Hồi 02: Thiếu niên gây đại họa

Hồi 02: Thiếu niên gây đại họa

Thạch Thanh tiến ra hai bước, nhìn Cảnh Vạn Chung và Vương Vạn Nhận, chắp tay nói: “Cảnh hiền đệ! Vương hiền đệ! Cô nương đây kiến thức đảm lược hơn cả bọn tu mi nam tử, chắc là Hàn Mai nữ hiệp Hoa cô nương vang danh thiên hạ có phải không? Ngoài ra còn bốn vị huynh đệ nữa, xin được giới thiệu cho biết.”

Cảnh Vạn Chung nhăn mặt, không trả lời mà lại nói: “Tại hạ được gặp hiền phu phụ Thạch trang chủ ở đây thật là may mắn, đỡ phải đến Giang Nam ra mắt.”

Thạch Thanh thấy vẻ mặt bảy người kia đều không có thiện cảm, lúc đầu nghĩ là bọn họ vừa bị Tạ Yên Khách đoạt kiếm lại hất ngã người nên buồn bực trong lòng. Nhưng Cảnh Vạn Chung cùng mình là chỗ bạn thân, đất khách gặp người cố cựu tưởng nên tay bắt mặt mừng, sao lại tỏ vẻ lạnh nhạt? Hơn nữa trước nay hắn vẫn kêu mình bằng Thạch đại ca, không hiểu vì lẽ gì mà đột nhiên thay đổi cách xưng hô? Ông ngẫm nghĩ một chút rồi tự hỏi: “Phải chăng đứa con bảo bối của ta đã gây nên tai vạ gì ư?” Ông vội nói: “Cảnh hiền đệ! Phải chăng thằng nhỏ bướng bỉnh của tiểu huynh đã làm cho hiền đệ phải khó chịu? Vợ chồng ta sẽ đền tội cho hiền đệ. Lại đây! Tiểu huynh xin làm chủ nhân, mời cả bảy vị đến thành Biện Lương uống mấy chén rượu.”

An Phụng Nhật thấy Thạch Thanh ra chiều thân mật với bọn đệ tử phái Tuyết Sơn, mà bọn này đối với mình lại chẳng thèm nhìn, đừng nói là thông báo danh tính hay nói mấy câu khách sáo. Hắn cứ đứng trơ ra đó, chẳng ai nói gì tới thì đã không hứng thú gì mà lại tức mình, nghĩ thầm: “Hừ! Phái Tuyết Sơn thì đã là cái gì? Ai lấy nhân nghĩa đối người như Thạch trang chủ, mới thật làm cho người ta thán phục.” Hắn bèn quay sang Thạch Thanh và Mẫn Nhu chắp tay nói: “Thạch trang chúa! Thạch phu nhân! An mỗ xin cáo từ!” Thạch Thanh cũng chắp tay đáp lễ nói: “Xin An trại chủ miễn trách. Khuyển tử là Thạch Trung Ngọc hiện là môn hạ của Phong huynh tại phái Tuyết Sơn, tại hạ cứ mải hỏi thăm, thật là có điều thất lễ với An trại chủ.” An Phụng Nhật nghĩ bụng: “Chuyện này thì làm sao trách ông được?” Rồi kính cẩn đáp: “Trang chúa dạy quá lời!” Nói xong, hắn quay lưng đi thẳng.

Bọn Cảnh Vạn Chung bảy người thủy chung vẫn không nói nửa lời. Khi An Phụng Nhật đã đi xa, họ cũng chỉ đưa mắt nhìn nhau ra chiều dè dặt, vẻ mặt lộ vẻ vừa khó chịu vừa lúng túng, vừa phẫn nộ lại vừa khinh bỉ, dường như chẳng ai muốn lên tiếng trước.

Thạch Thanh đã đưa con đến bái sư học võ của đại đệ tử phái Tuyết Sơn Phong Hỏa Thần Long Phong Vạn Lý. Tuy ông còn thâm ý khác, nhưng chính yếu vẫn là vì đứa con này hư hỏng quá, Mẫn Nhu lại hay bênh con, mình khó mà dạy dỗ. Ông thấy thái độ bọn Cảnh Vạn Chung, sợ rằng thằng con đã gây vạ lớn, liền tươi cười hỏi: “Bạch lão gia tử, Bạch lão thái thái vẫn khỏe chứ? Phong Hỏa Thần Long Phong huynh có được bình yên không?”

Vương Vạn Nhận không nhịn được nữa, lớn tiếng đáp: “Sư phụ và sư nương ta chưa bị thằng tiểu… tiểu… của ngươi làm tức đến chết là phúc lớn lắm rồi!” Chính ra họ Vương muốn mắng là thằng tiểu tạp chủng, nhưng thấy vẻ mặt Mẫn Nhu cực kỳ khổ sở nên hắn lắp bắp một chút, rồi cuối cùng dừng ngựa bên bờ vực thẳm. Tuy hắn đã nuốt mất hai chữ, nhưng chẳng cần phải nói ra miệng, chỉ nghe giọng nói cũng biết là hắn nặng lời thóa mạ.

Mẫn Nhu mắt đỏ hoe nói: “Vương đại ca! Ngọc nhi thật là quá hư hỏng, đắc tội với chư vị. Ta… ta… xin tạ tội.” Nàng nói xong, cúi mình thi lễ.

Bảy đệ tử phái Tuyết Sơn vội đáp lễ, Vương Vạn Nhận lớn tiếng nói: “Thạch đại tẩu! Thằng tiểu… tiểu… của đại tẩu thật chẳng ra gì. Nếu nó chỉ được một phần giống đại ca, đại tẩu thì đã… đã… không có gì phải nói. Có phải nó đắc tội với Vương Vạn Nhận này đâu, mà dù nó có đắc tội với ta cũng chẳng quan hệ gì. Ta nể mặt hai vị, bất quá chỉ túm lấy nó mà đấm đá một trận là xong. Nhưng nó lại đắc tội với sư phụ sư nương của ta, mà tính Bạch sư ca lại nóng như lửa. Thạch trang chúa! Không phải ta nói lấy lòng đâu, có lúc đã muốn đến thông báo cho trang chúa hay là Bạch sư ca còn muốn đốt cả Huyền Tố Trang… để hai vị tránh đi một chút. Chén rượu của trang chúa mời hôm nay, nói gì thì nói, Vương mỗ không thể uống được. Bạch sư ca mà biết ra, không trở mặt tuyệt giao với ta mới là chuyện lạ.”

Hắn nói huyên thuyên một hồi lâu, thủy chung vẫn không đề cập đến Thạch Trung Ngọc đã phạm tội gì. Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu càng nghe càng kinh hãi, nghĩ bụng: “Mình cùng phái Tuyết Sơn kết giao đã mấy đời nay, mà sao Bạch Vạn Kiếm lại căm hận đến muốn đốt Huyền Tố Trang?” Ông liền nói: “Thằng súc sinh đó thật là hư hỏng đáng chết! Sao nó lại dám đắc tội cả với lão thái gia cùng lão thái thái?”

Cảnh Vạn Chung lên tiếng: “Nơi đây là chỗ thị phi, không tiện đứng lâu. Chúng ta vừa đi vừa nói chuyện hay hơn.” Gã nói xong, rút lấy thanh trường kiếm dưới đất rồi tiếp: “Xin mời Thạch trang chúa cùng Thạch phu nhân lên đường.”

