Hồi 01: Huyền Thiết Lệnh

Hồi 01: Huyền Thiết Lệnh

Triệu khách mạn hồ anh

Ngô câu sương tuyết minh

Ngân yên chiếu bạch mã

Tạp đạp như lưu tinh

Thập bộ sát nhất nhân

Thiên lý bất lưu hành

Sự liễu phất y khứ

Thâm tàng thân dữ danh

Nhàn quá Tín Lăng ẩm

Thoát kiếm tất tiền hoành

Tương chích đạm Chu Hợi

Trì khương khuyến Hầu Doanh

Tam bôi thô nhiên nặc

Ngũ nhạc đảo vi khinh

Nhẵn hoa nhĩ phục hậu

Ý khí tố nghi sinh

Cứu Triệu huy kim trụy

Hàm Đan tiên chấn kinh

Thiên thu nhị tráng sĩ

Huyền hách Đại Lương thành

Túng tử hiệp cốt hương

Bất tàm thế thượng anh

Thùy năng thư các hạ

Bạch thủ thái huyền kinh.

(Khách nước Triệu phất phơ giải mũ,

Kiếm ngô câu rực rỡ tuyết sương.

Ngân yên bạch mã huy hoàng,

Vó câu vun vút như ngàn sao bay.

Cách mười bước giết người chẳng trật,

Nghìn dặm xa vùng vẫy mà chi.

Việc xong rũ áo ra đi,

Ẩn thân rừng núi kể gì tiếng tăm.

Rảnh lại nhớ Tín Lăng tìm đến,

Gươm gác đùi chuốc chén đầy vơi.

Này nem này rượu khuyên mời,

Bên thời Châu Hợi, bên thời Hầu Doanh.

Ba chén cạn, thân mình sá kể,

Năm núi cao, xem nhẹ lông hồng.

Mắt hoa mặt đã nóng bừng,

Khí hùng bay bổng lên từng mây xanh.

Chùy cứu Triệu vung tay khẳng khái,

Thành Hàm Đan run rẩy kinh hoàng.

Nghìn thu tráng sĩ hai chàng,

Tiếng tăm hiển hách rỡ ràng Đại Lương.

Người dù chết còn xương thơm ngát,

Chẳng hổ ngươi đáng mặt anh hào.

Kìa ai ẩn náu trên lầu,

Chép kinh đến thuở bạc đầu chưa xong.)

Đây là bài cổ phong Hiệp Khách Hành của Lý Bạch, viết về chuyện của Hầu Doanh và Chu Hợi, hai vị môn khách của Tín Lăng Quân ở nước Ngụy thời Chiến Quốc. Ngàn năm sau, hậu nhân đọc lại vẫn thấy lời văn sắc bén, tráng khí hào hùng, như hiệp sĩ oai phong ở ngay trước mặt. Thành Đại Lương trong bài cổ thi này ở cạnh sông Hoàng Hà, sau gọi là Biện Lương, tức là phủ Khai Phong huyện Hà Nam ngày nay. Nơi đây tuy đã mấy đời là chốn kinh thành, nhưng phong tục dân chúng vẫn còn chất phác. Khí thế hào hiệp, khẳng khái anh hùng từ thời cổ đại truyền mãi về sau cho hậu thế, đến nay vẫn chưa mai một.

* * *

Cách cửa đông thành Khai Phong chừng mười hai dặm có một thị trấn nhỏ gọi là Hầu Giám Tập. Thị trấn nhỏ này có tên như thế, vì Hầu Doanh vốn là Di Môn Giám Giả của Đại Lương. Phía đông thành Đại Lương vốn có một quả núi hình thế bằng phẳng gọi là Di Sơn, nên cửa đông còn gọi là Di Môn. Di Môn Giám Giả chính là một chức quan nhỏ coi việc đóng mở cửa thành phía đông Đại Lương.

Lúc ấy trời đã xế chiều. Dân chúng ngoại thành về họp chợ ở thị trấn, kẻ gánh người đội quay về nhà thật là tấp nập. Đột nhiên, ở phía Đông Bắc văng vẳng có tiếng vó ngựa dồn dập. Tiếng vó ngựa mỗi lúc một gần, cả một đại đội nhân mã, ít ra phải có đến hai trăm kỵ sĩ đang phi như bay. Vó ngựa chạy đã rất gấp, mà người cưỡi ngựa còn cố gia roi cho nhanh hơn nữa. Mọi người bàn tán xôn xao: “Chắc đây là quan quân của triều đình.” Có người nói: “Chúng mình mau tránh ra là hơn, lỡ binh mã quan quân kéo qua xô ngã, đổ cả gánh hàng, cũng phải chịu thôi. Giả tỉ bị xéo chết thì lại càng khốn nạn.”

Đột nhiên lại nghe những hồi còi xen lẫn vào tiếng vó ngựa. Sau chốc lát, những hồi còi này tựa hồ đông gọi tây thưa, nam xướng bắc họa, dường như bốn mặt tám phương đều có tiếng còi, vây chặt Hầu Giám Tập. Mọi người kinh hãi thất sắc. Những ai có chút hiểu biết đều không khỏi phỏng đoán: “Phải chăng đây là cường đạo?”

Trong tiệm tạp hóa ở ngay đầu thị trấn, một tên phụ việc lè lưỡi nói: “Úi chà! E rằng mấy vị lão ca đó sắp đến rồi!”

Chủ quán họ Vương sắc mặt tái mét, giơ cánh tay mập mạp run rẩy lên, tưởng chừng như muốn đập gãy đầu tên phụ việc đó. Hắn quát mắng: “Con mẹ nó! Ngươi nói cái gì mà lão ca với tiểu ca? Giả tỉ các vị đại gia đó đến đây thật mà nghe thấy, thì cái mạng nhỏ xíu của ngươi có còn giữ được không? Vả lại, ta cũng chưa thấy giữa ban ngày ban mặt mà có chuyện như thế bao giờ? Úi chà! Chắc… chắc là có chuyện gì rồi…”

Tới nửa câu cuối cùng, hắn há hốc miệng ra không nói thêm được nữa, vì bỗng thấy mé đông đầu thị trấn có bốn năm con tuấn mã chạy tới. Bọn kỵ sĩ đều mặc áo đen, đầu đội nón rộng vành, tay cầm cương đao sáng loáng. Chúng lớn tiếng quát: “Bà con cô bác ở đâu phải đứng yên đó, không được nhúc nhích. Hễ ai cục cựa thì đừng trách đao kiếm không có mắt.” Chúng vừa quát tháo vừa quất ngựa chạy về hướng Tây. Móng ngựa bịt sắt nện xuống đường lát đá xanh bật lên những tiếng côm cốp, nghe vừa kinh hãi vừa hồi hộp.

Tiếng vó ngựa chưa dứt thì từ hướng tây lại có bảy tám con ngựa chạy đến. Bọn kỵ sĩ cũng mặc toàn áo đen, đầu đội nón rộng vành kéo sụp xuống. Mấy người này cũng hò hét om sòm: “Ngoan ngoãn đứng yên thì không sao hết! Còn ai muốn nếm mùi đao thì cứ việc chạy ra.”

Tên giúp việc trong tiệm tạp hóa bỗng cười khẩy một tiếng, rồi nói: “Đao thì làm gì có mùi…” Hắn chỉ muốn nói giỡn một câu, nào ngờ nói chưa xong thì đã bị một đại hán vung roi vào trong quán quấn trúng cổ, rồi thuận tay giật một cái. Lập tức nghe một tiếng “bình”, gã đã văng ra, nằm lăn giữa mặt đường.

Đại hán đó cứ phóng ngựa chạy về phía trước, lôi cả tên giúp việc đi. Một con ngựa đi sau phóng nhanh tới, vó trước xéo lên một cái. Tên giúp việc chỉ rú được một tiếng rồi im, dĩ nhiên đã mất mạng rồi. Mọi người đứng xung quanh thấy bọn này hung hãn như vậy, làm sao dám nhúc nhích nữa? Có người muốn về đóng cửa lại, nhưng hai chân tựa như bị đóng đinh xuống đất, toàn thân run bần bật, chân tay lóng cóng, muốn nhúc nhích cũng không được nữa.

Cách tiệm tạp hóa đó năm sáu căn có một tiệm bán bánh tiêu và dầu cháo quẩy. Chảo dầu đang sôi sùng sục, trên rổ sắt có đặt bảy tám cái bánh. Một ông lão đầu tóc hoa râm đang ngồi trước cái chảo, cúi xuống nặn bột thành những viên nhỏ, rồi lại đè bẹp ra thành miếng hình tròn, tựa như không nhìn thấy những chuyện kinh tâm động phách xảy ra trước mắt. Lão lại cho một ít nhân vào giữa miếng bột, gói lại thành cái bánh, rắc lên một ít mè, rồi dùng kẹp sắt bỏ bánh vào chảo dầu sôi.

Lúc này tiếng còi bốn mặt đã ngừng thổi, ngựa cũng không chạy nữa. Cả một thị trấn bảy tám trăm người tuyệt không tiếng động. Ngay những đứa nhỏ đang khóc cũng bị bố mẹ chúng bịt miệng lại, không cho phát ra chút thanh âm nào, mọi người hầu như nín thở. Bỗng nghe vang lên những tiếng lộp cộp của giày da nện trên đường phố lớn ở mé tây.

Người này đi rất thong thả, chân bước trầm trọng. Mỗi bước chân của y đều khiến mọi người lo lắng, tưởng chừng như chân y xéo lên trái tim mình. Tiếng bước chân mỗi lúc một gần.

Mặt trời sắp khuất sau núi phía tây. Một bóng người dài lê thê in xuống mặt đường, theo tiếng bước chân mà chậm chạp nhích gần lại. Mọi người đều sợ hãi đứng thộn mặt ra, chỉ có một mình ông lão kia là vẫn tiếp tục chiên bánh. Tiếng giày da lộp cộp đến trước cửa tiệm bánh này thì dừng lại. Người đó để mắt ngó ông lão từ đầu đến chân rồi đột nhiên bật lên mấy tiếng cười lạnh.

Lão bán bánh từ từ ngẩng đầu lên, thấy người đó thân hình cao lêu nghêu, mặt chỗ lồi chỗ lõm như vỏ cam, chằng chịt những mụn cóc. Lão bán bánh gật đầu chào, hỏi: “Đại gia muốn mua bánh phải không? Một đồng một chiếc.” Rồi lão cầm chiếc kẹp sắt gắp bánh ra, đặt chiếc bánh tiêu nóng bỏng lên một tấm ván màu trắng.

Gã cao kều cười nhạt nói: “Đưa đây!” Rồi hắn đưa tay trái ra. Lão già nheo mắt lại, “Vâng!” một tiếng, rồi gắp chiếc bánh nóng hổi đặt vào bàn tay gã.

Gã cao kều đột nhiên dựng đứng lông mày, giận dữ quát: “Lúc này mà ngươi còn dám giỡn mặt lão gia ư?” Rồi gã cầm cái bánh liệng vào mặt lão già đánh vèo một tiếng. Lão già chậm rãi nghiêng đầu đi, chiếc bánh bay vù qua rồi rớt vào rãnh nước bẩn bên cạnh đường.

Gã cao kều vừa liệng bánh ra, lập tức xoay tay về sau lưng rút ra một cặp song câu. Ánh tịch dương chiếu vào đầu câu liêm, phát ra ánh xanh lè khiến người ta phải kinh hãi. Gã lớn tiếng quát hỏi: “Đến bây giờ còn chưa chịu đưa cái đó ra ư? Họ Ngô kia! Ngươi có hiểu biết thời thế không?”

Lão già bán bánh đáp: “Đại gia nhìn lầm người rồi. Lão họ Vương, người ta kêu bằng lão Vương bán bánh, ở Hầu Giám Tập này ai cũng biết.”

Gã cao kều lại cười khẩy: “Con mẹ nó! Bọn ta đã điều tra rõ ràng, ngươi lại còn giả bộ ư? Ngươi cải trang thì bất quá trốn được một năm sáu tháng, nhất định không trốn được cả đời.”

Lão già bán bánh nheo mắt, chậm rãi nói như không có chuyện gì: “Ta vẫn nghe nói An trại chủ Kim Đao Trại thường cướp của người giàu để giúp người nghèo. Trên chốn giang hồ ai đề cập đến hắn cũng đưa ngón tay cái lên mà khen là hiệp đạo. Thế mà sao hôm nay hắn lại phái bọn tiểu lâu la đi làm càn, lại kiếm chuyện cả với lão bán bánh tiêu nghèo hèn này là nghĩa làm sao?” Nhìn lão thì thấy không có khí lực chi hết, thế mà nói mấy câu này lại rất dõng dạc rõ ràng.

Gã cao kều giận dữ quát: “Ngô Đạo Thông! Ngươi nhất định không đưa ra ư?”

Lão già bán bánh hơi đổi sắc mặt, má bên trái hơi giần giật, nhưng vẫn thản nhiên hỏi lại: “Ngươi đã biết Ngô mỗ mà còn dám đến đây vô lễ, lá gan có bị to quá không?”

Gã cao kều mắng lại: “Gan mật của lão gia to hay nhỏ, đến hôm nay ngươi mới biết hay sao?” Tay trái gã vung câu ra chiêu Thủ Đáo Cầm Lai, nhanh như chớp móc xuống vai bên trái Ngô Đạo Thông.

