơn Phi Hồ

Hồi 02 – Tuyết Sơn Phi Hồ

Mọi người ngước nhìn đỉnh núi, bất giác đều thở hắt ra, toàn thân ớn lạnh. Ngọn núi đó tuy không phải là cực cao, nhưng dựng đứng như cây bút giữa một vùng núi non, chót vót khác thường, đứng nói là người, mà ngay cả loài khỉ vượn cũng khó mà leo lên được. Ai nấy đều thầm nghĩ :

– Cứ cho người có bản lãnh cao cường cũng có thế lên được, nhưng trên đỉnh núi dựng đứng chót vót như vậy chẳng lẽ vẫn có người ở sao?

Lão tăng tủm tỉm cười, đi trước dẫn đường. Rẽ qua hai dốc núi nữa thi vào một rừng tùng lớn. Những cây tùng trong rừng đều già cỡ mấy trăm tuổi, cành cây giao nhau đan xen, trên ngọn cây là lớp tuyết dày đến vài thước nên mặt đất tuyết mỏng, đi lại dễ dàng. Khu rừng tùng này khá dài, mất nửa canh giờ mới đi hết. Vừa ra tới bìa rừng là đến ngay chân núi.

Mọi người ngẩng đầu nhìn lên đỉnh núi. Lúc này đứng gần, nên càng cảm thấy khiếp hãi. Ai nấy trong lòng nghĩ nếu là mùa hạ, leo lên đã khó; huống chỉ bây giờ tuyết phủ dày. Nếu mạo hiểm bám leo lên, thì cầm chắc mười phần hết chín sẽ rơi xuống nát thây!

Một trận gió núi thổi mạnh, cành tùng va đập vào nhau ầm ầm như sóng thuỷ triều dồn về trong đêm thu. Mọi người tuy đều in đấu chân khắp chốn giang hồ, từng chứng kiến nhiều trận đánh lớn, nhưng lúc này đứng dưới chân núi cũng đều không kềm được nỗi khiếp đảm. Lão tăng nọ lấy trong người ra mốt cái ống phóng hoả tiễn, đánh lửa châm ngòi. “Xẹt” một tiếng khẽ, hỏa tiễn bay lên trời phụt ra một luồng khói xanh, hồi lâu mới tan.

Mọi người đều biết đây là tín hiệu báo tin trên giang hồ. Chỉ lạ là hoả tiễn bay cao như vậy, mà luồng khói xanh cứ tụ rất lâu mới tan, thật là rất hiếm thấy. Tất cả đều ngẩng đầu nhìn lên đỉnh núi xem có động tĩnh gì không.

Một lát sau, trên đỉnh núi thấy có một chấm đen, trượt xuống rất nhanh, càng xuống gần càng lớn. Xuống đến lưng chừng núi, thì thấy rõ là chiếc giỏ tre cực lớn, được treo bằng dây tre bện. Thì ra trên đỉnh núi thả giỏ tre xuống để đón khách lên.

Chiếc giỏ tre thòng trước mặt mọi người. Lão tăng nói:

– Giỏ này ngồi được ba người. Xin mời hai vị khách nữ lên trước. Có thể thêm một vị khách nam nữa. Vị nào đây? Lão nạp thì không lau mồ hôi cho các nữ thí chủ được rồi, nên lão nạp không ngồi. Ha ha…

Mọi ngừoi đều nghĩ bụng:

– Lão hoà thượng võ công cao siêu thực, sao lại nói năng thô lỗ vô duyên đến thế!

Điền Thanh Văn đỡ Trịnh Tam Nương ngồi vào giỏ tre, thầm nghĩ:

– Nếu mình lên trước, Tào sư ca nhất định sẽ thừa cơ sát hại Đào Tử An mất. Nếu mình gọi Tử An cùng lên trước mặt sư thúc e cũng bất tiện.

Cô nghĩ vậy bèn vẫy tay gọi Tào Vân Kỳ , nói:

– Sư ca! Sư ca lên cùng muội đi!

Tào Vân Kỳ kinh ngạc quá đỗi, đưa mắt nhìn Đào Tử An, vẽ đắc ý hiện ra trên nét mặt, rồi bước vào giỏ ngồi bên cạnh Điền Thanh Văn. Hắn nắm sợi dây vận kình giật giật mấy cái.

Chiếc giỏ chao đi, rồi được kéo thẳng lên đỉnh núi. Cả ba người thấy mình lơ lửng như đang cưỡi mây đạp gió, ruột gan nôn nao khó chịu. Đến lưng chừng núi, Điền Thanh Văn nhìn xuống, thấy đám người dưới núi bé tí như những cái chấm nhỏ. Thì ra nếu nhìn từ xa, ngọn núi này có vẻ không cao lắm. Kỳ thực, vách dựng đứng hơn nghìn trượng, kỳ vĩ dị thường. Điền Thanh Văn cảm thấy đầu choáng mắt hoa, nhắm nghiền mắt lại, không dám nhìn nữa.

Thời gian khoảng uống xong một tuần trà, chiếc giỏ đã được kéo lên đỉnh núi. Tào Vân Kỳ bước ra khỏi giỏ, đỡ Thanh Văn và Tam Nương ra theo. Mọi người quan sát thấy ở mép đỉnh núi có ba cái trục cuốn lớn luồn dây trúc liền nhau, ba cái trục quay kéo lên hoặc hạ giỏ tre xuống. Có hơn chục hán tử vạm vỡ quay ba cái trục, cái giỏ lại được thả xuống. Sau vài lần thả xuống kéo lên, lão tăng cùng với tất cả mọi người đều đã lên đỉnh núi. Hai hán tử mặc áo xám đứng bên trục quay thấy nhóm Tào Vân Kỳ lên đỉnh núi mà chẳng nói chẳng rằng, cho tới khi lão tăng lên đến nơi, chúng mới khom lưng cúi chào.

Lão tăng nọ cười nói:

– Lão nạp không báo trước với chủ nhân mà đã dẫn theo mấy người bạn lên xin ăn chực bữa cơm chay đây. Ha ha!

Một người trạc tuổi trung niên, cổ dài, trán rộng, cúi người đáp:

– Đã là bạn của Bảo Thụ đại sư thì chủ nhân tại hạ đương nhiên rất hoan nghênh!

Mọi người nghĩ thầm: “Thì ra tên lão là Bảo Thụ”.

Gã trung niên lại quay người vái chào mọi người, nói:

– Chủ nhân của tiểu nhân có việc phải ra ngoài, nên không thể ra đón tiếp khách quý, mong các vị anh hùng tha lỗi cho.

Ai nấy vội vàng đáp lễ, trong bụng cùng lấy làm lạ:

– Người này ở tận trên đỉnh Tuyết sơn, ăn mặc mỏng manh như thế mà vẫn không có vẻ sợ lạnh, hẳn là nội công không tệ. Nhưng nghe cách nói năng, chứng tỏ là kẻ bề dưới, thế không biết chủ nhân của hắn là nhân vật anh hùng nào?

Bảo Thụ tỏ vẻ hơi ngạc nhiên, hỏi:

– Chủ nhân của ngươi không có ở nhà ư? Tại sao lại ra ngoài vào lúc này?

Hán tử nọ đáp:

– Chủ nhân tiểu nhân đã đi Ninh Cổ Tháp từ bảy hôm trước.

Bảo Thụ lại hỏi tiếp:

– Đi Ninh Cổ Tháp à? Có việc gì vậy?

Hán tử nọ liếc nhìn bọn Nguyễn Sĩ Trung, dường như có ý không tiện trả lời.

Bảo Thụ nói:

– Cứ nói đi, không sao đau.

