Chương 08: Phong ba hiểm ác chốn giang hồ

Chương 08: Phong ba hiểm ác chốn giang hồ

Đột nhiên ở cửa điện có ánh lửa lập lòe, Lưu Hạc Chân một tay cầm que củi, tựa vào vai vợ, từ từ đi vào hậu điện, nói:

– Hay là nằm ở chỗ này chợp mắt một lúc cũng được.

Lão nói rồi đi về phía bệ thờ, có vẻ muốn nằm lên đống rơm mà Viên Tử Y vừa nằm lúc nãy.

Hồ Phỉ hãy còn trẻ tính, vội nói:

– Lưu lão gia! Lão gia leo lên leo xuống bất tiện lắm, cứ nằm dưới đất ngủ ngon giấc hơn. Tại hạ xin nhường chỗ nằm cho lão gia đó.

Chàng nói rồi, tay cầm bọc, sải bước về phía bệ thờ leo lên, giành trước đống rơm đó, Lưu Hạc Chân cảm tạ, nói:

– Tiểu ca thật là tốt bụng!

Hồ Phỉ nằm trong đống rơm còn ngửi thấy mùi hương u nùng thoang thoảng. Không hiểu mùi hương đó là do chàng tưởng tượng hay là của Viên Tử Y còn lưu lại. Lòng chàng vừa mừng lại vừa giận, bất giác đưa tay vuốt ve con ngọc phụng.

Hồ Phỉ chợp mắt bỗng nghe Lưu Hạc Chân khẽ hỏi:

– Trọng Bình! Vị tiểu ca này là người thật tử tế. Vợ chồng mình nên báo đáp y cho phải đạo.

Thiếu phụ tên Trọng Bình đó đáp:

– Phải rồi! Nếu y không hết sức che giấu cho thì vợ chồng chúng ta đã thành hai cái thây ma trong tòa cổ miếu này rồi.

Lưu Hạc Chân thở dài nói:

– Vừa rồi quả thật cùng cực nguy hiểm. Ba anh em Chung thị nếu như muốn làm khó dễ vị tiểu ca này thì dù ta có phải liều cái mạng già này mà cứu được y, ta cũng chẳng quản.

Trọng Bình đáp:

– Dĩ nhiên là thế. Người ta đem tấm lòng nghĩa hiệp đối đãi mình, mình cũng phải đáp lại bằng tấm lòng nghĩa hiệp. Vị tiểu ca này tuy không hiểu võ nghệ, nhưng lòng dạ còn quảng đại hơn rất nhiều bọn hào kiệt giang hồ.

Lưu Hạc Chân bảo vợ:

– Nói khẽ chứ để cho y ngủ.

Tiếp theo lão gọi khẽ mấy tiếng:

– Tiểu ca! Tiểu ca!

Hồ Phỉ chưa ngủ, nhưng nghe hai vợ chồng lão tán dương mình hết lời thì đoán là lão muốn ngỏ lời tạ ơn, chàng liền giả vờ ngủ say không đáp.

Trọng Bình nói:

– Y ngủ say rồi!

Lưu Hạc Chân “ừ” một tiếng. Sau một lúc lão khẽ hỏi vợ:

– Trọng Bình! Lúc nãy ta bảo nàng trốn đi một mình, sao nàng không đi?

Giọng nói đầy vẻ trách móc. Trọng Bình buồn rầu đáp:

– Hỡi ơi! Lão gia bị thương trầm trọng thế này có lý nào thiếp bỏ mặc không chiếu cố?

Lưu Hạc Chân nói:

– Sau khi bà nhà ta mất rồi, ta cứ nghĩ mình sẽ lênh đênh cơ khổ trên cõi đời, đâu ngờ được sẽ có nàng chiếu cố đến ta bằng cả tấm lòng ân ái. Làm sao ta với nàng có thể chia tay nhau được? Nhưng nàng có biết phong thơ này quan trọng thế nào không? Nếu chẳng được đến tay Kim Diện Phật Miêu đại hiệp thì không biết còn có bao nhiêu anh hùng hào kiệt phải chết oan uổng.