Thạch Thanh gật đầu rồi cùng Mẫn Nhu đi về phía tây, hai con ngựa từ từ đi theo. Dọc đường, Cảnh Vạn Chung cũng đã giới thiệu mấy tên sư đệ sư muội, bọn này cũng nói mấy câu khách sáo với vợ chồng Thạch Thanh.

Đoàn người đi được chừng bảy tám dặm, thấy bên đường có ba cây dẻ cành lá xòe ra như cái lọng. Cảnh Vạn Chung lên tiếng hỏi: “Thạch trang chúa! Chúng ta qua bên kia nói chuyện được chăng?”

Thạch Thanh đáp “Được lắm!” Chín người đi tới gốc cây, chia nhau ngồi trên mấy tảng đá lớn cùng mấy chỗ rễ cây nổi lên. Vợ chồng Thạch Thanh tuy trong lòng nóng nảy nhưng không tiện mở miệng hỏi ngay.

Cảnh Vạn Chung lên tiếng trước: “Thạch trang chúa! Tại hạ cùng trang chúa giao hảo đã lâu, có lời nói thẳng, xin trang chúa đừng trách. Theo ý kiến tại hạ thì trang chúa hãy giao lệnh lang cho bọn tại hạ mang đi. Tại hạ sẽ hết sức năn nỉ sư phụ, sư mẫu và Bạch sư huynh, chưa chắc đã không bảo toàn tính mệnh được cho nó. Dù nó có bị tước bỏ võ công, còn hơn để hai bên trở mặt thành cừu địch, dấy động can qua.”

Thạch Thanh rất lấy làm kỳ, nói: “Từ khi thằng nhỏ qua bên quý phái, ba năm nay tại hạ chưa được gặp nó lần nào. Hết thảy mọi việc, tại hạ thật sự chưa biết tí gì. Mong rằng Cảnh huynh nói cho tại hạ hay, đừng giấu giếm gì.” Trước nay ông vẫn gọi là “Cảnh hiền đệ”, nhưng thấy vẻ mặt đối phương giận dữ, e rằng hai chữ “hiền đệ” nói ra sẽ bị trách cứ, bèn đối cách xưng hô.

Cảnh Vạn Chung hỏi: “Thạch trang chúa không biết thật ư?”

Thạch Thanh đáp: “Không biết thật.”

Cảnh Vạn Chung vốn hiểu tính Thạch Thanh, trang chúa Huyền Tố Trang danh tiếng lẫy lừng không khi nào nói dối. Ông nói không biết, là không biết thật. Hắn liền đáp: “Thì ra Thạch trang chúa không biết gì hết.”

Mẫn Nhu không nhịn được, liền xen vào hỏi: “Vậy Ngọc nhi không ở thành Lăng Tiêu nữa ư?” Cảnh Vạn Chung gật đầu.

Vương Vạn Nhận nói: “Giả tỉ thằng tiểu… tiểu… đó hiện giờ còn ở thành Lăng Tiêu, thì dù có đến một trăm cái mạng cũng chết sạch rồi.”

Thạch Thanh trong lòng ngấm ngầm tức giận, nghĩ bụng: “Ta cho Ngọc nhi đến môn phái các ngươi học võ, chỉ vì kính trọng Bạch lão gia cùng Phong sư huynh, cũng là xem trọng võ công phái Tuyết Sơn. Nó hãy còn nhỏ tuổi, bản tính bướng bỉnh, dù có phạm môn quy gì thì các ngươi cũng phải nể mặt vợ chồng ta, sao lại nói đến chữ giết? Dù cho phái Tuyết Sơn võ công cao cường, người nhiều thế lớn, nhưng chẳng lẽ trên giang hồ không còn hai chữ đạo lý nữa hay sao?” Thế mà ngoài mặt ông vẫn thản nhiên, lạnh lùng nói: “Môn quy của quý phái vốn nghiêm ngặt, tại hạ đã biết rồi. Tại hạ đưa khuyển tử đến thành Lăng Tiêu học võ nghệ, vốn cũng muốn y học thêm khuôn phép.”

Cảnh Vạn Chung hơi trầm mặt xuống: “Thạch trang chúa nói quá lời. Tiểu tử Thạch Trung Ngọc lưu manh vô sỉ, cùng hung cực ác, nhưng không phải phái Tuyết Sơn dạy nó như thế.”

Thạch Thanh lạnh lùng hỏi: “Nó còn nhỏ tuổi như thế, thì tám chữ lưu manh vô sỉ, cùng hung cực ác từ đâu mà ra?”

Cảnh Vạn Chung quay lại bảo Hoa Vạn Tử: “Hoa sư muội! Nhờ sư muội đi xem xét bốn phía xem có ai tới đây không.” Hoa Vạn Tử dạ một tiếng rồi xách kiếm đi ngay. Vợ chồng Thạch Thanh đưa mắt nhìn nhau, đều biết rằng hắn bảo Hoa Vạn Tử ra xa là vì có chuyện không tiện nói trước mặt phụ nữ, trong lòng không khỏi thêm phần lo lắng.

Cảnh Vạn Chung thở dài nói: “Thạch trang chúa, Thạch đại tẩu! Bạch sư huynh của tại hạ không có con trai, chỉ có một đứa con gái, chắc các vị đã biết rồi. Sư điệt nữ của tại hạ năm nay mới mười ba tuổi, thông minh lanh lợi, tính tình khả ái. Bạch sư huynh dĩ nhiên yêu quý nó vô cùng, mà sư phụ sư mẫu tại hạ cũng xem nó như trái tim của mình. Có thể nói nó là tiểu công chúa của thành Lăng Tiêu trên núi Đại Tuyết. Bọn sư huynh sư đệ, sư tỷ sư muội tại hạ đều xem nó như một con phượng hoàng vậy.”

Thạch Thanh gật gật đầu nói: “Chắc là thằng con chẳng ra gì của tại hạ đã đắc tội với vị tiểu công chúa đó. Có đúng thế không?”

Cảnh Vạn Chung đáp: “Hai chữ đắc tội thì còn nhẹ quá! Nó… nó… lớn mật đến độ dám trói chặt chân tay sư điệt nữ của tại hạ, rồi lột sạch y phục, toan bề cưỡng gian.”

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu la lên: “Trời ơi!” rồi đứng phắt dậy. Mẫn Nhu sắc mặt lợt lạt hẳn đi. Thạch Thanh nói: “Sao… sao lại có việc đó được? Thạch Trung Ngọc năm nay mới mười lăm tuổi, trong vụ này tất có sự hiểu lầm.”

Cảnh Vạn Chung nói: “Bản thân tại hạ cũng thấy chuyện này khó tin, nhưng đó là chuyện thật, ngàn vạn lần là thật. Hai đứa nha hoàn trông coi tiểu điệt nữ nghe tiếng giãy giụa mà chạy vào phòng, thấy vậy liền kêu cứu, thì một đứa bị chặt đứt cánh tay, còn một đứa bị chém vào đùi, cả hai ngất xỉu tại chỗ. May mà thằng lỏi kia thấy thế kinh hãi, không dám xâm phạm tới tiểu điệt nữ nữa, chạy trốn mất dạng.”

Trong võ lâm thì sắc giới là điều đại kỵ. Ngay cả những tay hảo hán hắc đạo cướp của, giết người, đốt nhà như cơm bữa, mà phạm đến chữ dâm thì lập tức bị đồng đạo thóa mạ. Ngay cả bọn đạo tặc lục lâm cũng không dám phạm vào chuyện hiếp dâm phụ nữ một cách khinh suất, huống hồ là nhân vật hiệp nghĩa. Mẫn Nhu nghe nói thế, mặt mày tái mét, kéo tay áo lang quân hỏi: “Sư ca! Phải… phải làm thế nào bây giờ?”