Ngô Đạo Thông né mình qua phải, cây thiết câu của gã cao kều móc vào quãng không. Gã lập tức rút tay trái về, hữu câu nhằm vào sau lưng Ngô Đạo Thông mà móc. Ngô Đạo Thông đột nhiên lún mình xuống tránh khỏi chiêu này, rồi co chân phải đá vào lò lửa đỏ rực. Toàn bộ than hồng trong lò bay vọt đến gã cao kều, chảo dầu sôi để chiên bánh tiêu cũng tạt thẳng tới.

Gã giật mình kinh hãi, vội nhảy lùi lại tránh được than hồng, nhưng không tránh được chảo dầu sôi. Gã rú lên một tiếng “Úi chao!”, chảo dầu đầy đã tạt trúng hai đùi, đau đớn thét lên be be.

Ngô Đạo Thông vận sức xuống chân để nhảy vọt lên không, hạ xuống nóc nhà đối diện, trong tay vẫn nắm chiếc kẹp sắt để nướng bánh. Đột nhiên thanh quang lấp loáng, một lưỡi đơn đao chém thẳng xuống đầu lão.

Ngô Đạo Thông đưa kẹp sắt lên đỡ đánh choang một tiếng, lửa bắn tóe ra.

Cái kẹp sắt trông đen thui chẳng đẹp đẽ gì, nhưng lại được đúc bằng thép ròng, nên mới gạt được lưỡi đao ngược trở lại.

Giữa lúc ấy, một cây đoản thương từ bên trái, và một cặp song đao từ bên phải đồng thời đánh tới, thì ra chung quanh nóc nhà đã bố trí mai phục. Ngô Đạo Thông hứ lên một tiếng rồi quát mắng: “Bọn vô liêm sỉ, ỷ đông người để thủ thắng!”

Lão vươn người lên, tách cái kẹp làm đôi. Mỗi tay lão cầm nửa cái kẹp, bên trái gạt thương, bên phải đỡ song đao. Thế là cây kẹp để gắp bánh tiêu biến thành một đôi phán quan bút.

Đôi bút của Ngô Đạo Thông vung ra liên tiếp, chiêu nào cũng nhằm vào huyệt đạo trọng yếu của đối phương, tuy phải lấy một chọi ba mà vẫn chiếm được thượng phong. Bỗng lão quát lên: “Trúng!”. Gã sử đoản thương la lên một tiếng “Úi chao!”, đùi trái trúng một bút, lăn long lóc từ trên nóc nhà xuống.

Trên một mái nhà ở phía tây bắc, có một lão già vừa lùn vừa ốm đang đứng chắp tay sau lưng, lạnh nhạt nhìn ba người giao đấu.

Ánh bạch quang lấp loáng, gã sử đơn đao lại bị cây bút bên trái của Ngô Đạo Thông đâm trúng ngực té nhào, đầu cắm thẳng xuống đường phố. Gã sử song đao hình như đã khiếp sợ muốn trốn, múa tít cặp đao như tuyết rơi hoa rụng che kín trước người, chỉ thủ chứ không công nữa.

Lão già vừa lùn vừa ốm từ từ bước tới, khi đến gần, ngón tay trỏ đột nhiên chĩa ra, điểm tới mắt trái của Ngô Đạo Thông. Phát chỉ này thần tốc vô cùng, buộc Ngô Đạo Thông vội vã thu bút về gạt. Ngón tay của lão lùn ốm hạ xuống một chút, né được cây thiết bút, rồi đâm thẳng vào yết hầu đối thủ. Thế bút của Ngô Đạo Thông đã hết đà, không thể biến chiêu, đành phải lùi lại một bước.

Lão lùn ốm cũng tiến lên một bước, lại vung ngón trỏ ra toan điếm vào bụng dưới đối phương. Ngô Đạo Thông vung tả bút gạt đi, hữu bút nhằm đập xuống đầu lão lùn ốm. Ngờ đâu lão lùn ốm lại xông thẳng tới trước, nhảy xổ vào người y.

Lão nhảy vọt tới vừa tránh khỏi chiêu bút của đối phương, vừa vung cả hai tay nhằm nắm vào trước ngực Ngô Đạo Thông.

Ngô Đạo Thông cả kinh thất sắc vội lùi lại phía sau. Bỗng nghe “soạt” một tiếng, ngực áo lão đã bị đối phương túm lấy rồi xé rách một mảnh lớn. Ngô Đạo Thông trong lúc hoang mang cũng không kịp xem mình đã bị thương chưa. Lão xoay tay đảo ngược song bút, xuất chiêu Hoàn Bão Lục Hợp, hai chuôi bút nhằm gõ vào huyệt thái dương ở hai bên đầu lão lùn ốm.

Lão lùn ốm không né tránh mà cũng không chống đỡ, lại xông về phía trước, vung song chưởng đánh trúng trước ngực Ngô Đạo Thông. Mấy tiếng lách cách vang lên, không biết đã có mấy cái xương sườn bị gãy. Ngô Đạo Thông từ trên nóc nhà nhào thẳng xuống đất.

Cặp đùi của gã cao kều đã bị dầu sôi đổ vào phỏng hết cả. Gã kêu la ầm ĩ, nhưng vì hai chân bị thương mà không thể nhảy lên nóc nhà để liều mạng được. Gã lại biết lão già lùn ốm Chu Mục kia tính khí cao ngạo tự phụ, đã ra tay thì không muốn ai vào trợ lực, nên chỉ nằm ngửa mặt lên xem hai bên giao đấu. Vừa thấy Ngô Đạo Thông từ trên nóc nhà ngã lăn xuống, gã cao kều cả mừng nhảy xổ lại, vung song câu đâm thẳng vào bụng kẻ thù, rồi lấy làm đắc ý, ngửa mặt lên trời cười sằng sặc.

Chu Mục vội la lên: “Phải hỏi cung đã!” Nhưng chậm mất rồi, song câu đã đâm thủng bụng Ngô Đạo Thông.

Bất thình lình, gã cao kều la lên: “Úi chao!” rồi loạng choạng lùi lại mấy bước, trước ngực đã bị hai cây thiết bút đâm suốt từ ngực ra sau lưng. Máu từ bốn lỗ vết thương chảy ra ào ào, gã lảo đảo mấy cái rồi té huỵch xuống. Thì ra Ngô Đạo Thông lúc lâm tử còn dồn tàn lực đánh một đòn, gã cao kều không kịp đề phòng nên bị thiết bút đâm vào yếu huyệt. Bọn người Kim Đao Trại vội chạy tới nâng gã dậy, thì gã đã tắt hơi rồi.

Chu Mục không ngó ngàng gì đến gã cao kều, khóe miệng lộ ra một nét cười bỉ ổi. Lão sờ xem Ngô Đạo Thông, thấy họ Ngô đã hết thở, bèn chau mày quát lên: “Lột y phục nó ra, khám xét kỹ lưỡng!”

Bốn tên thuộc hạ lập tức “Dạ” một tiếng, lột sạch áo Ngô Đạo Thông ra thì thấy sau lưng hắn có đeo một cái bọc. Hai đại hán áo đen mở bọc ra xem, thì thấy trong bọc lại còn nhiều lớp bọc nữa, toàn gói bằng vải dầu. Hai gã cứ mở một lớp thì Chu Mục lại vui mừng thêm một chút. Chúng đã mở tới mười mấy lớp vải dầu, những gói sau càng lúc càng nhỏ hơn. Tới lúc cái gói chỉ còn chừng ba tấc vuông, Chu Mục ra vẻ ủ rũ, đưa tay ra giật lấy, nắn thử một cái, rồi giận dữ nói: “Con mẹ nó! Toàn là thứ để lừa bịp người ta, chẳng cần xem nữa. Mau vào lục soát trong nhà.”

Mười mấy hán tử áo đen vâng dạ chạy vào nhà. Tiệm bánh này trước sau chỉ có hai phòng, bọn chúng xông vào lục soát lung tung hết cả gầm giường gầm ghế. Những thứ bát đĩa, quần áo dần dần bị quăng hết ra ngoài.

Chu Mục la hét liên hồi: “Phải tìm thật kỹ, đừng để sót chỗ nào.”

Chúng lục soát mất nửa ngày thì trời đã tối mịt không còn thấy gì nữa. Bọn đại hán đốt đuốc lên tìm tiếp, đập cả tường vách, đập cả bếp lò.

Choang một tiếng, một cái lu bị quăng ra giữa đường vỡ thành mấy chục mảnh. Bột trong lu bay tứ tán đầy đường.

Trong màn đêm, một bàn tay dơ bẩn từ góc tường bên cạnh len lén thò vào rãnh nước bẩn, sờ soạng nhặt được cái bánh tiêu rồi len lén rút về.

Đó là tay của một đứa ăn xin chừng mười hai mười ba tuổi. Nó đã nhịn đói cả ngày, không ngồi tựa vào góc tường nổi nữa. Từ lúc Ngô Đạo Thông đưa cho gã cao kều cái bánh tiêu này, rồi gã lại liệng xuống rãnh nước bẩn, đứa ăn xin cứ mở to đôi mắt, nhìn chầm chập vào chiếc bánh. Từ lâu nó đã muốn thò tay ra lượm lấy mà ăn, nhưng thấy bọn hán tử áo đen dữ tợn như hung thần ác sát thì sợ đến không dám nhúc nhích. Cạnh cái bánh tiêu này vốn đã có thi thể của tên giúp việc trong tiệm tạp hóa, lát sau lại thêm hai cái xác của Ngô Đạo Thông và gã cao kều.

Mãi đến lúc trời tối mịt, ánh đèn không chiếu đến chỗ rãnh nước, đứa ăn xin mới đánh bạo thò tay ra lượm lấy chiếc bánh tiêu. Bụng đói quá nên nó chẳng nghĩ đến nước hôi thối hay đất bùn đã thấm vào bánh nữa, đưa lên miệng cắn luôn một miếng, rồi ngậm lại chứ không dám nhai, vì nó sợ nhai tóp tép phát ra tiếng động sẽ bị bọn hán tử cầm đao nghe thấy. Bánh còn ngậm trong miệng chưa nuốt xuống, nhưng trong bụng nó đã cảm thấy khoan khoái rồi.

Lúc này bọn hán tử áo đen đã lục lọi đảo lộn cái tiệm bánh đến không nhận ra nữa, ngay cả gạch lát nền cũng bị móc lên hết. Chu Mục thấy tìm mãi chẳng được gì, cuối cùng cũng quát lên: “Rút lui!”

Những tiếng còi lại vang lên, rồi vó ngựa chạy rầm rập, từng đoàn hảo hán Kim Đao Trại rút ra khỏi Hầu Giám Tập. Hai tên trong bọn khiêng thi thể gã cao kều đặt vắt ngang yên ngựa. Chỉ trong khoảnh khắc, bọn họ đi hết chẳng còn một ai.

Đến lúc tiếng vó ngựa hoàn toàn không nghe thấy nữa, trong Hầu Giám Tập mới có tiếng người thì thào. Nhưng họ sợ bọn hán tử cưỡi ngựa đi rồi còn quay lại nên không ai dám nói to. Chủ tiệm tạp hóa cùng một tên giúp việc khác ra khiêng thi thể gã lắm mồm vào tiệm, rồi đóng chặt cửa lại, không dám ra nữa. Rồi bên đông nghe ken két, bên tây nghe loảng xoảng, nhà nào cũng vội đóng cửa cài then. Chẳng mấy chốc, mọi đường phố trong thị trấn đã vắng bóng người, cũng không còn âm thanh gì nữa.

* * *

Đứa ăn xin thấy thi thể Ngô Đạo Thông nằm lăn dưới đất không ai nhìn đến thì trong lòng cũng hơi sợ hãi. Nó trệu trạo nhai cái bánh rồi nuốt một miếng nhỏ, đang sắp nuốt một miếng nữa thì bỗng thấy thi thể Ngô Đạo Thông đột nhiên động đậy. Nó giật mình kinh hãi, dụi mắt nhìn lại thì thấy tử thi từ từ ngồi dậy. Nó sợ đến ngẩn người, tim đập loạn xạ. Rồi tử thi duỗi thẳng hai chân ra, đứng thẳng dậy. Mấy tiếng lạch cạch khẽ vang lên, chính là tiếng hai hàm răng của đứa ăn xin khua vào nhau.

Tử thi ngoảnh đầu lại. May mà đứa ăn xin đang ngồi co rúm vào sau góc tường, nên tử thi không nhìn thấy. Lúc này, trăng đang chênh chếch chiếu xuống, đứa ăn xin nhìn rõ khóe miệng tử thi vẫn còn rỉ máu tươi, cặp thiết câu vẫn còn cắm ở bụng. Nó cố cắn chặt hai hàm răng, không để khua lên lách cách nữa.