Hồ Phỉ nghe đến sáu chữ “Kim Diện Phật Miêu đại hiệp” thì trong lòng run lên, suýt nữa bật tiếng la. Chàng biết Miêu Nhân Phụng có mối liên quan trọng đại với phụ thân chàng hồi sinh tiền. Theo lời đồn đại trên giang hồ thì phụ thân chàng chết về tay y, nhưng mỗi khi hỏi đến Bình Tứ thúc, là người nuôi chàng từ nhỏ cho đến khi khôn lớn, thì lão nói vụ này không có gì chính xác. Hiện giờ chàng còn nhỏ tuổi, sau này chàng nhất định điều tra cho rõ ngọn ngành.

Năm trước, Hồ Phỉ đã có cơ duyên gặp Miêu Nhân Phụng một lần ở Thương gia bảo nhưng vẫn nhớ y thần oai lẫm liệt. Khi đó chàng còn là đứa trẻ nít mà đối với y đã đem lòng khâm phục. Cho tới bây giờ, ngoại trừ Miêu Nhân Phụng và Triệu Bán Sơn, những nhân vật chàng gặp đều làm chàng chán nản. Triệu Bán Sơn cùng chàng kết nghĩa đệ huynh, còn Miêu Nhân Phụng chưa từng nói với chàng một câu, thậm chí chưa từng nhìn chàng một lần, nhưng mỗi khi nghĩ đến người này, chàng cho rằng làm người phải nên như vậy mới xứng đáng là anh hùng hào kiệt. Lại nghe Trọng Bình lên tiếng:

– Thôi, im đi! Vụ này muôn phần cơ mật. Ở chỗ vắng người, ta cũng không nên nói ra.

Lưu Hạc Chân đáp:

– Phải rồi! Chúng ta bôn tẩu phen này là vì vô số anh hùng nghĩa sĩ, tuyệt không có một chút tư tâm. Hoàng thiên mà linh thiêng nhất định phù hộ cho chúng ta thành công.

Mấy câu nói này nghĩa khí lẫm liệt khiến Hồ Phỉ ngấm ngầm nảy lòng khâm phục. Chàng nghĩ bụng:

– Đây là một việc nghĩa hiệp. Không cần biết Miêu Nhân Phụng là ân nhân hay thù nghịch với ta, ta nhất định giúp cho Lưu Hạc Chân đưa thơ này đến nơi.

Hai vợ chồng nói tới đấy rồi im tiếng. Sau một lúc lâu, Hồ Phỉ đã mơ màng ngủ, chàng vừa chợp mắt lại bỗng nghe mặt bắc có tiếng vó ngựa vang lên. Ba anh em Chung thị đi rồi quay trở lại. Hồ Phỉ ngấm ngầm kinh hãi, nghĩ bụng:

– Ba người này trở lại miếu lần thứ hai thì phen này e rằng Lưu Hạc Chân khó lòng trốn tránh. Chi bằng ta cứ ra ngoài miếu đánh bọn chúng trước. Dù ta không địch nổi họ thì vợ chồng họ Lưu cũng có thể thừa cơ chạy trốn để đem thơ đi.

Chàng liền đeo gói bạc lên vai, rón rén leo khỏi bệ thờ tiến ra cửa miếu, đi về phía ba anh em họ Chung đang cưỡi ngựa để chặn lại. Lúc này mưa đã tạnh, mặt đường ngập nước cao cả thước. Hồ Phỉ lội nước mà đi, chỉ trong khoảnh khắc chàng đã lờ mờ thấy ba con ngựa nối đuôi nhau chạy tới. Hồ Phỉ đứng lại giữa đường lớn tiếng quát:

– Đường núi này do ta mở ra, những cây này do ta trồng nên. Muốn đi qua đường này, hãy nộp tiền mãi lộ.

Chung lão tam đi đầu, sửng sốt quát lớn:

– Tên tiểu tặc kia ở đâu chui ra vậy?