Thạch Thanh nghe chuyện này cũng tan nát cõi lòng. Giả tỉ ông nghe con trai gây họa giết người thì cũng khó chịu lắm, nhưng còn chịu được, còn vụ này thật không biết làm sao cho phải. Ông cố định thần đáp: “Thế là hoàng thiên còn bảo hộ. Bạch tiểu cô nương vẫn giữ được tấm thân trong trắng, chưa bị thằng nghiệt tử của ta làm ô uế đấy chứ?”

Cảnh Vạn Chung lắc đầu đáp: “Chưa, nhưng đã đến thế thì cũng chẳng khác gì bị cưỡng gian rồi. Tính nết của sư phụ tại hạ thế nào thì trang chúa đã biết. Lão nhân gia lập tức cho người đi truy tầm thằng lỏi Thạch Trung Ngọc, dặn hễ ai thấy gã là chém chết ngay, không được để sống.”

Vương Vạn Nhân tiếp lời: “Gia sư còn nói người cùng trang chúa giao tình không ít, nếu bắt Thạch Trung Ngọc về, tất nể mặt trang chúa mà không giết nó. Tốt nhất là ai gặp nó bên ngoài thì chém một kiếm cho xong.” Cảnh Vạn Chung đưa mắt cho Vương Vạn Nhân, hình như có ý bảo hắn đừng nhiều lời quá. Vương Vạn Nhận cãi: “Sư phụ dặn thế thực. Chẳng lẽ đệ lại nói dối hay sao?”

Cảnh Vạn Chung mặc kệ hắn, nói tiếp: “Nếu thằng lỏi chỉ đả thương hai con nha đầu thì cũng chưa phải chuyện lớn. Nhưng sư điệt nữ của tại hạ tuy tuổi còn nhỏ mà tính tình cương liệt. Nó bị sỉ nhục như vậy, cảm thấy chẳng còn mặt mũi nào trông thấy ai nữa, ngồi khóc sướt mướt suốt hai ngày hai đêm ròng rã. Đến đêm thứ ba, nó lén chui cửa sổ ra ngoài, nhảy xuống vực sâu muôn trượng.”

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu lại la hoảng “Trời ơi!”. Thạch Thanh run giọng hỏi: “Rồi… rồi… có cứu được không?”

Cảnh Vạn Chung đáp: “Vực thẳm ngoài thành Lăng Tiêu thì Thạch trang chúa đã biết rồi, đừng nói là người, dù là hòn đá lăn xuống cũng vụn ra thành bụi. Một tiểu cô nương mà nhảy xuống, chắc chắn phải nát như tương.”

Một gã đệ tử phái Tuyết Sơn tên gọi Kha Vạn Quân, chừng hai bảy hai tám tuổi, cũng nói: “Oan uổng nhất là đại sư ca, vô cớ bị sư phụ chém cụt cánh tay phải.” Thanh âm của hắn cực kỳ phẫn nộ.

Thạch Thanh kinh hãi kêu lên: “Phong Hỏa Thần Long ư?”

Kha Vạn Quân đáp: “Chứ còn ai nữa? Sư phụ thương tiếc đứa cháu gái cưng, lại không bắt được thằng con của trang chúa. Người nổi trận lôi đình trong đại sảnh, la mắng Phong sư huynh dạy đồ đệ không nghiêm, chỉ ăn tốn cơm chứ chẳng biết lo lắng, còn làm sư phụ cái khỉ gió gì. Người càng la mắng càng tức giận, rồi đột nhiên rút thanh kiếm đeo sau lưng Phong sư huynh, chém đứt một cánh tay của y. Sư mẫu tại hạ liền trách sư phụ là nóng nảy đến giận cá chém thớt. Hai vị lão nhân gia gây gổ trước mặt đệ tử, càng nói càng gay cấn. Không hiểu hai vị nhắc đến chuyện gì đó ngày xưa, rồi sư phụ tát sư mẫu một cái. Sư mẫu hầm hầm chạy ra khỏi cửa, nói rằng nếu còn trở lại thành Lăng Tiêu thì không phải giống người.”

Thạch Thanh hổ thẹn không tưởng nổi, nghĩ thầm: “Ta cảm phục võ công của Phong Vạn Lý mới cho thằng con độc nhất bái làm sư phụ, ngờ đâu liên lụy đến ông ấy phải thành phế nhân. Kiếm pháp Phong Vạn Lý mãnh liệt như gió bão, như lửa cháy, nên được người ta tặng cho ngoại hiệu là Phong Hỏa Thần Long. Ông ấy có vô số kẻ thù, nay bị mất hết võ công thì e rằng suốt đời không dám rời khỏi Đại Tuyết Sơn nửa bước. Hỡi ôi! Thật là hổ thẹn với ông bạn tốt.”

Vương Vạn Nhận lại nói thêm: “Kha sư đệ! Ngươi nói đại sư ca bị oan uổng, chẳng lẽ Bạch sư ca không oan uổng hay sao? Con gái bị hại chết, Bạch sư tẩu lại phát điên.”

Thạch Thanh, Mẫn Nhu càng nghe càng kinh hãi, chỉ mong mặt đất nứt ra một cái lỗ để chui vào cho khuất. Thực tình hai người chưa biết gì đến những thảm sự con mình đã gây ra tại thành Lăng Tiêu. Thạch Thanh cắn răng hỏi tiếp: “Bạch phu nhân… làm sao mà tâm thần bất định?”

Vương Vạn Nhận đáp: “Còn không phải vì thằng con bảo bối của trang chúa ư? Tiểu điệt nữ vừa chết, Bạch sư ca lại trách sư tẩu không trông nom con cái cẩn thận, để nó nhảy qua cửa sổ trốn đi tự tử. Bạch sư tẩu đang than thân trách phận, lại còn phải nghe trượng phu trách mắng, bèn không ngớt la gọi: “A Tú! Mẹ đã hại chết con rồi! Mẹ đã hại chết con rồi!” Từ đó thần trí sư tẩu đâm ra hồ đồ. Hai vị sư tỷ đến nay vẫn không dám rời bà nửa bước, chỉ sợ bà nhảy xuống vực thẳm theo con. Thạch trang chúa! Như vậy thì Bạch sư ca của tại hạ muốn đốt Huyền Tố trang, trang chúa nói xem có nên không?”

Thạch Thanh đáp: “Nên đốt! Nên đốt! Vợ chồng tại hạ không còn mặt mũi nào trông thấy ai nữa, dù phải đi hết chân trời góc biển cũng phải tìm bắt thằng nghiệt tử, đích thân đưa đến thành Lăng Tiêu, treo cổ trước linh vị Bạch cô nương…” Mẫn Nhu nghe tới đây, đột nhiên nấc lên một tiếng rồi ngất đi, ngã lăn vào lòng Thạch Thanh. Thạch Thanh liên tiếp nắn vỗ vào huyệt mạch, hồi lâu nàng mới dần dần tỉnh lại.

Vương Vạn Nhận lại nói: “Thạch trang chúa! Phái Tuyết Sơn còn có hai nhân mạng nữa phải ghi vào món nợ ở Huyền Tố Trang.”