Rồi tử thi khuỵu chân cúi xuống, thò tay ra sờ soạng, nhặt lấy một cái bánh tiêu, xé đôi rồi vứt đi. Tử thi sờ đến cái bánh thứ hai cũng xé đôi vứt đi. Cảnh tượng này làm trái tim của đứa ăn xin nhảy mạnh như muốn văng ra khỏi miệng. Tử thi vẫn tiếp tục mò mẫm trên mặt đất, sờ thấy vật gì cũng không để ý, cứ sờ đến bánh tiêu thì xé ra rồi vứt đi. Tử thi vừa sờ soạng vừa nhích lại gần rãnh nước. Lúc bọn hán tử áo đen lục lọi trong tiệm bánh, chúng đã hất nguyên cái rổ có hơn hai chục cái bánh tiêu xuống đất. Bây giờ tử thi lại nhặt lên từng cái, nhưng không ăn mà chỉ xé ra xem rồi vứt đi.

Đứa ăn xin thấy tử thi lết dần đến gần góc tường thì sợ quá, chỉ muốn vắt chân lên cổ mà chạy trốn. Nhưng nó đang hoảng sợ đến nhũn người ra, hai chân cất lên làm sao được? Cử động của tử thi rất chậm chạp, thời gian cháy hết nén hương mới xé hơn hai chục chiếc bánh. Tử thi tìm mãi không thấy bánh nữa, bèn từ từ quay đầu lại, như để quan sát bốn phía xem còn nữa không. Lúc này đứa ăn xin đột nhiên phát hiện một điều, hồn vía bỗng bay mất hết. Thì ra nó nấp sau góc tường, ánh trăng từ sau lưng soi cái bóng đầu bù tóc rối của nó xuống đất, ngay cạnh chân của tử thi. Đứa ăn xin vừa thấy chân tử thi nhúc nhích, bỗng kêu được lên một tiếng rồi co giò bỏ chạy.

Tử thi cố gắng mở miệng kêu: “Bánh tiêu! Bánh tiêu!”, rồi cũng cất bước đuổi theo.

Đứa ăn xin vấp phải cái gì đó dưới đất, ngã lăn ra. Tử thi liền khom người xuống, thò tay ra toan nắm lấy lưng nó. Nó lăn một vòng tránh khỏi, rồi lại co giò chạy.

Tử thi loạng choạng mất một lúc mới chống tay xuống đất đứng lên được. Nhưng chân tử thi dài hơn nên bước được xa, tuy đi lắc lư như người say rượu mà chỉ mười mấy bước đã đuổi tới sau lưng đứa ăn xin, túm được gáy nó, nhấc bổng lên.

Tử thi cất tiếng hỏi: “Ngươi… ngươi ăn cắp bánh tiêu của ta phải không?” Đứa ăn xin không dám chối cãi, đành gật đầu.

Tử thi lại hỏi: “Ngươi… ngươi ăn rồi ư?” Nó lại gật đầu.

Tử thi đưa tay kéo áo đứa ăn xin, nghe “soạt” một tiếng, áo nó đã rách, để hở da thịt từ trước ngực xuống bụng. Tử thi lại nói: “Ta phải mổ bụng ngươi để lấy ra.”

Đứa ăn xin hồn bất phụ thể, run giọng nói: “Cháu… cháu… mới cắn một miếng…”

Thì ra Ngô Đạo Thông tuy bị song chưởng của Chu Mục đánh trúng ngực, lại bị gã cao kều đâm song câu vào bụng, nhưng chỉ ngất đi mà chưa chết, hồi lâu dần dần tỉnh lại. Bụng tuy là chỗ trọng yếu của con người, nhưng bị thương vào bụng thì không chết ngay được. Ngô Đạo Thông có một vật không thể nào quên, khi biết người ngựa của Kim Đao Trại đã rút đi hết, bèn mặc kệ vết trọng thương ở ngực và bụng, sống chết cố bò đi tìm vật đó.

Từ khi lão đoạt được vật đó, đã hóa trang thành một ông già bán bánh, ẩn cư tại Hầu Giám Tập ba năm bình yên vô sự, nhưng chưa tìm ra được chủ nhân của vật đó. Khi lão nghe tiếng còi và vó ngựa dồn dập của hai trăm nhân mã bao vây, chưa chắc là chúng đến tìm mình, nhưng cũng thấy cục diện nguy hiểm. Trong lúc cấp bách lão không biết giấu vật đó vào đâu, liền nhét ngay vào một chiếc bánh tiêu. Tới lúc gã cao kều xuất hiện, chìa tay ra bảo “Đưa đây”, Ngô Đạo Thông đi một nước cờ liều là đưa ngay cái bánh có giấu vật đó cho gã. Quả nhiên không ngoài dự liệu, gã cao kều tức giận liệng cái bánh đi.

Sau khi Ngô Đạo Thông trọng thương rồi tỉnh lại, không nhớ được mình đã giấu vật đó trong cái bánh nào, nên phải xé từng cái ra tìm, trước sau vẫn không thấy. Cuối cùng, lão túm được đứa ăn xin, đoán rằng thằng nhóc này đói quá mà nuốt chửng luôn vật kia vào bụng rồi, bèn định mổ bụng nó ra lấy lại. Nhưng lúc này lão không có dao kéo gì, bèn nghiến răng rút cây cương câu đang cắm ở bụng mình ra, xoay mũi câu lại toan rạch bụng đứa ăn xin.

Nhưng cương câu vừa rút ra khỏi bụng, lão bỗng thấy đau đớn không chịu nổi, máu từ vết thương phun ra như suối. Đầu nhọn của cương câu vừa chạm vào bụng gã ăn xin thì tay trái Ngô Đạo Thông bỗng nhũn ra, buông người nó rớt xuống đất. Cây câu trong tay phải Ngô Đạo Thông đâm lạc vào quãng không. Lão ngã lăn ra đất, giãy giụa mấy cái rồi nằm im, lần này thì chết thật.

Thằng bé bị đè dưới người Ngô Đạo Thông, phải cố giãy giụa hồi lâu mới bò ra được, lập tức co giò chạy thẳng. Thật là một phen hú vía. Nó mới chạy được mấy bước thì chân nhũn ra ngã nhào xuống, ngất xỉu đi. Tay nó vẫn nắm chặt cái bánh tiêu mới cắn được một miếng.

* * *

Ánh trăng mờ ảo chiếu xuống thi thể Ngô Đạo Thông, rồi xoay dần sang chiếu vào người thằng bé ăn xin.

Đột nhiên có tiếng vó ngựa văng vẳng vọng lại, tiến tới rất nhanh, vừa nghe xa xa, chớp mắt đã đến gần. Dân cư ở Hầu Giám Tập còn chưa hết hoảng sợ, lại nghe tiếng vó ngựa giữa đêm khuya thì không khỏi phập phồng lo sợ. Người nào cũng run bần bật, rúc kỹ vào chăn. Nhưng lần này chỉ có hai con ngựa, mà cũng không có tiếng còi.

Đôi ngựa này hình dạng rất kỳ lạ. Một con từ đầu đến đuôi đen nhánh, bốn vó sắc trắng, đó là giống danh câu Ô Vân Cái Tuyết. Còn con kia thì trái lại, chỉ có bốn vó màu đen còn toàn thân trắng như tuyết, trong Mã Phổ gọi là Mặc Đề Ngọc Thố, rất hiếm thấy ở Trung Nguyên.

Người cưỡi ngựa bạch là một thiếu phụ mặc y phục tuyền màu trắng. May mà trên tóc nàng có giắt một bông hồng, ngang lưng lại thắt đai màu đỏ sậm, nếu không thì rất giống như đang mặc tang phục. Trên cái đai màu đỏ có đeo một thanh trường kiếm, vỏ kiếm cũng màu trắng. Người cưỡi ngựa ô là một hán tử trung niên, toàn thân mặc y phục đen, trên lưng đeo một thanh trường kiếm vỏ đen. Hai con ngựa phóng nhanh như bay, sóng vai chạy đến.

Hai người bỗng nhìn thấy thi thể Ngô Đạo Thông trên đường phố, nằm giữa đám đồ đạc bị vứt lung tung, đồng thanh la lên: “Úi chà!”

Hán tử áo đen vung roi ngựa ra quấn lấy cổ thi thể Ngô Đạo Thông, kéo đi mấy thước cho ánh trăng rọi vào mặt. Thiếu phụ lên tiếng: “Đây là Ngô Đạo Thông! Xem ra An Kim Đao đã lấy được cái đó rồi.”

Hán tử áo đen hất roi ngựa một cái, liệng xác Ngô Đạo Thông xuống đường rồi nói: “Ngô Đạo Thông chết chưa lâu, vết thương hãy còn rỉ máu. Ta có thể đuổi kịp được.” Thiếu phụ gật gật đầu.

Hai con ngựa lại phóng về phía tây. Tám vó ngựa gõ xuống đường lát đá xanh nghe lộc cộc rất đều, nghe như chỉ có một con ngựa đang chạy mà thôi. Đôi ngựa này vó trước vó sau cất lên hạ xuống rất nhịp nhàng và đẹp mắt. Bất luận là ai nhìn thấy bước chân của chúng, cũng phải nghĩ rằng chúng đã được huấn luyện lâu ngày, dù phóng nước đại mà cũng chẳng sai lệch chút nào.

Đôi ngựa càng chạy càng nhanh, chốc lát đã tới ngoài thành Biện Lương. Đến quãng đường hẹp không thể đi song song được nữa, thiếu phụ liền dừng cương một chút để nhường cho hán tử lên trước. Hán tử quay lại mỉm cười rồi phóng ngựa đi luôn. Thiếu phụ cho ngựa chạy theo sau.

Đôi tuấn mã này cước lực tuyệt luân, cứ theo tình trạng thi thể của Ngô Đạo Thông mà đoán, thì đã phải đuổi kịp được nhân mã Kim Đao Trại từ lâu, thế mà trước sau vẫn chẳng thấy tung tích gì cả. Hai người không ngờ rằng lúc Ngô Đạo Thông chết thật thì bọn người trại Kim Đao đã đi xa rồi.

Đôi ngựa đuổi không dừng vó thêm một giờ nữa, hai người mới dừng cho ngựa nghỉ một chốc, rồi lại lên ngựa đi tiếp. Tới lúc gần sáng thì họ nhìn thấy xa xa ở trong vùng hoang dã có lửa bốc lên. Hai người nhìn nhau mỉm cười, rồi nhảy xuống ngựa. Thiếu phụ đón lấy dây cương trong tay hán tử, dắt đôi ngựa buộc vào một cành cây to. Hai người thi triển khinh công chạy về phía có lửa cháy.

Lửa ngoài đồng trống xem thì rất gần, mà thực ra xa tới mấy dặm. Hai người thi triển khinh công thượng thặng đi như gió cuốn mây bay, lúc gần đến nơi, quả nhiên thấy một đoàn người ngồi vây quanh mười mấy đống lửa bưng những bát mì lớn mà ăn, nghe cả tiếng húp xì xụp. Hai người cũng muốn xem xét trước đã, nhưng nơi đây là một khu bình nguyên bát ngát không có chỗ ẩn núp, nên khi còn cách mười mấy trượng, hai người đành phải sóng vai đi thong thả tới.

Trong đám người bỗng có tiếng quát hỏi: “Ai đó? Đến đây làm chi?”

Hán tử áo đen bước lên một bước, ôm quyền cười hỏi: “An trại chúa có trong đó không? Những bằng hữu nào đang ở đây?”

Lão già lùn Chu Mục ngẩng lên nhìn. Giữa ánh lửa sáng, lão nhìn rõ hai người mới đến đều khoảng trung niên, một nam một nữ, một áo đen một áo trắng, sóng vai mà đứng. Hán tử thì tuấn tú phong độ, thiếu phụ cũng thanh nhã diễm lệ, áo xiêm phấp phới, lưng cùng đeo trường kiếm.

Chu Mục chợt động tâm, biết ngay hai người này là ai. Lão uốn mình đứng phắt dậy, chắp tay nói: “Thì ra là phu phụ Thạch trang chúa Huyền Tố Trang tại Giang Nam đại giá quang lâm!” Rồi lão lớn tiếng hô: “Các vị huynh đệ mau mau đứng lên thi lễ! Hai vị này là phu phụ Thạch trang chúa, tiếng tăm lừng lẫy khắp đại giang nam bắc.” Mọi người đều đứng dậy cúi chào.

Chu Mục nghĩ thầm trong bụng: “Vợ chồng Thạch Thanh, Mẫn Nhu vốn chẳng đi lại gì với Kim Đao Trại, thế mà mới mờ sáng lại tìm tới đây, chẳng biết có dụng ý gì? Hay là họ cũng vì vật đó mà đến?” Lão đảo mắt nhìn bốn phía thì thấy chung quanh hoang vắng, tuyệt không có người nào nữa, lại nghĩ: “Nghe nói kiếm thuật vợ chồng này rất giỏi, nhưng dù là hảo hán cũng không địch nổi số đông. Không hiểu họ đến đây làm gì?”

Thạch phu nhân là Mẫn Nhu khẽ bảo chồng: “Vị này là Chu Mục lão gia ở Ưng Trảo Môn.”

Tuy nàng nói nhỏ, nhưng Chu Mục cũng nghe rất rõ ràng, không khỏi đắc ý nghĩ thầm: “Thì ra Băng Tuyết Thần Kiếm cũng biết tên mình.” Lão vội lên tiếng: “Không dám! Chu Mục ở Kim Đao Trại xin bái kiến Thạch trang chúa và Thạch phu nhân.” Rồi lão lại cúi mình thi lễ.