Hán tử nọ nói:

– Chủ nhân tiểu nhân nói kẻ đối đầu lợi hại lắm, e rằng lúc lâm sự không địch nổi, nên phải đi Ninh Cổ Tháp để mời Kim Diện Phật đến trợ giúp.

Mọi người nghe nói đến ba chữ “Kim Diện Phật” đều giật mình. Người này là bậc tiền bối trong võ lâm, suốt hai mươi năm đi lại trên giang hồ lấy hiệu là “Đả biến thiên hạ, vô địch thủ” (Đánh khắp thiên hạ, không có địch thủ). Vì bảy chữ ngoại hiệu này mà y đã chuốc oán với không biết bao nhiêu là kẻ thù và cường địch. Nhưng vì võ công của y cao siêu thật sự, nên bất cứ cao thủ môn phái nào cũng lần lượt bại dưới tay y. Mười năm gần đây y mai danh ẩn tích, trong võ lâm không ai biết tin tức gì về y. Có người đồn rằng y đã bệnh chết ở Tây Vực, nhưng chẳng ai chính mắt thấy nên vẫn còn bán tín bán nghi. Lúc này bỗng nghe tin không những Kim Diện Phật vẫn còn sống, mà vị chủ nhân ở đây đang đi mời y lên núi thì mọi người đều thấp thỏm không yên.

Nguyên Kim Diện Phật vốn võ công cao siêu, lại vừa căm ghét kẻ ác như kẻ thù. Nếu có kẻ làm điều bất chính, không biết thì thôi, chứ để cho y nghe được thì thế nào y cũng đến tận nơi để hỏi tội. Nhẹ thì kẻ đó cũng bị gãy một chân hoặc một tay, nặng thì mất mạng không sao trốn được! Cả bọn người lên đỉnh núi này không ít thì nhiều cũng đã từng làm những việc bất lương, nay bỗng nhiên nghe ba chữ “Kim Diện Phật”, trách sao lại chẳng giật mình thấp thỏm?

Bảo Thụ mỉm cười, nói:

– Chủ nhân các ngươi cũng quá cẩn thận đấy thôi. Cái gã Tuyết Sơn Phi Hồ có bản lãnh ghê gớm gì mà phải tốn công như thế?

Hán tử nọ đỡ lời:

– Có thêm đại sư từ xa tới giúp một tay, thì tệ trang yên tâm rồi. Nhưng nghe nói gã Tuyết Sơn Phi Hồ đó vô cùng hung hãn xảo quyệt. Chủ nhân tiểu nhân nói cứ phòng bị thì vẫn hơn. Có nhiều người giúp sức thì con chồn bay đó khó mà thoát được.

Mọi người đều bụng bảo dạ:

– Không rõ Tuyết Sơn Phi Hồ là kẻ nào mà lợi hại đến thế?

Bảo Thụ và hán tử kia nói chuyện xong, cũng bước về phía trước. Đì vòng qua mấy cây tùng phủ đầy tuyết, thì thấy một tòa nhà đá năm gian rất lớn, chung quanh tòa nhà tuyết phủ dày đặc.

Mọi người cùng bước vào cửa lớn, đi qua một hành lang dài thì vào tiền sảnh. Tiền sảnh cực rộng, bốn góc có bốn lò than hồng, chính giửa sảnh có treo một câu đối trên tấm ván gỗ, viết hai mươi chữ đại tư:

“Bất lai Liêu Đông, đại ngôn thiên hạ vô địch thủ

Giải cấu Dực Bắc, phương tín thế gian hữu anh hùng”

(Chưa đến Liêu Đông, huyên hoang thiên hạ không địch thủ

Gặp nơi Dực Bắc, mới biết thế gian có anh hùng)

Dòng chữ nhỏ phía trên đề “Nhân Huynh Hi Mạnh chỉ bảo cho”, phía dưới đề “Kẻ càn lỡ là Miêu Nhân Phượng hổ thẹn năm xưa ăn nói ngông cuồng, sau khi say xin sửa lại” .

Mọi người đều là dân giang hồ ít học, không hiểu rõ cho lắm ý nghĩa của câu đối, chỉ mơ hồ hiểu dường như Miêu Nhân Phượng cảm thấy hổ thẹn vì ngoại hiệu của mình. Mỗi chữ đều được khắc sâu vào mặt gỗ, hình như được khắc bởi một vật rất sắc bén.

Bảo Thụ hơi đổi sắc mặt, nói:

– Giao tình giữa chủ nhân ngươi với Kim Diện Phật sâu sắc đấy nhỉ!

Hản tử cổ dài đó đáp:

– Vâng! Trang chủ tiểu nhân quen biết Miêu đại hiệp đã mấy chục năm nay rồi!

Bảo Thụ “à” một tiếng. Còn Lưu Nguyên Hạc thì tỉm đập thình thịch, thầm nghĩ:

– Hà, đến nhà bạn của Miêu Nhân Phương! Xem ra cái mạng già của ta phen nay tiêu rồi.

Trong khoảnh khắc, hai bàn tay lão ướt đẫm mồ hôi.

Mọi người lần lượt ngồi xuống. Hán tử nọ gọi người mang trà lên, và đứng ở dưới tiếp chuyện.

Bảo Thụ Nói:

– Ngoại hiệu “Đả biến thiên hạ vô địch thủ” của Kim Diện Phật năm xưa kể ra cũng quá ngông cuồng. Xem câu đối này, chắc y đã nhận sai rồi đấy!

Hán tử cổ dài đỡ lời:

– Không phải đâu. Chủ nhân tại hạ nói, đó là Miêu đại hiệp khiêm tốn mà thôi. Thực ra nếu không ngại rườm rà, thì ngoại hiệu của Miêu đại hiệp nên thêm vào bốn chữ nữa là “Cổ vãng kim lai” (Từ xưa tới nay).

Bảo Thủ “hừ” một tiếng, cười nhạt nói:

– Hừm! Kinh Phật có nói, năm Phật tổ Thích Ca Mâu Ni giáng thế, vừa chào đời đã tự xưng là “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn (Trên trời dưới trời, chỉ một mình ta là tôn quý). Vậy thì câu này có thể đối với câu “Cỗ vãng kim lai, đả biến thiên hạ vô địch thủ” rồi!

Tào Vân Kỳ hiểu ý châm biếm trong lời của Bảo Thụ, nên bật cười. Hán tử cổ dài nọ tức giận, đưa mắt nhìn hắn, trầm giọng:

– Xin quý khách hãy tỏ ra tôn trọng cho!

Tào Vân Kỳ ngạc nhiên hỏi:

– Sao?

Hán tử nọ đạp:

– Nếu Kim Diện Phật biết các hạ cười nhạo y, e rằng quý khách không được yên thân đâu!

Tào Vân Kỳ nói tiếp:

– Đạo lý võ học rộng lớn vô cùng, nên biết là ngoài bầu trời này còn có bầu trời khác, trên người giỏi này còn có người giỏi hơn. Y cũng là người bằng xương bằng thịt thôi, cứ cho là bản lãnh cao cường đi, nhưng sao lại vội xưng bảy chữ “Đả biến thiên hạ vô địch thủ”?

Hán tử nọ đáp:

– Tiểu nhân kiến thức nông cạn, không rõ sự đời. Chỉ biết chủ nhân nói xứng đáng, thì hẳn là xứng đáng!

Tào Vân Kỳ thấy người này nói năng khiếm tốn, nhưng thần sắc cực kỳ ngạo mạn, thì nộ khí bốc lên, nghĩ bụng: “Ta là chưởng môn của một phái, sao có thể chịu đựng tên đầy tớ thấp hèn này khiêu khích cho được?”, bèn cười nhạt nói:

– Ngoài Kim Diện Phật ra, chắc quý chủ nhân là đệ nhất thiên hạ rồi? Ha ha. Thật tức cười!

