Chương 09: Độc Thủ Dược Vương

Chương 09: Độc Thủ Dược Vương

Hai người đều biết mắt Miêu Nhân Phụng đã bị thương tổn trầm trọng. Chỉ nghe ba chữ “Đoạn trường thảo” thôi cũng đủ biết nó là độc dược lợi hại đến độ nào. Đôi mắt lại là nơi phản ánh mọi tình cảm vui buồn, sầu hận của con người. Giá như có mời được danh y mà bị chậm trễ thì cũng vô phương cứu chữa, do đó sớm được khắc nào hay khắc ấy.

Trừ những lúc cho ngựa nghỉ ngơi ăn uống, hai người cứ rong ruổi liên tục, không chút chần chừ. Dọc đường họ cứ ghé mua đồ lót dạ rồi cưỡi ngựa đi ngay, chỉ ngồi trên lưng ngựa ăn qua loa cho đỡ đói. Cứ rong ruổi như thế hai ngày đêm không ngủ. Hai người Hồ, Chung võ công đều cao cường nên vẫn chống chọi được. Giữa đường họ đổi hai con ngựa khác. Nhưng vì đường đi quá dài, hai con ngựa mới thay này cũng không chịu nổi, cước bộ loạng choạng như muốn ngã lăn ra.

Chung Triệu Văn nói:

– Tiểu huynh đệ! Chúng ta hãy để mấy con vật này nghỉ ngơi ăn uống một lúc đi.

Hồ Phỉ đáp:

– Vâng!

Trong lòng chàng lại nghĩ thầm:

– Nếu con ngựa ta cưỡi là con bạch mã của Viên cô nương thì bây giờ đã đến Động Đình hồ rồi.

Nghĩ tới Viên Tử Y, bất giác chàng đưa tay sờ vào bọc, mân mê con ngọc phượng, da tay thì mát lạnh, mà trong lòng lại lâng lâng ấm áp. Hai người xuống ngựa, ngồi nghỉ ở gốc cây ven đường để ngựa nghỉ ngơi ăn cỏ. Chung Triệu Văn cứ lặng thinh không nói, người ngơ ngẩn xuất thần, lông mày nhíu lại.

Hồ Phỉ biết chuyến đi này cũng không hy vọng thành công, liền hỏi:

– Chung nhị gia, Độc Thủ Dược Vương là nhân vật thế nào?

Chung Triệu Văn không đáp, tựa hồ y chưa nghe thấy câu hỏi. Một lúc sau, y chợt giật mình, hỏi lại:

– Tiểu huynh đệ vừa nói gì?

Hồ Phỉ thấy y trong lòng không ổn, biết rằng y đang suy nghĩ về bệnh trạng của Miêu Nhân Phụng, liền nghĩ bụng:

– Người này tuy hình dung cổ quái nhưng lòng đầy nghĩa khí. Trước đã đây y có hiềm khích với Miêu Nhân Phụng, mà bây giờ lại vì Miêu Nhân Phụng chịu khó lặn lội chẳng từ nan.

Nghĩ tới đây, chàng buột miệng nói:

– Chung nhị gia! Hôm trước vãn bối đắc tội, quả thực lấy làm xấu hổ. Nếu mà vãn bối sớm biết ba vị là những nhân vật trượng nghĩa thế này thì dù gan có to bằng trời cũng chẳng dám mạo phạm.

Chung Triệu Văn ngoác miệng ra cười ha hả, nói:

– Cái đó có gì đáng kể đâu? Miêu đại hiệp là bậc hảo hán lẫy lừng, nếu ba anh em ta thấy nguy không cứu thì còn là người nữa sao? Tiểu huynh đệ chẳng lẽ không như vậy hay sao? Anh em ta cùng Miêu đại hiệp tuy không có giao tình, nhưng cũng có một chút nhân duyên. Tại tiểu huynh đệ chưa gặp y đấy thôi.

Kỳ thực cách đây mấy năm, Hồ Phỉ gặp Miêu Nhân Phụng một lần ở Thương gia bảo, có điều lúc ấy chàng chỉ thấy một hán tử mặt vàng cao lêu khêu, nhìn không rõ mặt. Cách đây mười tám năm vào ngày Hồ Phỉ sinh ra đời, Miêu Nhân Phụng, tại một tiểu khách điểm ở Thương Châu tỉnh Hà Bắc, đã từng thấy mặt chàng. Việc ấy Miêu Nhân Phụng biết, còn Hồ Phỉ có thể không biết. Nhưng làm sao Miêu Nhân Phụng biết được rằng đứa bé sơ sinh mười tám năm trước chính là trang thiếu niên anh hùng hôm nay?

Chung Triệu Văn lại hỏi:

– Tiểu huynh đệ vừa hỏi gì ta vậy?

Hồ Phỉ đáp:

– Vãn bối hỏi Độc Thủ Dược Vương là nhân vật thế nào?

Chung Triệu Văn lắc đầu nói:

– Ta cũng chẳng biết.

Hồ Phỉ lấy làm lạ hỏi lại:

– Chung nhị gia cũng không biết ư?

Chung Triệu Văn đáp:

– Bạn hữu ta trên chốn giang hồ không ít mà chẳng có ai biết được rốt cuộc Độc Thủ Dược Vương là nhân vật thế nào.

Hồ Phỉ nghe vậy lòng rầu rĩ, tự nhủ:

– Tên Trương Phi Hùng kia vị tất lại không biết. Mà cũng không đúng, nhất định là gã cũng không biết.

Hồ Phỉ “ủa” lên một tiếng rồi không nói gì nữa. Chung Triệu Văn nói:

– Người ta chỉ biết Độc Thủ Dược Vương ở tại Bạch Mã Tự, bên bờ hồ Động Đình.

Hồ Phỉ hỏi:

– Chùa Bạch Mã ư? Sao y lại ở chùa?

Chung Triệu Văn đáp:

– Không phải, Bạch Mã Tự là tên một thị trấn.

Hồ Phỉ nói:

– Tưởng lão ở ẩn không gặp người ngoài nên mới không có ai biết mặt lão. Chẳng ngờ…

Chung Triệu Văn lắc đầu ngắt lời:

– Không phải! Nhiều người gặp lão rồi. Chính vì nhiều người gặp cho nên không có ai biết lão là nhân vật thế nào. Lão mập hay lão gầy, lão đẹp hay lão xấu, lão họ Trương hay họ Lý cũng chẳng ai hay.

Hồ Phỉ càng nghe càng thấy mơ hồ, bụng bảo dạ:

– Đã có nhiều người gặp sao lại không biết tên họ của lão, cả đến tướng mạo mập ốm hay đẹp xấu cũng không biết nốt?

Chung Triệu Văn nói tiếp:

– Có người bảo Độc Thủ Dược Vương là một thư sinh tướng mạo thanh nhã, thân hình cao mà gầy giống như một vị tú tài. Lại có người nói Độc Thủ Dược Vương mập mà lùn, mặt ngang bè bè coi chẳng khác gì tên đồ tể mổ heo. Lại có người bảo Độc Thủ Dược Vương là một lão hòa thượng gần đến trăm tuổi.

Hắn dừng lại một chút rồi nói tiếp:

– Còn có người nói Dược Vương là một mụ đàn bà chân què, lưng gù.

Hồ Phỉ ngơ ngẩn, muốn cười mà không cười ra tiếng. Chung Triệu Văn lại nói:

– Ngoại hiệu người này đã là Dược Vương thì sao lại là đàn bà được? Nhưng vì người kể lại là một nhân vật nổi danh trên chốn giang hồ, đức cao vọng trọng, xưa nay chưa từng nói dối bao giờ, nên ai nghe cũng đều tin như vậy. Còn những người bảo lão là thư sinh, là đồ tể, là nhà sư đều là những người thật thà thận trọng, cân nhắc từng lời ăn tiếng nói, tiểu huynh đệ nói xem thử có kỳ quái không?

Hồ Phỉ khi rời khỏi Miêu gia trong lòng đầy tin tưởng, rằng chỉ cần kiếm thấy lão, rồi bất cứ bằng cách nào cũng mời cho bằng được lão về trị thương hay ít ra cũng xin được thuốc giải. Bây giờ chàng nghe Chung Triệu Văn nói vậy, bất giác lòng như chìm xuống. Con người đã chẳng ai biết rõ thì kiếm làm sao được? Chàng chợt nghĩ ra một điều, bèn nói:

– Phải rồi! Nhất định lão này rất giỏi về thuật dị dung, khi giả trai gái, lúc xấu lúc đẹp, khiến không ai nhận được bộ mặt thật của lão.

Chung Triệu Văn nói:

– Bạn hữu trên khắp giang hồ cũng đều nói vậy. Chắc vì lão là tay dùng độc thiên hạ vô song, hại người đã lắm, gây oán lại nhiều, nên lão phải giấu mặt để người ta không có cách nào tìm ra được lão mà báo thù. Nhưng lạ một điều là lão ở trấn Bạch Mã Tự bên bờ hồ Động Đình không phải là nơi xa xôi hẻo lánh, thì không hiểu sao việc tìm nhà lão lại khó khăn đến vậy?

Hồ Phỉ hỏi:

– Lão đã dùng độc làm hại chết không ít người rồi phải không?

Chung Triệu Văn nét mặt ngơ ngẩn xuất thần, đáp:

– Cái đó không biết đâu mà tính được. Có điều những người chết về tay lão phần lớn là đáng lắm, nếu chẳng phải hạng phi tặc đại đạo tàn ác thì cũng là loại thổ hào ác bá cậy thế hoành hành. Chưa từng nghe có người hiệp nghĩa nào lại chết về tay lão cả. Có điều tên tuổi lão quá lừng lẫy nên có những người trúng độc mà chết lại mong độc tính phát tác mãnh liệt để chết cho lẹ. Những vụ đó đều đổ lên đầu lão, chứ thực ra quá nửa chưa hẳn đã chết về tay lão. Có lúc hai người một ở nam, một ở bắc cách nhau cả ngàn đặm đều đồng thời trúng độc mà chết. Người ở Vân Nam thì bảo rằng Độc Thủ Dược Vương đã đến Vân Nam, còn kẻ ở Liêu Đông lại bảo Độc Thủ Dược Vương xuất hiện tại Liêu Đông. Cái kiểu tán dương như vậy khiến lão đã kỳ dị lại càng thêm dị kỳ. Gần đây không ai nói đến bốn chữ “Độc Thủ Dược Vương” nữa, dè đâu vụ Miêu đại hiệp trúng độc lại có liên quan đến lão. Hừ nếu đúng người này đã ra tay thì e rằng… e rằng.

Chung Triệu Văn nói tới đây bỗng dừng lại, lắc đầu không ngớt. Hồ Phỉ cảm thấy vụ này quả thật cực kỳ nan giải, không biết làm thế nào cho phải.

Chung Triệu Văn đứng lên nói:

– Chúng ta đi thôi! Tiểu huynh đệ! Huynh đệ nên nhớ một điều là khi đến Bạch Mã Tự, trong phạm vi cách Dược Vương trang chừng ba chục dặm chớ có uống một hớp nước hay ăn một thứ gì. Dù đói dù khát đến đâu cũng không thể cho một vật gì vào miệng.

Hồ Phỉ nghe hắn nói bằng một giọng trịnh trọng dĩ nhiên phải vâng lời. Chàng nhớ lại lúc y theo chàng rời khỏi Miêu gia, Chung Triệu Anh và Chung Triệu Văn lộ vẻ lo âu sợ hãi thì nghĩ tới tài dùng độc của Độc Thủ Dược Vương quả lợi lại, khiến cho những nhân vật như Chung thị tam hùng đã dám đến khiêu chiến với Đả biến thiên hạ vô địch thủ Miêu Nhân Phụng, mà khi nghe tới tên Độc Thủ Dược Vương cũng phải biến sắc kinh hãi. Vậy mà chàng chưa biết nếp tẻ gì đã coi việc trong thiên hạ quá dễ dàng. Chàng vừa đi dắt ngựa vừa hỏi:

– Chúng ta chẳng qua chỉ đến yêu cầu lão trị bệnh hoặc xin thuốc giải chứ hoàn toàn chẳng có ác ý gì. Lão không chịu đi là cùng, hà tất phải hại mạng chúng ta?

Chung Triệu Văn đáp:

– Tiểu huynh đệ hãy còn ít tuổi chưa hiểu lòng người hiểm trá trên chốn giang hồ. Tuy tiểu huynh đệ không có ác ý với lão, nhưng hai người chưa từng quen biết thì lão tin tiểu huynh đệ thế nào được? Việc trước mắt cũng là bằng chứng. Lưu Hạc Chân đối với Miêu đại hiệp tuyệt không có ác ý mà sao lại làm cho y phải mù mắt?