Thạch Thanh mỉm cười nói với mọi người: “Các bằng hữu đang dùng bữa, tại hạ không dám quấy nhiễu. Xin các vị cứ ngồi xuống.” Rồi ông quay sang nói với Chu Mục: “Chu bằng hữu không cần khách sáo. Phu phụ tại hạ đã mấy lần được gặp Nhất phi xung thiên Trang huynh Trang Chấn Trung của quý môn. Vậy chúng ta cũng là chỗ quen biết chứ không phải người ngoài.”

Chu Mục đáp: “Nhất Phi Xung Thiên là sư thúc của lão phu.” Trong bụng lão nghĩ thầm: “Tuổi ngươi còn nhỏ hơn ta nhiều, mà dám kêu sư thúc ta bằng Trang huynh, rõ ràng tự cho mình là bậc trưởng bối.” Lão nghĩ đến đây, bỗng thấy đối phương đến đây chẳng có ý định gì tử tế, bất giác thêm phần cảnh giác. Trong võ lâm, hai chữ “vai vế” hết sức quan trọng. Vãn bối gặp hàng trưởng bối dĩ nhiên phải tỏ vẻ cung kính, trưởng bối sai bảo điều gì thì không được coi thường, nếu không, bị bắt bẻ là phạm thượng thì đuối lý ngay.

Thạch Thanh thấy Chu Mục sa sầm nét mặt, lập tức hiểu ý, liền cười nói: “Thật là đắc tội! Ngày trước gặp nhau ở Tung Sơn, Trang huynh đã nhắc đến võ công quý môn, vợ chồng tại hạ hết sức khâm phục. Cũng là chỗ quen biết, tại hạ có một chuyện lẽ ra không nên nói, mong Chu thế huynh bỏ lỗi cho.” Thạch Thanh gọi Chu Mục bằng Chu thế huynh, rõ ràng tự xếp mình vào hàng trưởng bối.

Chu Mục nói: “Nếu tại hạ có điều mạo phạm tới hai vị, tưởng hai vị cũng nên châm chước cho. Hai vị dạy bảo điều chi mà sức tại hạ có thể làm nổi, nhất định sẽ tuân theo. Còn nếu việc có dính líu đến tệ trại thì địa vị tại hạ kém cỏi, không thể chủ trương được.”

Thạch Thanh nghĩ thầm: “Thằng cha này thật là lão luyện, chưa biết ta muốn gì đã đẩy trách nhiệm qua người khác.” Ông liền nói: “Vụ này không có liên quan gì đến quý trại, tại hạ chỉ muốn hỏi riêng Chu thế huynh một việc. Vợ chồng tại hạ đang tìm một người họ Ngô, tên là Ngô Đạo Thông, chuyên sử đôi phán quan bút. Nghe nói gần đây y cải trang thành một ông già, mai danh ẩn tích ở gần thành Biện Lương. Chẳng hiểu Chu thế huynh có nghe tin tức gì về hắn không?”

Thạch Thanh vừa nói đến ba chữ Ngô Đạo Thông, bọn người Kim Đao Trại đều nhốn nháo. Có tên đặt cả bát mì chưa ăn xong xuống.

Chu Mục nghĩ thầm: “Hắn từ phía đông đến đây, dĩ nhiên đã thấy thi thể Ngô Đạo Thông rồi. Nếu mình không nhận thì cũng không được.” Lão liền cười ha hả, đáp: “Thật là hay quá. Thạch trang chúa! Thạch phu nhân! Hai vị hỏi đến người đó thì thật là xảo hợp. Tại hạ dù võ công chẳng cao cường gì, nhưng đã lập được công lao cho hai vị. Gã Ngô Đạo Thông kia đắc tội với hai vị, nên Kim Đao Trại bọn tại hạ đã xử lý hắn rồi.” Chu Mục vừa nói vừa chăm chú nhìn Thạch Thanh, để xem ông lộ vẻ vui mừng hay tức giận.

Thạch Thanh lại mỉm cười: “Ngô Đạo Thông vốn không quen biết bọn tại hạ, thì làm gì có chuyện đắc tội? Nói ra sợ Chu thế huynh chê cười, bọn tại hạ đi tìm hắn chỉ vì một món vật trong người hắn.”

Da mặt Chu Mục hơi máy động, nhưng trấn tĩnh lại được ngay. Lão cười đáp: “Tin tức của hai vị thật là mau lẹ. Về chuyện này, tệ trại cũng đã biết rồi. Chẳng giấu gì Thạch trang chúa, chuyến này tại hạ dẫn huynh đệ đến đây cũng vì việc đó.” Lão thở dài một tiếng rồi nói tiếp: “Không biết quân chó má nào đã phao tin thất thiệt khiến cho Song bút Ngô Đạo Thông phải uổng mạng. Hơn hai trăm anh em tại hạ uổng công một phen đi lại thì chẳng kể làm chi, nhưng còn sợ khi trở về sẽ bị An đại ca quở trách là hành động bất lực. Trên chốn giang hồ cũng có rất nhiều chuyện đồn đãi. Nếu thiên hạ tưởng Kim Đao Trại được vật đó thật, kéo nhau đến kiếm chuyện với tệ trại, chẳng hóa ra oan uổng lắm ư? Trương huynh đệ! Chúng ta đánh chết họ Ngô trong trường hợp nào, lục lọi đến nát bét cái quán bánh tiêu ra sao, ngươi hãy thuật lại tỉ mỉ cho Thạch trang chúa và Thạch phu nhân được rõ!”

Một hán tử nhỏ con, vẻ mặt rất tinh quái, lên tiếng: “Võ công của gã họ Ngô đó cũng rất khá. Đầu lĩnh Lý Đại Nguyên cũng bỏ mạng dưới tay hắn. Sau cùng Chu đầu lĩnh phóng song chưởng hất họ Ngô từ nóc nhà xuống đất, gân cốt toàn thân bị chấn động đứt hết, ngũ tạng cũng tan nát…” Miệng lưỡi gã này rất linh hoạt, nói trơn như cháo lại còn gia thêm mắm muối, kể hết một lượt, thuật cả chuyện bọn chúng cạy từng viên gạch lên, đổ cả lu bột mì ra, phá cả tường vách, đào hố dưới nền nhà, nhưng chuyện Chu Mục đã lấy cái bọc sau lưng Ngô Đạo Thông thì lại lờ đi.

Thạch Thanh gật gật đầu, nghĩ thầm: “Chu Mục từ lúc mới thấy chúng ta đã có vẻ đề phòng, hồi hộp không yên. Giữa Huyền Tố Trang và Kim Đao Trại trước nay không có chuyện gì xích mích. Nếu lão chưa lấy được vật kia, thì hà tất phải đề phòng vợ chồng mình đến thế?” Ông biết rằng nếu bọn này chưa lấy được vật đó thì thôi, còn nếu đã lấy được thì nhất định ở trong mình Chu Mục. Thạch Thanh liếc mắt nhìn thấy bọn Kim Đao Trại có tới hơn hai trăm người, mà tên nào cũng vừa tráng kiện vừa hung hãn. Tuy trong đám này không có cao thủ hạng nhất, nhưng số đông cũng khó mà đối phó. Vừa rồi Chu Mục nói chuyện tuy khách sáo nhưng không có ý tôn trọng, cũng chỉ vì ỷ thế đông người. Ông nghĩ thế nên vẫn tươi cười, trỏ tay sang một khu rừng xa xa phía trái, nói: “Tại hạ còn có chuyện muốn thương lượng với Chu thế huynh, xin mời qua kia nói chuyện.”

Làm sao Chu Mục chịu đi một mình được? Lão bèn đáp: “Ở đây đều là hảo huynh đệ, hảo bằng hữu cả. Không có chuyện gì…” Còn bốn chữ “họ không nghe được” chưa kịp nói ra, thì đột nhiên cổ tay trái lão đã bị Thạch Thanh nắm lấy, rồi cả thân thể tê dại, tay phải cũng không còn chút sức lực nào. Chu Mục vừa kinh hãi vừa phẫn nộ. Từ khi vợ chồng Thạch Thanh xuất hiện, lão đã hết sức đề phòng, thế mà Thạch Thanh đang nói chuyện đã xuất thủ nhanh như điện chớp, chụp lấy cổ tay lão. Cầm nã thủ pháp chính là nghề ruột của Ưng Trảo Môn, thế mà Chu Mục chưa kịp ra tay đã bị đối phương kiềm chế huyệt đạo. Lúc này toàn thân lão không vận kình được nữa, tuyệt không còn cách nào giãy thoát, chốc lát đã toát mồ hôi trán.

Thạch Thanh lớn tiếng nói: “Chu thế huynh đã đồng ý qua bên kia nói chuyện, thật là tuyệt diệu.” Rồi ông quay lại bảo Mẫn Nhu: “Sư muội! Ta cùng Chu thế huynh qua bên kia nói chuyện mấy câu rồi quay lại lập tức. Sư muội hãy chờ ở đây một chút.” Nói xong, ông chậm rãi bước đi.

Mẫn Nhu dịu dàng đáp: “Sư huynh cứ tùy tiện!” Hai người đã kết tình phu phụ từ lâu, nhưng vẫn xưng hô là sư huynh sư muội.

Bọn Kim Đao Trại thấy Thạch Thanh cười nói vui vẻ, cùng đi với Chu Mục tựa hồ không có ác ý gì, vẫn để phu nhân ở lại đây thì không nghi ngờ chút nào. Chúng không ngờ bản lãnh của Chu Mục tới như vậy, mà bị người khác kiềm chế không một tiếng động.

Thạch Thanh nắm tay Chu Mục bước đi mỗi lúc một nhanh. Chu Mục chỉ chậm lại một chút là phải ngã lăn ra, nên cứ cắm đầu cắm cổ đi theo. Từ mấy đống lửa đến khu rừng phải đến một dặm, hai người chỉ đi một chốc đã đến nơi.

Thạch Thanh bỗng bỏ tay ra, cười nói: “Chu thế huynh!…”

Chu Mục nổi giận hỏi: “Ngươi làm trò gì thế?” Tay phải lão biến thành trảo, ra chiêu Bác Sư Thủ chụp vào trước ngực Thạch Thanh.

Tay trái Thạch Thanh vung từ trái sang phải thành một đường cong, lại chụp trúng cổ tay đối phương. Ông hất tay sang bên trái, nắm luôn cả tay kia của Chu Mục, rồi bẻ quặt cả hai tay lão ra sau lưng. Chu Mục vừa kinh hãi vừa tức giận, co chân phải đá ngược ra sau.

Thạch Thanh mỉm cười nói: “Hà tất Chu thế huynh phải giận dữ như thế.”

Chu Mục bỗng thấy hai huyệt Phục Thố và Hoàn Khiêu bị tê nhức, chân phải của lão chưa phóng ra thì đã mềm nhũn đi, thõng xuống lại. Như vậy lão chỉ còn một chân trái chấm đất, nếu lại cất lên đá hậu nữa thì dĩ nhiên phải ngã chúi về phía trước. Lão thẹn quá, mặt đỏ bừng lên, tức giận ấp úng: “Ngươi… ngươi…”

Thạch Thanh nói: “Cái vật trong người Ngô Đạo Thông, chắc Chu thế huynh đã lấy được rồi. Thế huynh lấy ra cho tại hạ mượn xem một chút.”

Chu Mục đáp: “Đúng là thế, nhưng vật đó không ở trong mình ta. Ngươi có muốn xem, thì chúng ta trở về bên kia trước đã.” Lão muốn gạt Thạch Thanh về đến chỗ đống lửa rồi sẽ ra hiệu cho thuộc hạ vây đánh, thì dù võ công vợ chồng Thạch Thanh có cao cường đến đâu cũng phải quả bất địch chúng.

Thạch Thanh cười nói: “Tại hạ chưa dám tin, xin lục soát trong mình Chu thế huynh một chút. Mong thế huynh đừng trách.”

Chu Mục tức giận hỏi: “Ngươi định khám xét ta ư? Ngươi cho ta là hạng người nào?”

Thạch Thanh không nói gì nữa, đưa tay ra tháo chiếc giày bên trái của lão. Chu Mục bỗng la lên một tiếng: “Trời ơi!” Bỗng thấy Thạch Thanh móc trong giày ra một cái gói nhỏ, chính là cái gói mà Chu Mục đã lấy trong bọc đeo trên lưng Ngô Đạo Thông.

Chu Mục vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, tự hỏi: “Cái này… cái này… Sao hắn biết là ở đây? Chẳng lẽ hắn đã nhìn trộm từ lúc mình cất giấu ư?” Thực ra, Thạch Thanh vừa nói đến chuyện lục soát thì thấy Chu Mục bất giác liếc nhìn chân trái, rồi đảo mắt ra chỗ khác ngay. Ông bèn đoán là lão giấu vật đó trong giày, quả nhiên vừa tìm đã thấy ngay.

Thạch Thanh nghĩ thầm: “Lúc nãy tên kia đã kể lại cảnh lục soát tiệm bánh tiêu, nghe không phải giả dối. Thế mà lão này lại giấu bảo vật trong người, chắc định nuốt lấy một mình.” Ba ngón tay trái của ông nắn cái bao đó mấy cái, rồi hơi lộ vẻ thất vọng.