Hán tử nọ đáp:

– Chuyện này thì không dám!

Rồi gã giơ tay vỗ nhẹ vào lưng ghế Tào Vân Kỳ đang ngồi. Tào Vân Kỳ thấy lưng ghế chấn đóng, người giật nảy lên. Hắn đang cầm chén trà, trong lúc bất ngờ, chén trà vuột khỏi tay rơi xuống, chắc hẳn phải vỡ tan dưới đất. Nhưng hán tử nọ đã cúi người đưa tay đỡ luôn cái chén, nói:

– Quý khách hãy cẩn thận!

Tào Vân Kỳ đỏ mặt, ngoảnh đầu nhìn sang chỗ khác không đáp. Hán tử nọ tự tay đặt chén trà lại lên bàn.

Bảo Thụ dường nhưng không thấy gì, nói với hán tử kia:

– Ngoài Kim Diện Phật với lão nạp ra, chủ nhân ngươi còn hẹn ai tới giúp sức nữa?

Hán tử nọ đáp:

– Trước lúc đi chủ nhân nói nội trong ngày hôm nay sẽ có đạo trưởng Huyền Minh Tử của phái Thanh Tạng, Linh Thanh cư sĩ ở núi Côn Luân, Tưởng lão quyền sư của Thái Cực môn ở Hà Nam tới đây. Chủ nhân dặn dò tiểu nhân phải tiếp đón chu tất. Đại sư là người đến đầu tiên, đủ thấy thịnh tình của đại sư. Nếu chủ nhân biết được, hẳn sẽ rất cảm kích.

Bảo Thụ đại sư lúc được chủ nhân nơi đây mời chỉ nghĩ một khi mình đã đến thì dù việc có khó khăn đến đâu cũng giải quyết được thôi. Không ngờ ngoài lão ra chủ nhân còn mời thêm khá nhiều nhân vật có tên tuổi khác nữa. Tuy phần lớn lão chưa gặp mặt bao giờ, nhưng cũng đều đã từng nghe tên tuổi, toàn bộ đều là những nhân vật thuộc hạng nhất lưu cao thủ.

Lão nhủ thầm:

– Nếu sớm biết thế này thì ta chẳng đến làm gì. Cái tên Kim Diện Phật Miêu Nhân Phượng lánh cho xa thế mà hay! Ta lặn lội đến đây mà chủ nhân lại không ở nhà tiếp, thật là thiếu tôn trọng.

Bảo Thụ trong lòng không vui, bèn nói:

– Lão nạp cố nhiên là vô dụng rồi, nhưng có Kim Diện Phật đến thì việc gì mà không giải quyết nổi? Hà tất phải mời thêm người khác?

Hán tử nọ đáp:

– Chủ nhân nói muốn nhân dịp này họp mặt với các anh hùng. Bang chủ Phạm Hưng Hán của Cái Bang cũng sẽ đến!

Bảo Thụ giật mình, hỏi:

– Phạm bang chúa cũng đến à? Thế Tuyết Sơn Phi Hồ hẹn bao nhiêu người đến giúp?.

Hán tử nọ đáp:

– Nghe nói hắn không mời ai, chỉ có một mình thôi.

Bọn Nguyễn Sĩ Trung, Ân Cát, Đào Bách Tuế đều là người từng trải trên giang hồ, nghe nói chỉ có một mình Tuyết Sơn Phi Hồ đến gây sự, mà chủ nhân ở đây ngoài việc phải bố trí bao nhiêu cao thủ hàng đầu, còn mời thêm Kim Diện Phật và Phạm Bang chủ của Cái Bang thì đều nghĩ rằng Tuyết Sơn Phi Hồ dù có ba đầu sáu tay cũng chẳng cần huy động nhiều người đến thế. Riêng một mình hòa thượng Bảo Thụ với công cao cường như vậy cũng đủ đối phó được rồi, huống hồ còn có chúng ta lên đỉnh núi này, khi lâm sự đương nhiên cũng không khoanh tay đứng nhìn. Chẳng qua lúc đó chủ nhân không ngờ lại có thêm nhiều khách không mời mà đến như thế này mà thôi.

Trong số đó, Lưu Nguyên Hạc là thấp tha thấp thỏm trong lòng. Thì ra Cái Bang xưa này chống đối với triều đình, bọn họ thêm hai chữ “Hưng Hán” vào tên bang của mình thành “Hưng Hán Cái Bang”, rõ ràng là có ý chống đối triều đình nhà Thanh.

Tháng trước, Tổng quan Ngự tiền Thị vệ họ Trại đã đích thân dẫn mười tám cao thủ thị vệ của Đai Nội muốn đi bắt Phạm bang chủ giam vào thiên lao. Việc làm này rất cơ mật, trên giang hồ rất ít người biết được. Lưu Nguyên Hạc chính là một trong mười tám cao thủ đó. Thế mà hôm nay lão lại hồ đồ vào ngay hang hùm, nhất định là lành ít dữ nhiều rồi.

Bảo Thụ thấy Lưu Nguyên Hạc khi nghe nói đến Phạm bang chủ mặt liền biến sắc, bèn hỏi:

– Lưu đại nhân quen biết Phạm bang chủ à?

Lưu Nguyên Hạc vội đáp:

– Không quen. Tại hạ chỉ biết Phạm bang chủ là anh hùng hảo hán lừng danh ở miền Bắc, năm xưa đã dùng “Long trảo cầm nã thủ”, tay không đánh chết hai con mãnh hồ.

Bảo Thụ tủm tỉm cười, không để ý tới hắn nữa, quay sang hỏi hán tử cổ dài nọ:

– Cái gã Tuyết Sơn Phi Hồ thật ra là người như thế nào? Hắn ta với chủ nhân của ngươi có thù oán gì?

Hán tử nọ đáp:

– Chủ nhân không nói chuyện này, tiểu nhân cũng không dám hỏi tới.

Trong khi chuyện trò, người hầu đã bưng cơm rượu lên. Trên đỉnh Tuyết sơn cao chót vót này mà vẫn có đủ rượu và thức nhắm ngon khiến mọi người hết sức bất ngờ. Hán tử cổ dài lại nói:

– Phu nhân tệ trang đa tạ các vị đã quang lâm, xin mời các vị uống vài chén.

Mọi người cùng tỏ lời cảm ơn.

Trong bữa ăn, Tào Vân Kỳ và Đảo Tử An gườm gườm nhìn nhau. Hùng Nguyên Hiến và Chu Vân Dương thì gầm ghè nhau, còn Đào Bách Tuế thì chỉ muốn quất Trịnh Tam Nương một roi. Tuy ngồi ăn cùng bàn, nhưng mỗi người đều có tâm trạng riêng. Riêng có Bảo Thụ là vẫn cười nói tự nhiên, ăn miếng thịt lớn, uống rượu bát to, nói năng bỗ bã thô tục chẳng giống bộ dạng của một người xuất gia chút nào!

Được vài tuần rượu, kẻ hầu bưng lên một mâm bánh bao nóng hổi. Mọi người đã nhọc mệt suốt nửa ngày trời, bụng đói meo, trông thấy bánh bao thì ai nấy đều hớn hở. Đang định đưa tay lấy bánh ăn thì bỗng nghe “đùng” một tiếng giữa không trung. Mọi người đều ngẩng đầu nhìn, thấy một hỏa tiễn đang bay vút lên cao, chững lại giây lát rồi nổ tan, những đổm lửa bắn tóe ra. Một đám khói màu sặc sỡ chầm chậm lan ra thành hình một con chồn có cánh. Bảo Thụ đẩy bàn ăn đứng dậy, la lên:

– Tuyết Sơn Phi Hồ đến rồi!