Hồ Phỉ lặng thinh. Chung Triệu Văn lại nói tiếp:

– Huống chỉ cừu gia của Độc Thủ Dược Vương ở khắp thiên hạ. Thậm chí nhiều vụ chết vì độc dược chẳng liên quan gì đến lão, mà người ta cũng đòi nợ máu. Làm sao lão biết được tiểu huynh đệ chẳng phải là con em hay đệ tử của kẻ thù? Lão bản tính đa nghi ra tay tàn ác, không thì sao trên hai chữ “Dược Vương” còn thêm vào hai chữ “Độc Thủ” làm chi? Ngoại hiệu kinh tâm động phách này chẳng lẽ tự nhiên mà có?

Hồ Phỉ gật đầu đáp:

– Chung nhị gia nói phải lắm.

Chung Triệu Văn nói:

– Nếu tiểu huynh đệ không chê ta bản lãnh kém cỏi thì cứ gọi nhau là huynh đệ, đừng có xưng hô gia này gia nọ nữa, nghe khách sáo quá.

Hồ Phỉ nói:

– Nhị gia là bậc anh hùng tiền bối, còn vãn bối…

Chung Triệu Văn ngắt lời, lớn tiếng:

– Thôi! Thôi! Tiểu huynh đệ! Chẳng giấu gì tiểu huynh đệ, sau khi ba anh em ta động thủ với tiểu huynh đệ đều rất bội phục. Còn nếu như tiểu huynh đệ không muốn làm bạn thì xem như xong.

Hồ Phỉ thấy hắn là người mau lẹ, thẳng thắn liền vừa cười vừa hô:

– Chung nhị ca!

Chung Triệu Văn rất cao hứng, xoay mình nhảy lên lưng ngựa nói:

– Chỉ cần hai con ngựa này đừng chạy vào đường rẽ là chúng ta sẽ tới địa giới Bạch Mã Tự trước khi trời tối. Tiểu huynh đệ ghi nhớ lời ta, chẳng những không được ăn uống mà còn không được sờ vào đầu đũa nữa, đề phòng trên đũa có bôi chất kịch độc, sẽ truyền vào tay mình. Tiểu huynh đệ này, tiểu huynh đệ còn nhỏ tuổi, bản lãnh như vậy mà toàn thân cháy đen biến thành một xác chết cứng đờ, ta thấy có điều đáng tiếc!

Hồ Phỉ biết hắn nói câu này chẳng phải muốn làm ra vẻ quan trọng. Cứ coi việc Miêu Nhân Phụng chỉ xé một lá thư mà hai mắt đã mù, mà bây giờ lại đi vào khu vực của Độc Thủ Dược Vương thì chỗ nào lại chẳng có chất kịch độc? Chàng nghĩ tới Chung Triệu Văn cũng là một nhân vật thành danh trong võ lâm quyết chẳng phải hạng người khiếp nhược. Hắn đã nói thế thì hiển nhiên chuyến đi này vạn phần hung hiểm là đúng sự thật. Hắn đã biết nguy hiểm mà phải vì điều nghĩa đưa chàng đến Bạch Mã Tự, so với chàng chẳng hiểu trời cao đất dày cứ xông bừa xông ẩu lại càng hiếm có.

Đôi ngựa nghỉ một lúc lâu, sức lực phục hồi lại, vào quãng giờ Thân thì chạy tới cửa Lâm Tự. Hai người cho ngựa đi thong thả một đoạn rồi cho chạy nhanh một đoạn đường, chẳng mấy chốc đã đến thị trấn Bạch Mã Tự. Đường phố trong thị trấn này rất chật hẹp, hai người sợ đụng vào khách bộ hành xảy chuyện lôi thôi liền xuống ngựa dắt bộ. Chung Triệu Văn vẻ mặt nghiêm trọng, mắt chẳng trông ngang liếc dọc, còn Hồ Phỉ cứ phóng tầm mắt nhìn các cửa hàng cửa tiệm hai bên phố.

Khi tới cuối đường, Hồ Phỉ nhìn thấy chỗ đầu khúc quanh lộ ra một tiệm bán thuốc bảng đề năm chữ “Tế thế đường lão điếm”. Chàng chợt động tâm, nảy ra một ý, bèn cởi đơn đao ở sau lưng ra để cả vỏ cầm tay, nói:

– Chung nhị ca! Nhị ca cũng đưa phán quan bút cho tiểu đệ.

Chung Triệu Văn không khỏi sửng sốt nghĩ thầm:

– Mình đã bảo vào Bạch Mã Tự nên để ý thận trọng khắp mọi chỗ mới phải, sao gã lại động tới binh khí?

Nhưng hắn nghĩ trong trấn này ắt có nhiều tai mắt của Dược Vương, nên không tiện vặn hỏi, liền rút Phán quan bút ở sau lưng ra đưa cho chàng và khẽ dặn:

– Thận trọng nghe! Chớ có gây sự!

Hồ Phỉ gật đầu, đi tới quầy thuốc, nói:

– Cảm phiền! Bọn tại hạ đến Dược Vương trang bái phỏng trang chủ, không tiện đem theo binh khí, muốn gửi lại quý tiệm, khi trở ra sẽ lấy.

Lão già ngồi phía sau quầy nghe chàng nói, nét mặt lộ vẻ kinh dị, hỏi:

– Hai vị đến Dược Vương trang ư?

Hồ Phỉ không chờ lão ưng chịu hay không, cầm hai món binh khí đặt xuống mặt quầy, chắp tay thi lễ rồi rảo bước ra khỏi thị trấn. Đến chỗ vắng người bên ngoài thị trấn, Chung Triệu Văn chĩa ngón tay cái lên, nói:

– Tiểu huynh đệ! Thủ đoạn này thật khiến cho Chung lão nhị rất khâm phục. Chỉ có tiểu huynh đệ mới nghĩ ra.

Hồ Phỉ cười đáp:

– Đã quyết tỏ mặt hảo hán thì cũng phải làm chứ biết sao?

Nguyên chàng nghĩ bụng những tiệm thuốc ở thị trấn này tất có liên quan với Dược Vương, chàng đem binh khí gửi vào tiệm thuốc, nhất định người tiệm thuốc báo tin cho Dược Vương, điều đó chứng tỏ mình đến đây tuyệt chẳng có ý gì thù nghịch. Tuy dấn thân vào nơi nguy hiểm với tay không là đã hung hiểm lại càng hung hiểm, nhưng chàng đã cân nhắc nặng nhẹ, một liều ba bảy cũng liều một phen.

Hai người nương theo đường lớn đi về phía bắc, toan kiếm người để hỏi đường tới Dược Vương trang, bỗng thấy ở phía tây có một hòn núi nhỏ, một lão già tay cầm cuốc tựa hồ đang hái thuốc.

Hồ Phỉ thấy lão này tướng mạo tuấn nhã, thân hình cao lại gầy, ra vẻ một thư sinh trung niên, liền động tâm tự hỏi:

– Chẳng lẻ lão này là Độc Thủ Dược Vương?

Chàng liền tiến lên xá dài kính cẩn lớn tiếng hỏi:

– Xin hỏi tướng công lên Dược Vương trang đi đường nào? Hai người bọn tại hạ cần bái kiến trang chủ để thỉnh cầu một việc.

Người kia không để mắt đến Hồ Phỉ và Chung Triệu Văn, cứ chăm chú cuốc cỏ trên núi. Hồ Phỉ hỏi luôn mấy câu, thủy chung lão vẫn không đáp lại tựa hồ người điếc. Hồ Phỉ không dám hỏi nữa. Chung Triệu Văn đưa mắt ra hiệu cho chàng rồi hai người tiếp tục tiến về hướng bắc.

Đi chừng được hơn dặm, Hồ Phỉ khẽ hỏi Chung Triệu Văn:

– Chung nhị ca! Không chừng người đó là Dược Vương. Nhị ca thấy thế nào?

Chung Triệu Văn đáp:

– Ta cũng mấy phần hoài nghi, nhưng còn nhiều điểm không sao khám phá được. Nếu lão không thừa nhận mà bọn ta lại lại nhận ra lão, như vậy là phạm vào điều đại kỵ của lão. Trước mắt chỉ có cách hãy đến Dược Vương trang trước. Chúng ta chỉ nhận đất chứ không nhận người là không có gì đáng ngại.

Hai người vừa đi vừa nói chuyện, chuyển qua mấy khúc quanh bỗng nhìn thấy một vườn hoa lớn cách đại lộ chừng vài chục trượng. Một cô gái quê mùa mặc áo xanh đang khom lưng tưới hoa. Hồ Phỉ thấy sau vườn hoa có ba gian nhà tranh, lại phóng tầm mắt nhìn ra xa thì bốn mặt chẳng có khói lửa chi hết. Chàng liền tiến lên mấy bước nhìn cô gái, chắp tay hỏi:

– Xin hỏi cô nương, muốn lên Dược Vương trang phải đi đường nào?

Cô gái ngẩng đầu lên nhìn Hồ Phỉ. Đôi mắt cô đen láy và sáng ngời, tinh quang chiếu ra bốn phía. Hồ Phỉ sửng sốt tự hỏi:

– Sao đôi mắt cô gái quê mùa này lại sáng ngời một cách lạ thường đến thế?

Chàng thấy trừ đôi mắt ra, tướng mạo cô không lấy gì làm xinh đẹp, nước da đã khô lại vàng ủng sắc mặt xanh xao, tựa hồ quanh năm chẳng được ăn bữa nào no. Mái tóc cô vàng khè mà lơ thơ, hai vai gầy guộc, thân hình bé nhỏ ốm nhom, rõ là một cô thôn nữ bần hàn, từ thuở nhỏ đã thiếu ăn. Coi tướng mạo cô tựa hồ đã đến mười sáu, mười bảy tuổi, mà thân hình chỉ bằng đứa nhỏ mười bốn, mười lăm.

Hồ Phỉ lại hỏi:

– Lên Dược Vương trang không hiểu theo hướng đông bắc hay là đi về ngả tây bắc?

Cô thôn nữ đột nhiên cúi đầu xuống, lạnh lùng đáp:

– Không biết.

Giọng nói nghe rất trong trẻo. Chung Triệu Văn thấy cô vô lễ như vậy, nét mặt sa sầm toan nổi nóng, nhưng lại nghĩ nơi đây cách Dược Vương trang không xa chẳng nên gây sự với bất cứ ai, liền đằng hắng một tiếng, rồi bảo Hồ Phỉ:

– Tiểu huynh đệ! Chúng ta đi thôi. Dược Vương trang là nơi nổi danh ở Bạch Mã Tự lo gì chẳng tìm đến nơi được?

Hồ Phỉ thấy trời chẳng còn sớm sủa gì nữa, nếu lạc đường mà trong đêm tối cứ đi liều lại càng nguy hiểm. Gần đó lại chẳng có nhà nào để hỏi đường, chàng liền hỏi lại cô thôn nữ kia:

– Cô nương ơi! Gia gia má má cô có ở nhà không? Chắc các vị biết đường lên Dược Vương trang?

Cô thôn nữ không lý gì tới chàng, cứ cắm cúi nhặt cỏ. Chung Triệu Văn thúc gót, phóng ngựa chạy về phía trước. Đường đi rất chật hẹp, hai chân bên phải của con ngựa đạp trên đường lộ, còn hai chân bên trái lại đạp vào luống hoa của cô thôn nữ. Chung Triệu Văn tuy chẳng có ác ý, nhưng bản tính thô hào, lại giận cô thôn nữ vô lễ muốn bỏ đi ngay không thèm ngó ngàng tới. Hồ Phỉ thấy luống hoa bên đường bị vó ngựa đạp nát, vội vọt lên trước kéo dây cương ngựa qua mé phải, rồi nói:

– Coi chừng làm nát hoa của người ta.

Con ngựa do chàng dẫn dắt chân bên phải đạp xuống mé phải đường, chân bên trái đạp lên mặt đường. Chung Triệu Văn giục:

– Đi lẹ lên, đừng dềnh dàng ở đây nữa!

Dứt lời hắn giật cương phóng ngựa về phía trước.