Gã cầm roi ngựa xông về phía Hồ Phỉ. Hồ Phỉ đột nhiên vươn tay trái ra chụp lấy cương ngựa kéo mạnh một cái. Con ngựa đang lao rất nhanh thế nặng không dưới đến tám, chín trăm cân, vậy mà Hồ Phỉ kéo giật dây cương một cái nó lập tức lùi lại mấy bước. Chàng đã sử tuyệt kỹ tá lực, nương theo đà lui của con ngựa đẩy mạnh một cái rồi nhấc lên, con ngựa cao lớn té huỵch xuống đất. May mà Chung lão tam nhanh trí vội nhảy xuống trước ở bên đường.

Diễn biến này khiến cho ba anh em họ Chung đều cực kỳ kinh hãi. Chung lão đại và Chung lão nhị đồng thời xuống ngựa. Cả ba người trong tay đều cầm một món binh khí hình dạng rất kỳ dị.

Lúc này, trời đã bình minh. Trước khi trời sáng tỏ phải một lúc u ám. Tuy trận mưa lớn đã tạnh nhưng mây đen đầy trời chưa tan hết. Dù Hồ Phỉ giương mắt lên nhìn nhưng chưa rõ khí giới trong tay ba người là thứ gì. Bỗng nghe một tiếng người cất lên ồm ồm:

– Chung thị huynh đệ ở Ngạc Bắc đi qua quý địa, chưa kịp đến cửa bái phỏng, quả là thất lễ. Xin các hạ cho biết tôn tính đại danh.

Ba người nghe khẩu âm Hồ Phỉ còn non nớt biết chàng chưa lớn tuổi nên chẳng coi ra gì, nhưng khi thấy chàng kéo dây cương đẩy ra một cái khiến con ngựa khỏe phải ngã lăn xuống đất mới biết công lực chàng không phải tầm thường, chúng liền thay đổi sắc mặt. Lão đại là Chung Triệu Anh hỏi họ tên, lời lẽ đầy vẻ lễ kính. Hồ Phỉ tuy tính hay đùa giỡn và đa trí nhưng vốn không phải là kẻ khinh bạc, nên thấy đối phương ăn nói khách khí, liền đáp:

– Tại hạ họ Hồ, quên chưa thỉnh giáo đại hiệu của ba vị.

Chung Triệu Anh nghĩ bụng:

– Chung thị tam hùng nổi danh khắp thiên hạ, người võ lâm còn ai không biết. Gã đã nghe mấy chữ “Chung thị huynh đệ ở Ngạc Bắc” mà còn hỏi danh hiệu đủ tỏ kiến thức gã nông cạn lắm.

Hắn đáp:

– Tại hạ Chung Triệu Anh, nhị đệ là Triệu Văn, tam đệ là Triệu Năng. Anh em tại hạ có việc gấp xin Hồ đại ca nhường lối. Hồ đại ca đã khai sơn lập trại ở đây, thì lúc anh em tại hạ trở về nhất định sẽ đến nơi chân thành bái tạ.

Hắn nói rồi chắp tay thi lễ. Chúng Triệu Anh là nhân vật nổi tiếng giang hồ mà đối với hậu bối lại ăn nói tỏ vẻ khiêm cung như vậy, quả thực cực kỳ hiếm có. Chỉ vì hắn thấy Hồ Phỉ hiển lộ công phu rất đỗi thâm hậu, biết là khó lòng đánh bại huống chi chưa chắc chàng chỉ có một người, nếu còn thầy còn bạn ở bên cạnh lại càng thêm rắc rối. Hồ Phỉ cũng chắp tay đáp lễ hỏi:

– Chung lão sư thật quá đa lễ. Phải chăng ba vị đi kiếm vợ chồng Lưu Hạc Chân?

Lúc này trời đã dần sáng. Ba người nhận ra người đứng trước mặt chính là gã thiếu niên quê mùa vừa gặp ở trong miếu Tương Phi. Ba anh em họ Chung nhìn nhau nghĩ bụng:

– Lúc nãy mình nhận lầm người rồi. Té ra tên tiểu tử này cùng một phe với Lưu Hạc Chân.