Thạch Thanh kinh hãi hỏi: “Lại còn hai nhân mạng nữa ư?” Thạch Thanh vốn là người quen chịu sóng to gió lớn, nhưng chưa bao giờ gặp phải chuyện ác nghiệt như hôm nay. Năm xưa con thứ của ông là Thạch Trung Kiên bị kẻ thù giết chết, tuy ông vừa phẫn nộ vừa đau lòng đến cực điểm, nhưng cũng không bằng hôm nay phải vừa nhục nhã vừa kinh hãi. Giọng nói ông khản hẳn đi.

Vương Vạn Nhận lại tiếp: “Khi phái Tuyết Sơn gặp phải biến cố này, sư phụ đã phái mười tám đệ tử xuống núi, Bạch sư huynh cầm đầu một toán tới Giang Nam để đốt Huyền Tố Trang, lại còn dặn… còn dặn…” Hắn nói tới đây thì ấp úng không nói được nữa. Cảnh Vạn Chung vội đưa mắt ra hiệu ngăn lại.

Thạch Thanh rất hiểu đời, xem vẻ mặt hai người đã đoán ra họ muốn nói gì. Ông liền hỏi: “Chắc là dặn bắt vợ chồng tại hạ đem lên Đại Tuyết Sơn để đền mạng cho Bạch cô nương chứ gì?”

Cảnh Vạn Chung vội nói: “Thạch trang chúa nặng lời rồi. Đừng nói bọn tại hạ không dám, mà dù có đủ can đảm thì mấy chiêu võ công thô thiển làm sao mà mời được vợ chồng trang chúa? Sư phụ tại hạ chỉ dặn: Bất luận thế nào cũng phải tìm cho bằng được lệnh lang. Nhưng nó tuy nhỏ tuổi mà đã cực kỳ lanh lợi, nếu không thì trong thành Lăng Tiêu đông người truy bắt như vậy, làm sao nó biến mất được?”

Mẫn Nhu sa lệ nói: “Thế thì nhất định là Ngọc nhi nhảy xuống vực thẳm tự tử rồi.”

Cảnh Vạn Chung lắc đầu đáp: “Không phải. Dấu giày gã đi trên mặt tuyết lúc xuống núi rất rõ rệt, về sau lại phát hiện dấu giày đó ở một ngọn đồi. Nói ra xấu hổ, bọn tại hạ bao nhiêu người lớn mà không bắt nổi một thằng nhóc mười lăm mười sáu tuổi. Tệ sư phụ quả có ý mời hai vị đến thành Lăng Tiêu để bàn luận kế hoạch sau này.”

Thạch Thanh cố trấn tĩnh nói: “Nói qua nói lại, cũng chỉ là muốn bắt chúng ta phải đền mạng cho Bạch cô nương mà thôi. Vương sư huynh bảo còn hai mạng người phải tính, không hiểu là chuyện gì?”

Vương Vạn Nhận đáp: “Tại hạ vừa nói mười tám đệ tử chia làm hai, một toán chín người đi xuống Giang Nam. Còn toán kia thì do Cảnh sư huynh dẫn đi các nơi ở Trung Nguyên để tìm tung tích của con trai trang chúa. Nhưng thật là xui xẻo, thật là họa vô đơn chí…”

Cảnh Vạn Chung ngắt lời: “Vương sư đệ! Sư đệ bất tất phải nói nữa, vụ đó không liên quan gì đến Thạch trang chúa.”

Vương Vạn Nhận cãi: “Sao lại không liên quan? Nếu không vì thằng nhỏ đó thì Tôn sư ca cùng Chử sư đệ đâu đến nỗi phải uổng mạng một cách không minh bạch? Hơn nữa, đối thủ là ai, chúng ta vẫn chưa biết. Rồi đây về núi, Cảnh sư huynh sẽ bẩm lại với sư phụ như thế nào? Sư phụ mà nổi cơn thịnh nộ thì e rằng cánh tay của sư huynh khó mà bảo toàn được. Vợ chồng Thạch trang chúa giao du rất rộng, mình nói ra để hai vị đi nghe ngóng tin tức giùm có phải hơn không?”

Cảnh Vạn Chung nhớ tới Phong sư huynh bị cái thảm chặt tay, liền nghĩ ngay đến mình không có cách nào để phục mệnh cùng sư phụ. Hắn cũng cho rằng nhờ vợ chồng Thạch Thanh đi dò la tin tức cũng là một cách giải quyết, bèn đáp: “Được rồi! Sư đệ muốn kể thì cứ kể đi!”

Vương Vạn Nhận nói: “Thạch trang chúa! Trước đây ba hôm, bọn tại hạ được tin có một tên họ Ngô lấy được Huyền Thiết Lệnh, mai danh ẩn tích tại Hầu Giám Tập ngoài thành Biện Lương, giả làm một lão già bán bánh tiêu. Bọn sư huynh đệ tại hạ chín người bèn thương lượng với nhau, đều cho rằng tróc nã Thạch Trung Ngọc phải gặp may mới được. Thiên hạ bao la biết tìm đâu cho thấy? Nếu mười năm không tìm thấy gã, bọn huynh đệ tại hạ cũng mười năm không dám trở về thành Lăng Tiêu. Giả tỉ bọn tại hạ lấy được Huyền Thiết Lệnh thì dù không bắt được lệnh lang, cũng còn có chút công để về gặp sư phụ. Trong lúc bàn định, không khỏi có người trách mắng lệnh lang tuổi nhỏ gan lớn, thật là đáng chết. Đột nhiên có tiếng một lão già cười ha hả, nói vọng vào: “Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Thiếu niên như thế thật là hiếm có, thật là lương tài mỹ chất. Trên đời khó mà tìm được con người như gã!”

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu đưa mắt nhìn nhau, nghĩ bụng: “Người ta tán dương con mình như vậy, nghe còn khó chịu hơn là thóa mạ.”

Vương Vạn Nhận kể tiếp: “Lúc đó bọn tại hạ nói chuyện trong phòng khách điếm, bốn mặt đều là tường gạch. Thế mà thanh âm kia lọt qua tường vào, nghe rõ ràng chẳng khác gì ngồi đối diện. Chín người bọn tại hạ cũng nói rất khẽ, không hiểu sao lão lại nghe được.”

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu động tâm nghĩ thầm: “Cách tường gạch mà nghe rõ, không chừng là tường có lỗ hổng hay khe nứt, cũng không chừng có người ngồi dưới cửa sổ nghe lén. Có khi bọn này cãi cọ om sòm mà lại tự cho là nói khẽ, thì cũng chẳng lấy chi làm kỳ. Nhưng cách tường mà nói cho bên này nghe rõ mồn một, dĩ nhiên nội công lão già đó phải thâm hậu vô cùng. Bọn này dọc đường gặp phải cao nhân, thật là bão trước chưa tan, bão sau lại đến.”

Kha Vạn Quân xen vào: “Bọn tại hạ nghe thấy thanh âm đó, đều phải ngẩn ra. Vương sư ca liền quát lên: “Thế này thì chịu làm sao được? Sao lại có kẻ đi nghe lén chuyện người khác thế kia?” Vương sư ca vừa quát hỏi, bên kia im bặt không còn có âm thanh gì nữa. Một lúc sau, lão tặc kia lại lên tiếng: “A Đang! Bọn này đều là người phái Tuyết Sơn. Sư phụ của chúng là lão họ Bạch, là kẻ mà gia gia ghét nhất trên đời. Nay lại có một thằng lỏi làm cho lão… phái Tuyết Sơn phải tan cửa nát nhà, thế có thú không? Ha ha, thật là tuyệt diệu.” Bọn tại hạ nghe họ nói thế, thì muốn nổi xung ngay lập tức, nhưng Cảnh sư ca vội xua tay ra hiệu cho mọi người đừng lên tiếng.”