Hồ Phỉ côi cút từ thuở nhỏ, thấy cô thôn nữ nghèo khổ, yếu ớt, dù cô chẳng chỉ đường cũng không tức giận, còn có ý lân mẫn. Chàng nghĩ tới cô trồng hoa bán làm kế sinh nhai, sợ để ngựa mình đạp nát hoa, liền đi bộ dắt ngựa qua khu vườn hoa rồi mới lên yên.

Cô thôn nữ nhìn chàng một cái, đột nhiên cất tiếng hỏi:

– Các hạ đến Dược Vương trang làm chi?

Hồ Phỉ dừng ngựa đáp:

– Ông bạn của tại hạ mắt bị trúng độc, bọn tại hạ đến cầu Dược Vương ban cho thuốc giải.

Thôn nữ hỏi:

– Các hạ có quen biết Dược Vương không?

Hồ Phỉ lắc đầu đáp:

– Tại hạ chỉ nghe tiếng chứ chưa từng gặp dược lão nhân gia bao giờ.

Có thôn nữ từ từ đứng lên, ngắm nhìn Hồ Phỉ mấy lần rồi hỏi:

– Sao các hạ biết lão chịu cho thuốc giải?

Hồ Phỉ ra chiều khó nghĩ, đáp:

– Vụ này khó nói lắm.

Chàng chợt động tâm nghĩ thầm:

– Cô này ở đây, hoặc giả có thể biết tính tình cùng hành động của Dược Vương.

Chàng liên xuống ngựa xá dài, nói:

– Xin cô nương vui lòng chỉ đường dẫn lối cho.

Bốn chữ “chỉ đường dẫn lối” gồm hai ý nghĩa, có thể hiểu là chỉ đường đến Dược Vương trang, mà cũng có thể hiểu là xin cô dạy phương pháp để cầu thuốc giải. Thôn nữ nhìn Hồ Phỉ từ đầu xuống gót chân, tịnh không đáp lại câu hỏi của chàng, lại chỉ vào đôi thùng gánh phân nói:

– Các hạ lại hố phân múc chừng non nửa thùng, sau đó ra khe suối lấy thêm nước trong gánh cho đầy rồi về đây tưới hoa giùm ta.

Cô nói mấy câu này nằm ngoài sự tiên liệu của Hồ Phỉ. Chàng tự hỏi:

– Ta chỉ hỏi đường thì sao thị lại bảo ta đi gánh phân tưới hoa? Đã thế thị còn lên giọng sai khiến coi ta như tôi tớ trong nhà là nghĩa gì?

Chàng tuy bần khổ từ thuở nhỏ, nhưng chưa làm những nghề bẩn thỉu như gánh phân bao giờ. Thôn nữ nói mấy câu rồi lại cúi xuống nhặt cỏ, chẳng thèm đưa mắt nhìn gì đến chàng nữa. Chàng ngơ ngác nhìn căn nhà tranh chẳng thấy ai, liền tự nhủ:

– Cô nương này ốm yếu mà phải gánh hai thùng phân to tướng thì thật là cực nhọc. Ta là nam tử hán, khí lực dồi dào, có gánh phân giúp cô một chuyến thì có gì mà ngại?

Chàng liền buộc ngựa vào gốc liễu, quẩy đôi thùng đến hố phân. Chung Triệu Anh đi một quãng không thấy Hồ Phỉ theo sau quay đầu nhìn lại. Hắn đứng đằng xa thấy chàng vai quẩy đôi thùng phân đến bên khe nước, trong lòng rất lấy làm lạ liền gọi lớn:

– Này, huynh đệ làm gì vậy?

Hồ Phỉ đáp:

– Tiểu đệ giúp cô nương đây một chút. Chung nhị ca cứ đi trước, tiểu đệ sẽ lên ngựa theo ngay.

Chung Triệu Văn lắc đầu, nghĩ thầm trong bụng:

– Con người tuổi trẻ thật không hiểu điều khinh trọng. Đã đến đây rồi mà còn la cà vào chuyện không đâu.

Đoạn hắn cho ngựa từ từ cất bước. Hồ Phỉ quảy gánh nước phân về đến vườn hoa, cầm gáo gỗ toan múc phân tưới hoa, bỗng nghe thôn nữ nói:

– Không được! Nước phân này đặc quá, tưới vào chỉ làm cho hoa phải chết khô.

Hồ Phi ngơ ngẩn không biết làm sao. Cô thôn nữ kia nói tiếp:

– Ngươi quay lại hố phân đổ xuống một nửa, rồi lấy thêm vào nửa thùng nước trong mới được.

Hồ Phỉ tuy đã nóng ruột, nhưng nghĩ người tốt đã làm việc gì phải đến nơi đến chốn. Chàng liền hành động theo lời cô thôn nữ đổ bớt phân thêm nước vào, rồi quay lại tưới hoa. Cô thôn nữ dặn:

– Coi chừng đó! Đừng để nước phân dính vào lá và cánh hoa.

Hồ Phỉ đáp:

– Được rồi!

Chàng thấy những bông hoa này màu lam thẫm, hình dạng rất kỳ dị, mỗi bông hoa giống như một chiếc hài, mùi u hương thoang thoảng, chẳng hiểu là hoa gì. Chàng bèn thận trọng múc nước phân tưới vào gốc cây cho kỳ hết cả hai thùng mới thôi. Cô thôn nữ lại nói:

– Này! Quảy thêm một gánh nữa đi.

Hồ Phỉ đứng thẳng người lên, cất giọng ôn tồn nói:

– Ông bạn tại hạ đang nóng lòng chờ đợi. Đợi khi tại hạ tìm đến Dược Vương trang trở về, lại giúp cô nương tưới hoa được chăng?

Thôn nữ đáp:

– Ngươi cứ ở đây tưới hoa hay hơn. Ta thấy ngươi làm được mới bảo ngươi gánh phân.

Hồ Phỉ nghe cô ăn nói kỳ quái, bụng nghĩ cứ còn chần chừ khắc nào là mất thời gian khắc ấy, bèn hối hả đi gánh nước phân tưới hết vườn hoa. Lúc này bóng tịch dương đã chìm sau núi, ánh kim quang phản chiếu lên một đóa hoa màu lam thật lớn trông rất rực rỡ, đẹp mắt. Hồ Phỉ không kiềm được liền buộc miệng xuýt xoa:

– Vườn hoa thật là đẹp?

Sau khi gánh phân tưới nước, chàng bỗng nảy sinh tình cảm với mấy luống hoa, nên tán dương băng giọng rất chân thành. Thôn nữ toan lên tiếng thì Chung Triệu Văn cưỡi ngựa quay về, gọi lớn:

– Huynh đệ! Đến bây giờ mà huynh đệ còn chưa chịu đi ư?

Hồ Phỉ đáp:

– Vâng, tiểu đệ đi ngay đây, đi ngay đây.

Chàng liếc mắt nhìn thôn nữ, mục quan lộ vẻ khẩn cầu. Thôn nữ sa sầm nét mặt, hỏi:

– Té ra ngươi tưới hoa giúp ta là cốt để ta chỉ đường cho có phải không?

Hồ Phỉ nghĩ bụng:

– Quả tình mình muốn xin cô ta chỉ đường, nhưng việc giúp cô tưới hoa chỉ thuần là vì thương cô gầy yếu. Bây giờ mình mở miệng yêu cầu chẳng hóa ra có ý thi ân để mua chuộc.

Chàng sực nhớ lại ngày bắt hai gã Thiết Yết Tử và Tiểu Chúc Dung đến giao cho Viên Tử Y, nàng từng bảo:

– Cái đó gọi là thi ân cầu báo, chỉ có loại người cực kỳ bại hoại mới làm vậy.

Nghĩ đến đó, chàng bỗng cảm thấy trong lòng lâng lâng êm dịu, liền mỉm cười nói:

– Những bông hoa này đẹp thật!

Rồi chàng đến bên gốc liễu, cởi dây cương, tung mình lên ngựa. Cô thôn nữ nói:

– Hãy khoan!

Hồ Phỉ quay lại, sợ cô còn lằng nhằng, trong dạ rất bồn chồn. Cô thôn nữ kia ngắt hai đóa hoa lam ném cho chàng, nói:

– Ngươi khen hoa đẹp thì ta tặng ngươi hai đóa.

Hồ Phỉ giơ tay đón lấy, miệng đáp:

– Đa tạ cô nương!

Rồi thuận tay bỏ vào bọc. Cô thôn nữ hỏi:

– Hắn họ Chung, ngươi họ gì?

Hồ Phỉ đáp:

– Tại hạ họ Hồ.

Cô thôn nữ gật đầu nói:

– Các ngươi muốn đến Dược Vương trang thì nên đi theo ngả đông bắc là hơn.

Chung Triệu Văn đã đi theo ngả tây bắc, chờ lâu không thấy trong lòng nóng nảy mới quay trở lại kiếm chàng. Bây giờ hắn nghe nói vậy, bao nhiêu nỗi nóng nảy tiêu tan hết, mỉm cười khẽ nói:

– Tiểu huynh đệ, ngươi hay thật! Miễn cho tiểu huynh phí công đi một đoạn đường.

Hồ Phỉ vẫn đầy lòng ngờ vực, nghĩ thầm:

– Nếu Dược Vương trang ở về phía đông bắc thì lẽ ra y chỉ nói thẳng ra là xong, cớ sao lại bảo nên đi theo ngả đông bắc là hơn?

Nhưng chàng cũng không hỏi nữa mà cho ngựa đi theo hướng đông bắc. Hai người ruổi ngựa chạy thật nhanh một lúc chừng tám, chín dặm thì phía trước xuât hiện một hố nước không có đường qua. Chỉ có một lối đi nhỏ thông sang phía tây.

Chung Triệu Văn tức mình thóa mạ:

– Con nha đầu đó thật là khả ố. Thị không chịu chỉ đường thì thôi, sao lại bảo mình đi trật nẻo. Lúc trở vẻ phải cho thị một bài học mới được.

Hồ Phỉ cũng lấy làm lạ, chàng tự nghĩ mình tuyệt không có điều chi đắc tội với cô thôn nữ mà sao lại bị cô chơi khăm? Chàng liền nói:

– Chung nhị ca! Cô bé nhà quê kia nhất định có mối liên quan nào đó với Dược Vương trang.

Chung Triệu Văn hỏi lại:

– Ờ! Huynh đệ có tìm thấy manh mối gì không?

Hồ Phỉ đáp:

– Cặp mắt thị lấp loáng ánh thần quang, còn thái độ cùng cách ăn nói dường như không phải là một cô gái quê mùa chưa biết qua việc đời.

Chung Triệu Văn kinh hãi nói:

– Đúng rồi! Hai đóa hoa thị tặng cho đệ hãy mau vứt đi cho rồi.

Hồ Phỉ đưa tay vào áo, rút đóa hoa lam ra, thấy vẻ hoa kiều diễm không nỡ vứt bỏ, liền đáp:

– Hai đóa hoa nhỏ bé này tưởng cũng chẳng có gì đáng ngại!

Rồi chàng lại bỏ hoa vào bọc, phóng ngựa đi về mé tây. Chung Triệu Văn đi sau la lên:

– Này! Nên cẩn thận một chút!

Hồ Phỉ ậm ừ cho qua chuyện, vung roi quất vào vai ngựa cho nó phi nước đại về phía tây. Trong bóng chiều bảng lảng, từng đàn quạ lướt trên đỉnh đầu bay về tổ. Đột nhiên Hồ Phỉ và Chung Triệu Văn thấy có hai người phủ phục bên bờ hồ, tựa như đang uống nước. Hồ Phỉ liền dừng ngựa để hỏi đường nhưng thấy hai người kia thủy chung vẫn không nhúc nhích, trong lòng biết có điều khác lạ, liền nhảy xuống ngựa, nói lớn:

– Xin cảm phiền!

Hai người kia vẫn bất động. Chung Triệu Văn đưa tay đẩy vào, thì hai người này té ngửa ra, hai mắt trắng đã trợn trừng, rõ ràng đã chết từ lâu. Trên mặt xác chết thấy đầy các vết đen, cơ mắt méo mó trông rất dễ sợ. Đến xem người kia thấy cũng vậy.

Chung Triệu Văn nói:

– Họ bị trúng độc rồi.

Hồ Phỉ gật đầu, thấy trên người hai tử thi đều có vết binh khí, liền hỏi:

– Có lẽ là kẻ đối đầu với Độc Thủ Dược Vương chăng?

Chung Triệu Văn gật đầu.