Chu Mục đỏ bừng mặt, cũng chưa biết có nên mở miệng kêu người cứu viện hay không. Bỗng Thạch Thanh lên tiếng: “Ngươi đã phản bội An trại chủ mà lại còn định hô hoán lên cho mọi người biết, muốn chịu cực hình chặt mười đầu ngón tay ư?”

Chu Mục cả kinh, bất giác run giọng hỏi: “Sao… sao ngươi lại biết chuyện này?”

Thạch Thanh đáp gọn: “Dĩ nhiên là ta biết.” Rồi ông thả lỏng cổ tay hắn ra, nói tiếp: “An Kim Đao thông minh tinh tế. Ngươi giấu ta còn chưa xong, thì giấu y thế nào được?”

Giữa lúc ấy bỗng nghe có tiếng sột soạt, rồi tiếng người cười ha hả, dõng dạc nói: “An mỗ xin đa tạ Thạch trang chúa đã quá khen.” Chưa dứt lời, ba bóng người đã tiến vào rừng.

* * *

Chu Mục vừa nhìn thấy bọn này, lập tức sắc mặt xám xịt như đất bùn. Ba người này là Đại trại chủ An Phụng Nhật, Nhị trại chủ Phùng Chấn Võ và Tam trại chủ Nguyên Trừng đạo nhân của Kim Đao Trại. Lúc An trại chủ phái Chu Mục đi truy bắt Ngô Đạo Thông, y không hề nói chuyện phái người đi tiếp ứng, không hiểu sao lại đích thân hạ sơn. Chu Mục nghĩ đến chuyện mình mưu đồ chiếm riêng bảo vật đã bại lộ, bây giờ dĩ nhiên thân bại danh liệt, tính mạng cũng khó mà giữ được. Trong lúc hoảng hốt, lão vội nói: “An đại ca! Cái đó… cái đó bị hắn cướp mất rồi.”

An Phụng Nhật chắp tay thi lễ với Thạch Thanh rồi nói: “Thạch trang chúa danh vang thiên hạ, An mỗ ngưỡng mộ đã lâu, chỉ giận mình vô duyên chưa được gặp lần nào. Tệ trại cũng ở gần đây, xin mời Thạch trang chúa cùng phu nhân đến chơi mấy hôm để các huynh đệ đều được nghe lời giáo huấn.”

Thạch Thanh thấy An Phụng Nhật mắt tròn râu rậm, người thấp lùn to khỏe, vẻ mặt thô hào, không ngờ hắn nói chuyện rất uyển chuyển. Hắn tuyệt không nhắc nhở gì đến chuyện ông đoạt mất vật kia, lại còn mời đến chơi Kim Đao Trại. Nhưng nếu ông vào trại của hắn rồi thì dễ gì mà thoát thân được? Thạch Thanh liền chắp tay đáp lễ, rồi thuận tay đút cái gói nhỏ vào trong bọc, cười nói: “Đa tạ thịnh tình của An trại chủ…”

Đột nhiên trước mắt thanh quang lấp loáng, Nguyên Trừng đạo nhân đã rút trường kiếm ra khỏi vỏ, vừa phóng mũi kiếm đâm vào cổ tay Thạch Thanh, vừa quát lên: “Ngươi bỏ vật đó ra trước đã.”

Chiêu kiếm này mau lẹ phi thường, nhưng hắn đã nhanh mà Thạch Thanh còn nhanh hơn. Ông uốn người đi một cái đã đến bên Nguyên Trừng đạo nhân, lấy cái gói nhỏ ra đặt vào tay trái hắn, rồi cười bảo: “Cầm lấy!” Nguyên Trừng đạo nhân mừng rỡ vô cùng, không kịp suy nghĩ gì nữa, giơ tay ra đón lấy. Không ngờ cổ tay phải hắn hơi tê nhức, trường kiếm đã bị đối phương đoạt mất.

Thạch Thanh xoay ngược kiếm lại chém vào cổ tay Nguyên Trừng đạo nhân, quát lên: “Bỏ ra.” Nguyên Trừng đạo nhân giật mình kinh hãi, trước mắt hàn quang lấp loáng, mũi kiếm chỉ còn cách cổ tay hắn không đầy năm tấc. Hắn định rụt tay về để tránh thì không kịp nữa, đành xoay tay ném trả cái gói nhỏ lại.

Phùng Chấn Võ la lên: “Hảo công phu!” Không đợi Thạch Thanh đón lấy cái gói, hắn đã vung đơn đao lên, lăn dưới đất chém vào đùi ông. Thạch Thanh vung trường kiếm đánh véo một tiếng, đâm thẳng vào đầu Phùng Chấn Võ. Ông ra chiêu sau mà lại đến trước. Đơn đao của Phùng Chấn Võ chưa kịp chém tới chân phải của Thạch Thanh, thì trường kiếm của ông đã sắp ghim đầu của Phùng Chấn Võ xuống đất.

An Phụng Nhật thấy tình trạng nguy cấp liền lớn tiếng la lên: “Hạ thủ…” Thanh kiếm của Thạch Thanh vẫn tiếp tục đâm xuống. Phùng Chấn Võ trong lòng kinh hãi vô cùng, nhắm mắt chờ chết, nhưng chỉ thấy má bên trái hơi rát. Thanh trường kiếm của Thạch Thanh không đâm tới nữa. Quả nhiên ông đã lưu tình, mũi kiếm phóng tới mặt Phùng Chấn Võ lại thu về. Thạch Thanh xuất chiêu rồi thu chiêu, cả lực đạo lẫn bộ vị đều cực kỳ chính xác. Tiếp theo một tiếng “cạch” khẽ vang lên, Thạch Thanh dùng thanh trường kiếm đỡ lấy cái gói nhỏ về. Lúc đó, hai chữ “…lưu tình” của An Phụng Nhật mới ra khỏi miệng.

Thạch Thanh thu trường kiếm về rồi nói: “Xin đắc tội!” Đoạn ông lùi ra hai bước.

Phùng Chấn Võ đứng thẳng lên, cầm ngược đơn đao, vẻ mặt vừa sợ hãi vừa hổ thẹn, lùi ra đứng sau lưng An Phụng Nhật. Trong miệng hắn lẩm bẩm gì đó, không hiểu là đa tạ Thạch Thanh hạ thủ lưu tình, hay là trách ông dụng tâm gian trá. Chuyện đó thì chỉ có hắn mới biết.

An Phụng Nhật đưa tay tháo chiếc đai đồng trước ngực, rút thanh đao đeo ở sau lưng ra khỏi vỏ. Lúc này mặt trời mới mọc, ánh triêu dương xuyên qua kẽ lá chiếu vào thanh kim đao lấp lánh trông hoa cả mắt. Thanh đao này sống dày lưỡi mỏng, quả là lợi khí, sắc bén vô cùng. An Phụng Nhật dựng đứng kim đao lên, nói: “Trang chúa võ nghệ kinh người, bội phục, bội phục. Bây giờ tại hạ muốn lãnh giáo mấy chiêu.”

Thạch Thanh mỉm cười đáp: “Hôm nay được gặp cao nhân, thật là may mắn.” Y lại giơ tay lên, ném chiếc gói nhỏ ra, bốn người đều ngẩn ra nhìn theo. Chỉ nghe “soạt” một tiếng, Thạch Thanh đã phóng thanh kiếm vừa đoạt của Nguyên Trừng đạo nhân ra theo, cắm chặt cái gói nhỏ vào một cành cây đối diện. Mũi kiếm xuyên vào một góc cái gói, hoàn toàn không tổn hại gì đến vật ở trong. Thủ pháp của Thạch Thanh đã thần tốc mà kình lực lại càng xảo diệu, chẳng kém gì hai chiêu vừa đánh bại Nguyên Trừng đạo nhân và Phùng Chấn Võ.

Bốn người nhìn lên cành cây rồi lại nhìn Thạch Thanh, bỗng thấy trong tay ông đã cầm một thanh trường kiếm màu đen như mực. Thạch Thanh lên tiếng: “Hắc kiếm gặp Kim đao, điểm tới là ngưng, ai thắng được nửa chiêu thì lấy vật kia. Các vị thấy có được chăng?”

An Phụng Nhật thấy Thạch Thanh cắm vật kia vào cành cây, rồi lại dùng cách tỉ võ để định đoạt, tuyệt không ép người chút nào. Hắn hết sức kính phục, đáp ngay: “Thạch trang chúa, xin mời!” Hắn từng nghe nói kiếm thuật của vợ chồng Thạch Thanh, Mẫn Nhu ở Huyền Tố Trang cực kỳ tinh diệu, vừa rồi lại thấy Thạch Thanh kiềm chế Nguyên Trừng đạo nhân và Phùng Chấn Võ, quả thật danh bất hư truyền. Hắn không dám sơ ý chút nào, thận trọng phóng ra ba hư chiêu.

Thạch Thanh trỏ mũi kiếm xuống đất, toàn thân bất động, chỉ nói: “Xuất chiêu đi!”

Lúc đó An Phụng Nhật mới vung đao chém đến, nhưng mới ra nửa chiêu lại đột nhiên xoay đao chém ngược lên. Hắn vừa động thủ đã dùng tới tuyệt kỹ Phách Quái Đao. Đao pháp này có bảy mươi hai đường, mỗi đường có nhiều chiêu, mỗi chiêu lại có nhiều thức, biến hóa vô cùng. Thạch Thanh cũng vung thanh Hắc kiếm lên, chỉ đón đỡ từng chiêu, phòng thủ nghiêm mật. Tới hơn ba chục chiêu thì ông bỗng quát khẽ một tiếng, triển khai tấn công, kiếm pháp càng lúc càng nhanh. An Phụng Nhật đón đỡ được chừng ba chục chiêu thì hoàn toàn không nhìn rõ thế kiếm của đối phương nữa, trong lòng ngấm ngầm kinh hãi. Hắn chỉ còn cách múa đao để giữ kín những bộ vị trọng yếu.

Hai người qua lại tới bảy chục chiêu mà đao kiếm vẫn chưa chạm nhau. Bỗng nghe một tiếng keng nhỏ nhẹ, mũi hắc kiếm đã đè trúng sống kim đao, rồi thuận đà lướt lên phía trên. Chiêu này gọi là Thuận Lưu Nhi Hạ, là một chiêu số thông thường để dùng kiếm phá đao. Nếu võ công đối thủ kém hơn, thì An Phụng Nhật chỉ cần xoay đao một cái là hất văng lưỡi kiếm ra. Nhưng thế kiếm của Thạch Thanh nhanh đến kỳ lạ, giả tỉ An Phụng Nhật có xoay đao mà gạt được, thì trường kiếm cũng phải chạm đến ngón tay trỏ của hắn rồi. An Phụng Nhật vô cùng kinh hãi, nghĩ bụng: “Bốn ngón tay của ta sắp đứt lìa rồi.” Nếu hắn muốn vứt đao lùi lại thì cũng không kịp nữa. Giữa lúc An Phụng Nhật hoảng hốt thì thanh kiếm của Thạch Thanh đột nhiên dừng lại, rồi chẳng những không lướt tới mà còn lùi lại mấy tấc. An Phụng Nhật biết ông hạ thủ lưu tình, lúc này không bỏ đao cũng không được. Hắn đành buông lỏng tay cho thanh đao rớt xuống.

Không ngờ thanh Hắc kiếm lại xoay nửa vòng, đỡ lấy Kim đao không để rơi xuống đất. Thạch Thanh lên tiếng: “Chúng ta ngang sức ngang tài, khó phân cao thấp.” Rồi ông khẽ rung trường kiếm, hất Kim đao lên trả.

An Phụng Nhật cảm kích vô cùng, năm ngón tay lại nắm chặt lấy chuôi đao. Hắn biết rõ đối phương đã thắng, nhưng muốn giữ thể diện cho mình, vội dựng thẳng Kim đao lên kính cẩn hành lễ. Đó chính là Nam Hải Lễ Phật, thế thu đao của môn Phách Quái Đao.

Bỗng nhiên hắn phát giác mình vừa thi triển xong bảy mươi hai đường Phách Quái Đao, bất giác kinh hãi đến biến sắc mặt. Hiển nhiên đối phương đã thuộc lòng tuyệt kỹ này, đợi mình thi triển tới đường thứ bảy mươi mốt rồi mới xuất chiêu kiềm chế. Nếu vừa giao đấu mà đối phương đã tấn công, thì chẳng hiểu mình có đỡ nổi mười chiêu không.

An Phụng Nhật đang định nói mấy lời cảm tạ thì Thạch Thanh đã tra kiếm vào vỏ, chắp tay nói: “Thạch mỗ xin kết giao làm bằng hữu với An trại chủ, bất tất tỉ thí làm chi nữa. Lúc nào trại chủ tiện đường qua tệ trang, xin mời vào chơi mấy hôm.”

An Phụng Nhật buồn rầu đáp: “Chắc chắn tại hạ sẽ đến bái kiến.” Rồi hắn tung mình nhảy đến gốc cây kia, rút thanh kiếm của Nguyên Trừng đạo nhân ra, đón lấy cái gói nhỏ. Hắn cắm một đao một kiếm xuống đất, đi tới trước mặt Thạch Thanh rồi nói: “Thạch trang chúa cứ lấy đi.” Tuy hắn được vật rồi lại bị mất, nhưng Thạch Thanh giữ cho hắn cả thể diện lẫn bốn ngón tay, đã là thịnh tình rồi.