“Lại nghe tiếng một tiểu cô nương vừa cười khanh khách vừa nói: “Thú quá! Thú quá! Nhưng lão chưa tức đến chết, thì cũng chưa phải là tuyệt thú.” Con bé đó còn nói mấy câu quỷ quái gì nữa, nhưng cách tường nên nghe cũng không rõ lắm. Chỉ nghe lão già kia ho mấy tiếng rồi nói: “Nếu lão… tức quá mà chết đi thì lại chẳng có gì thú nữa. Để khi gia gia rảnh rỗi dắt ngươi đến thành Lăng Tiêu núi Đại Tuyết, đích thân chọc lão… phải tức đến chết cho ngươi xem, mới thật là thú!” Hắn chỉ nói là “lão…” còn lão gì thì hàm hồ bỏ qua. Chắc là lúc lão già nhắc đến tên sư phụ hắn đã dùng chữ rất hỗn xược, nên hắn phải lờ đi, không dám kể nguyên văn.

Thạch Thanh nói: “Người này cực kỳ vô lễ, dám bất kính cả với Bạch lão gia. Chẳng hiểu hắn dựa vào đâu mà dám thế? Chúng ta không thể bỏ qua cho hắn được.”

Vương Vạn Nhận nói: “Đúng thế! Lão tặc đó coi dưới mắt không người, chúng ta có thí mạng thì cũng phải đấu với hắn một phen. Bọn tại hạ đang tức không chịu nổi, thì nghe có tiếng “úi chà” trong phòng khách, còn phòng bên có tiếng kẹt cửa, hai người tiến vào trong viện. Bọn tại hạ đều rút kiếm ra, muốn xông vào trong viện ngay, nhưng Cảnh sư ca lại khoát tay bảo anh em đừng nóng nảy. Bỗng nghe lão tặc kia lại nói: “A Đang! Hôm nay ta đã giết mấy người rồi?” Con tiểu quỷ kia đáp: “Mới giết có một tên.” Lão tặc lại nói: “Vậy bây giờ có thể giết hai tên nữa.”

Thạch Thanh bỗng “ồ” lên một tiếng, rồi nói: “Nhất Nhật Bất Quá Tam!”

Cảnh Vạn Chung từ nãy vẫn ngồi yên không nói gì, bây giờ vội hỏi: “Thạch trang chúa! Trang chúa có biết lão già đó ư?”

Thạch Thanh lắc đầu đáp: “Tại hạ cũng không biết hắn, nhưng có được nghe tiên phụ đề cập đến. Trong võ lâm có một nhân vật như vậy, ngoại hiệu là Nhất Nhật Bất Quá Tam gì đó, tự hạn chế một ngày nhiều lắm là chỉ giết ba người. Sau khi lão giết người thứ ba rồi, tự nhiên mềm lòng đi, không muốn hạ thủ giết người thứ tư nữa.”

Vương Vạn Nhận cất tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó! Một ngày giết ba người còn chưa đủ ư? Thứ gian ác như vậy mà còn sống được đến nay mới là chuyện lạ.”

Thạch Thanh không nói gì, nghĩ thầm: “Nghe nói lão tiền bối họ Đinh này hành sự nửa chính nửa tà, tuy tàn nhẫn hiếu sát, nhưng chưa nghe nói đã phạm trọng tội gì. Những người lão giết đều là đáng chết.” Nhưng mấy câu này mà nói ra là đụng chạm đến phái Tuyết Sơn, nên ông không nói.

Cảnh Vạn Chung lại hỏi: “Không hiểu lão tặc đó tên họ là gì? Thuộc môn phái nào?”

Thạch Thanh đáp: “Tại hạ nghe nói lão họ Đinh, tên thật là gì cũng không biết rõ, chỉ biết ngoại hiệu lão là Nhất Nhật Bất Quá Tam. Các vị tiền bối thường gọi tắt là Đinh Bất Tam.”

Kha Vạn Quân tức tối nói: “Lão tặc đó đúng là cái thứ hồ đồ Bất Tam Bất Tứ.”

Thạch Thanh nói: “Tại hạ còn nghe nói nhà đó có ba anh em. Lão còn một người anh là Đinh Bất Nhị, một người em là Đinh Bất Tứ.”

Vương Vạn Nhận lại mắng: “Con mẹ nó. Bất Nhị Bất Tam, Bất Tam Bất Tứ, lại có những cái tên thối như rắm chó đó hay sao?”

Cảnh Vạn Chung nói: “Vương sư đệ! Trước mặt Thạch đại tẩu, không nên buột miệng như thế.” Vương Vạn Nhận “Vâng” một tiếng, rồi quay sang Mẫn Nhu tạ lỗi.

Mẫn Nhu chỉ mỉm cười rồi nói: “Không chừng đó chỉ là ngoại hiệu. Làm gì có những cái tên cổ quái như thế?”

Thạch Thanh nói: “Địa vị anh em nhà họ Đinh trong võ lâm không phải tầm thường. Chắc Bạch lão gia có chuyện gì xích mích với lão nên không đề cập tới, vì thế mà các vị huynh đệ không biết đến. Thế rồi sao nữa?”

Vương Vạn Nhận kể tiếp: “Bỗng nghe lão tặc thúi mồm thúi miệng đó hỏi: “Có tên nào là Tôn Vạn Niên đó không? Lại còn một tên Chử Vạn Xuân nữa, hai ngươi chường mặt ra đây!” Nghe lão hống hách như vậy, bọn tại hạ còn nhẫn nại làm sao được, cả chín người liền xông ra một lúc. Nhưng lạ thay, trong viện chẳng có lấy một người. Mọi người tìm khắp bốn mặt, nhảy cả lên nóc nhà dòm ngó mà vẫn không thấy bóng một ai hết. Kha sư đệ thấy cửa phòng khách chỉ khép hờ liền xông vào, chỉ thấy một ngọn đèn cầy đặt trên bàn, chẳng thấy ma nào.”

“Bọn tại hạ còn đang nghi hoặc, thì nghe trong chính phòng mình có tiếng người, đúng là thanh âm lão tặc kia. Hắn nói: “Tôn Vạn Niên! Chử Vạn Xuân! Hai ngươi ở Lương Châu đã dám nhìn cháu gái của ta không chớp mắt, chỉ trỏ trêu ghẹo, mặt mũi đầy vẻ dâm tà. Cháu gái ta tuổi tác còn nhỏ, nhưng dung nhan xinh đẹp, hai thằng súc sinh này nhất định đã nảy ra những ý định xấu xa. Như vậy thì các ngươi còn oan uổng gì nữa không? Mau mau bước vào đây!” Tôn sư ca và Chử sư ca càng nghe càng cáu giận, sùng sục chống kiếm vào phòng. Cảnh sư ca la lên: “Phải cẩn thận đấy! Chúng ta xông cả vào đi!” Trong phòng đèn lửa tắt hết mà không thấy động tĩnh chi cả. Tại hạ lớn tiếng gọi: “Tôn sư ca! Chử sư ca!”. Nhưng không thấy hai người đáp lại, mà trong phòng cũng không có tiếng đánh nhau.”