Hai người lên ngựa đi tiếp. Lúc này trời đã tối hẳn. Hai người cảm thấy con đường trước mặt đầy hung hiểm. Hai người lại đi một quãng nữa bỗng tiếp bên đường cây cỏ thưa thớt. Càng tiến về phía trước, thảo mộc càng lác đác. Vẻ sau toàn là đất trơ trọi không có một bụi cỏ hay một gốc cây lớn, cây nhỏ gì hết. Hồ Phỉ sinh dạ hoài nghi, dừng ngựa lại hỏi:

– Chung nhị ca! Nhị ca nhìn xem, nơi đây rất là cổ quái.

Chung Triệu Văn đã thấy phong cảnh khác lạ, liền đáp:

– Nếu là nơi dọn cỏ đốn cây, tất còn lưu lại dấu vết của gốc rễ. Ta coi chừng…

Hắn trầm ngâm một chút rồi khẽ nói tiếp:

– Dược Vương trang nhất định gần đây rồi. Chắc lão đã rải chất kịch độc nên đến cả gốc cây cũng chẳng còn.

Hồ Phỉ gật đầu, trong lòng càng thêm khiếp sợ. Chàng xé mấy mảnh vải trong bọc bịt miệng ngựa Chung Triệu Văn, rồi bịt cả miệng ngựa của mình. Chung Triệu Văn biết chàng sợ tiến về phía trước lại gặp cây cỏ có chất độc, hai con vật gặm cỏ tất không khỏi ngộ độc. Hắn khẽ gật đầu và khen thầm chàng trẻ tuổi mà tâm tư tế mật. Đi chẳng bao lâu nữa đã trông thấy một tòa nhà ở phía xa xa. Khi đến gần mới thấy tòa nhà này hình thù cực kỳ cổ quái, giống như một ngôi mả lớn, đã không có cửa lớn cũng chẳng có cửa sổ, trông tối tăm âm u thật khủng khiếp.

Cả hai đều nghĩ: “Cứ xem hình thù tòa nhà này thì chắc đây là Dược Vương trang rồi”.

Cách tòa nhà chừng mấy trượng, có một hàng cây thấp nhỏ mọc xung quanh nhà. Lá cây giống như lá dẻ, màu lá đỏ ửng như màu máu, tựa hồ lá phong vào mùa thu. Lúc này trời nhá nhem tối, người nhìn thấy không rét mà run.

Chung Triệu Văn cả đời bôn tẩu giang hồ có chuyện hung hiểm nào lại chưa thấy qua? Ba anh em hắn đã ăn mặc như kiểu tang gia khiến người nhìn thấy phải sợ hãi, vậy mà gặp tình trạng này, trống ngực hắn không khỏi đập loạn lên. Hắn khẽ hỏi Hồ Phỉ:

– Làm thế nào bây giờ?

Hồ Phỉ đáp:

– Chúng ta theo lễ mà cầu kiến rồi tùy cơ ứng biến.

Hai người liền tung ngựa vọt tới, còn cách dãy cây thấp chừng vài trượng, liền xuống ngựa dõng dạc hô lớn:

– Chung Triệu Văn ở Ngạc Bắc và vãn bối là Hồ Phỉ ở Liêu Đông xin có lời thỉnh an Dược Vương tiền bối.

Mấy câu này từng chữ đều từ huyệt “Đan điền” đưa ra, thanh âm không vang đội mấy, nhưng ngân xa hàng mấy dặm. Người ở trong nhà dĩ nhiên phải nghe rõ từng lời. Sau một lúc trong nhà vẫn không thấy động tĩnh gì, Hồ Phỉ lại hô lần nữa. Trong tòa nhà tròn vẫn không có ai trả lời, tựa hồ không có người ở. Hồ Phỉ lại lớn tiếng nói:

– Kim Diện Phật Miêu đại hiệp trúng độc bị thương. Độc dược đó bị bọn gian nhân lấy cắp nơi tiền bối. Xin tiền bối mở dạ từ bi ban cho thuốc giải.

Bất luận chàng nói gì trong tòa nhà tròn kia thủy chung vẫn yên lặng như tờ. Sau một lúc khá lâu trời tối mịt. Hồ Phỉ khẽ hỏi:

– Chung Nhị ca! Nhị ca tính sao bây giờ?

Chung Triệu Văn đáp:

– Cặp mắt của Miêu đại hiệp đã mù, chúng ta đã đến đây chẳng lẽ lại trở về tay không?

Hồ Phỉ nói:

– Đúng thế! Dù là đầm rồng hang cọp cũng phải xông vào.

Cả hai người đều nổi lòng động võ, muốn dùng biện pháp cứng rắn. Họ đều nghĩ:

– Độc Thủ Dược Vương tuy chuyên nghề dùng độc, nhưng võ công vị tất đã cao thâm. Chúng ta dùng cả hai cách cương nhu vừa mềm dẻo, vừa cứng rắn để xin thuốc giải cho bằng được.

Hai người liền xuống ngựa, tiến lại gần dãy cây thấp. Họ thấy những cây này cành lá rậm rạp sum suê, không thể xuyên qua được. Chung Triệu Văn tung mình nhảy lên cao, vượt qua bụi cây thấp để vào trong. Người hắn đang lơ lửng trên không, bỗng ngửi thấy mùi thơm ngào ngạt, mắt tối sầm lại, lập tức ngã vào trong bụi cây ngất đi.

Hồ Phỉ thấy vậy cả kinh, liền nhảy vào theo. Lúc chàng đang vượt qua dãy cây thấp, mũi ngửi thấy mùi hương khác lạ xộc vào mũi, người chỉ muốn nôn ọe. Chàng vừa hạ mình xuống đất vội đưa tay đỡ Chung Triệu Văn sờ mũi thấy vẫn còn hơi thở nhưng hai mắt nhắm nghiền, ngón tay và da mặt lạnh toát như băng.

Hồ Phỉ lòng thầm kêu khổ:

– Chưa cầu được thuốc giải cho Miêu đại hiệp thì Chung nhị ca lại trúng độc. Xem ra cả ta cũng thấm hơi độc rồi, có điều chất độc chưa phát tác mà thôi.

Chàng nhún thấp người xuống nhảy vọt đến trước căn nhà tròn, miệng hô lớn:

– Dược Vương tiền bối! Vãn bối tay không đến bái trang, thực chẳng có ý xấu. Nếu không cho bái kiến, vãn bối buộc phải hành động vô lễ.

Chàng nói câu này rồi nhìn kỹ bức tường xung quanh nhà tròn, chỉ thấy từ trên nóc nhà xuống đến chân tường toàn một màu đen sì, hiển nhiên không phải kiến tạo bằng thổ mộc. Chàng không dám đưa tay ra đẩy. Nhưng bốn phía đều được quét dọn sạch sẽ ngay cả một mảnh gạch hay một viên đá nhỏ cũng chẳng sao biết được. Chàng liền móc đĩnh bạc trong bọc ra khẽ gõ vào tường ba cái, quả nhiên nghe tiếng “choang choang của kim loại bị va đập.

Hồ Phỉ bỏ đĩnh bạc vào bọc, vừa cúi đầu xuống bỗng ngửi thấy mùi hương nhẹ nhàng thoang thoảng, tinh thần liền phấn khởi. Đầu óc đang ngầy ngật vừa ngửi thấy mùi hương lập tức tỉnh táo lại. Chàng cong lưng hơn chút nữa thấy mùi hương ngào ngạt hơn, té ra là mùi thơm đó tỏa ra từ đóa hoa màu lam mà cô thôn nữ đã tặng cho.

Hồ Phỉ động tâm nghĩ thầm:

– Xem chừng mùi hoa thơm có công hiệu giải độc. Quả nhiên cô có lòng tốt.

Chàng gia tăng cước lực đi quanh căn nhà tròn, chẳng những không thấy cửa ngõ mà ngay cả lỗ hổng cũng không có. Chàng tự hỏi:

– Chẳng lẽ trong nhà không có người ở ư? Nếu có sao tránh khỏi chết ngạt vì thiếu lỗ thông hơi?

Trong tay chàng lại không binh khí, nên đối với căn nhà toàn bằng sắt này thật vô kế khả thi. Chàng ngưng thần ngẫm nghĩ một lúc, rồi lấy hoa lam trong bọc ra để vào mũi Chung Triệu Văn. Một lúc sau, quả nhiên y hắt hơi một cái, rồi từ từ tỉnh lại. Hồ Phỉ cả mừng nghĩ bụng:

– Cô thôn nữa kia đã có phép giải độc. Chi bằng ta trở về cầu cô chỉ điểm.

Thế rồi chàng cài một đóa hoa lam vào vạt áo Chung Triệu Văn, tay chàng cầm một đóa. Chàng đỡ Chung Triệu Văn nhảy ra khỏi dãy cây thấp đó, hai chân vừa đặt xuống đất bỗng nghe trong nhà có người bật tiếng la hoảng:

– Ủa!

Hồ Phỉ quay lại hỏi:

– Dược Vương tiền bối! Tiền bối có chịu cho vãn bối gặp mặt chăng?

Trong ngôi nhà tròn lại yên tĩnh chẳng có thanh âm chi hết. Chàng hỏi hai câu, đối phương vẫn không trả lời. Đột nhiên hai tiếng “huỵch huỵch” vang lên như có vật nặng rớt xuống đất Hồ Phỉ quay lại nhìn thấy đôi ngựa đã nằm lăn ra đó. Chàng tung người vọt lại coi thì thấy hai con vật mắt nhắm nghiền, miệng sủi bọt đen. Chúng hiển nhiên đã bị trúng độc tắt hơi, trên mình chẳng có thương tích chi hết.

Đã đến nước đó, hai người không còn dám chần chờ ở nơi nguy hiểm này nữa, cùng nhau khẽ thương lượng mấy câu rồi quyết ý ra cầu cứu cô thôn nữ. Hai người theo đường cũ mà về. Chung Triệu Văn sau khi trúng độc, chân tay bải hoải, cứ đi một quãng lại phải nghỉ một lúc. Sang canh hai, hai người mới trở về căn nhà tranh của cô thôn nữ. Trong đêm tối mùi hoa lam trong vườn càng tỏa thơm ngào ngạt. Chung, Hồ vừa ngửi được mùi hương đó đã cảm thấy hết nhọc mệt, trong lòng thư thái.

Bỗng thấy ánh đèn từ trong nhà lọt qua cửa sổ ra ngoài. Nghe “kẹt” một tiếng, cánh cửa ra vào đã mở, cô thôn nữ bước ra, lên tiếng:

– Mời hai vị vào đây nhưng chỗ quê mùa chẳng có gì khoản đãi. Chỉ có trà thô cơm nhạt, thật là không phải với quý khách.

Hồ Phỉ nghe cô nói không có vẻ phàm tục, vội chắp tay thi lễ đáp:

– Đêm khuya đến quấy nhiễu, tại hạ thật áy náy.

Cô thôn nữ mỉm cười đứng tránh sang một bên, nhường lối cho hai người vào nhà. Hồ Phỉ bước vào thấy trong nhà kê bàn ghế gỗ, cách bài trí cũng như mọi nông gia thông thường, không có gì khác biệt, nhưng sạch sẽ không một hạt bụi. Cả khe tường, vách ván cũng không chút bụi bặm. Nơi đây sạch sẽ tương tự khu vực xung quanh tòa nhà tròn, khiến hai người lo ngầm trong bụng.

Cô thôn nữ nói:

– Chung gia, Hồ gia, xin mời ngồi!

Cô nói rồi xuống bếp lấy hai bộ bát đũa cùng ba món ăn, hai bát cơm trắng lớn bốc hơi nghi ngút. Ba món ăn là đậu hũ luộc, măng tươi và nấm xào rau. Tuy là cơm chay nhưng mùi vị ngon lành. Hai người đã đi hằng nửa ngày trời, bụng đều đói meo.

Hồ Phỉ cười nói:

– Đa tạ cô nương.

Tay trái chàng bưng bát cơm, tay phải cầm đũa ăn ngay. Chung Triệu Văn trong lòng nghi hoặc, nghĩ thầm:

– Cơm canh này thị đã dự bị từ trước, hiển nhiên thị tiên liệu chúng ta đi rồi quay trở ra. Chẳng thà chịu chết đói chứ cơm canh này ngàn vạn lần cũng không thể ăn.

Hắn thấy cô thôn nữ trở gót xuống nhà bếp, liền đưa mắt nhìn Hồ Phỉ khẽ hỏi:

– Huynh đệ! Ta đã đặn huynh đệ trong phạm vi ba chục dặm quanh Dược Vương trang không thể ăn uống gì được. Huynh đệ quên rồi ư?