Không ngờ Thạch Thanh chắp tay đáp: “Xin có ngày tái hội.” Rồi ông quay người bước đi, không cầm lấy cái gói.

An Phụng Nhật la lên: “Thạch trang chúa, xin dừng bước! Trang chúa đã cố giữ thể diện cho An mỗ, có lý nào An mỗ lại không hay? Hiển nhiên An mỗ đã thua rồi, trang chúa hãy mang vật này đi. Nếu không, hóa ra trang chúa xem An mỗ là kẻ tiểu nhân vô lại không biết tốt xấu ư?”

Thạch Thanh mỉm cười nói: “An trại chủ! Cuộc tỉ võ hôm nay chưa phân thắng bại. Trại chủ còn chưa thi triển những đao pháp tinh diệu như Thanh Long Đao, Đoạn Môn Đao, sao đã gọi là thua? Vả lại trong gói đó chẳng có vật chi hết. Tại hạ e rằng Chu thế huynh mắc lừa người ta rồi.”

An Phụng Nhật sửng sốt hỏi: “Bên trong không có vật đó ư?” Hắn vội xé bao ra xem, cứ xé hết lớp này đến lớp khác, đến lớp thứ năm thì chỉ thấy ba miếng gì đó. Hắn để ý nhìn kỹ, đó chỉ là mấy đồng tiền tròn, giữa có lỗ vuông, vừa dẹp vừa mỏng, nếu không phải là ba đồng tiền xu thì là gì nữa? Hắn vừa kinh hãi vừa tức giận nhưng cố nén, quay lại hỏi Chu Mục: “Chu huynh đệ! Chuyện này… chuyện này… Ngươi đùa giỡn kiểu gì đây?”

Chu Mục run rẩy đáp: “Thuộc hạ… thuộc hạ cũng không biết, trên người Ngô Đạo Thông chỉ lục được cái gói nhỏ này thôi.”

An Phụng Nhật hiểu ngay, vật đó nếu Ngô Đạo Thông không giấu vào chỗ bí mật dị thường, thì cũng đã giao cho người khác. Phen này thật chẳng những uổng công, lại còn thương tổn đến oai phong của Kim Đao Trại. Hắn liền quẳng cái gói giấy xuống đất, rồi quay sang hỏi Thạch Thanh: “Thật là làm trò cười cho Thạch trang chúa. Không hiểu sao trang chúa lại biết?”

Vừa rồi, khi Thạch Thanh đoạt được cái gói đó, ông đã sờ thử, phát giác trong gói có ba miếng tròn mỏng, tuy chưa biết là ba đồng tiền, nhưng biết chắc không phải là vật mình muốn tìm. Ông mỉm cười đáp: “Tại hạ cũng chỉ đoán bừa thôi. Chúng ta đều bị lừa gạt, mong rằng An trại chủ đại lượng mà thứ lỗi.” Thạch Thanh dứt lời, lại chắp tay thi lễ với bọn Nguyên Trừng đạo nhân, Phùng Chấn Võ và Chu Mục, đoạn quay người rảo bước ra khỏi khu rừng.

* * *

Thạch Thanh quay lại chỗ đống lửa, bảo Mẫn Nhu: “Sư muội! Đi thôi!” Hai người nhảy lên ngựa, theo đường cũ quay về.

Mẫn Nhu nhìn nét mặt lang quân, không cần hỏi nhiều cũng biết là chẳng được việc gì. Nàng cảm thấy đau lòng, bất giác nhỏ mấy giọt nước mắt xuống vạt áo. Thạch Thanh nói: “Kim Đao trại chủ cũng mắc lừa. Chúng ta quay lại lục tìm trong người Ngô Đạo Thông. Không chừng các bằng hữu ở Kim Đao Trại đã sơ xuất.” Mẫn Nhu tuy biết là chẳng ăn thua gì nhưng không muốn trái ý lang quân, nên cũng nghẹn ngào “Vâng” một tiếng.

Đôi ngựa một trắng một đen phi thật nhanh, chưa tới trưa đã về đến Hầu Giám Tập.

Dân cư trong thị trấn này hãy còn khiếp sợ, chưa có nhà nào dám mở cửa. Những chuyện giết người cướp của đã được báo quan trong thành Biện Lương, nhưng chưa thấy ai đến. Hiển nhiên quan lại địa phương chưa dám đến ngay mà còn bận điều binh khiển tướng, theo đúng phương châm “tới trễ một chút là an toàn thêm một chút”.

Vợ chồng Thạch Thanh phóng ngựa đến cạnh thi thể Ngô Đạo Thông, chỉ thấy một thằng bé ăn xin mười hai mười ba tuổi ngồi bên góc tường, còn bốn bề tuyệt không có người nào khác. Thạch Thanh lập tức lục soát trong mình Ngô Đạo Thông rất tỉ mỉ, tháo cả búi tóc, gỡ cả giày vớ ra tìm. Còn Mẫn Nhu thì vào trong tiệm bánh lục lọi tra xét.

Một lúc sau, hai vợ chồng nhìn nhau, cùng thở dài chán nản. Mẫn Nhu nói: “Sư huynh! Xem chừng ông trời đã định là mối thù đó khó lòng trả được. Sư huynh đã nhọc mệt quá rồi, bây giờ chúng ta vào thành Biện Lương nghỉ ngơi, xem kịch hay nghe kể chuyện để giải cơn phiền muộn.”

Thạch Thanh biết vợ mình vốn ưa tĩnh mịch, chẳng thích ca kịch hay đi Biện Lương chơi gì hết, nàng nói vậy là quan tâm tới mình mà thôi. Ông bèn đáp: “Đã tới đất Hà Nam, cũng nên vào thành Biện Lương dạo chơi một tí. Nghe nói bọn thợ bạc ở Biện Lương đều là cao thủ, chúng ta vào đó sắm mấy món trang sức cũng hay.”

Mẫn Nhu nổi tiếng là một mỹ nhân trong võ lâm, vốn đã thích trang điểm. Bây giờ nàng đã vào tuổi trung niên, lại càng chú trọng đến việc trang sức để giữ sắc đẹp. Nàng nở một nụ cười thê lương, đáp: “Đồ trang sức huynh mua cho muội suốt mười ba năm nay, từ lúc Kiên nhi chết đi, đã đủ để mở một tiệm kim hoàn.”

Nàng nói đến câu “từ lúc Kiên nhi chết đi” thì không kìm được nữa, nước mắt tuôn xuống má. Lúc đó nàng trông thấy thằng bé ăn xin đang sợ sệt ngồi ở góc tường trông thật là bẩn thỉu, bất giác sinh lòng thương hại, liền cất tiếng hỏi: “Mẫu thân ngươi đâu? Tại sao mà phải đi ăn xin?”

Thằng bé đáp: “Cháu… cháu… không thấy mẫu thân đâu cả.”

Mẫn Nhu thở dài, móc trong bọc ra một thoi bạc nhỏ, liệng xuống chân nó rồi nói: “Cầm lấy, mua bánh mà ăn.” Nàng đã nhảy lên ngựa, còn quay lại hỏi: “Hài tử! Tên ngươi là gì?”

Thằng bé đáp: “Cháu… cháu là Cẩu Tạp Chủng.”

Mẫn Nhu ngẩn ra, nghĩ bụng: “Là Chó Lộn Giống ư? Sao lại có cái tên lạ như thế?”

Thạch Thanh lắc đầu nói: “Thật là một đứa ngốc nghếch.”

Mẫn Nhu đáp: “Đúng thế! Thật là tội nghiệp!” Hai người vừa nói vừa giật cương cho ngựa chạy về phía thành Biện Lương.

* * *

Thằng bé ăn xin kia đã bị tử thi Ngô Đạo Thông làm hoảng sợ đến ngất đi, đến sáng sớm mới tỉnh dậy. Lúc nó mở mắt ra thì thấy thi thể Ngô Đạo Thông bê bết máu vẫn đang nằm cạnh mình, kinh hãi quá lại vội đứng dậy, chạy trốn vào một góc tường, lại ngủ đi một giấc. Lúc Thạch Thanh đến nơi thì nó đã tỉnh táo, toan chạy trốn xa hơn, nhưng thấy Thạch Thanh lật ngửa thi thể Ngô Đạo Thông lên, lại sợ quá không dám nhúc nhích. Nó không ngờ thiếu phụ xinh đẹp kia lại ném cho một thỏi bạc, bèn nghĩ bụng: “Mua bánh làm gì, mình đã có rồi.”

Nó đưa tay lên, trong tay vẫn còn cái bánh tiêu mới cắn được một miếng. Lúc này nó đã bớt sợ, lại cảm thấy đói. Nó há miệng ngoạm vào, bỗng nghe “cốp” một tiếng, hai hàm răng đau nhức tựa như cắn phải sắt hay đá gì đó, bèn lấy cái bánh ra khỏi miệng. Nhưng trong miệng vẫn còn một vật rắn, nó nhả ra lòng bàn tay thì thấy đó là một miếng sắt đen sì.

Thằng bé ăn xin liếc qua một cái, cũng chẳng nghĩ xem tại sao trong bánh lại có miếng sắt này, nhìn kỹ cái bánh thấy không còn vật gì nữa, liền cắn ăn lấy ăn để. Chỉ trong khoảnh khắc, thằng bé ăn xin đã ăn hết tấm bánh. Gã đưa mắt nhìn thi thể Ngô Đạo Thông thì thấy gần đó còn mười mấy tấm bánh đã bị xé đôi. Gã tự hỏi: “Bánh tiêu bị con ma đó xé ra vứt đi thế này, chẳng biết còn ăn được không?”

Thằng bé còn đang ngần ngừ, đột nhiên trên đỉnh đầu có tiếng người nói: “Đã bao vây hết bốn mặt rồi.” Nó kinh hãi ngẩng lên nhìn, thấy trên nóc nhà có ba gã đàn ông mặc áo trắng đang đứng. Rồi sau lưng nó lại có tiếng gió vù vù, nó xoay mình lại thì thấy bốn người cũng mặc áo trắng, tay cầm trường kiếm, đang chia hai bên tả hữu tiến đến.

Tiếp theo lại có tiếng vó ngựa dồn dập. Một người phi ngựa như bay tới, lớn tiếng hỏi: “Có phải là các bằng hữu phái Tuyết Sơn chăng? Các vị đã đến Hà Nam, xin thứ lỗi cho An mỗ không kịp ra xa nghênh tiếp.” Trong chớp mắt, một con ngựa vàng đã xông đến, người cỡi ngựa là một gã thấp lủn thủn mà béo chùn béo chụt, râu mọc tua tủa. Hắn không cần dừng ngựa, đột nhiên nhảy xuống. Con ngựa vàng chạy lạng qua một bên, vòng một vòng nhỏ rồi dừng lại, hiển nhiên đã được huấn luyện rất thuần thục.

Ba gã áo trắng từ trên nóc nhà cùng nhẹ nhàng nhảy xuống, trong tay đều lăm lăm trường kiếm. Một hán tử to lớn trạc tứ tuần lên tiếng: “Các hạ có phải là An trại chủ của Kim Đao Trại không? May được gặp ở đây!” Gã vừa nói vừa đưa mắt ra hiệu cho mấy tên đồng bọn đứng sau lưng An Phụng Nhật.

Thì ra sau khi An Phụng Nhật bị Thạch Thanh đánh bại, hắn ủ rũ một lúc rồi bỗng tự hỏi: “Vợ chồng Thạch trang chúa trở lại Hầu Giám Tập làm gì? Phải rồi! Chu tứ đệ mắc lừa, không lấy được vật kia, vợ chồng y nhất định tới đó tìm lại. Mình đã bị bại về tay y, nếu y lấy được thì ta chỉ biết lấy mắt mà nhìn. Nhưng nếu y không lấy được, chẳng lẽ ta không thể quay lại tìm cầu may lần nữa hay sao? Chắc Ngô Đạo Thông đã cất vật này vào một nơi nào bí hiểm lắm, tìm mười lần chưa thấy thì tìm thêm lần thứ mười một cũng chẳng hại gì.” An Phụng Nhật quyết định chủ ý, rồi lập tức lên ngựa ra đi.

Ngựa của hắn không nhanh bằng đôi tuấn mã một trắng một đen của vợ chồng họ Thạch, hơn nữa hắn cho ngựa đi thong thả vì không muốn tới gần họ quá. Vì thế mà Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu lục soát thi thể Ngô Đạo Thông và tiệm bán bánh xong rồi bỏ đi, hắn mới đến Hầu Giám Tập. Hắn vừa đến cửa trấn, đã nhìn thấy xa xa trên nóc nhà có ba người mặc toàn màu trắng lưng đeo trường kiếm. Theo cách ăn mặc thì bọn này nhất định là đệ tử phái Tuyết Sơn gần biên giới Tây Tạng. An Phụng Nhật ruổi ngựa gần tới nơi, thì thấy ba gã kia để hết tâm trí vào mình như gặp đại địch. Hắn tưởng ba gã này đang định đánh lén vợ chồng họ Thạch, nhớ ngay đến ân tình của Thạch Thanh đối với mình vừa rồi, bèn lớn tiếng gọi để cảnh giác. Không ngờ khi hắn chạy đến nơi thì chẳng thấy bóng dáng vợ chồng họ Thạch đâu, chỉ có bảy tên đệ tử phái Tuyết Sơn đang bao vây một đứa ăn xin.