“Bọn tại hạ đều sợ đến dựng tóc gáy, vội bật lửa lên xem thì thấy hai vị sư ca quỳ ngay ngắn dưới đất, trường kiếm để một bên. Cảnh sư ca và tại hạ vội nhảy vào để đỡ hai người dậy, nhưng vừa đụng đến thì hai người đã lăn ra đất, thì ra tắt thở chết rồi! Tại hạ sờ khắp thân thể hai người chẳng thấy vết thương nào, chẳng hiểu lão tặc kia đã dùng bùa phép ma quỷ gì hạ sát hai vị sư ca. Nói ra xấu hổ, từ đầu đến cuối bọn tại hạ không thấy bóng lão tặc và con tiểu quỷ.”

Kha Vạn Quân nối lời: “Dọc đường ở Lương Châu, bọn tại hạ chẳng hề để ý đến người già người trẻ chi hết. Mà cho dù hai vị sư ca có nhìn cháu gái của lão mấy cái, thì có gì đáng kể đâu.”

Thạch Thanh, Mẫn Nhu lẩm nhẩm gật đầu. Mọi người cùng im lặng mất một lúc.

Thạch Thanh lên tiếng: “Cảnh huynh! Thằng nghiệt chướng của tại hạ đã gây nên đại họa ở thành Lăng Tiêu vào ngày nào vậy?”

Cảnh Vạn Chung đáp: “Mùng mười tháng chạp.”

Thạch Thanh gật đầu nói: “Hôm nay đã là mười hai tháng ba, thế là Bạch sư huynh rời khỏi thành Lăng Tiêu đã ba tháng, bây giờ chắc Huyền Tố trang đã bị đốt rồi. Cảnh huynh, Vương huynh cùng các vị huynh đệ! Vợ chồng tại hạ có hai việc phải làm. Thứ nhất là đi tìm thằng nghiệt chướng, nếu bắt được sẽ trói đem về thành Lăng Tiêu để thỉnh tội cùng Bạch lão gia, Phong huynh và Bạch huynh. Thứ hai là phải dò la tin tức lão Nhất Nhật Bất Quá Tam. Vợ chồng tại hạ tuy không làm gì được lão, nhưng sẽ báo tin cho Bạch lão gia hay để lão nhân gia thân hành xuất mã đi lo liệu việc này. Xin cáo biệt.” Thạch Thanh nói xong, bèn chắp tay thi lễ cùng mọi người toan quay lưng đi.

Kha Vạn Quân vội hỏi: “Trang chúa… tưởng chỉ nói mấy câu rồi phủi tay bỏ đi mà được ư?”

Thạch Thanh hỏi: “Kha huynh đệ còn điều gì muốn nói?”

Kha Vạn Quân đáp: “Chúng ta không kiếm được thằng con của trang chúa, chỉ còn cách mời vợ chồng trang chúa cùng đến thành Lăng Tiêu để gặp sư phụ ta, mới coi là xong được.”

Thạch Thanh nói: “Dĩ nhiên là vợ chồng tại hạ phải lên thành Lăng Tiêu, nhưng phải tìm ra một chút manh mối trước đã, rồi mới nói chuyện được.”

Kha Vạn Quân hết nhìn Cảnh Vạn Chung lại nhìn Vương Vạn Nhận. Gã phẫn nộ nói: “Giả tỉ sư phụ biết là chúng ta gặp vợ chồng Thạch trang chúa mà không mời được hai vị lên núi thì… thì… chẳng hóa ra…”

Thạch Thanh đã biết ý hắn muốn cậy nhiều người để thủ thắng, cưỡng bức vợ chồng mình phải lên núi Đại Tuyết, bắt không được con thì đem cha ra thường mạng. Ông liền nói: “Bạch lão gia đức cao trọng vọng, oai danh lừng lẫy một góc trời Tây. Tại hạ đối với lão gia trước nay vẫn đem lòng tôn kính như bậc sư trưởng. Giả tỉ Bạch huynh ở đây, vâng mệnh Bạch lão gia gọi tại hạ đến thành Lăng Tiêu, thì nhất định tại hạ phải tuân mệnh. Thôi bây giờ đành thế này vậy.” Thạch Thanh tháo thanh hắc kiếm sau lưng ra, rồi nhìn Mẫn Nhu nói: “Sư muội! Muội cũng bỏ kiếm ra đi!” Mẫn Nhu vâng lời tháo kiếm. Thạch Thanh nâng song kiếm trên lòng bàn tay, đưa cho Cảnh Vạn Chung nói: “Cảnh huynh! Xin Cảnh huynh áp tải khí giới của vợ chồng tại hạ về trước.”

Cảnh Vạn Chung vốn biết đôi Hắc Bạch song kiếm này là binh khí quý giá hiếm có trên đời, trước nay vợ chồng Thạch Thanh coi trọng như tính mạng. Bây giờ ông đã tháo kiếm ra giao nộp, thì phái Tuyết Sơn đã có thể diện lắm rồi, cứ giữ song kiếm thì nhất định ông sẽ phải đến thành Lăng Tiêu để lấy về. Hắn bèn định nói mấy lời khiêm tốn rồi nhận lấy kiếm.

Bỗng dưng Kha Vạn Quân lại lớn tiếng: “Sư điệt nữ thác oan, Phong sư ca bị chặt một cánh tay, sư nương bỏ núi ra đi, Bạch sư tẩu phát điên, lại thêm Chử sư ca và Tôn sư ca chết không minh bạch. Chẳng lẽ hai thanh kiếm lại đủ để đền bồi hay sao? Cảnh sư ca có giao tình với ngươi, còn Kha mỗ thì không quen không biết ngươi. Họ Thạch kia! Hôm nay bất luận ngươi muốn hay không muốn, cũng phải về thành Lăng Tiêu.”

Thạch Thanh mỉm cười nói: “Tiểu nhi đã đắc tội rất nặng nề với quý phái, nhưng tại hạ ngoài cách tạ tội, cũng không còn biết nói gì. Kha sư huynh là một nhân tài của phái Tuyết Sơn, bản lãnh cao cường, tương lai rạng rỡ. Tại hạ tuy chưa được quen biết, nhưng đã ngưỡng mộ thanh danh của Kha sư huynh từ lâu, hôm nay được gặp thật là may mắn.” Hai tay ông vẫn nâng hai thanh trường kiếm, chờ Cảnh Vạn Chung đưa tay ra đón lấy.

Kha Vạn Quân nghĩ bụng: “Nếu bây giờ bọn mình bắt vợ chồng tên này phải lên Đại Tuyết Sơn thì khó lòng tránh khỏi một cuộc ác đấu. Hắn đã chịu đưa hai thanh bảo kiếm, thì còn gì hay hơn nữa? Cái đó kêu bằng tự mình gây nên tội nghiệt, còn trách ai được?” Gã sợ Thạch Thanh đột nhiên đổi ý mà thu kiếm về, liền tiến lên hai bước, thi triển công phu cầm nã của bản môn nắm chặt lấy hai thanh kiếm, rồi nói: “Vậy thì ta phải giữ binh khí của ngươi trước.” Gã toan lấy kiếm về, thì đột nhiên cảm thấy hai thanh kiếm như bị dính chặt vào lòng bàn tay Thạch Thanh, không thể nào kéo ra được.

Kha Vạn Quân cả kinh, vận kình lực vào hai cánh tay, quát một tiếng: “Lên!”. Ngờ đâu, ngay trong lúc hắn ra sức giật về thì sức hút trong lòng bàn tay Thạch Thanh đột nhiên biến mất.