Trong ánh bình minh, Hồ Phỉ cũng nhìn rõ những binh khí hình thủ kỳ quái trong tay ba anh em họ Chung. Chung Triệu Anh cầm thiết bài dài chừng hơn một thước, trên mặt thấp thoáng thấy có khắc chữ. Chung Triệu Văn cầm cây Khốc tang bổng. Binh khí của Chung Triệu Năng càng lạ nữa, nó là một cành Chiêu hồn phướn cắm trên linh tòa của người chết. Cây phướn phất phơ bay trong gió sớm, trông càng kỳ bí khôn lường. Tướng mạo ba người đã cực kỳ xấu xa, phục sức cũng quái dị mà khí giới đều hung hiểm, chưa cần động thủ đã khiến người ta mất cả hồn vía. Hồ Phỉ chỉ sợ bọn chúng đột nhiên sinh sự, chàng lại không hiểu ba món binh khí này lợi hại ra sao nên để hết tinh thần phòng bị không dám lơ đãng. Chung Triệu Anh hỏi:

– Giữa các hạ và Lưu Hạc Chân lão sư xưng hô thế nào?

Hồ Phỉ đáp:

– Bữa nay tại hạ mới gặp Lưu lão sư là lần thứ hai chứ chẳng có liên quan chi hết. Nhưng thấy ba vị bức bách họ thái quá nên phải thay mặt lão mà năn nỉ giùm. Người ta thường nói: “Nếu ngừng tay được nên ngừng gấp, có thể tha người nên tha ngay”. Vợ chồng Lưu lão đã bị thương, ba vị khoan dung cho mấy phần có được chăng?

Chung Triệu Anh trong lòng nóng nảy nghĩ thầm:

– Mình đã mất bao nhiêu thì giờ ở đây mà còn chần chờ nữa thì vợ chồng Lưu Hạc Chân tất thừa cơ tẩu thoát.

Hắn liền đưa mắt ra hiệu cho đại ca, đồng thời từ từ cất bước toan đi vòng qua Hồ Phỉ. Hồ Phỉ giơ hai tay ra nói:

– Giữa ba vị và Lưu lão sư có điều chi xích mích, tại hạ tuyệt không hay biết. Nhưng Lưu lão sư cũng đang có công việc gấp rút, xin ba vị tạm thời đợi sau khi Lưu lão sư xong việc rồi sẽ tìm lão trả oán nên chăng? Đến lúc đó thì tại hạ không dám can thiệp, dĩ nhiên là không dám mạo muội cản đường.

Chung Triệu Văn tức giận đáp:

– Bọn ta không để lão làm việc đó, rốt cuộc các hạ có nhường lối hay không?

Hồ Phỉ nhớ tới lời đối đáp giữa vợ chồng Lưu Hạc Chân thì bức thư kia liên quan đến tính mạng của vô số nhân nghĩa sĩ, lại thấy Chung thị huynh đệ tướng mạo hung dữ, hiển nhiên bình sinh làm ác đã nhiều. Nếu bữa nay không động thủ thì vụ này khó lòng kết liễu. Chàng liền cười ha hả đáp:

– Muốn nhường lối cũng không sao, chỉ cần ba vị đưa ba trăm lạng bạc tiền mãi lộ.

Chung Triệu Văn cả giận vung cây Khốc tang bổng tiến lên toan động thủ. Không ngờ Chung Triệu Anh đưa tay trái lên cản lại, nói:

– Nhị đệ hãy khoan!

Hắn thò tay vào bọc lấy bốn đĩnh bạc nói:

– Chỗ này có ba trăm lạng bạc dư. Xin các hạ thu lấy.

Chung Triệu Văn lại la lên:

– Đại ca! Đại ca làm cái gì thế?