Mọi người đều biến sắc mặt. Hán tử cổ dài nọ hướng về phía Bảo Thụ vái, nói:

– Chủ nhân của tiểu nhân chưa về mà kẻ địch đã đến. Bây giờ mọi chuyên đều phải trông cậy vào đại sư.

Bảo Thụ đáp:

– Có lão nạp ở đây, ngươi không cần hoang mang. Hãy mời hắn lên núi đi!

Hán tử nọ ngần ngử nói:

– Tiểu nhân có điều muốn nói nhưng không dám.

Bảo Thụ đáp:

-Ngươi cứ nói, không sao cả!

Hán tử nọ nói:

– Đỉnh Tuyết sơn này hiểm trở, tên Tuyết Sơn Phi Hồ đó không cách nào lên được. Tiểu nhân muốn nhờ đại sư xuống núi nói với hắn là chủ nhân đi vắng.

Bảo Thụ nói:

– Ngươi cứ thả giỏ tre kéo hắn lên, ta sẽ đối phó.

Hán tử nọ nói:

– Chỉ sợ hắn lên đây sẽ làm kinh động đến phu nhân, tiểu nhân sẽ không còn mặt mũi nào gặp chủ nhân nữa.

Bảo Thụ sa sầm nét mặt, tức giận nói:

– Ngươi sợ ta không đối phó nổi con chồn bay đó ư?

Hán tử cổ dài nọ vội vái liền mấy cái, đáp:

– Tiểu nhân không dám.

Bảo Thụ nói tiếp:

– Vậy thì ngươi cho hắn lên đi!

Hán tử nọ không còn cách nào, đành tuân theo. Y nói khẽ với một kẻ hầu mấy câu gì đó, chắc là dặn dò chúng tăng cường bảo vệ nữ chủ nhân.

Bảo Thụ nhìn thấy, khẽ cười nhạt mà không nói gì, chỉ bảo dẹp bàn tiệc. Mọi người tản ra ngồi uống trà. Mới uống được một chung trà thì hán tử cổ dài cao giọng báo:

– Khách đã đến!

“Kẹt” một tiếng, hai cánh cửa lớn mở ra.

Mọi người đều ngừng uống, chăm chú nhìn ra cửa, thấy hai tiểu đồng sánh hai bước vào. Hai tiểu đồng cao bằng nhau, khoảng mười ba mười bốn tuổi, thân khoác áo lông điêu trắng, đỉnh đầu tết hai bím tóc buộc dựng lên bằng sợi tơ đỏ, lưng đeo một thanh trường kiếm. Cả hai đều có khuôn mặt tuấn tú như tranh, dáng vẻ thanh nhã, lạ nhất là diện mạo của chúng giống hệt nhau, khó mà phân biệt được. Chỉ khác nhau ở chỗ tiểu đồng đi bên phải thì chuôi kiếm chéo sang phải; còn tiểu đồng đi bên trái thì chuôi kiếm chéo sang trái. Trên tay hai tiểu đồng có bưng một chiếc hộp.

Mọi người thấy bộ dạng của hai tiểu đồng này thì ngạc nhiên, trong lòng đều thở phào nhẹ nhõm, vì họ cứ tưởng cái gã Tuyết Sơn Phi Hồ cùng hung cực ác sẽ vào, chứ không ngờ chỉ là hai chú nhóc con như thế này.

Khi hai tiểu đồng đi vào gần hơn, mọi người thấy trên mỗi bím tóc của chúng đều đính một viên minh châu, cả bốn hạt đều to bằng đầu ngón tay, lấp lánh ánh sáng rất thanh nhã. Hùng Nguyên Hiến là tiêu đầu của một tiêu cục, Đào Bách Tuế thì dày dạn trong chốn lục lâm, cả hai đều rất sành giá trị bảo vật. Vừa nhìn thấy bốn hạt minh châu đó tim họ đã đập mạnh, thầm nghĩ:

– Bốn hạt minh châu này cực kỳ quý giá; áo lông điêu trắng hai đứa nó mặc không lẫn một sợi lông tạp, cũng là thứ rất hiếm có. Ngay nhà đại phú cũng chưa chắc đã có thứ trân quý như thế này.

Hai tiểu đồng thấy Bảo Thụ ngồi chính giữa, bèn tiến đến khom người vái chào. Tiểu đồng đi bên trái nâng cao chiếc hộp. Hán tử cổ dài nọ đỡ lấy, mở ra và trình lên trước mặt Bảo Thụ. Bảo Thụ thấy trong hộp có một lá thiếp màu đỏ, bèn cầm lên xem. Một hàng chữ đen nhánh viết: “Vãn sinh Hồ Phỉ kính bái. Cuộc hội ngộ trên đỉnh Tuyết sơn, xin hẹn đúng giờ Ngọ hôm nay”. Nét chữ rắn rỏi ngay ngắn.

Bảo Thụ thấy hai chữ “Hồ Phỉ”, thì chợt nghĩ ra: “À, thì ra ngoại hiệu Phi Hồ là do nói ngược tên Hồ Phỉ”. Lão bèn gật gù nói:

– Vậy chủ nhân các người đã đến chưa?

Tiểu đồng đứng bên phải đáp:

– Chủ nhân nói sẽ đến đúng vào ngờ Ngọ. Vì ngại quý chủ nhân phải đợi lâu, nên mạo muội sai hai anh em vãn bối đến trước báo tin.

Tiếng nói của tiểu đồng lanh lảnh trong vắt. Bảo Thụ thấy chúng rất đáng yêu, bèn hỏi:

– Các ngươi là huynh đệ song sinh ư?

Một tiểu đồng trả lời:

– Vâng!

Nói xong nghiêng người vái chào và quay người định đi ra. Hán tử cổ dài nọ liền nói:

– Hai tiểu đệ hãy nán lại ăn chút gì đã rồi hãy đi.

Tiểu đồng đứng bên phải trả lời:

– Đa tạ đại ca. Không được lệnh của chủ nhân nên không dám ở lại.

Điền Thanh Văn lấy trên khay một ít trái cây đưa cho hai tiểu đồng, tươi cười nói:

– Thế thì ăn chút trái cây nhé!

Tả đồng đón lấy, đáp:

– Xin đa tạ cô nương!

Tào Vân Kỳ là người rất hẹp hòi hay đố kỵ, lại thêm tính nóng như lửa, không kiềm được nỗi ghen tức khi thấy Điền Thanh Văn tỏ ra thân mật với hai tiểu đồng. Máu nóng bốc lên, hắn cười nhạt nói:

– Con nít mà cũng đeo trường kiếm, chẳng lẽ hai đứa nhỏ bây cũng biết kiếm thuật ư?

Hai tiểu đồng ngạc nhiên nhìn Tào Vân Kỳ, cùng đáp:

– Tiểu đệ không biết.

Vân Kỳ quát lên:

– Thế làm bộ làm tịch đeo trường kiếm để làm gì? Hãy để lại cho ta!

Nói rồi, thò hai tay ra nắm chuôi kiếm của cả hai.