Nhưng Hồ Phỉ nghĩ thầm:

– Nếu cô này có ý làm hại ta thì quyết đã chẳng tặng hoa cho ta. Tuy vẫn phải đề phòng lòng người bất trắc, nhưng không ăn bữa cơm này thì nhất định đắc tội với cô.

Chàng toan trả lời thì cô thôn nữ từ trong bếp bưng ra một cái khay gỗ. Trên khay đặt một cái thùng nhỏ đựng đầy cơm trắng.

Hồ Phỉ đứng dậy, nói:

– Đa tạ cô nương có lòng hậu từ. Bọn tại bạ xin được bái kiến lệnh tôn cùng lệnh đường.

Thiếu nữ đáp:

– Gia gia má má tiểu nữ qua đời cả rồi. Tiểu nữ ở đây chỉ có một mình.

Hồ Phỉ “à” một tiếng rồi ngồi xuống cầm đũa tiếp tục ăn nữa. Ba món ăn trông rất ngon lành sạch sẽ, Hồ Phỉ vừa ăn vừa khen không ngớt miệng để lấy lòng cô.

Chung Triệu Văn bụng bảo dạ:

– Ngươi đã không nghe lời khuyên, ta cũng đành chịu. Chẳng lẽ cả hai cùng mắc bẫy người ta sao?

Hắn nhìn cô thôn nữ nói:

– Tại hạ vừa ngất xỉu một lúc lâu, trong bụng thấy nôn nao, không muốn ăn cơm.

Cô thôn nữ rót một chung trà, nói:

– Vậy xin mời Chung gia uống một chung trà xanh.

Chung Triệu Văn thấy nước trà xanh biếc lại trong trẻo ngon lành. Tuy hắn miệng khát muốn uống, nhưng chỉ ngỏ lời cảm tạ rồi đón lấy chung trà đặt xuống bàn chứ không uống. Cô gái cũng không để ý. Cô thấy Hồ Phỉ ăn như rồng cuốn, hết bát này tới bát khác, bất giác khóe mắt lộ vẻ vui mừng.

Hồ Phỉ trông thấy ánh mắt cô, thầm nghĩ:

– Ta đã lỡ ăn rồi, có ăn ít cũng trúng độc mà ăn nhiều cũng trúng độc vậy thôi!.

Chàng đánh bạo tiếp tục ăn thật no. Chàng ăn hết bốn bát cơm lớn, ba món ăn cũng hết sạch, để lộ cả đáy bát ra.

Cô thôn nữ lại cất dọn. Hồ Phỉ vội đặt bát đũa xuống rồi bưng mâm vào nhà bếp. Tiện tay chàng múc nước trong lu rửa sạch bát chén, lau khô rồi xếp vào chạn. Thôn nữ rửa nồi niêu, quét nhà. Hai người cùng nhau dọn dẹp. Hồ Phỉ cũng không nhắc tới chuyện vừa qua. Chàng thấy lu nước chỉ còn lại một nửa liền quẩy thùng ra khe suối ở ngoài cửa gánh nước đổ đầy lu. Gánh xong, chàng lên phòng trên thấy Chung Triệu Văn gục xuống bàn mà ngủ.

Cô thôn nữ nói:

– Nhà cửa chốn hương thôn không có chỗ tiếp khách, đành ủy khuất Hồ gia ngủ tạm trên ghế dài một đêm vậy!

Hồ Phỉ đáp:

– Cô nương không cần phải khách sáo!

Thôn nữ tiến vào phòng trong khẽ khép cửa lại, nhưng không nghe tiếng cài then. Chàng tự hỏi:

– Cô này trơ trọi ở đây một mình, sao dám để hai người đàn ông lưu trú, xem ra cô lớn mật quá.

Chàng liền đưa tay lay vai Chung Triệu Văn khẽ nói:

– Chung nhị ca, ra cái ghế dài mà nằm nghỉ!

Ngờ đâu, chàng vừa đụng vào đầu vai, Chung Triệu Văn đã té nhào xuống đất đánh “huỵch” một cái. Hồ Phỉ cả kinh, vội ôm hắn vực dậy, thấy người sốt cao như lửa. Hồ Phỉ rối rít hỏi:

– Chung nhị ca, nhị ca làm sao vậy?

Chàng bèn cầm đèn đưa lại gần xem cho rõ, thì thấy mặt hắn đỏ rực như người say rượu nồng nặc, Hồ Phỉ lấy làm quái lạ, tự nhủ:

– Y không uống lấy một ngụm trà cớ sao chỉ trong chớp mắt lại say bí tỉ thế này?

Bỗng nghe y nói mơ:

– Ta không say, không có say mà! Lại đây, ta cùng uống với ngươi thêm ba bát lớn nữa!

Hồ Phỉ trong lòng xoay chuyển ý nghĩ, biết Chung Triệu Văn đã mắc phải thủ đoạn của cô thôn nữ. Vì hắn không chịu ăn cơm uống trà, nên không biết cô ta dùng cách thức kỳ lạ nào để khiến hắn rơi vào tình trạng say mềm như bún. Hồ Phỉ hoang mang vừa kinh sợ, vừa thấy kỳ quái, không biết nên cầu cứu với cô thôn nữ hay cứ để tự nhiên cho hắn từ từ tỉnh lại.

Chàng lại nghĩ:

– Y bị trúng độc chứ không phải say rượu, vị tất có thể tự hồi tỉnh được?

Đúng lúc đó, bỗng có tiếng tru gào thê thảm của dã thú từ xa vọng lại. Giữa đêm hôm khuya khoắt nghe thấy âm thanh ấy không khỏi khiến ta rợn người sởn gáy. Tiếng tru gào nghe như tiếng chó sói. Ven Động Đình hồ phần lớn là vùng đồng bằng. Nếu có chó sói đi nữa thì chỉ một vài con chứ làm sao có từng đàn đông đảo như vậy. Tiếng tru gào mỗi lúc một gần. Hồ Phỉ đứng bật dậy, nghiêng tai lắng nghe. Trong tiếng chó sói gào có xen lẫn tiếng dê kêu be be. Hiển nhiên là bầy sói đang săn đuổi dê để ăn thịt. Hồ Phỉ cũng không để ý toan lại coi tình hình Chung Triệu Văn thì nghe cánh cửa kẹt mở. Cô thôn nữ tay cầm đèn bước ra, vẻ mặt kinh hoàng nói:

– Đó là tiếng chó sói tru gào.

Hồ Phỉ gật đầu đáp:

– Cô nương…

Chàng trỏ vào Chung Triệu Văn. Lại nghe tiếng vó ngựa dồn dập hòa lẫn với tiếng dê kêu, tiếng chó sủa náo loạn cả lên. Những thanh âm này đang tiến thẳng về phía căn nhà tranh.

Hồ Phỉ cả kinh thất sắc bụng bảo dạ:

– Nếu là bọn địch nhân kéo đông người đến tập kích thì căn nhà tranh này không chịu nổi một cái lay, huống chi Chung nhị ca bị trúng độc mê man bất tỉnh. Cô thôn nữ ở cạnh nách là bạn hay là thù cũng khó mà đoàn được. Biết làm thế nào bây giờ?

Chàng còn đang suy nghĩ bỗng thấy một con khoái mã lao tới. Hồ Phỉ trong tay không một tấc sắt, cúi xuống ôm Chúng Triệu Văn chạy vào nhà bếp để kiếm con dao thái rau, nhưng trong bóng tối chàng mò mẫm mãi mà chẳng tìm thấy gì.

Bỗng nghe thôn nữ lớn tiếng quát hỏi:

– Người nhà họ Mạnh đấy ư? Đêm hôm khuya khoắt đến đây làm gì?

Hồ Phỉ nghe giọng nói nghiêm khắc không có vẻ trá ngụy, xem ra người đến tập kích không phải cùng phe với cô, chàng mới hơi yên dạ. Chàng chạy ra sân sau chụp lấy một viên gạch, tung mình nhảy lên cây liễu, đặt Chung Triệu Văn vào chỗ chạc cây lớn.

Định thần nhìn kỹ, dưới ánh sao chàng thấy một hán tử áo xám tro cưỡi ngựa xông tới trước căn nhà tranh. Phía sau con ngựa bụi đất tung bay, tiếng tru gào náo loạn cả lên, tiếp theo đến mười mấy con chó sói đói đang đuổi tới. Cứ xem tình hình này thì dường như người kia dọc đường gặp bầy sói đói xông tới tấn công, nên phải vọt ngựa chạy trốn. Nhưng chàng nhìn lại thấy phía sau có một vật trắng toát. Té ra là một con dê còn sống. Hồ Phỉ cho đó là người đi săn dùng con dê làm mồi dụ bầy chó sói vào bẫy để bắt.

Người kia tung ngựa xông vào vườn hoa, chạy thẳng đến đầu phía đông rồi quay đầu ngựa trở qua hướng tây. Bảy sói đói rượt theo sau, tru inh ỏi. Người kia cứ chạy tới chạy lui khiến vườn hoa bị dẫm nát không còn hình dạng gì nữa. Con ngựa hán tử đang cưỡi quả là loại tuấn mã, thuật cưỡi ngựa của gã rất tinh thâm. Gã chạy lui chạy tới mà bầy sói đói kia thủy chung vẫn không cắn được con dê.

Hồ Phỉ xoay chuyển ý nghĩ, hốt nhiên tỉnh ngộ:

– A! Thằng cha này đến để giẫm nát hoa lam! Có lý nào ta lại tụ thủ bàng quan?

Chàng liền điểm hai chân vọt qua nóc nhà tranh. Bỗng nghe người kia la lên một tiếng: “Úi chao!” rồi tung ngựa chạy nước đại về hướng bắc. Con dê vẫn để lại trong vườn hoa. Bầy sói nhảy xô lại xâu xé, khiến cho vườn hoa đã tan nát càng thêm tơi tả.

Hồ Phỉ mắng thầm:

– Dụng tâm của thằng cha này thật thâm độc!

Chàng liền ném hai mảnh gạch bay ra. Nghe “bốp, bốp” hai tiếng, hai con sói đứng đầu trúng phải mảnh gạch, óc vỡ ngã lăn ra đất chết liền. Hồ Phỉ lại ném hai mảnh gạch nữa, lần này viên gạch nhỏ hơn liền trệch đi một chút, một viên đánh trúng bụng một con sói, một viên bắn vào vào vai một con. Tuy cú va chạm không mạnh nhưng hai con sói dữ cũng đau đớn tru ầm lên. Bầy sói liên tiếp bị đánh, biết có người ở trên nóc nhà. Chúng ngửng đầu lên nhìn Hồ Phỉ, nhe răng múa vuốt tru gào ầm ĩ. Hồ Phỉ thấy bầy lang lộ vẻ hung dữ, cả người sởn gai ốc, vì chàng tay không, thực khó mà chống chọi được mấy chục con sói dữ. Chàng liền cầm viên gạch, nhằm đúng đầu con sói đực lớn nhất ném chênh chếch xuống trúng cổ họng nó. Con sói lăn lộn mấy vòng rồi không chịu đau nổi liền cúp đuôi chạy trốn. Một con sói lớn khác đang cắn con dê trắng cũng chạy theo. Chỉ trong khoảnh khắc tiếng sói tru mỗi lúc một xa. Vườn hoa lam đã bị giày phá tan nát.

Hồ Phỉ từ trên nóc nhà nhảy xuống, chặc lưỡi luôn miệng:

– Đáng tiếc! Đáng tiếc!

Chàng nghĩ tới cô thôn nữ phải cực nhọc trồng hoa, dày công làm cỏ bón tưới mới nên được một vườn hoa lam xinh đẹp, vậy mà trong khoảnh khắc đã bị phá hoại sạch sành sanh, chắc là cô đau khổ lắm. Không ngờ cô chẳng nhắc gì đến vườn hoa lam bị tàn phá, còn cười rúc rích, nói:

– Đa tạ Hồ gia đã ra tay tương trợ.

Hồ Phỉ đáp:

– Nói ra thêm hổ thẹn. Đáng trách là tại ha không thấy được cơ sự sớm hơn, ra tay chậm quá. Nếu tại hạ đánh tên ác tặc kia ngã ngựa sớm ở ngoài xa, thì vườn hoa này có thể bảo toàn được.

Cô thôn nữ mỉm cười nói:

– Vườn hoa lam này dù chẳng bị bầy sói dữ phá hoại thì qua mấy ngày nữa nó cũng tàn tạ. Chẳng qua là chậm hay sớm vài ngày, cũng chẳng có chi đáng kể.