Hắn nghĩ đến Chung thị tam hùng tung hoành đất Kinh Sở mà đối với một gã hậu bối sao lại tỏ ra khiếp nhược đến thế? Nhưng Chung Triệu Anh biết không nhanh tay ngăn chặn Lưu Hạc Chân thì không được, vì hành sự thì có lúc nhẹ nhàng, có lúc trầm trọng, có khi thư thả, có khi gấp gáp. Hơn nữa Hỏ Phi chỉ là một thiếu niên vô danh, ba anh em có hợp sức đánh thắng cũng chẳng hay ho gì, nếu còn giằng co thì hỏng việc lớn. Do đó, khi hắn nghe chàng đòi tiền mãi lộ liền cầm hơn ba trăm lạng bạc đưa ngay. Việc này nằm ngoài sự tiên liệu của Hồ Phỉ. Chàng cười hì hì lắc đầu, không đưa tay lấy bạc mà nói:

– Đa tạ! Đa tạ! Chúng lão sư nói bốn đĩnh bạc này có dư ba trăm lạng, nhưng vãn bối chỉ định giá mỗi vị một trăm lạng, ba vị là ba trăm lạng. Nếu lấy nhiều là quá bất công. Bây giờ đành thế này vậy. Chúng ta đến thị trấn trước mặt, tìm cửa hàng đổi tiền, nhờ chưởng quỹ cân lại. Vãn bối chỉ lấy đúng ba trăm lạng, không dám lấy thêm một phân một hào…

Chung thị tam hùng nghe tới đây, lông mày đều dựng đứng cả lên. Chung Triệu Anh bỏ bạc vào bọc rồi nói:

– Nhị đệ! Tam đệ! Hai vị hãy đi trước.

Rồi quay lại phía Hồ Phỉ, quát lớn:

– Lấy khi giới ra. Tại hạ xin lĩnh giáo mấy cao chiêu của lão đệ.

Hồ Phỉ thấy hắn thần định khí nhàn, đúng là một tay kình địch mà đơn đao của chàng bị Viên Tử Y đoạt mất. Bây giờ tay không tấc sắt đấu với ba người e rằng khó bề thủ thắng. Chàng nghĩ tới Viên Tử Y lại thấy mát ruột, nhưng rồi lại tức tối, nghĩ thầm:

– Nếu nàng không lấy binh khí của ta thì bây giờ ta đâu đến nỗi lâm vào cảnh hiểm nghèo.

Chàng thấy Chung Triệu Văn và Chung Triệu Anh đi vòng qua hai bên mà không biết làm sao để ngăn trở. Chàng chợt nảy ra một ý, đột nhiên lạng người đi hai bước, hữu quyền vung lên, đấm “binh” một cái vào mũi con ngựa của Chung Triệu Anh. Thoi quyền này rất trầm trọng và chính là một sát chiêu cực kỳ lợi hại trong “Hồ gia quyền”. Con hoàng mã lập tức bị vỡ óc, ngã lăn xuống đất, không nhúc nhích nữa. Nó đã chết rồi. Thủ pháp ra tay trước để chiếm lấy tiên cơ này khiến cho Chung thị tam hùng đều thộn mặt ra. Hồ Phỉ tiện tay chụp lấy cái yên ngựa khẽ giật một cái, bao nhiêu dây buộc đều đứt hết. Chàng buộc yên ngựa vào trước ngực, mỗi tay đều cầm mỗi cái bàn đạp nói:

– Xin đắc tội! Chỉ vì tại hạ không đem theo bính khí nên phải mượn tạm cái yên ngựa và bàn đạp này.

Dứt lời tay trái chàng cầm bàn đạp vung lên nhằm đánh vào mặt Chung Triệu Văn, tay phải cầm bàn đạp đánh tới hông Chung Triệu Năng. Hai bàn đạp đồng thời đưa ra ngăn cản lối đi của hai người. Chung thị tam hùng vừa sợ vừa giận. Nguyên trước đây ba anh em nhà này vẫn sử phán quan bút, nhưng tám năm trước chúng bị bại về tay Miêu Nhân Phụng gây nên mối đại nhục. Từ đó chúng bỏ không dùng phán quan bút mà mỗi người luyện lấy một thứ binh khí quái dị. Tám năm ròng khổ luyện, võ công chúng tiến bộ rất nhiều. Chúng muốn đi kiếm Miêu Nhân Phụng để quyết một trận thư hùng, không ngờ ở nơi quê mùa hẻo lánh này chúng lại bị một gã thiếu niên vô danh làm nhục.