Hai tiểu đồng hoàn toàn không ngờ lúc này lại có người muốn tước binh khí của chúng. Tào Vân Kỳ xuất thủ cực kỳ mau lẹ, chỉ nghe “soạt, soạt” hai tiếng, mọi người thấy lấp loáng ánh sáng xanh, hai thanh trường kiếm đã bị rút ra khỏi vỏ, nằm trong tay của Tào Vân Kỳ rồi. Tào Vân Kỳ cười ha hả, nói:

– Hai thằng nhóc…

Mới nói được hai tiếng thì hai tiểu đồng đã cùng vọt tới, một xuất tả chưởng, một xuất hữu chưởng, tức tốc đánh vào cổ của Tào Vân Kỳ nhanh như điện chớp. Hai tiểu đồng cùng bẻ cổ hắn xuống phía trước. Tào Vân Kỳ đang định chống trả thì bị một chú dùng chân trái, một chú dùng chân phải cùng lúc ra đòn móc vào hai chân hắn, khiến hắn nhất thời bị mất thăng bằng lộn nửa vòng, ngã xuống đất “bịch” một tiếng thật nặng.

Tào Vân Kỳ đoạt kiếm đã nhanh, nhưng cú ngã này xảy ra còn nhanh hơn nữa. Mọi người còn đang sửng sốt thì hai tiểu đồng xông ngay vào toan đoạt lại hai thanh trường kiếm trong tay Tào Vân Kỳ. Nhưng Vân Kỳ đâu phải hạng xoàng, chẳng qua vừa nãy chưa kịp để phòng mới bị ngã. Vừa ngã xuống, hắn lập tức tung người đứng dậy, giơ hai thanh kiếm lên dọa cho hai tiểu đồng phải lui lại. Chẳng ngờ hai tiểu động cùng tung người lên, không biết bằng cách nào, mỗi chú một tay đã tóm lấy cổ Tào Vân Kỳ, vừa kéo vừa móc, chiêu thức giống hệt như vừa nãy, làm Tào Vân Kỳ lại ngã “bịch” một lần nữa.

Cú ngã trước có thể nói là vì chưa đề phòng, nhưng cú ngã thứ hai thì lại nặng hơn. Tào Vân Kỳ là chưởng môn của Thiên Long môn, đang ở độ tuổi sung sức, còn hai tiểu đồng chỉ cao tới ngực hắn mà thôi, thế mà ngã luôn hai lần, thử hỏi còn mặt mũi nào nữa? Trong lúc cuồng nộ, trong đầu nổi lên sát khí, hắn chưa tung người đứng lên đã hạ thanh kiếm bên tay trái xuống, thanh kiếm bên tay phải đột ngột phạt ngang, định một nhát kiếm chém chết luôn hai tiểu đồng.

Điền Thanh Văn thấy hắn dùng “Nhị lang đảm sơn”, chiêu số sát thủ rất hiểm độc của bản môn, ngay cả người có võ công cao cường, trong lúc bất ngờ cũng khó đỡ nổi. Thấy hai đứa bé trắng trẻo đáng yêu sắp mất mạng dến nơi, nàng vội la lên:

-Sư ca! Dừng ngay sát chiêu đó!

Tào Vân Kỳ vung kiếm chém ra, nghe tiếng la của Điển Thanh Văn, tuy vốn luôn nghe lời sư muội, nhưng chiêu kiếm đã tung ra, trong lúc vội vàng không kịp thu kiếm về, đành trầm cổ tay xuống một chút. Thầm nghĩ để lại cái sẹo trên ngực hai chú tiểu đồng cũng được rồi. Chẳng ngờ tả đồng bỗng luồn qua dưới nách Tào Vân Kỳ chui sang bên phải, hữu đồng thì luồn qua bên trái. Thế là nhát kiếm của hắn chém vào khoảng không. Đang định thu chiêu chém tiếp, chợt thấy lấp loáng bóng hai tiểu đồng nhỏ thó áp tới hai bên người.

Vân Kỳ hai lần nếm mùi cay đắng rồi, nhưng kiếm chiêu đã đi quá đà khó mà thu kiếm để hồi kích. Mắt thấy chúng lại giở quái chiêu, nhưng không cách nào chống đỡ hay tránh né, liền buông hai kiếm, dùng chưởng đẩy mạnh ra, miệng quát “Đi!” Mỗi chưởng dùng tới mười thành công lực, hai tiểu đồng chỉ cần bị chưởng lực trượt qua thôi cũng không tránh khỏi bị thương. Đột nhiên thấy bóng người lướt qua, thoắt cái hai đứa bé biến đâu mất. Tào Vân Kỳ vội quay phắt người lại thì tả đồng đã luồn sang phải, còn hữu đồng luồn sang trái, khiến hắn hoa cả mắt, cổ lại bị hai tiểu đồng ghì chặt.

Trong lúc nguy cấp, Tào Vân Kỳ gắng hết sức ưỡn lưng thẳng người cho cổ hướng ra phía sau, định bụng ném hai tiểu đồng té ra sau. Vừa mới vận kình thật mạnh để ném thì hai bàn tay nhỏ bỗng buông ra. Trong lúc chới với, Tào Vân Kỳ biết là nguy rồi, vội vàng thu kình lực định đứng vững lại nhưng đã muộn. Hai tiểu đồng, một dùng chân trái, một dùng chân phải, hất tung hai gót chân của Vân Kỳ ra phía trước. Tào Vân Kỳ dùng sức quá mạnh, vốn đã đứng không vững, lúc này lại bị hất như vậy nên người bị bay lên ngã ngửa xuống đất, trong tiếng la lớn “Mẹ kiếp!” của chinh hắn. Cú té này làm sống lưng của Tào Vân Kỳ như muốn gãy đoạn, hắn định cổ đứng lên, nhưng lưng không còn sức, lại ngã vật ra.

Chu Vân Dương sấn tới trước, đưa tay đỡ Tào Vân Kỳ. Hai tiểu đồng thừa cơ nhặt lại trường kiếm. Tào Vân Kỳ vốn thẹn đã đỏ cả mặt, lúc này thì uất đến tím đen, rút kiếm đeo bên hông, dùng chiêu “Bạch hồng quán nhật”, hét một tiếng, đâm thẳng vào tả đồng. Chu Vân Dương thấy sư huynh bị ngã ba lần liên tiếp thì biết rằng hai tiểu đồng này tuy nhỏ tuổi nhưng không phải là hạng dễ chơi. Đối phương có hai người, nay mình vào giúp cũng phải lẽ thôi. Nghĩ vậy, Chu Vân Dương bèn rút kiếm đâm tiểu đồng đứng bên phải.

Tả đồng đưa mắt ra hiệu với hữu đồng, cả hai giơ kiếm lên đỡ, rồi đột nhiên cùng nhảy lùi về phía sau ba bước. Tả đồng hô lớn:

– Bẩm đại hòa thượng! Bọn vãn bối chỉ phụng mệnh chủ nhân đến đây đưa thư, không hề đắc tội với hai vị đây. Xin hỏi hai vị đây cứ muốn đánh bọn vãn bối là cớ làm sao?

Bảo Thụ mỉm cười, nói:

– Hai vị này muốn thử công phu của các hiền điệt, chứ không có ác ý gì đâu. Các hiền điệt cứ luyện tập với hai vị đó xem sao.

Tả đồng bèn nói:

– Đã vậy, mong hai vị chỉ giáo cho!

Cả hai cùng vung kiếm đấu với Tào Vân Kỳ và Chu Vân Dương.

Tôi tớ nam nữ ở trên gia trang này đều biết võ công, nghe nói đối phương cho hai tiểu đồng lên núi đưa thư, hiên đang động thủ với mấy người trong sảnh, bèn ùn ùn kéo nhau ra đứng ngoài hành lang xem tỉ võ.

Họ thấy một chú cầm kiếm tay trái, một chủ cầm kiếm tay phải, động tác tiến lui né tránh phối hợp nhau nhịp nhàng giống như chỉ một người giao đấu. Đôi trường kiếm tiến kích liên hoàn vô cùng nghiêm mật. Xem ra chúng đã học kiếm từ nhỏ và chuyên luyện môn song kiếm hợp bích này. Lạ một điều là tả đồng cấm kiếm tay trái cũng linh hoạt như hữu đồng cầm kiếm tay phải, nhất định là bẩm sinh đã thuận tay trái.