An Phụng Nhật hết sức ngạc nhiên, nhìn lại thấy đứa ăn xin này tuổi còn rất nhỏ, mặt mũi lem luốc mà cũng không ra vẻ biết võ công. Hắn thấy mắt tên hán tử áo trắng cứ liếc ngang đảo dọc liên tiếp, bèn nhìn kỹ gã ăn xin một lần nữa.

Lần này hắn giật mình kinh hãi, vì nhìn thấy trong tay gã có một miếng sắt đen sì, dường như đó là Huyền Thiết Lệnh trong truyền thuyết. Hắn lại thấy bốn tên áo trắng đứng đằng sau lăm lăm trường kiếm trong tay, dường như đang định chiếm đoạt miếng sắt kia. An Phụng Nhật không kịp suy nghĩ gì nữa, vội xoay tay rút Kim đao ra sử chiêu Bát Phương Tàng Đao Thế. Thân hình hắn vừa chuyển động, đã xoay quanh gã ăn xin đủ một vòng. Thanh Kim đao chia ra tả một đao, hữu một đao, trước một đao, sau một đao, chỉ trong nháy mắt mỗi phương đã chém ba đao, tám phương là hai mươi bốn đao, mà đao nào cũng chỉ cách gã ăn xin chừng nửa thước. Thân hình gã bao phủ đao ảnh trùng trùng.

Gã ăn xin thấy ánh đao lóa mắt, quanh người gió lộng vù vù, bèn òa lên khóc. Ngay lúc đó bảy tên áo trắng đều vung trường kiếm ra kết thành một màn kiếm quang, bao trùm lấy An Phụng Nhật cùng gã ăn xin. Bảy thanh trường kiếm tạo thành một vòng bạch quang lớn vây bên ngoài, trong vòng này lại có một vòng kim quang nhỏ. Giữa vòng kim quang lại có gã ăn xin đang khóc rống lên, nước mắt nước mũi đầm đìa.

Bất thình lình tiếng vó ngựa dồn dập lại vang lên. Một con ngựa trắng một con ngựa đen từ phía tây lao tới, chính là vợ chồng Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu trở lại.

Thì ra khi hai người ruổi ngựa vào thành Biện Lương, đi không lâu đã thấy bọn đệ tử phái Tuyết Sơn xuất hiện. Hai vợ chồng bàn bạc mấy câu, lập tức giục ngựa quay trở lại, thấy tám người đang vung đao múa kiếm, bèn la lên: “Các vị bằng hữu phái Tuyết Sơn! An trại chủ! Chúng ta đều là chỗ quen biết, có chuyện gì xin lấy lời lẽ nói với nhau, chớ nên làm tổn thương hòa khí.”

Hán tử cao lớn đứng đầu bảy tên đệ tử phái Tuyết Sơn giơ thẳng thanh trường kiếm lên. Cả bảy tên cùng thu kiếm lại, nhưng vẫn đứng vây quanh An Phụng Nhật.

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu phi ngựa đến gần, nhìn thấy miếng sắt trên tay gã ăn xin, bất giác cùng la lên một tiếng: “Úi chà!” Tuy hai người chưa hiểu rõ đó có phải là vật mình muốn tìm hay không, nhưng trong lòng đã cực kỳ hồi hộp. Thạch Thanh nhảy vội xuống ngựa, tiến tới mấy bước rồi hỏi: “Tiểu huynh đệ! Trong tay cháu đang cầm vật gì đó? Cho ta xem một chút được không?” Trước nay ông vốn là người điềm tĩnh, nhưng khi nói hai câu này cũng không khỏi hơi run giọng. Ông biết rằng An Phụng Nhật tất không ngăn trở mình, chỉ cần gã ăn xin đưa tay ra là mình lấy được. Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn chắc chắn không cản nổi ông.

Hán tử áo trắng cao lớn lại lên tiếng: “Thạch trang chúa! Trong vụ này, bọn tại hạ là người đến trước.”

Lúc này Mẫn Nhu cũng đã xuống ngựa, đáp ngay: “Cảnh huynh! Huynh thử hỏi chú bé xem, thỏi bạc ở dưới chân nó có phải là của ta cho nó không?” Đây là một chứng cớ hùng hồn. Nàng đã cho bạc gã ăn xin, dĩ nhiên là đã gặp nó trước bọn áo trắng nhiều.

Gã hán tử cao lớn họ Cảnh tên Vạn Chung, là một cao thủ trong hàng đệ tử thứ hai của phái Tuyết Sơn. Gã nói: “Thạch phu nhân! Không chừng hai vị có đến trước và đã cho bạc chú em này thật, nhưng Huyền Thiết Lệnh là do bọn tại hạ nhìn thấy trước.”

Ba tiếng Huyền Thiết Lệnh vừa thốt ra khỏi cửa miệng Cảnh Vạn Chung, thì Thạch Thanh, Mẫn Nhu và An Phụng Nhật đều run lên lẩm bẩm: “Quả nhiên là Huyền Thiết Lệnh!” Sáu tên đệ tử phái Tuyết Sơn kia cũng lộ vẻ khác thường. Thật ra thì cả bảy tên chưa một ai nhìn được kỹ miếng sắt trong tay gã ăn xin, nhưng chúng thấy vợ chồng họ Thạch cùng An trại chủ Kim Đao Trại tỏ vẻ nghiêm trọng, bèn đoán vật ấy là Huyền Thiết Lệnh. Còn ba người Thạch, Mẫn, An lại nghĩ rằng bọn bảy người phái Tuyết Sơn không phải là hạng tầm thường, lại đã nhìn thấy tấm thiết bài từ trước, nhất định không phải nói ngoa.

Cả mười người cùng nghĩ như nhau, chẳng ai bảo ai đều xòe tay ra trước mặt gã ăn xin, nói: “Tiểu huynh đệ! Chú hãy cho ta!”

Mười người kiềm chế lẫn nhau, không ai dám xuất thủ cưỡng đoạt. Ai cũng biết rằng nếu dùng cường lực thì gặp bất lợi ngay tức khắc, những người xung quanh nhất định sẽ thừa cơ để tấn công vào chỗ sơ hở. Ai cũng chỉ mong gã ăn xin tự đưa miếng sắt cho mình.

Gã ăn xin có ngờ đâu cả mười người cùng muốn lấy miếng sắt suýt làm nó gãy cả hàm răng? Tuy nó đã ngừng khóc, nhưng lúc này không biết phải làm gì, nước mắt lại long lanh trong khóe mắt, lúc nào cũng có thể tràn ra.

Đột nhiên một giọng rất trầm cất lên: “Ngươi cho ta là tốt nhất!”

Một bóng người nhảy vào giữa vòng đao kiếm, vừa vung tay ra đã giật được miếng sắt trong tay gã ăn xin.

Mỗi người quát mắng một câu: “Bỏ xuống!” “Làm gì thế?” “Đồ liều mạng!” “Khốn nạn!”, rồi cả đao lẫn trường kiếm cùng vung lên nhằm vào bóng người mới đến. An Phụng Nhật đứng gần gã ăn xin nhất, vung Kim đao ra chiêu Bạch Hồng Quán Nhật chém xuống đầu người đó. Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn đã luyện tập rất tinh thục, đồng thời xuất thủ, bảy thanh trường kiếm phóng ra đâm vào bảy phương vị khác nhau. Dù người đó có tránh được trên vai cũng không tránh được dưới chân, giữ được trung bàn thì phải hở hạ bàn hay thượng bàn. Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu chưa nhìn rõ người đó là ai, nên không muốn hạ độc thủ. Huyền Tố song kiếm vung lên thành một màn kiếm quang sáng chói hình bán nguyệt, phủ quanh người đó.

Bỗng người kia vung tay loạn lên, rồi nghe những tiếng leng keng vang lên liên tiếp. Không biết y dùng thủ pháp gì mà chỉ trong chớp mắt đã đoạt được thanh Kim đao của An Phụng Nhật cùng bảy thanh trường kiếm của bọn đệ tử phái Tuyết Sơn.

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu thấy hổ khẩu tê nhức, suýt nữa rớt kiếm, hốt hoảng vội lùi lại. Thạch Thanh sắc mặt lợt lạt còn Mẫn Nhu thì mặt lại đỏ bừng. Trên thiên hạ chẳng mấy ai có thể thắng nổi song kiếm hợp bích của vợ chồng Thạch trang chúa ở Huyền Tố Trang. Thế mà bây giờ, ngón tay của người đó chỉ búng vào kiếm một cái, mà thanh kiếm trong tay hai người suýt nữa bay đi. Trước nay hai người lâm địch chưa từng gặp phải cảnh này.

Một lưỡi kim đao, bảy thanh trường kiếm đã cắm xuống đất thành một cái vòng, người mới đến ngang nhiên đứng giữa. Lão mặc áo bào xanh, râu ngắn, tuổi trạc ngũ tuần, dung mạo thanh tú. Mặt lão ẩn hiện sắc xanh, đang lộ vẻ vui mừng khó tả. Thạch Thanh chợt nhớ tới một người, buột miệng hỏi: “Phải chăng tôn giá là chủ nhân Huyền Thiết Lệnh?”

Người kia cười ha hả nói: “Hắc Bạch Song Kiếm tại Huyền Tố trang được người giang hồ xưng tụng kiếm thuật thông thần, quả nhiên danh bất hư truyền. Lão phu chỉ lấy một phần công lực chia ra đối phó với tám vị bằng hữu này, dùng tới chín phần để đối phó với hiền phu phụ, mà không đoạt được binh khí của hai vị. Hỡi ôi! Công phu Đàn Chỉ Thần Thông của lão phu ngày nay, “đàn chỉ” thì có mà “thần thông” thì không, xem chừng phải khổ luyện thêm mười năm nữa.”

Thạch Thanh nghe lão nói thì không còn hoài nghi nữa, liền chắp tay nói: “Vợ chồng tại hạ chuyến này đến Hà Nam là có ý định lên Ma Thiên Nhai để bái kiến tôn giá. Tuy nguyện vọng không thành, nhưng có duyên được gặp tôn giá nơi đây, thì chuyến đi này không đến nỗi vô ích. Mấy chiêu kiếm pháp mèo què của vợ chồng tại hạ thật không bõ làm trò cười trong mắt của tôn giá. Hôm nay tôn giá thu được Huyền Thiết Lệnh về, thật là đáng mừng, thật là đáng mừng.”

Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn nghe Thạch Thanh nói vậy thì than thầm: “Lão mặc áo xanh này chính là Tạ Yên Khách, chủ nhân Huyền Thiết Lệnh ư? Lão vừa ra một chiêu đã đoạt được hết trường kiếm của bọn mình, không phải lão thì trên đời còn người thứ hai nào như vậy nữa?” Bảy người ngơ ngác nhìn nhau, lẳng lặng không ai lên tiếng.

An Phụng Nhật võ công không cao lắm, nhưng lịch duyệt giang hồ thì hơn hẳn bọn đệ tử Tuyết Sơn, lập tức chắp tay nói: “Vừa rồi tại hạ không biết mà mạo phạm tiền bối, bây giờ xin có lời tạ lỗi.”

Người áo xanh này chính là Tạ Yên Khách ở Ma Thiên Nhai. Lão cười ha hả rồi nói: “Theo quy củ ngày thường của lão phu, các ngươi đã dùng binh khí để công kích ta, là ta phải trả lại từng chiêu một. Tỉ dụ như ngươi dùng Kim đao chém vào vai trái của ta, thì ta cũng dùng Kim đao để chém vào vai trái ngươi.” Lão nói tới đây thì cầm miếng sắt tung lên một cái, mỉm cười nói tiếp: “Nhưng hôm nay lão phu đang vui vẻ, nhát đao đó hãy tạm ghi vào sổ nợ. Ngươi đâm vào ngực lão phu. Ngươi đâm vào huyệt Hoàn Khiêu ở đùi lão phu. Ngươi đâm vào bên trái lưng lão phu. Ngươi chém vào đùi lão phu…” Miệng của lão vừa nói, tay vừa chỉ vào từng tên đệ tử Tuyết Sơn.

Tên lùn nhất trong đám đệ tử Tuyết Sơn lớn tiếng nói: “Chúng ta tài nghệ chẳng bằng người, thua thì đành chịu, lão còn chọc ghẹo làm chi? Bất tất lão phải ghi vào sổ nợ, cứ đâm ta một nhát cho thoải mái! Ai hơi đâu mà để món nợ đó trong lòng được.” Gã này tên gọi Vương Vạn Nhận, lúc này tay không binh khí mà dám nói mấy câu này, rõ ràng đã đem tính mạng giao cho địch thủ. Bọn sư huynh đệ đồng môn đều định lên tiếng ngăn cản, nhưng gã chỉ nói một hơi là xong hết.

Tạ Yên Khách gật đầu nói: “Được lắm!” Rồi lão rút thanh trường kiếm dưới đất của Vương Vạn Nhận đâm thẳng ra, gã này vội nhảy lùi ra sau để tránh. Ngờ đâu thế kiếm của Tạ Yên Khách thần tốc phi thường, người Vương Vạn Nhận còn lơ lửng trên không, mũi kiếm đã đâm vào ngực gã. Tạ Yên Khách rung tay một cái rồi thu kiếm về.