Chung Triệu Anh hú lên một tiếng. Chung Triệu Văn và Chung Triệu Năng cũng hú theo. Tiếng hú nghe như tiếng gió rú thê lương, thổi hơi lạnh ào ạt. Hồ Phỉ cũng ngấm ngầm kinh hãi. Cả ba người vung Thiết lịnh bài, Khốc tang bổng và Chiêu hồn phướn chia ra ba mặt tấn công. Hồ Phỉ dùng yên làm tấm thuẫn để che ngực, hai tay múa hai cái bàn đạp sắt tựa hồ cặp lưu tinh chùy, vậy là vừa công vừa thủ.

Hồ Phỉ tuy tinh thông về đao pháp và quyền cước, song còn kém Viên Tử Y ở chỗ chưa tinh thông võ công các phái, lại chưa luyện qua công phu sử dụng Lưu tinh chùy. Chàng chỉ ỷ vào tâm cơ minh mẫn, thủ pháp mau lẹ, căn cơ võ học hơn người một bậc để đối phó. Tuy người ta nói rằng: “Nhất pháp thông, vạn pháp thông”, hễ thông suốt được một pháp là thông suốt cả vạn pháp, một cành trúc hoặc một cây gỗ trong tay cao thủ võ học đều có thể biến thành binh khí để chế địch hộ thân, nhưng Chung thị tam hùng đều là hảo thủ hạng nhất, về công lực bản thân mà nói người nào cũng cao hơn Hồ Phỉ. May mà chàng không hiểu chiêu thuật của Lưu tinh chùy mới cùng ba người trao đổi hai, ba chục chiêu vẫn chưa thất bại.

Nguyên Chung thị tam hùng là những người kiến văn quảng bác, chúng thấy Hồ Phỉ lấy hai cái bàn đạp để làm Lưu tỉinh chùy liền để ý tìm ra gia số võ công của đối phương. Chúng lại thấy Hồ Phỉ tay mặt cầm bàn đạp quét ngang, liền nghĩ ngay đây là chùy chiêu “Bạch hồng quán nhật” trong Lưu tinh chùy pháp của Trương gia ở Thanh Châu, tỉnh Sơn Đông. Chúng yên trí cái bàn đạp nơi tay trái chàng cứ thuận đà quét ngang. Ngờ đâu Hồ Phỉ thấy cây Khốc tang bổng của Chung Triệu Văn từ dưới vung lên, đỉnh đầu hắn sơ hở liền vung bàn đạp đánh xuống đầu đối phương. Chung thị tam hùng trong lòng lấy làm lạ tự hỏi:

– Đây là gia số gì vậy?

Hồ Phỉ thấy Chung Triệu Văn giơ bổng lên gạt, cái bàn đạp bên tay mặt chàng liền quét tới Chung Triệu Năng. Chung thị tam hùng lẩm nhẩm gật đầu, nghĩ bụng:

– Phải rồi! Té ra gã là môn hạ Chữ Thập chùy ở Diên Châu, tỉnh Giáp Tây. Nửa dưới chiêu của “Dương mi thổ khí”, tất dùng cả hai bàn đạp đánh tới trước ngực.

Ba người đã thấy chàng kéo ngựa rồi đánh ngựa, tý lực cực kỳ mạnh mẽ. Nếu để song chùy đánh trúng ngực thì nguy đến tính mạng. Ba người liền đưa binh khí lên che ngực, vận kình lực ra cánh tay để đón đỡ chiêu này. Dè đâu Hồ Phỉ chẳng hề biết “Dương mi thổ khí” là chiêu số gì cả, chàng thấy ba người đưa binh khí lên che ngực, liền quét ngang cặp bàn đạp đánh xuống hạ bàn ba người. Chung thị huynh đệ giật nảy mình lên tự hỏi:

– Sao gã lại biết sử dụng chiêu “Phiên thiên phúc địa”?

Chung Triệu Năng vừa ra chiêu đỡ vừa lớn tiếng hỏi:

– Này! Lưu tinh hãn nguyệt Đồng lão sư ở phủ Thái Nguyên là thế nào với ngươi?