Hồ Phỉ sửng sốt nghĩ thầm:

– Cô này ăn nói lạ thường, lời lẽ dường như còn hàm ẩn huyền cơ.

Chàng nói:

– Tại hạ tới nhà quấy nhiễu, mà chưa kịp thỉnh giáo tôn tính của cô nương.

Cô thôn nữ trầm ngâm một chút rồi đáp:

– Tiểu muội họ Trình, nhưng trước mặt người khác xin đại ca đừng nhắc tới họ của tiểu muội.

Cô nói mấy câu này đầy vẻ thân thiết, tựa hồ coi Hồ Phỉ như là người của mình rồi. Hồ Phỉ ra chiều cao hứng hỏi:

– Vậy tại hạ gọi cô nương bằng gì nào?

Cô thôn nữ đáp:

– Đại ca là người rất tốt. Tiểu muội nói cả tên cho đại ca hay. Tiểu muội là Trình Linh Tố. Chữ “Linh” của “Linh khu”, còn “Tố” trong “Tố vấn”.

Hồ Phỉ không hiểu “Linh khu” và “Tố vấn” là hai cuốn y kinh ở Trung Quốc, nhưng cảm thấy hai chữ này rất thanh nhã, chẳng giống tên của một cô gái quê mùa. Lúc này chàng mới biết cô nhất định không phải là cô gái bình thường chốn hương thôn. Chàng cũng không lấy làm lạ nữa, bèn nói:

– Vậy tại hạ kêu bằng “Linh cô nương”, người ngoài có nghe thấy họ cũng cho là “Lâm cô nương”.

Trình Linh Tố nhoẻn một nụ cười rất xinh, đáp:

– Đại ca thật khéo làm cho tiểu muội hoan hỷ.

Hồ Phỉ cũng hơi động tâm. Chàng thấy tướng mạo cô tuy không xinh đẹp lắm, nhưng từng câu cười tiếng nói đều có phong thái kiều mỵ đáng yêu. Chàng toan hỏi về vụ Chung Triệu Văn say rượu thì Trình Linh Tố đã nói:

– Vị Chung nhị ca kia uống rượu say chẳng có gì đáng ngại. Chỉ đến sáng mai là tỉnh lại. Bây giờ tiểu muội đi thăm mấy người, đại ca có đi theo không?

Hồ Phỉ thấy cô bé này hành động rất cổ quái, cô đi thăm người vào lúc đêm hôm khuya khoắt tất là có thâm ý. Chàng liền đáp:

– Dĩ nhiên tại hạ muốn đi theo cô.

Trình Linh Tố nói:

– Đại ca cùng đi thì chúng ta phải có ba điều quy ước. Một là đêm nay đại ca không được nói gì với ai…

Hồ Phỉ đáp:

– Được rồi! Tại hạ cứ làm người câm là xong.

Trình Linh Tố cười nói:

– Không cần phải thế. Đại ca nói với tiểu muội thì được. Hai là đại ca tuyệt đối không được động võ, phóng ám khí hay điểm huyệt. Ba là không được rời xa tiểu muội ba bước.

Hồ Phỉ gật đầu ưng thuận, nghĩ thầm:

– Té ra cô đưa mình đi đến gặp Độc Thủ Dược Vương. Cô bảo mình không được rời cô xa ba bước là sợ mình bị trúng độc nguy hiểm.

Chàng phấn khởi tinh thần hỏi:

– Bây giờ chúng ta đi ngay chứ?

Trinh Linh Tố đáp:

– Cần đem theo một vài thứ.

Cô vào phòng mình trong khoảng thời gian chừng uống cạn tuần trà rồi gánh đôi giỏ tre trở ra. Mặt giỏ có đậy nắp không hiểu trong đựng những gì, nhưng nhìn bộ dạng cũng biết cô phải gắng hết sức mới gánh nổi. Hồ Phỉ nói:

– Cô nương để tại hạ gánh cho.

Rồi chàng đón lấy gánh đặt lên vai, thấy nặng trên một trăm cân. Đôi giỏ nặng nhẹ không đều. Một bên nặng trĩu còn một bên nhẹ hều, thành ra khó gánh. Chàng thấy Chung Triệu Văn phục xuống bàn ngủ ngáy pho pho. Chàng đi qua bên mình hắn vẫn cảm thấy hơi rượu nồng nặc.

Hai người ra khỏi căn nhà tranh. Trình Linh Tổ khép cửa lại rồi đi trước dẫn đường. Hồ Phỉ hỏi:

– Linh cô nương! Tại hạ muốn hỏi một điều được chăng?

Trình Linh Tố đáp:

– Được chứ, nhưng chỉ sợ tiểu muội không biết đường mà trả lời.

Hồ Phỉ nói:

– Cô nương không trả lời được thì trong thiên hạ chẳng còn người thứ hai nào trả lời được. Chung nhị ca của tại hạ không uống một giọt nước nào mà sao lại say mê man như vậy?

Trình Linh Tố tủm tỉm cười đáp:

– Chính vì y không uống một giọt nước nào mà hóa ra như vậy đấy.

Hồ Phỉ nói:

– Vụ này tại hạ không sao hiểu được. Chung nhị ca là tay giang hồ lão luyện. Chung thị tam hùng ở Quỷ Kiến Sầu vùng Ngạc Bắc đều là những nhân vật nổi danh trong võ lâm, còn tại hạ là kẻ kiến thức thiển lậu. Ngờ đâu vì y thận trọng quá mức mà…

Chàng nói tới đây bỗng ngưng lại không nói nữa. Trình Linh Tố đáp:

– Đại ca nói phải lắm! Y thận trọng trong mọi trường hợp mà lại mắc lừa tiểu muội phải không? Đề phòng cần thận có ích gì đâu? Cứ vô tư như đại ca lại được bình yên vô sự.

Hồ Phỉ hỏi:

– Tại hạ làm sao?

Trình Linh Tố cười đáp:

– Bảo đại ca đi gánh phân là gánh liền, bảo ăn cơm là ăn ngay. Biết ngoan ngoãn nghe lời thì còn ai nhẫn tâm làm hại đại ca?

Hồ Phỉ cười nói:

– Té ra làm người là cần phải biết nghe lời. Nhưng cách thức cô ngương dùng để sửa lưng người khác lại quá đỗi xảo diệu, đến giờ này tại hạ cũng không sao hiểu được.

Trình Linh Tố đáp:

– Được rồi! Tiểu muội nói sơ qua cho đại ca hiểu. Trong phòng lớn có chậu hoa trắng nhỏ, đại ca đã nhìn thấy chưa?

Lúc trước Hồ Phỉ không lưu ý bây giờ chàng nhớ lại quả nhiên ở trên bàn bên cửa sổ có một chậu hoa trắng nhỏ. Trình Linh Tố nói tiếp:

– Chậu hoa đó gọi là “Đề hồ hương”. Mùi thơm làm người ngây ngất, cực kỳ lợi hại. Ai ngửi một lúc là chẳng khác gì uống phải rượu nồng. Trong cơm canh và nước trà, tiểu muội đã hòa thuốc giải vào. Ai bảo y không chịu ăn uống làm chi?

Hồ Phỉ chợt tỉnh ngộ, đối với cô gái càng đem lòng kính sợ. Chàng lẩm bẩm:

– Ta chỉ nghe nói người ta hạ độc vào đồ ăn thức uống, ngờ đâu phương pháp hạ độc của cô lại cao minh hơn nhiều, đối phương dù không ăn uống gì cũng bị trúng độc.

Trình Linh Tố lại nói:

– Để lát nữa trở về tiểu muội cho uống thuốc giải là xong. Đại ca bất tất phải băn khoăn.

Hồ Phỉ động tâm nghĩ thầm:

– Cô nương này giỏi nghề dùng thuốc, không chừng có thể chữa được đôi mắt cho Miêu đại hiệp. Vậy thì chẳng cần phải đi cầu cạnh Độc Thủ Dược Vương nữa.

Chàng liền hỏi:

– Linh cô nương! Cô nương có biết cách giải trừ chất độc “Đoạn trường thảo” không?

Trình Linh Tố đáp:

– Cái đó khó nói lắm.

Hồ Phỉ thấy cô ngập ngừng, không tiện xin cô điều trị. Chàng nhìn cước bộ của cô nhẹ nhàng, yểu điệu. Cô đi trước không nhanh mà cũng không chậm, tuy không thi triển khinh công mà đi chưa bao lâu cũng đã được sáu, bảy dặm đường. Cô đi thẳng về phía chính đông, vậy không phải đến Dược Vương trang. Chàng chợt nhớ ra điều gì liền nói:

– Tại hạ còn muốn hỏi cô nương một chuyện. Vừa rồi tại hạ cùng Chung nhị ca đi Dược Vương trang, cô nương bảo tại hạ đi về phía đông bắc, cố ý bắt anh em tại hạ phải đi đường vòng xa thêm gần hai chục dặm nữa. Dụng ý của cô nương trong chuyện này, tại hạ quả tình không sao hiểu được.

Trình Linh Tố đáp:

– Việc chính đại ca muốn hỏi tiểu muội không phải việc này. Tiểu muội đoán chừng đại ca định hỏi Dược Vương trang rõ ràng ở hướng tây bác mà sao chúng ta lại đi về hướng đông, có phải không?

Hồ Phỉ cười, đáp:

– Cô nương đoán đúng. Tại hạ muốn hỏi điều đó.

Trình Linh Tố nói:

– Bây giờ chúng ta không đi về phía Dược Vương trang chỉ vì không phải chúng ta đi đến đó.

Điều này vượt ngoài sự tiên liệu của Hồ Phỉ, khiến chàng “ủa” lên một tiếng. Trình Linh Tố lại nói:

– Ban chiều tiểu muội yêu cầu đại ca tưới hoa một là để thử lòng đại ca, hai là để đại ca phải chậm trễ thêm một khoảng thời gian nữa. Sau tiểu muội lại bảo đại ca đi đường vòng xa thêm hai mươi dặm tốn thêm thời gian để đến khi trời tối đại ca mới tới được Dược Vương trang. Vì bên ngoài trang trồng những cây Huyết nụy lật, là giống dẻ lùn, lá đỏ như máu. Thứ cây này về đêm độc tính giảm đi. Tiểu muội tặng cho đại ca hai bông hoa lam là để khắc chế chất độc kia.

Hồ Phỉ nghe cô nói trong lòng khâm phục vô cùng. Chàng không ngờ cách dùng độc và thuốc giải cũng cần nhiều học vấn đến thế, mà vị tiểu cô nương dung mạo tầm thường này lại dụng tâm rất sâu xa, người thường không sao bì kịp. Chàng kể lại chuyện gặp hai xác chết bên bờ Động Đình hồ. Trình Linh Tố nghe đến chi tiết trên mặt xác chết có những đốm đen, cơ mặt bị méo mó, liền “hừ” một tiếng, rồi nói:

– Chất độc “Quỷ biển bức” đó không có thuốc giải nào trị được, bọn họ sao lại không biết.

Hồ Phỉ nghĩ thầm:

– “Quỷ biển bức” là chất độc gì? Cô có nói ra mình cũng chẳng hiểu. Cô dặn gì thì mình cứ việc làm y như vậy. Càng hỏi nhiều chỉ tổ lòi cái dốt của mình ra.

Chàng đành im tiếng, cứ lầm lũi đi theo sau cô về phía đông. Hai người lại đi chừng năm, sáu dặm rồi tiến vào một khu rừng cây tối om om. Trình Linh Tố khẽ nói:

– Đến nơi rồi. Bọn họ chưa lại. Chúng ta chờ ở rừng cây này. Đại ca đem một cái giỏ tre đặt dưới gốc cây kia.

Cô vừa nói vừa trỏ một cây lớn. Hồ Phỉ theo lời y đem giỏ tre nặng trĩu đặt ở đó. Trình Linh Tố đi tới bên cạnh một bụi cỏ rậm cách gốc cây chừng tám, chín trượng. Cô nói:

– Còn cái giỏ nữa đem đến đặt tại đây cho tiểu muội.

Đoạn cô vạch bụi cỏ ra chui vào trong đó. Hồ Phỉ cũng không hỏi ai chưa lại và chờ họ để làm gì? Chàng nhớ lời dặn không rời ra cô quá ba bước liền đem cái giỏ kia đặt tại đó rồi cũng chui vào bụi cỏ, ngồi bên cạnh cô. Chàng ngửng đầu nhìn trời, thấy vành trăng đã xế về tây, đêm đã về khuya rồi. Trong rừng cây, tiếng côn trùng rả rich, thỉnh thoảng lại có vài tiếng kêu chát chúa.