Hai sư huynh đệ Tào, Chu thay đổi lên tiếp mấy kiếm chiêu mà vẫn không làm gì nổi hai đứa bé. Phút chốc hai bên đã đấu mấy chục hiệp, tuy hai sư huynh đệ Tào, Chu không có vẻ gì thất thế nhưng cũng không chiếm được thượng phong chút nào.

Nguyễn Sĩ Trung sốt ruột, quan sát kĩ chiêu số kiếm thuật của hai tiểu đồng thì thấy đó chẳng qua chỉ là Đạt Ma kiếm pháp của phái Thiếu Lâm mà thôi, chứ không có gì đặc biệt. Có điều dù đâm hay đỡ, đan xe giữa phòng thủ và tấn công, chiêu xuất kích thì chẳng lo ngại gì phía sau, chiêu phòng ngự thì tuyệt không nghĩ đến phản công, bất luận là công hay thủ cũng đều có thế dốc được toàn lực. Hắn nghĩ mình chỉ cần hai tay không cũng đoạt hai thanh kiếm của hai tiểu đồng. Thấy hai sư điệt đấu đã lâu mà vẫn không hạ nổi, uy danh của chi phía Bắc tông Thiên Long môn sắp đổ vỡ đến nơi, Nguyễn Sĩ Trung bèn kêu to:

– Hai chủ bé này quả là lợi hại! Vân Kỳ, Vân Dương hay lui ra, để ta đùa với chúng nó một chút!

Tào, Chu hai người nghe sư thúc gọi, cùng dạ ran, định lui ra. Nào ngờ hai tiểu đồng đột ngột xuất chiêu cực nhanh, trong chớp mắt song kiếm cùng công tới tấp. Tào, Chu buộc phải giơ kiếm cản phá, nhưng song kiếm của hai tiểu đồng cứ tấn công liên tiếp, liên miên bất tận, đỡ được kiếm thứ nhất thì kiếm thứ hai đến, không sao ngừng lại. Chống đỡ hơn mười chiêu mà vẫn không thể nhảy ra ngoài được.

Điền Thanh Văn nghĩ bụng:

– Ta phải tiếp ứng cho hai sư huynh mới được, để Nguyễn sư thúc khống chế hai chủ nhỏ này. Nguyễn sư thúc vô công lợi hại đương nhiên một khi ra tay là sẽ tóm được bốn cái bím tóc của chúng!

Nghĩ thế Điền Thanh Văn bèn rút kiếm bước ra, nói:

– Hai vị sư huynh hãy nghĩ tay!

Điện Thanh Văn thấy tiểu đồng bên trái đang tấn công Vân Kỳ liên tục, bèn vung kiếm chặn một chiêu của nó. Nào ngờ chiêu tiếp theo của tiểu đồng này lại là một chiêu kiếm song kích, vừa nhắm góc mắt của Tào Vân Kỳ, vừa nhắm luôn vai trái của Điền Thanh Văn. Điền Thanh Văn đành phải đón đỡ. Thế là nàng không những không thay thế sư huynh được mà chính mình cũng bị cuốn vào vòng. Tào Vân Kỳ càng đấu càng nổi nóng, nghĩ thầm:

– Kiếm thuật của Bắc tông Thiên Long môn nổi tiếng xưa nay, thế mà hôm nay ba người hợp lại vẫn không hạ nổi hai thằng nhóc. Chuyện này đồn đại trong giang hồ thì phái Bắc tông Thiên Long môn còn mặt mũi nào nữa?

Nghĩ đến đây, chiêu thế của hắn tung ra càng dữ dội. Hữu đồng thấy huynh trưởng bị áp bực, bèn trở kiếm đâm luôn Tào Vân Kỳ. Tào Vân Kỳ xoay người đỡ, thì tả đồng đã lạng kiếm chém Chu Vân Dương. Trong chớp mắt hai tiểu đồng đã đổi đối thủ, việc này diễn ra cực nhanh, thân pháp lại rất đẹp mắt, làm cho những người đứng xem không kiềm được phải hoan hô vang dội.

Ân Cát khẽ nói:

– Nguyễn sư huynh, huynh phải ra tay mới được. Ba đứa bọn chúng thắng không nổi đâu.

Nguyễn Sĩ Trung gật đầu, nhét chặt cái hộp sắt vao đai thắt lưng, la lên:

– Để ta ra đùa một chút nào!

Nói rồi liền tung người ra, sát bên người hữu đồng, tay trái điểm vào huyệt Cự Cốt ở đầu vai, tay phải dùng Đại cầm nã thủ xỉa tới đoạt kiếm của tiểu đồng.

Người đứng ngoài thấy Nguyễn Sĩ Trung thân pháp nhanh nhẹn, ra tay hiểm độc, đều có ý lo cho tiểu đồng. Nhưng bỗng thấy kiếm quang lấp loáng, mũi kiếm của tả đồng đã dí vào lưng Nguyễn Sĩ Trung .

Nguyễn Sĩ Trung cố đoạt kiếm, lại nghĩ có Chu Vân Dương cản trở tiểu đồng bên trái rồi, không ngờ mình sẽ bị đánh lén đột ngột như vậy. Kịp nghe Điền Thanh Văn la lên :

– Sư thúc, phía sau!

Nguyễn Sĩ Trung vội né sang trái để tránh, “soạt” một tiếng lưng áo đã bị rạch một đường. Tiểu đồng phía trái nói lớn:

– Vị tiền bối này xin hãy cẩn thận!

Xem ra nó vẫn có ý nhường nhịn

Nguyễn Sĩ Trung trong bụng rất sốt ruột, đỏ mặt tía tai, nhưng đã từng trải qua nhiều trận đại chiến với các cao thủ, nên cú hớ hênh vừa rồi chỉ khiến lão thêm bình tĩnh. Lúc này lão không dám mạo hiểm tiến công, mà tiếp tục triển khai đại cẩm nã thủ pháp, nào là các chiêu khóa, lừa, chặn, tách để tìm chỗ sơ hở nhằm đoạt binh khí trong tay hai tiểu đồng. Nguyễn Sĩ Trung khổ luyện song chưởng suốt mấy chục năm, nên thi triển các chiêu thức quả nhiên là khác thường. Nhưng nói ra cũng kỳ quái, lúc hai tiểu đồng nghênh chiến Tào, Chu hai người tuy không chiếm được thượng phong, nhưng giờ đây thêm cả Nguyễn Sĩ Trung và Điền Thanh Văn nữa mà cục diện vẫn chỉ ở thế quân bình!

Ân Cát nghĩ bụng :

– Nam Bắc hai tổng vốn là cùng một gốc mà chia ra hai nhánh, nếu Bắc tông bị mất nhuệ khí thì Nam tông ta cũng chẳng vẻ vang gì. Tình thế hôm nay, thà để cho người ngoài nói ỷ đông hiếp ít còn hơn là chịu bại trận .

Lão nghĩ vậy, bèn rút trường kiếm ra khỏi vỏ xuất liền chiêu “Lưu tinh hãn nguyệt” , người chưa vào trận mà mũi kiếm đã xốc tới ngực tả đồng. Hữu đồng la lên:

– Thêm một người nữa đấy.

Đồng thời hoành kiểm điểm ngay cổ tay của Ân Cát. Ân Cát giật thót người, thầm nghĩ:

– Hai thằng bé này ứng cứu liên hoàn, quả đã luyện tới mức xuất quỷ nhập thần!