Nguyên Đồng lão sư ở phủ Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây giới sử dụng song chùy, ngoại hiệu là “Lưu tinh hãn nguyệt”, có mối thâm giao với Chung thị tam hùng. Chiêu “Thiên phiên địa phúc” là một tuyệt kỹ đơn truyền đối với bọn họ, các nhà khác sử dụng Lưu tinh chùy đều không biết chiêu này. Hồ Phỉ đánh bừa không ngờ lại phảng phất giống như chiêu “Thiên phiên địa phúc”. Chàng nghe Chung Triệu Năng hỏi vậy liền cười đáp:

– Đồng lão sư là sư đệ của tại hạ.

Đoạn chàng vung hai cái bàn đánh thẳng tới. Chúng Triệu Năng phì một tiếng, rồi thóa mạ:

– Thằng lỏi này nói nhăng nói càn!

Ba người thấy Hồ Phỉ dùng đôi bàn đạp phóng ra những chiêu xuất quỷ nhập thần, không có cách nào đoán được gia số võ công cùng sư thừa của chàng, đều lấy làm lạ quái, nghĩ thầm trong bụng:

– Mấy chục năm nay, anh em mình rong ruổi khăp thiên ha, có nhà nào, phái nào sử dụng Lưu tinh chùy mà chưa từng thấy qua. Chắc thằng lỏi thuộc về tà môn.

Xưa nay khi động thủ tỷ võ, nếu dò ra được gia số võ công của đối phương là có thể tranh được tiên cơ, dễ dàng chiếm thế thượng phong. Nhưng Chung thị tam hùng phỏng đoán mấy lần đều sai trật không khỏi rối loạn tâm thần, và những chiêu số đang sử dụng bỗng nhiên mất cả tác dụng. Nguyên nhân là bởi Hồ Phỉ dùng thần quyền đánh chết ngựa khiến ba người đem lòng úy kỵ, nếu không thì bọn chúng bất tất phải nhận định gia số cùng môn phái của chàng, cứ việc xông vào thi triển tuyệt chiêu thì Hồ Phỉ đã thua lâu rồi.

Sau khi trao đổi hai chục chiêu. Chung thị tam hùng nhận ra chiêu số của Hồ Phỉ tuy kỳ dị, nhưng uy lực chẳng có chi đáng kể, chúng liền thi triển tuyệt kỹ đã khổ luyện tám năm để dùng ba món binh khí quái dị là Thiết linh bài, Khốc Tang bổng, Chiêu hồn phướn tấn công tới tấp. Tấm linh bài của Chung Triệu Anh bằng thép đúc đi toàn những đường cương ngạnh, mãnh liệt. Bây giờ Hồ Phỉ mới nhìn rõ bốn chữ “Nhất kiến sinh tài” trên tấm linh bài. Chung Triệu Năng sử Chiêu hồn phướn phát huy toàn nhu công. Cây phướn giống như vải mà không phải là vải, giống như da mà chẳng phải là da. Bàn đạp đánh vào chẳng ăn thua gì nhưng nếu bị cây phướn phất trúng thì chắc là khó chịu lắm. Chung Triệu Văn sử cây Khốc tang bổng tựa hồ ở vào khoảng giữa cương và nhu, chiêu số lại càng phức tạp, pha tạp giữa tiên pháp và giản pháp.

Binh khí của Chung thị tam hùng khác nhau, ba cán bình khí lại được sử dụng như ba cây phán quan bút cương nhu hỗ trợ cho nhau. Hồ Phỉ thầm kêu khổ trong bụng, chàng biết nếu còn tiếp tục chiến đấu thì chỉ trong khoảnh khắc là phải thất bại. Đột nhiên chàng thu hai tay về đặt ở phía sau yên ngựa rồi đẩy mạnh ra. Phát đẩy này luồng lực đạo rất mạnh. Nghe “vù” một tiếng, yên ngựa bắn vọt ra khiến Chung thị tam hùng phải nhảy lên né tránh. Chúng không hiểu chàng lại sắp sử dụng quái chiêu gì.