Kha Vạn Quân đã vận công lực như để nhấc một vật nặng mấy trăm cân, mà hoàn toàn không có đối trọng, kình lực dồn hết vào cổ tay của mình. Chỉ nghe mấy tiếng lắc cắc, gã bị trật khớp cả hai cổ tay, la to lên một tiếng: “Úi chao!” Mười ngón tay gã lại lỏng ra, hai thanh kiếm lại rớt xuống lòng bàn tay Thạch Thanh.

Những người đứng quanh đều thấy rõ ràng hai bàn tay Thạch Thanh vẫn để yên, ngay cả đầu ngón út cũng không nhúc nhích, chỉ là Kha Vạn Quân vận lực bừa bãi, dùng lực đạo mấy trăm cân để tự giật sái cổ tay mình. Kha Vạn Quân vừa giận dữ vừa đau đớn, phóng chân toan đá vào bụng Thạch Thanh.

Cảnh Vạn Chung vội la lên: “Không được vô lễ!” Hắn vừa la gọi vừa nắm lấy lưng Kha Vạn Quân kéo lùi lại phía sau, thành ra phát cước này không trúng vào người Thạch Thanh được.

Cảnh Vạn Chung biết nội lực Thạch Thanh cực kỳ lợi hại. Giả tỉ Kha Vạn Quân đá trúng vào người Thạch Thanh, thì không chừng chính chân phải của hắn bị chấn động mà gãy mất. Về võ công cũng như về kiến thức, Cảnh Vạn Chung còn cao hơn Kha Vạn Quân rất nhiều. Hắn hít một hơi dài, vận nội kình vào mười đầu ngón tay rồi từ từ đưa ra cầm lấy hai thanh kiếm. Mười đầu ngón tay hắn vừa đụng vào kiếm thì toàn thân đã run bắn lên như bị điện giật, rồi một luồng nhiệt khí truyền vào trong ngực. Hiển nhiên Thạch Thanh đã dồn nội lực vào song kiếm. Gã la thầm: “Hỏng rồi!”, nghĩ rằng Thạch Thanh đã bày ra cạm bẫy để đưa mình vào thế phải tỉ đấu nội lực. Người luyện võ mà tỉ đấu nội lực là nguy hiểm nhất, ai mạnh hơn thì sống, còn kẻ yếu chắc chắn phải chết, không có cách nào tránh được. Trường hợp hai người nội lực chênh lệch không nhiều thì không chừng phải chết cả hai, muốn nhường nhịn hay muốn rút lui cũng không phải dễ. Lúc này tình thế nguy hiểm, không có cách nào xoay chuyển, Cảnh Vạn Chung chỉ còn cách vận nội lực để chống đỡ. Không ngờ nội lực của hai bên vừa đụng vào nhau, lập tức Cảnh Vạn Chung bị hất ngược trở lại.

Bấy giờ Thạch Thanh mới từ từ xoay tay lại, đặt song kiếm vào tay Cảnh Vạn Chung, rồi cười nói: “Chúng ta tình như huynh đệ, khi nào vì chuyện này mà để tổn thương hòa khí? Xin cáo từ.”

Lưng Cảnh Vạn Chung toát mồ hôi lạnh, biết nội lực của mình so với Thạch Thanh hãy còn kém rất xa. Vừa rồi nội lực của mình mới đụng vào nội lực của ông mà đã bị hất văng ra, dĩ nhiên không phải là đối thủ. Ông không đả thương hay làm mất thể diện mình, là đã hạ thủ lưu tình. Cảnh Vạn Chung cầm lấy hai thanh kiếm đứng ngẩn người ra, vẻ mặt đầy vẻ hổ thẹn, không biết nói thế nào cho phải.

Thạch Thanh quay lại bảo: “Sư muội! Bây giờ chúng mình vào thành Biện Lương.”

Mẫn Nhu khóe mắt đỏ hoe, ấp úng nói: “Sư ca! Hài nhi…”

Thạch Thanh lắc đầu ngắt lời: “Thà như Kiên nhi bị người ta chém chết, còn dễ chịu hơn.”

Nước mắt Mẫn Nhu trào ra như mưa. Nàng nghẹn ngào nói: “Sư ca! Huynh… huynh…” Thạch Thanh đưa tay ra nắm lấy tay nàng, dắt đến bên con ngựa trắng, rồi đỡ lên yên. Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn thấy Mẫn Nhu dáng người yểu điệu, thật khó mà tin được đây lại là Băng Sương Thần Kiếm oai chấn giang hồ.

Hoa Vạn Tử thấy Huyền Tố Song Kiếm cưỡi ngựa sóng vai đi khỏi, liền quay về chỗ cũ, Vương Vạn Nhận đang sửa khớp cổ tay cho Kha Vạn Quân. Còn Kha Vạn Quân thì đang ngoác mồm ra mà thóa mạ, hết “lão gia tử” lại “con mẹ nó”. Hoa Vạn Tử hỏi rõ mọi chuyện, bất giác chau mày nói: “Cảnh sư ca! Vụ này e rằng không ổn.”

Cảnh Vạn Chung hỏi: “Có gì mà không ổn? Đối phương võ công cao quá, dù bọn ta có hợp lực bảy người cũng chẳng giữ họ lại được. Hiện giờ mình áp tải binh khí của họ về thành Lăng Tiêu, cũng có thể phúc trình sư phụ.” Rồi hắn rút kiếm ra khỏi vỏ. Bạch kiếm trắng như tuyết, Hắc kiếm đen như mực, hai thanh kiếm tỏa ra những luồng hàn khí ghê gớm, tưởng chừng như xông vào da thịt làm cho tê nhức. Quả là hai thanh bảo kiếm hiếm thấy trên đời. Hắn bèn nói: “Đôi kiếm này không phải là giả.”

Hoa Vạn Tử đáp: “Kiếm là thật, nhưng chúng ta đã không giữ được người thì e rằng cũng khó giữ được hai thanh bảo kiếm này.”

Cảnh Vạn Chung động tâm hỏi lại: “Hoa sư muội nói sao?”

Hoa Vạn Tử đáp: “Năm ngoái có một hôm tiểu muội ngồi rỗi nói chuyện với Bạch sư tẩu, có đề cập đến bảo đao bảo kiếm trong thiên hạ. Lúc ấy thằng giặc non Thạch Trung Ngọc cũng đứng bên hớt lẻo, khoe Hắc Bạch Song Kiếm của song thân gã là lợi khí vào bậc nhất thiên hạ. Gã còn nói, song thân gã cho gã lên Đại Tuyết Sơn học võ mấy năm không gặp thì còn được, chứ nhất định không rời đôi kiếm này lấy một ngày. Lúc này Thạch trang chúa đã giao bảo kiếm vào tay chúng ta, không chừng mấy ngày sau họ tìm cách lén đoạt lại. Rồi sau này họ lại đến thành Lăng Tiêu đòi kiếm, thì chúng ta khó mà trả lời được.”

Kha Vạn Quân nói: “Bảy huynh đệ chúng ta cứ giương mắt ra mà nhìn, thì dù hai thanh kiếm này có phép thần thông, mọc cánh cũng không bay đi nổi.”

Cảnh Vạn Chung im lặng một chút rồi nói: “Hoa sư muội không nên quá lo lắng. Thạch Thanh tuy là nhân vật không phải tầm thường, nhưng chúng ta gia tâm đề phòng thì họ muốn lật ngược thế cờ cũng không phải dễ.”