Ân Cát vội hạ thấp cổ tay xuống tránh nhát kiếm đó. Tránh nhát kiếm vừa rồi chẳng mấy khó khăn, nhưng chiêu kiếm đâm vào ngực tả đồng cũng vì vậy mà mất tác dụng.

Thế là giữa đại sảnh có sáu thanh trường kiếm và một đôi tay không quần nhau nghe tiếng gió rít ào ào, đánh mấy chục hiệp mà vẫn chưa phân thắng bại!

Đào Tử An thấy Điền Thanh Văn mặt đỏ tưng bừng, đã mấy lần dùng tay áo lau mồ hôi , bèn gọi:

– Thanh muội! Hãy nghỉ đi, để huynh vào thay muội!

Nói rồi, Tử An vung đao xông vào. Tào Vân Kỳ quát:

– Ai cần ngươi lấy lòng?

Hắn vừa đưa thanh trường kiếm lên đỡ chiêu kiếm đâm tới của hữu đồng, tay trái nắm thành quyền thoi vào mũi Đào Tử An. Đào Tử An cười, lạng người ba bước, vòng ra phía sau tả đồng. Đào Tử An tuy bị thương ở chân, nhưng đao pháp vẫn rất tinh diệu. Có điều kiếm thuật của hai tiểu đồng cực kỳ quái lạ, địch càng đông thì uy lực của kiếm chiêu cũng tăng theo. Đào Tử An vừa phải đề phòng Tào Vân Kỳ đánh lén, lại vừa phải đối phó với chiêu kiếm biến hóa khôn lường của hai tiểu đồng nên chân tay đâm ra quính quáng.

Đào Bách Tuế từ từ tiến lại gần, giơ roi sắt bảo vệ con trai. Trong ánh lấp loáng của đao kiếm, Tào Vân Kỳ bổ xéo một chiêu kiếm thật mạnh vào Đào Tử An. Đào Bách Tuế tức giận quát to một tiếng, vung roi sắt chặn lại rồi xuất chiêu đánh Tào Vân Kỳ. Những người đứng xem cuộc chiến biến đổi sôi nổi, ai nấy đều thầm kinh ngạc.

Khi Nguyễn Sĩ Trung nhảy vào vòng chiến, Hùng Nguyên Hiến thấy lão nhét cái hộp sắt vào phía sau thắt lưng, thầm nghĩ chi bằng mình xông vào trợ chiến, nhân lúc lộn xộn sẽ thừa cơ hạ thủ, cướp lại cái hộp sắt cũng hay, giết cha con họ Đào để báo thù cũng tốt. Nghĩ rồi bèn hô lên:

– Náo nhiệt quá ha! Lưu sư huynh, huynh đệ ta cũng tham gia đi!

Lưu Nguyên Hạc và Hùng Nguyên Hiến cùng theo học một thầy từ nhỏ nên hiểu ý nhau lắm. Vừa nghe tiếng gọi, Lưu Nguyên Hạc đã hiểu rõ ý đồ của Hùng Nguyên Hiến, bèn múa song thiết quải, nhắm hướng Nguyễn Sĩ Trung áp tới.

Điền Thanh Văn thấy Lưu, Hùng cả hai xông vào đấu hai tiểu đồng nhưng ánh mắt không rời thân mình sư thúc, thì đã biết ý đồ của họ, bèn gọi:

– Nguyễn sư thúc, chú ý giữ cái hộp sắt!

Nguyễn Sĩ Trung giao chiến đã lâu mà không hạ nổi hai tiểu đồng thì sốt ruột, nghĩ thầm:

– Bên ta chín người lớn mà không thắng nổi hai thằng bé này, hôm nay đã mất thể diện quá rồi. Nếu lại mất cả cái hộp sắt nữa thì sau này khó mà sống trên đời được!

Trong khoảnh khắc sơ ý, Nguyễn Sĩ Trung thấy một luồng gió mạnh lướt qua mặt. Thì ra hữu đồng sau khi đỡ hai chiêu kiếm của Tào Vân Kỳ và Chu Vân Dương bèn thừa cơ chém luôn Nguyễn Sĩ Trung một nhát kiếm.

Nguyễn Sĩ Trung thót tim, thầm nghĩ: “ Đằng nào cũng mất thể diện rồi!” vừa nghiêng người né tránh, xoay luôn cổ tay rút phắt thanh trường kiếm ra. Trong chín người này, võ công của Nguyễn Sĩ Trung là cao hơn cả. Kiếm pháp Thiện Long môn vừa tung ra liền nghe loảng xoảng những tiếng binh khí va chạm nhau. Binh khí của cha con họ Đào, của hai huynh đệ Lưu, Hùng đều bị trường kiếm của Nguyễn Sĩ Trung đánh bật ra. Ân Cát che chắn kín người, lùi về phía sau, thừa cơ hội này ngầm quan sát sự huyền ảo vi diệu của kiếm thuật phe Bắc tông.

Nguyễn Sĩ Trung thấy mọi người đều dần dần lui ra, cách mình có đến vài thước, thì trường kiếm của hắn chuyến động càng linh hoạt hơn; tinh thần phấn hắn, sấn tới thêm hai bước xuất chiêu “Vân trung thám trảo” trung ra, bổ nhanh xuống đầu hữu đồng. Chiêu này mau lẹ khác thường. Trường kiếm trong tay hữu đồng đang giao đấu với thiết quải của Lưu Nguyễn Hạc; bỗng thấy kiếm chém tới, vội vàng rùn người tránh, “soạt” một tiếng hạt minh châu đính trên bím tóc của chú bé bị kiếm chém lìa làm hai, rơi xuống đất.

Cả hai tiểu đồng mặt mày đều biến sắc. Hữu đồng kêu lên: “Ca ca!”, miệng mếu máo như muốn khóc. Nguyễn Sĩ Trung liền cười ha hả. Chợt thấy bóng trắng lập loáng trước mặt, hai tiểu đồng đã đổi vị trí cho nhau, “keng keng” mấy tiếng, binh khí của Chu Vân Dương và Hùng Nguyên Hiến đã bị chém gãy. Hai người cả sợ vội nhảy ra ngoài vòng chiến, thấy trong tay mỗi tiểu đồng có thêm một cây chủy thủ sáng loáng.

Tả đồng la lên:

– Đệ đệ hãy thanh toán món nợ với hắn.

Nói rồi tay phải vung chủy thủ lên, hai tiếng “keng keng”, hai thanh trường kiếm trong tay Tào Vân Kỳ và Ân Cát cũng bị gãy luôn. Thì ra hai cây chủy thủ ấy vốn là một thanh bảo kiếm ngắn có thể chặt đứt cả vàng, ngọc. Tào Vân Kỳ lùi lại hơi chậm, “soạt” một tiếng, mé sướn trái bị ngọn chủy thủ lướt qua, làm dây thắt lưng bằng da với vỏ kiếm đeo bên hông bị đứt thành mấy đoạn.

Hữu đồng cầm trường kiếm bên tay phải, cầm chủy thủ bên tay trái, nhắm người Nguyễn Sĩ Trung công thẳng tới. Lúc này hai tay hai bình khí, kiếm pháp của chú bé linh hoạt dị thường. Nguyễn Sĩ Trung vừa kinh ngạc vừa tức tối, nhất thời chưa kịp nhìn rõ đường kiếm của tiểu đồng, mà chỉ cảm thấy hàn khí rợn người của ngọn chủy thủ mỗi khi nó lướt qua. Nguyễn Sĩ Trung không dám đưa kiếm đỡ mà chỉ lùi dần. Hữu dồng chẳng ngõ ngàng đến người xung quanh, cứ một mực tấn công bức bách.