Trình Linh Tố đưa cho Hồ Phỉ một viên thuốc, khẽ dặn chàng:

– Bỏ vào miệng ngậm, đừng có nuốt đấy!

Hồ Phỉ chẳng nhìn viên thuốc cứ lẳng lặng bỏ vào miệng. Viên thuốc này mùi vị đắng ngắt. Hai người ngồi đợi chừng nửa giờ. Hồ Phỉ nghĩ quanh nghĩ quẩn, chàng nhận thấy trong một ngày một đêm vừa rồi đã trải qua những biến cố kỳ dị, quái đản, có thể nói là chưa bao giờ gặp trong đời.

Đột nhiên chàng nhớ tới Viên Tử Y, tự hỏi:

– Không hiểu hiện giờ nàng ở đâu? Nếu như ở bên ta không phải cô bé gầy nhom này mà là Viên cô nương thì nàng sẽ nói gì với ta?

Nghĩ tới đây bất giác chàng thò tay vào bọc sờ con ngọc phụng. Đột nhiên Trình Linh Tố đưa tay kéo vạt áo Hồ Phỉ trỏ về phía trước.

Hồ Phỉ nhìn theo tay nàng, thấy ở phía xa một ngọn đèn lồng đang từ từ tiến gần lại. Thông thường ánh sáng đèn lồng có màu hồng, nhưng ngọn đèn lồng này lại chiếu ra màu xanh lục. Ngọn đèn lồng tiến đến rất lẹ, chẳng mấy chốc chỉ còn cách trước mặt ngoài mười trượng. Ánh lửa soi rõ người cầm đèn là một nữ nhân lưng còng, bước cao bước thấp, tựa hồ què chân phải. Đi sát sau mụ là một hán tử thân hình cao lớn, bên hông đeo một thanh tiêm đao sáng loáng.

Hồ Phỉ nhớ tới lời nói của Chung Triệu Văn bất giác người hơi chấn động nhủ thầm:

– Chung nhị ca bảo Độc Thủ Dược Vương có khi là đại hán như đồ tể, có khi là phụ nữ lưng còng. Vậy trong hai người này tất có một người là Dược Vương.

Chàng liếc mắt nhìn Trình Linh Tố, nhưng trong đêm tối không thấy rõ nét mặt cô, chỉ có cặp mắt lớn long lanh đang nhìn hai người kia không chớp. Cô lộ vẻ rất khẩn trương.

Hồ Phỉ nổi lòng nghĩa hiệp, bụng bảo dạ:

– Nếu Độc Thủ Dược Vương mà hành động bất lợi cho cô thì ta nhất định liều mạng để bảo vệ cô an toàn.

Một nam một nữ kia tiến tới mỗi lúc một gần. Người đàn bà dung mạo nho nhã xinh đẹp, tuy người mụ có tật, nhưng có thể nói đó là một mỹ nữ. Còn đại hán mặt đầy gân guốc, tướng mạo rất hung dữ. Cả hai người đều khoảng bốn chục tuổi. Hồ Phỉ dù mình mang tuyệt nghệ, có gặp bọn cường khấu đạo tặc cực kỳ lợi hại trên chốn giang hồ cũng không hề khiếp sợ, nhưng lúc này chàng không tự chủ được, trống ngực đánh thình thịch. Chàng nhận thấy lắm khi có võ công cũng bế tắc, muốn đối phó với hạng người này thì võ công chưa chắc đã có ích.

Hai người kia còn cách Hồ Phỉ chừng bảy, tám trượng đột nhiên quay sang mé tả đi thêm mười mấy trượng rồi dừng bước. Đại hán lớn tiếng hô:

– Mộ Dung sư huynh! Vợ chồng tiểu đệ theo lời hẹn tới đây. Xin sư huynh lộ diện để tương kiến.

Chỗ hắn đứng không xa Hồ Phỉ mấy, hắn đột nhiên mở miệng nói mà thanh âm lại rất lớn khiến Hồ Phỉ giật nẩy cả mình. Đại hán hô hai lần không người đáp lại.

Hồ Phỉ nghĩ thầm:

– Nơi đây trừ bốn người chúng ta ra chẳng còn ai khác. Làm gì có vị Mộ Dung sư huynh nào? Té ra hai người này là cặp vợ chồng.

Người đàn bà gù cất tiếng nhỏ nhẹ nói:

– Mộ Dung sư huynh đã không chịu hiện thân. Vậy vợ chồng tiểu muội đành phải vô lễ vậy.

Hồ Phỉ cười thầm nghĩ bụng:

– Cái này gọi là gậy ông đập lưng ông, vay gì trả nấy. Vừa rồi ta đến Dược vương trang bái phỏng, nói sao họ cũng không lý gì tới. Bây giờ lão muốn gặp người khác cũng mắc phải đòn này.

Bỗng thấy nữ nhân lấy trong bọc ra một bó cỏ châm vào đèn lồng cho cháy lên. Lập tức khói bốc mù mịt, chẳng bao lâu cả khu rừng như chìm trong làn sương trắng. Trong làn khói thoang thoảng có mùi gỗ đàn hương chẳng có gì khó ngửi.

Hồ Phỉ nghe mụ nói bốn chữ “đành phải vô lễ” thì biết là thứ khói này rất lợi hại, nhưng chính mình chẳng thấy gì khó chịu. Chàng chắc là do công hiệu của viên thuốc ngậm trong miệng, bèn quay nhìn Trình Linh Tố. Lúc này cô cũng đưa mắt nhìn chàng, mục quang đầy vẻ quan tâm. Hồ Phỉ trong lòng cảm kích, khẽ gật đầu. Làn khói mỗi lúc một dày đặc, đột nhiên trong cái giỏ tre đặt ở dưới gốc cây có tiếng người hắt hơi rất lớn.

Hồ Phỉ giật mình kinh hãi tự hỏi:

– Trong giỏ có người ư? Sao ta gánh đi cả nửa buổi mà chẳng biết gì? Vậy câu chuyện giữa ta và Trình cô nương y nghe thấy hết rồi ư? Dù không hiểu gì về y dược cùng độc vật, nhưng ta đã luyện võ công bao nhiêu năm thì chẳng thể gánh một người đi bao nhiêu dặm đường mà lại mơ hồ không biết, trừ phi đó là người chết thì không kể.

Trong lòng chàng rất đỗi kinh dị, lại nghe người trong giỏ hắt hơi liền mấy tiếng rồi tung nắp giỏ nhảy vọt ra. Chàng thấy người này mặc áo trường bào, đội mũ nhà nho. Chính là lão già mà chàng đã gặp ở trên đỉnh núi đang nhặt cỏ hái thuốc lúc ban chiều.

Lúc này quần áo lão rất lôi thôi, khăn đội lệch lạc, thần thái vô cùng thảm hại, không có gì giống với vẻ nho nhã lúc ban ngày. Lão thấy hai người nam nữ kia liền nổi giận, quát hỏi:

– Hay lắm! Khương sư đệ! Tiết sư muội! Các vị hạ thủ càng ngày càng âm độc.

Vợ chồng nhà kia thấy hình dung lão như vậy, dường như vượt qua ngoài sự tiên liệu của họ. Đại hán cười lạt hỏi:

– Sư huynh còn bảo bọn tiểu đệ hạ thủ âm độc ư? Sư huynh ngồi ẩn trong giỏ tre, ai mà ngờ được? Mộ Dung sư huynh…

Hắn chưa dứt lời, lão già lại hắt hơi, sắc mặt biến đổi hẳn. Lão vội thò tay vào bọc lấy một viên thuốc bỏ vào miệng. Mụ đàn bà lưng gù lấy chân giẫm đám thảo dược đang tỏa khói cho tắt đi, rồi lại bỏ vào bọc nói:

– Mộ Dung sư huynh! Không kịp nữa rồi! Không kịp nữa rồi!

Lão già kia mặt xám như tro tàn, ngồi bệt dưới đất hồi lâu mới nói:

– Thôi được, kể như ta thua.

Đại hán lấy trong bọc ra một cái bình nhỏ màu xanh, cầm trong tay nói:

– Thuốc giải ở trong này. Lệnh sư điệt trúng phải độc thủ của đại sư ca, vậy đại sư ca lấy thuốc giải ra trao đổi là xong.

Lão già hỏi:

– Nói bậy! Có phải các vị nói Tiểu Thiết không? Mấy năm nay ta không thấy mặt gã thì hạ độc thủ cái gì mới được chứ?

Mụ đàn bà lưng gù hỏi lại:

– Đại ca hẹn bọn tiểu muội đến đây để nói câu này thôi ư?

Mụ quay đầu lại bảo đại hán:

– Thiết Sơn! Chúng ta đi thôi.

Mụ nói xong, quay lưng toan đi ngay. Đại hán lộ vẻ do dự, nói:

– Tiểu Thiết…

Mụ kia ngắt lời:

– Y giận chúng ta thấu xương, chẳng thà y chịu mất mạng chứ quyết chẳng dung tha Tiểu Thiết. Mấy năm nay chẳng lẽ sư ca còn không nghĩ ra?

Đại hán muốn đi mà không đi ngay, lại hỏi:

– Mộ Dung huynh! Mối cừu hận bao nhiêu năm trời giữa chúng ta đến nay còn để bụng làm chi? Tiểu đệ khuyên đại sư huynh một câu: Chúng ta nên trao đổi thuốc giải cho nhau để cởi bỏ mối hiềm thù ngày trước.

Hắn nói mấy câu này bằng một giọng rất thành khẩn.

Lão già hỏi lại:

– Tiết sư muội! Tiểu Thiết trúng phải chất độc gì?

Mụ già cười lạt một tiếng chứ không trả lời.

Đại hán nói:

– Mộ Dung sư huynh! Đã đến nước này tưởng không nên giả ngây giả ngô nữa. Tiểu đệ kính mừng sư huynh đã trồng được thứ “Thất tâm hải đường”.

Lão già lớn tiếng hỏi:

– Ai trồng được “Thất tâm hải đường”? Chẳng lẽ Tiểu Thiết trúng phải chất độc “Thất tâm hải đường”? Ta không có đâu. Ta không có đâu.

Lão nói mấy câu này ra chiều hốt hoảng, mối lo sợ lộ ra ngoài mặt. Hai vợ chồng kia đưa mắt nhìn nhau tự hỏi:

– Chẳng lẽ lão đóng kịch giống đến thế ư?

Mụ đàn bà hỏi:

– Thôi được! Mộ Dung sư huynh, đừng nói chuyện vô ích nữa. Sư huynh ước hẹn bọn tiểu muội đến đây tương hội có điều chi dạy bảo?

Lão già gãi đầu đáp:

– Ta có ước hẹn đâu? Các vị đem ta đến đây sao lại bảo ta ước hẹn?

Lão nói tới đây trong lòng vừa giận vừa thẹn, đột nhiên vung cước đá cái giỏ tre ra xa bảy, tám trượng.

Mụ đàn bà lạnh lùng hỏi:

– Chẳng lẽ phong thư này không phải của sư huynh viết? Nét chữ của sư huynh, bình sinh tiểu muội được coi có phải ít đâu.

Mụ vừa nói vừa lấy trong bọc ra một tờ giấy hoa tiên. Mụ giơ tay trái lên, tờ giấy bay về phía lão già. Lão già giơ tay toan đón lấy, đột nhiên lão rụt tay về vung chưởng đánh ra. Chưởng phong cản tờ giấy lơ lửng ở trên không. Ngón tay trái lão lại búng một cái bắn ra mũi ám khí. Mũi ám khí của lão già là một cây “Thấu cốt đinh” dài độ ba tấc bắn trúng tờ giấy hoa tiên. Nghe “bộp” một tiếng, mũi “Thấu cốt đinh” đã ghim tờ giấy hoa tiên vào thân cây.

Hồ Phỉ nghe lạnh cả người, thầm nghĩ:

– Những người này đối với nhau, hễ đối phương nói một câu, thở một hơi đều đề phòng bị hạ độc thủ. Lão già không dám đưa tay đón tờ giấy hoa tiên vì sợ trên giấy có chất độc.