Lúc hai chân Vương Vạn Nhận chấm đất, gã thấy trước ngực mát rượi, liền cúi xuống nhìn, bất giác kêu lên một tiếng: “Úi chà!” Gã thấy ngực mình hở ra một lỗ tròn to bằng miệng chén. Thì ra lúc Tạ Yên Khách rung tay, đã dùng mũi kiếm khoét một vòng tròn trước ngực áo gã. Ba lớp áo đều bị khoét gọn để hở da thịt ra, giả tỉ lão xuất thủ nặng hơn chút nữa thì đã móc trái tim gã ra ngoài.

Vương Vạn Nhận sợ đến mặt xám như đất, ngây người ra. An Phụng Nhật thán phục tận đáy lòng, không nhịn được, bật lên tiếng hoan hô: “Hảo kiếm pháp!”

Nói về phóng kiếm chuẩn xác, kình lực vừa đủ, thì chiêu thức của Tạ Yên Khách vừa rồi, vợ chồng Thạch Thanh nếu cố gắng cũng có thể làm được. Nhưng kiếm thế đi mau lẹ khiến cho đối phương biết rõ chỗ nào mà vẫn không tránh được, thì Thạch Thanh và Mẫn Nhu tự biết mình không bao giờ bì kịp. Hai người đưa mắt nhìn nhau, đều nghĩ: “Võ công lão này thật là tinh xảo tuyệt diệu, không biết đến đâu mà lường!”

Tạ Yên Khách lớn tiếng cười ha hả, rồi cất bước đi luôn.

Một thiếu nữ trong phái Tuyết Sơn đột nhiên la lên: “Tạ tiên sinh! Khoan đã!”

Tạ Yên Khách quay lại hỏi: “Có chuyện gì?”

Thiếu nữ đáp: “Vừa rồi tôn giá đã hạ thủ lưu tình, không hạ sát Vương sư ca của tại hạ, cả phái Tuyết Sơn cùng cảm tạ ân đức. Nhưng tại hạ muốn hỏi một câu: Miếng sắt tôn giá đang cầm có phải là Huyền Thiết Lệnh không?”

Tạ Yên Khách ngạo nghễ hỏi lại: “Phải thì sao? Mà không phải thì sao?”

Thiếu nữ đáp: “Nếu không phải là Huyền Thiết Lệnh thì bọn tại hạ còn phải đi tìm, còn nếu là Huyền Thiết Lệnh thì tôn giá có điều lầm lỗi rồi.”

Bỗng trên mặt Tạ Yên Khách thoáng hiện ánh xanh rồi biến mất ngay lập tức. Cảnh Vạn Chung quát lên: “Hoa sư muội! Không được nói nhiều!” Mọi người đều đã nghe Tạ Yên Khách tàn nhẫn hiếu sát, lúc chính lúc tà, hành sự chỉ theo ý mình, không biết bao nhiêu hảo hán cả hắc đạo lẫn bạch đạo đã chết về tay lão. Hôm nay lão bị mười người vây đánh mà không đả thương một ai, thì đã là đại từ bi lắm rồi, trước nay chưa thấy. Hoa Vạn Tử tính tình cương trực, không biết nặng nhẹ mà dám thốt ra lời xúc phạm, chẳng những bọn đồng môn phái Tuyết Sơn kinh hãi mà vợ chồng họ Thạch cũng lo cho nàng đến toát mồ hôi lạnh.

Tạ Yên Khách giơ miếng sắt lên, lớn tiếng đọc: “Huyền Thiết chi lệnh, hữu cầu tất ứng!” Rồi lão xoay mặt kia lại, đọc tiếp: “Ma Thiên Nhai Tạ Yên Khách”. Lão ngừng một chút, lại nói: “Loại Huyền Thiết này đao kiếm chém không vào, hiếm có trong thiên hạ.” Lão lượm một thanh kiếm ở dưới đất, chém vào miếng sắt đánh choang một tiếng. Thanh trường kiếm gãy làm hai đoạn, đoạn trên văng đi, còn miếng sắt không có chút dấu vết nào. Lão trầm mặt xuống, lớn tiếng hỏi: “Ta lầm lỗi ở chỗ nào?”

Hoa Vạn Tử đáp: “Tiểu nữ từng nghe bằng hữu giang hồ đồn rằng Tạ tiên sinh có ba tấm Huyền Thiết Lệnh, năm xưa đã chia ra tặng ba người có ơn với tiên sinh, thề rằng ai đưa lệnh bài đó đến trao trả thì có thể nhờ tiên sinh làm một việc, bất luận khó khăn nguy hiểm đến đâu tiên sinh cũng làm cho được. Chuyện đó có thật không?”

Tạ Yên Khách đáp: “Đúng thế! Chuyện này trong võ lâm không ai không biết.” Thanh âm của lão ra chiều đắc ý.

Hoa Vạn Tử nói: “Nghe nói trong ba tấm Huyền Thiết Lệnh thì hai tấm đã quay về tay tiên sinh, vì thế mà võ lâm xảy ra hai việc kinh thiên động địa. Tấm Huyền Thiết Lệnh này là tấm cuối cùng, có phải vậy chăng?”

Tạ Yên Khách nghe nàng nói “vì thế mà võ lâm xảy ra hai việc kinh thiên động địa” thì sắc mặt hòa hoãn lại. Lão đáp: “Phải rồi! Vị bằng hữu được ta tặng tấm Huyền Thiết Lệnh này bản lãnh rất cao cường, chẳng có việc gì là không làm nổi, tấm lệnh bài này chẳng dùng làm gì được cả. Ông ấy lại không có con cái, nên khi ngao du tiên cảnh thì lệnh bài không biết lưu lạc nơi đâu. Mấy năm nay bao nhiêu người liều mạng đi tìm kiếm nó để sai lão phu làm việc cho họ. Ha ha! Ngờ đâu hôm nay ta thu được nó về một cách dễ dàng, bằng hữu giang hồ không khỏi thất vọng. Nhưng đó cũng là một điều may, ai nấy đều tai qua nạn khỏi.” Lão vung chân đá thi thể Ngô Đạo Thông ra xa mấy trượng, lại nói tiếp: “Ví dụ như tên này đã được lệnh bài, nhưng muốn tìm ta cũng khó. Hắn chưa kịp đem đến làm phiền ta, thì chính mình đã thành kẻ địch chung của thiên hạ. Trong võ lâm chẳng ai không muốn giết hắn, chẳng ai không muốn đoạt lấy lệnh bài. Ngay cả vợ chồng Thạch trang chúa ở Huyền Tố Trang là người hiền đức cũng chưa thoát vòng trần tục, huống chi người khác. Ha ha! Ha ha!”

Câu nói sau cùng của lão đầy vẻ trào phúng. Thạch Thanh bất giác thẹn đỏ mặt tía tai. Ông vốn đối tốt với mọi người, võ công đã cao, danh vọng lại lớn, trước nay nói gì cũng được nghe theo, chẳng ai phản kháng. Không ngờ hôm nay ông bị Tạ Yên Khách chê cười, luận về lý lẽ hay sức lực đều thua kém. Bình sinh ông rất cao ngạo, lúc này bị mất mặt thật là không thể chịu nổi. Mẫn Nhu nhìn sắc mặt Thạch Thanh, cũng biết lang quân đang muốn rút kiếm liều mạng với Tạ Yên Khách. Tuy ông biết rõ mình không địch nổi, nhưng nỗi tức này không thể nuốt trôi được.

Tạ Yên Khách lại nói: “Vợ chồng Thạch trang chúa vốn là anh hùng hào kiệt. Nếu hai vị có tấm Huyền Thiết Lệnh này, bắt lão phu phải bôn ba vất vả làm một việc khó khăn, thì cũng còn được. Nhưng nó mà lọt vào tay kẻ tiểu nhân vô sỉ, không chừng hắn cầm đến bắt lão phu tự chặt chân tay, sống không được chết chẳng xong. Thậm chí nếu hắn yêu cầu ta tự sát, ta mà không chịu thì còn gì là lời thề Hữu cầu tất ứng nữa? May mà vận khí lão phu không tệ, thu hồi được lệnh bài một cách dễ dàng. Ha ha!” Tiếng cười của lão làm rung động cả mái ngói.

Hoa Vạn Tử dõng dạc nói: “Nghe nói ngày trước Tạ tiên sinh đã thề độc, bất luận ai đem lệnh bài đến đều được tiên sinh làm theo ý muốn. Dù kẻ đó là oan gia bảy kiếp cũng không bị tiên sinh động đến một ngón tay. Tấm lệnh bài này Tạ tiên sinh đoạt lấy trong tay tiểu huynh đệ kia, sao tiên sinh biết nó không yêu cầu chuyện gì?”

Tạ Yên Khách cười khẩy rồi nói: “Thằng nhóc ăn xin đó là cái thá gì? Tạ Yên Khách này mà đi nghe lời một thằng nhóc ăn xin, ha ha, người ta lại không cười đến chết ư?”

Hoa Vạn Tử dõng dạc nói: “Các vị bằng hữu đã nghe thấy chưa? Tạ tiên sinh nói rằng chú nhỏ hành khất kia không phải là người, nên lời thề không đáng kể.” Nghe cô ta nói vậy, lẽ ra mọi người xung quanh đều phải mỉm cười, còn đồng môn sư huynh đệ phải phụ họa thêm mới phải, thế mà lúc này bốn phía vẫn im hơi lặng tiếng, nếu một mũi kim rơi xuống đất vẫn có thể nghe được.

Trên mặt Tạ Yên Khách lại thoáng hiện ánh xanh rồi biến mất ngay. Lão nghĩ bụng: “Con nha đầu này nói chuyện như thế thật là bắt mình cứng họng, không khỏi bị người ta nói sau lưng là Tạ mỗ không giữ chữ tín.” Đột nhiên lão động tâm la thầm: “Úi chà! Hỏng rồi! Không chừng thằng ăn xin này do chúng cố ý bày ra cạm bẫy, dụ mình đưa tay cướp lấy lệnh bài, rồi xúi nó bắt mình làm gì đó.” Lão cười lạnh, ngạo nghễ nói: “Đối với họ Tạ ở Ma Thiên Nhai, trong thiên hạ chẳng có việc gì là khó nữa. Thằng nhóc kia! Ngươi cứ đi theo ta, rồi có việc gì yêu cầu ta sẽ giải quyết cho, không can dự gì đến người khác.” Đoạn lão dắt tay gã ăn xin toan cất bước đi. Tuy Tạ Yên Khách chẳng xem bọn người trước mặt vào đâu, nhưng lão e rằng sau lưng gã ăn xin lại có kẻ giật dây, trước đám đông đưa ra một vấn đề nan giải, đại khái như bắt lão chặt chân tay, thì biết làm thế nào? Vì vậy mà lão định đưa nó đến chỗ không người để dò hỏi cho tỉ mỉ.

Hoa Vạn Tử tiến ra một bước, dịu dàng nói: “Tiểu huynh đệ! Cháu là một đứa bé ngoan. Lão bá đây rất thích giết người, cháu mau mau yêu cầu lão từ nay đừng giết…” Nàng chưa dứt lời thì đột nhiên có một luồng kình phong xô vào mặt, ba chữ “…người nào nữa” lại phải nuốt vào, không nói được ra lời.

Thì ra Hoa Vạn Tử biết Tạ Yên Khách đã hứa điều gì là làm đúng như vậy. Vừa rồi nàng cũng phóng kiếm đâm vào mặt lão, lão đã nói là ghi lại đó để sau này lúc nào muốn thì đòi. Như vậy tất có ngày nàng bị lão rạch mặt. Huống chi sáu vị sư huynh nàng, trừ một mình Vương Vạn Nhận ra, ai cũng còn nợ lão một kiếm. Món nợ này còn ghi lại đó, sau này dĩ nhiên có người phải mất mạng. Vì thế nàng mạo hiểm chọc giận lão, bảo gã ăn xin yêu cầu lão không giết người nữa. Chỉ cần nó nói ra thì dĩ nhiên lão phải nghe theo, mình cùng năm vị sư huynh có thể bảo toàn tính mạng. Không ngờ Tạ Yên Khách đã nhìn ra dụng ý, liền phất tay áo phóng kình phong vào mặt, ngăn không cho nàng nói hết câu. Lão tức giận quát lên: “Con nha đầu kia! Lại còn dám lảm nhảm ư?” Rồi một luồng kình phong nữa lại xô đến. Hoa Vạn Tử đứng không vững, ngã ngửa ra sau.

Hoa Vạn Tử lưng vừa chấm đất, liền nhảy bật dậy ngay. Nàng toan kêu la gì đó, nhưng Tạ Yên Khách đã dắt gã ăn xin đi vào ngõ hẻm. Hiển nhiên lão không muốn cho nó nghe người khác xúi giục.

Mọi người thấy Tạ Yên Khách chỉ phất tay áo ở ngoài mấy trượng mà đánh ngã Hoa Vạn Tử, ai cũng kinh hãi, chẳng dám nói gì nữa.

comments

HIỆP KHÁCH HÀNH