Tả đồng xoay lưng về phía lưng cậu em, một mình chống trả với những người còn lạị, để cho cậu em một mình đấu với Nguyễn Sĩ Trung. Chỉ sau vài chiêu nữa, đã chém đứt một đoạn roi sắt của Đào Bách Tuế. Lưu Nguyên Hạc và Đào Tử An không dám áp sát mà chỉ di chuyển vòng bên ngoài mà đấu. Ân Cát, Tào Vân Kỳ, Chu Vân Dương và Điền Thanh Văn thấy Nguyễn Sĩ Trung đang bị dồn vào một góc nhà, không còn đường lui nữa, thì đều rất sốt ruột, lăm le muốn nhảy tới cứu viện, nhưng đành bó tay vì binh khí đều đã bị gãy và không sao vượt qua ải của tả đồng được!

Bảo Thụ đứng ngoài quan sát kiếm pháp của hai tiểu đồng, trong bụng lấy làm kỳ lạ. Thoạt đầu thấy hai tiểu đồng đấu tương đương với Tào Vân Kỳ, kiếm pháp cũng bình thường. Nhưng khi địch thủ động dần lên thì uy lực của kiếm chiêu cũng mạnh lên theo. Lúc này hai chú rút thêm chủy thủ ra nữa thì tình thế càng biến đổi nhiều. Tả đồng vung kiếm liên tiếp bức số đông địch thủ tay chân phải rối loạn. Chớp mắt binh khí của Đào Tử An và Lưu Nguyên Hạc lại bị chém gãy. Trong số tám người đấu với tả đồng chỉ còn trường kiếm trong tay Điền Thanh Văn là nguyên vẹn. Rõ ràng không phải vì công phu của nàng cao siêu, mà chỉ vì chú tiểu đồng này cảm cái tinh nàng đã mời ăn trái cây nên có gượng nhẹ.

Nguyễn Sĩ Trung lưng tựa vào góc tường ra sức chống trả. Lão thấy thanh trường kiếm của hữu đồng đâm thẳng vào ngực mình, liền ứng phó bằng chiêu “Đằng giao khởi phụng”. Đó là một chiêu theo thế “tẩy”. Bí quyết của kiếm thuật có câu: “cao lai tẩy, để lai kích, lý lai yểm, ngoại lai mạt, trung lai thích” (xóa nhát cao, đánh nhát thấp, che nhát trong, quét nhát ngoài, đâm nhát giữa). Năm chữ “tẩy, kích, yềm, mạt, thích” là bí quyết mà các kiếm khách đều hiểu rõ.

Nguyễn Sĩ Trung thấy kiếm đối phương đâm trên cao, liền đem bí quyết chữ “tẩy” để đổi phó. Nào ngờ lúc hai kiếm chạm nhau, Nguyễn Sĩ Trung bỗng thấy cổ tay nặng trĩu, thì ra thanh kiếm của lão đã bị thanh kiếm tiều đồng đè thẳng xuống. Nguyễn Sĩ Trung trong long cả mừng, nghĩ thầm:

– Kiếm thuật của người tuy tinh thông, nhưng kình lực làm sao mạnh bằng ta được?

Nghĩ vậy, lão liền vận kình phản kích. Tiểu đồng rút kiếm trong tay phải lại, tay trái vung chủy thủ ra rất nhanh. Lại một tiếng “keng”, thanh trường kiếm của Nguyễn Sĩ Trung bị chém gãy đôi.

Nguyễn Sĩ Trung hoảng quá, vội ném nửa thanh kiếm còn lại vào mắt tiểu đồng. Tiểu đồng cúi đầu tránh, rồi đâm tới tấp liên tiếp hai bên phải trái, nhốt Nguyễn Sĩ Trung ở góc tường, không sao thoát ra được. Ân Cát, Tào Vân Kỳ, Chu Vân Dương cùng la to, ám khí phóng ra tới tấp. Tả đồng nhảy lên hụp xuống, tay phải huơ liên tục, thu được toàn bộ hơn chục mũi độc long chùy. Thì ra ở chuôi cây chủy thủ có cài sẵn một cái túi lưới nho nhỏ, chuyên để thu ám khí của địch nhân.

Thất Tinh Thủ Nguyễn Sĩ Trung tuy đã mất binh khí, nhưng công phu quyền cước vẫn cực lợi hại. Lão là tay giang hồ lão luyện, ở vào thế bại mà vẫn không rối loạn. Lúc này lão bình tĩnh ứng phó bằng đôi tay không. Chỉ có điều, ánh lấp loáng của ngọn chủy thủ trên tay hữu đồng trông lạnh người, nếu lỡ bị lưỡi chủy thủ quét trúng thì chắc chắn sẽ đứt lìa bàn tay! Nguyễn Sĩ Trung sợ nhất không phải vì võ công của đối phương quái dị, mà là ngọn chủy thủ kia quả thực vô cùng sắc bén! Vì vậy Nguyễn Sĩ Trung chỉ còn biết ra sức tránh né, chứ không dám xuất chiêu đánh trả.

Hữu đồng không ngừng la lên:

– Đền minh châu cho ta! Đền minh châu cho ta!

Nguyễn Sĩ Trung trong bụng ngàn lần muốn xin dền, nhưng một là kiếm đâu ra mà đền, hai là làm vậy thì còn gì là thể diện?

Bảo Thụ thấy tình thế vô cùng khó xử, nếu cứ tiếp tục đấu nhau căng thẳng thế này, ngộ nhỡ thằng bé nổi điên lên thì chỉ một nhát chủy thủ thôi, Nguyễn Sĩ Trung bị thủng ngực như chơi. Hắn là khách mình mời đến, sao có thể để tiểu đồng của kẻ địch làm nhục như thế được? Có điều võ công của hai tiểu đồng này quả rất quái dị, nếu chỉ xét từng đứa, đương nhiên không thể bằng Nguyễn Sĩ Trung, nay cả Lưu Nguyên Hạc, Đào Bách Tuế e rằng chúng cũng không so được. Nhưng khi hai đứa nó liên thủ thì chúng càng mạnh lên. Nếu mình nhúng tay vào mà cũng không đối phó nổi, thì chẳng phải là tự chuốc lấy nhục nhã hay sao?

Trong khi Bảo Thụ còn đang đắn so suy tính thì Nguyễn Sĩ Trung đã lâm vào cảnh nguy khốn hơn nữa. Áo quần rách tơi tả, mặt dính đầy máu, trước ngực và cánh tay đầy những vết thương do thanh trường kiếm của tiểu đồng. Có đến mấy lần hắn suýt buột miệng xin tha, may mà còn cố kiềm được. Hữu đồng lại đòi:

– Người có đền minh châu cho ta hay không?

Lúc này, người hầu cổ dài bước đến gần bên Bảo Thụ, nói khẽ:

– Đại sư, xin người hãy ra tay đuổi hai thẳng bé ấy đi.

Bảo Thụ “ừ” một tiếng, nhưng trong lòng vẫn còn trầm ngâm chưa quyết. Bỗng nghe “đoàng” một tiếng, một luồng khói xanh bốc lên bên ngoài ngọn Tuyết sơn. Người hầu cổ dài nọ biết là khách mà chủ nhân mình mời đến giúp đã tới, thì mừng thầm, nghĩ bụng:

– Vị hòa thượng này chưa xảy ra chuyện thì nói chuyện nghe tài giỏi lắm, đến chừng xảy ra chuyện thì cứ ấp a ấp úng! May mà bạn của chủ nhân đã đến rồi.

Y vội băng ra cửa, thả giỏ tre xuống đón khách lên.

comments

Tuyết sơn phi hồ