Mụ già lưng gù giơ cao đèn lồng lên. Ánh sáng chiếu vào tờ giấy hoa tiên, trên nền giấy trắng có hai hàng chữ lớn. Hồ Phỉ ngồi ở đằng xa cũng nhìn rõ. Những chữ đó như sau: “Khương, Thiết hai vị. Sau canh ba mời hai vị đến Hắc Hổ lâm, có việc cần thương lượng”. Phía dưới ký tên bằng bốn chữ “Tri danh bất cụ”. Hai hàng chữ này nét bút khô gầy, lại hơi thẳng đứng. Chữ giống như người, phảng phất như thân hình lão già.

Lão già bật tiếng la “ô hay”. Dường như lão rất lấy làm quái dị.

Đại hán hỏi:

– Đại sư huynh! Có điều chi không ổn?

Lão già lạnh lùng đáp:

– Lá thư này không phải do ta viết.

Lão vừa nói câu này, vợ chồng đại hán lại đưa mắt nhìn nhau. Mụ lưng gù buông tiếng cười lạt, hiển nhiên không tin lời lão. Lão già nói:

– Bút tích trong thơ lại rất giống thư pháp của ta mới thật là kỳ.

Lão đưa tay trái lên sờ hàm râu dưới cằm, rồi nổi giận đùng đùng hỏi:

– Các ngươi bỏ ta vào giỏ tre khiêng đến đây làm chí?

Mụ lưng gù không trả lời, hỏi lại:

– Tiểu Thiết trúng phải chất độc “Thất tâm hải đường”, rốt cuộc sư huynh có chịu cứu trị hay không? `

Lão già hỏi:

– Đã chắc chưa? Có đúng là “Thất tâm… Thất tâm hải đường” không?

Lão nói đến bốn chữ “Thất tâm hải đường” thanh âm run rẩy, lộ vẻ sợ hãi tột độ.

Hồ Phỉ nghe tới đây mới hiểu dần ra. Chàng đoán có một tay cao thủ nào đó ra tay hý lộng, bố trí cuộc gặp gỡ này, khiến cho ba người nói lui nói tới mà vẫn chẳng ăn nhập gì với nhau. Tay cao thủ đó là ai? Bất giác chàng quay lại nhìn Trình Linh Tố thấy cặp mắt lớn và sáng ngời như ánh sao của cô lấp loáng trong bóng tối.

Chàng tự hỏi:

– Không lẽ cô bé mặt vàng ốm nhách này mà lại ghê gớm đến vậy ư? Điều này khó mà khiến cho người ta tin nổi.

Chàng còn đang ngẫm nghĩ bỗng nghe đại hán hú lên những tiếng “ô ô” rất quái dị, vội quay đầu nhìn ra thì thấy lão già và vợ chồng đại hán cùng cúi mình xuống hai tay đẩy về phía trước, sáu bàn tay dính vào nhau, miệng hú những tiếng “ô ô”. Tiếng lão già nghe gay gắt, tiếng đại hán thì thô mãnh, tiếng mụ già lưng còng lại the thé. Ba người hú lên từng tràng dài liên tục không ngớt.

Đột nhiên tiếng hú dừng lại, bỗng thấy lão già tung người nhảy lùi lại phía sau rồi ánh hàn quang lấp loáng, lão già đã phóng một mũi “Thấu cốt đinh” đánh tắt đèn lồng. Tiếp theo đại hán rú lên:

– Úi chao!

Hiển nhiên hắn bị lão già ám toán thụ thương. Lúc này trong rừng tối đen như mực, bốn mặt đều cảm thấy có nguy cơ rình rập. Hồ Phỉ tiện tay kéo Trình Linh Tố lùi lại phía sau, chàng đứng trước mặt cô để ngăn chặn. Hành động này của chàng chưa suy nghĩ vì thấy mối nguy hiểm cận kề, không thể không gắng hết sức để bảo vệ cho cô gái yếu đuối này, còn liệu sức mình có bảo vệ nổi hay không thì chàng tuyệt không màng tới.

Đại hán rú lên một tiếng rồi im bặt. Trong khu rừng tuy có cả thảy năm người mà không mảy may một tiếng động. Hồi lâu, Hồ Phỉ mới nghe tiếng côn trùng rả rích trong bụi cỏ. Xa xa có tiếng cú mèo rúc lên the thé.

Đột nhiên một bàn nhỏ nhắn mềm mại đưa ra nắm lấy bàn tay thô lớn của chàng. Hồ Phỉ rùng mình một cái, rồi chàng biết ngay là bàn tay của Trình Linh Tố. Chàng cảm thấy nó nhỏ bé mềm mại chỉ bằng bàn tay đứa trẻ mười hai, mười ba tuổi.

Trong khu rừng tĩnh mịch, đột nhiên trước mắt hiện ra hai luồng khói bay lên cuồn cuộn. Một luồng khói trắng và một luống khói ấm tựa hồ hai con quái xà từ hai bên trườn mình vọt vào giữa để đánh nhau. Đồng thời có những tiếng veo véo rít lên không ngớt. Hồ Phỉ ngồi trong bóng tối giương lớn cặp mắt lên nhìn thấp thoáng thấy hai bên tả hữu đều có những đốm lửa. Đằng sau một đốm lửa là lão già, đằng sau đốm lửa kia là mụ lưng gù. Hai người đều cúi xuống, vận nội lực thổi khói về phía đối phương. Họ đã đốt dược thảo để phát khói độc tấn công nhau. Hai người thổi một hồi, trong rừng khói mù mỗi lúc một dày đặc.

Đột nhiên lão già “ủa” một tiếng. Lão đưa mắt nhìn tờ giấy hoa tiên bị “Thấu cốt đinh” găm trên cây đại thụ trước mặt. Hồ Phỉ nhìn thấy tờ giấy khẽ lay động, trên mặt lấp loáng hào quang do mấy hàng chữ phát sáng tạo ra. Vợ chồng mụ lưng gù cũng lấy làm quái dị, cùng quay đầu nhìn.

Hồ Phỉ cảm thấy bàn tay nhỏ bé của Trình Linh Tố run lên. Tiếp theo dưới gốc cây về phía đối diện bỗng nghe đánh “chát” một tiếng.

Trên tờ giấy viết mấy hàng chữ:

Nay dặn dò cho Mộ Dung Cảnh Nhạc, Khương Thiết Sơn, Tiết Thước ba đồ đệ cùng biết: Các ngươi tàn hại lẫn nhau, chẳng nghĩ gì đến tình nghĩa sư môn khiến ta tô cùng chán nản. Các ngươi nên xóa bỏ hiềm khích trước kia nối tiếp di chí của ta. Đó là lời ta thiết tha căn dặn. Sự việc lúc ta lâm chung, đồ đệ Trình Linh Tố sẽ kể lại tường tận cho các ngươi hay. Tăng Vô Sân tuyệt bút.

Lão già và mụ lưng gù đều la hoảng:

– Sư phụ chết rồi ư? Trình sư muội! Sư muội ở chỗ nào?

Trình Linh Tố nhẹ nhàng rụt tay khỏi bàn tay Hồ Phỉ. Cô lấy trong bọc ra một cây nến, bật lửa châm vào, rồi thong thả bước ra. Lão già là Mộ Dung Cảnh Nhạc, mụ lưng gù là Tiết Thước đều biến sắc, lớn tiếng hỏi:

– Cuốn “Dược Vương thần biên” của sư phụ đâu? Có phải ngươi giữ không?

Trình Linh Tố cười lạt:

– Mộ Dung sư huynh! Thiết Sơn sư huynh! Tiết Thước sư tỷ! Suốt đời sư phụ dạy dỗ ơn đức tày non, vậy mà các vị chẳng quan hoài chi đến việc sinh tử của lão nhân gia, chỉ hỏi tới di vật của người, thật quá đỗi bất nghĩa vô tình! Khương sư huynh! Sư huynh có gì nói không?

Đại hán tức Khương Thiết Sơn bị thương nằm dưới đất, nghe Trình Linh Tố hỏi tới mới ngóc đầu lên tức giận đáp:

– Tiểu Thiết bị thương, nhất định đều đo tay con nha đầu này hý lộng quỷ thần. Mau đưa cuốn “Dược vương thần biên” ra đi!

Trình Linh Tố nhìn họ chằm chặp chứ không nói gì.

Mộ Dụng Cảnh Nhạc quát lớn:

– Sư phụ có lòng thiên ái, nhất định giao cái đó cho ngươi!

Tiết Thước nói:

– Tiểu sự muội! Sư muội hãy đem cuốn “Thần biên” ra để mọi người cùng coi.

Giọng nói của mụ rõ ràng ra chiều gạ gẫm. Trình Linh Tố đáp:

– Đúng thế. Sư phụ quả đã truyền lại cuốn “Dược Vương thần biên” cho tiểu muội.

Cô dừng lại một chút, lấy trong bọc ra một tờ giấy hoa tiên nói tiếp:

– Đây là huấn dụ của sư phụ viết cho tiểu muội. Ba vị hãy coi đi.

Cô cầm giấy đưa cho Tiết Thước. Tiết Thước đưa tay ra toan đón lấy thì Khương Thiết Sơn vội quát:

– Sư muội! Coi chừng!

Tiết Thước chợt tỉnh ngọộ, vội lùi lại một bước, trỏ vào cây lớn trước mặt. Trình Linh Tố buông tiếng thở dài, rút cây ngân trâm cài đầu cắm tờ hoa tiên vào. Cô giơ tay lên một cái, phóng cây trâm ghim trên thân cây.

Hồ Phỉ thấy cô xuất thủ, công phu không phải tầm thường, bụng bảo dạ:

– Không ngờ cô gái bé nhỏ gầy nhom này cùng ba người kia lại là huynh muội đồng môn.

Nhờ ánh sáng ngọn nến trong tay Trình Linh Tố, chàng nhìn rõ trên tờ giấy viết:

“Huấn dụ cho Trình Linh Tố được Sau khi ta chết rồi, ngươi lập tức báo cáo cho sư huynh sư tỷ. Trong ba người đó, nếu ai còn nghĩ đến lão tăng thì người cho coi cuốn Dược vương thần biên, còn ai không tỏ chút đau buồn tưởng nhớ là đã hết tình nghĩa, không phải đồ đệ của ta. Nhất thiết ngươi phải nghe theo lời di chúc này. Tăng Vô Sân tuyệt bút”.

Mộ Dung Cảnh Nhạc, Khương Thiết Sơn, Tiết Thước cả ba người xem những lời huấn dụ rồi ngơ ngác nhìn nhau. Ai cũng nghĩ thầm:

– Ta chỉ nghĩ đến di vật của sư phụ. Còn sư phụ cớ sao mà qua đời thì chẳng thèm hỏi đến một câu, lại không tỏ chút tình bi thương đau xót nào cả.

Cả ba người chỉ ngây người ra trong một thoáng, rồi đột nhiên quát to một tiếng, cùng nhảy xổ vào Trình Linh Tố.

Hồ Phỉ la hoảng:

– Linh cô nương, coi chừng!

Chàng phi thân vọt ra, thấy song chưởng của Tiết Thước đánh tới trước mặt Trình Linh Tố, vội vận chưởng lực phản kích. Đơn chưởng đối với song chưởng đụng nhau đánh ầm một tiếng, Tiết Thước bị hất ra xa ngoài hai trượng. Tay mặt chàng lập tức xoay lại như móc câu nắm lấy cổ tay Khương Thiết Sơn, vận dụng “Loạn hoàn quyết” trong Thái Cực quyền rồi mượn đà ném một cái. Thân hình to lớn và mập ú của Khương Thiết Sơn bay đi còn xa hơn cả Tiết Thước, rồi té huỵch xuống đất.

Nguyên hai người này tuy giỏi về nghề hạ độc nhưng võ công chưa phải là hạng nhất lưu cao thủ. Chàng quay lại toan đối phó với Mộ Dung Cảnh Nhạc thì thấy người lão lảo đảo hai cái rồi đột nhiên té xuống, không dậy được nữa.

Tiết Thước hỏi:

– Tiểu sư muội! Sư muội mai phục sẵn một tay trợ thủ rất lợi hại. Tên tiểu tử này là ai vậy?

Hồ Phỉ đáp ngay:

– Tại hạ họ Hồ tên Phỉ. Hiền phu phụ có điều chi cứ kiếm tại hạ mà hỏi…

Trình Linh Tố giậm chân hỏi:

– Ngươi nói cái gì vậy?

Hồ Phỉ sửng sốt. Lại thấy Khương Thiết Sơn lồm cồm đứng dậy. Hai vợ chồng nhìn Hồ Phỉ một cái rồi lập tức dắt tay nhau chạy ra khỏi rừng cây.

comments

Phi Hồ ngoại truyện