Vương Vạn Nhận cũng nói: “Đề phòng cẩn thận là chuyện rất đúng. Bắt đầu từ hôm nay, sáu nam nhân chúng mình phải thay phen mà trông nom đôi quỷ kiếm này.” Hắn ngừng một chút, rồi lại hỏi: “Cảnh sư ca! Bây giờ vợ chồng thằng cha họ Thạch đi vào thành Biện Lương. Chúng mình có nên đi không?”

Cảnh Vạn Chung suy tính, nếu nói không đi thì tỏ ra khiếp nhược. Đã xuống Trung Nguyên mà không vào nơi đô hội như thành Biện Lương thì chẳng khác gì qua cửa mà không vào nhà, sau này huynh đệ đồng môn nhắc tới thì thật là mất mặt. Nhưng đã biết rõ vợ chồng Thạch Thanh hiện ở thành Biện Lương, mà cứ đem bảo kiếm vào thành, thì thật là mạo hiểm. Hắn trầm ngâm một lúc mà chưa quyết định được.

Bỗng nghe có tiếng quát tháo om sòm, trên đường lớn có một đội quan binh đi tới. Trong đám này có bốn tên kiệu phu khiêng một cỗ kiệu lớn buông rèm xanh, đúng là quan phủ đến.

Cảnh Vạn Chung nghĩ bụng, ở Hầu Giám Tập vừa xảy ra án mạng, cường đạo giết người cướp của. Bọn mình bảy người tay cầm binh khí tụ tập ở đây, không khỏi làm cho người ta phải nghi ngờ. Giả tỉ có xích mích gì với quan phủ thì thật là phiền phức. Hắn liếc mắt nhìn mọi người rồi nói: “Đi thôi!”

Bảy người toan lánh đi cho mau, thì một tên sai nha đã lớn tiếng la: “Đứng lại! Quân cường đạo giết người kia đừng chạy nữa!” Cảnh Vạn Chung không thèm nói gì, vẫy tay cho đồng bọn đi mau. Bỗng lại nghe tiếng sai nha la lên: “Hung thủ giết người là Bạch Tự Tại, chính là lão bất tử chưởng môn của phái Tuyết Sơn. Lão Vô uy vô đức Bạch Tự Tại chỉ chuyên cướp của giết người, thật là tội phạm nguy hiểm.”

Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn nghe vậy thì vừa kinh hãi vừa tức giận. Sư phụ bọn chúng là Bạch Tự Tại, ngoại hiệu Uy Đức tiên sinh. Tên sai nha này dám gọi thẳng tên lão ra thì đã là bất kính, còn dám nói là Vô uy vô đức. Nghe soạt một tiếng, Vương Vạn Nhận rút trường kiếm ra khỏi vỏ, thét lớn: “Đồ cẩu quan vô lễ! Ta phải cắt lưỡi ngươi trước rồi sẽ nói chuyện sau.”

Cảnh Vạn Chung vội cản: “Vương sư đệ hãy khoan! Bọn quan nha làm gì biết được ngoại hiệu cùng tên húy sư phụ? Dĩ nhiên sau lưng chúng còn có người sai khiến.” Hắn liền băng mình tiến lên, chắp tay hỏi: “Không hiểu là vị trưởng quan nào giá lâm?”

Đột nhiên nghe véo một tiếng, từ trong kiệu bay ra một mũi ám khí, bắn trúng vào huyệt Phục Thố trên đùi Cảnh Vạn Chung. Ám khí này rất nhỏ bé, nhưng lực đạo cực kỳ mãnh liệt, chân Cảnh Vạn Chung tức thì mềm nhũn, ngã lăn ra. Nhưng tay hắn vẫn rút trường kiếm ra, vận kình phóng vào trong kiệu. Người hắn tuy té xuống đất, nhưng vẫn sử được chiêu Hạc Phi Cửu Thiên vừa độc địa vừa chuẩn xác. Nghe vù một tiếng, thanh kiếm xuyên qua rèm kiệu đâm vào, hiển nhiên đã trúng người vừa phóng ám khí.

Cảnh Vạn Chung cả mừng, nhưng thấy bốn tên kiệu phu vẫn khiêng kiệu chạy như bay. Bỗng thấy một chiếc roi ngựa từ trong kiệu tung ra, cuốn vào chân trái Vương Vạn Nhận, giật mạnh một cái. Người Vương Vạn Nhận bị hất tung lên, thanh Hắc Kiếm trong tay gã bị roi ngựa cuốn mất.

Hoa Vạn Tử la lên: “Có phải Thạch trang chúa đấy không?” Nàng rút thanh Bạch Kiếm ra khỏi vỏ, toan chém tới cái roi ngựa. Lại nghe véo một tiếng, từ trong kiệu lại bay ra một viên ám khí trúng vào cổ tay nàng. Hoa Vạn Tử cổ tay tê nhức, làm rơi thanh Bạch Kiếm xuống đất. Một gã sư huynh liền đưa chân ra đạp lên thanh kiếm. Đột nhiên trong kiệu lại bay ra một vật chụp lấy đầu gã này. Gã bỗng thấy trước mắt tối sầm lại, vội co chân nhảy lùi ra sau, đồng thời đưa tay lên kéo vật trên đầu ra liệng xuống đất, nhìn lại thì ra một cái mũ của quan binh. Cái roi ngựa lại từ trong kiệu vung ra, quấn lấy thanh Bạch Kiếm rồi giật vào trong kiệu.

Bọn Kha Vạn Quân hò hét đuổi theo. Ám khí trong kiệu lại bay ra không ngớt, bọn đệ tử Tuyết Sơn kẻ bị trúng mặt, người bị trúng lưng, không ai tránh thoát, tuy không trúng vào chỗ trọng yếu, nhưng cũng đau đớn vô cùng. Mọi người nhìn lại loại ám khí này thì không khỏi kinh hãi. Đây toàn là khuy áo bằng đồng, hiền nhiên vừa giật ở áo ra. Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn đoán chắc người trong kiệu là Thạch Thanh, không chừng lại là cả hai vợ chồng, nếu đuổi theo động thủ thì cũng chỉ thêm mất thể diện.

Kha Vạn Quân giận quá thét lên: “Cái ổ họ Thạch này, thằng nhỏ đã lưu manh vô sỉ, thằng lớn lại càng vô sỉ lưu manh. Hắn vừa gửi binh khí làm tin, chớp mắt đã cướp lại rồi.”

Vương Vạn Nhận cũng trỏ tay về phía sau kiệu, dậm chân thóa mạ: “Quân chó đẻ! Đồ đê tiện!”

Cảnh Vạn Chung lên tiếng: “Vụ này mà đồn đại ra ngoài thì chẳng lợi gì cho danh tiếng phái Tuyết Sơn chúng ta. Mọi người phải giữ mồm giữ miệng là hơn, quay về bẩm báo với sư phụ rồi sẽ tính.”

Chuyến đi này liên tiếp thất bại, lúc ở thành Lăng Tiêu núi Đại Tuyết thì tự cao tự đại võ công phái Tuyết Sơn thiên hạ vô địch, nào ngờ khi gặp chuyện thì đụng đâu cũng như bị trói hết tay chân. Hắn không nhịn nổi phải thở dài sườn sượt, mặt đầy vẻ ảm đạm.

comments

HIỆP KHÁCH HÀNH