Hồ Phỉ lớn tiếng hô:

– Tại hạ vốn chỉ vì hảo tâm mà khuyên can các vị, chứ tuyệt không có ý động thủ nên chẳng đem binh khí chi hết. Cái tấm yên ngựa này thì làm sao chống nổi ba vị anh hùng đương thế? Bữa nay kể như Hồ Phỉ nhận thua là xong.

Dứt lời chàng tránh sang bên đường để nhường lối. Chung thị tam hùng biết rõ chàng nói khích, nhưng trong lòng có việc gấp không muốn giằng co nữa. Chung Triệu Năng lên tiếng đáp:

– Hay lắm! Lần sau đại hiệp lấy binh khí quen dùng, bọn tại hạ sẽ lãnh giáo mấy cao chiêu.

Dứt lời hắn cất bước toan đi. Hồ Phỉ vừa cười vừa nói:

– Lần sau, lần sau, cái hẹn lần sau quả là hay! Té ra Chung thị tam hùng chỉ là những nhân vật đến thế mà thôi.

Chung Triệu Văn tức giận hỏi:

– Đến thế là làm sao? Ngươi không đem binh khí lại còn trách ai nữa?

Hồ Phỉ đáp:

– Tại hạ có một giải pháp tuyệt diệu, chỉ sợ các vị không đám tỷ thí với tại hạ.

Chung thị tam hùng thấy chàng nói khích lần nữa không thể nhịn được, liền đồng thanh giục:

– Các hạ cứ việc vạch đường ra đi!

Chung Triệu Anh nói tiếp:

– Hai vị huynh đệ của tại hạ ở lại lãnh giáo. Tại hạ xin cáo từ.

Hắn nói rồi tung mình vọt đi. Hồ Phỉ cũng tung người, hai tay ở trên không giang ra cản đường. Chung Triệu Anh không ngờ thân pháp chàng mau lẹ đến thế, liền vung cây thiết bài đánh vào trước mặt chàng. Công phu quyền cước của Hồ Phỉ còn cao hơn hắn nhiều. Chàng không né tránh mà khi chân chạm đất đã xoay tay phải chụp vào cổ tay hắn vặn một cái. Suýt nữa tấm thiết bài của hắn đã bị chàng đoạt mất.

Triệu Văn, Triệu Năng đều giật mình kinh hãi chia hai bên tả hữu đánh tới để giải nguy cho huynh trưởng. Hồ Phỉ nổi tràng cười rộ, nhảy lùi lại hơn một trượng. Tiện tay chàng bẻ một cành thông bên đường, miệng hô:

– Ba vị có dám tỷ thí đao pháp với tại hạ không?

Vừa rồi Chung Triệu Anh tuy chưa bị chàng đoạt mất thiết bài nhưng cổ tay bị chụp hãy còn ngấm ngầm đau, trong lòng lại tăng thêm mấy phần nghi ngờ úy kỵ. Hắn nghĩ:

– Gã thiếu niên này không phải là hạng người tầm thường. Nếu mình đuổi theo Lưu Hạc Chân để nhị đệ và tam đệ ở lại đây cũng không yên tâm. Thôi thì ba anh em ta cứ hợp lực thu thập xong gã này đã. Dù có bị lỡ việc cũng đành vậy.

Chung Tiệu Văn thấy Hồ Phỉ tay cầm một cành thông dài bốn thước, không hiểu chàng giở trò gì, bèn đưa mắt nhìn đại ca để hỏi ý. Chung Triệu Anh nén giận đáp:

– Các hạ muốn tỷ đao pháp, đáng tiếc là bọn tại hạ cũng không mang đơn đao theo. Nếu có cũng xin bồi tiếp.

Hồ Phỉ nói:

– Chúng ta vốn không quen biết, lại chẳng có thâm cừu đại hận gì, nên khi tỷ thí chỉ cần điểm tới là ngưng, ba vị thấy có được không?

Chung Triệu Anh đáp:

– Đúng vậy!

Hồ Phỉ lấy tay hái bỏ những cành lá trên cành thông, chỉ còn lại một khúc lớn trơ trụi, rồi nói:

– Cành thông này cũng coi như thanh đao. Mời ba vị cùng tiến lên. Chúng ta nên giao hẹn với nhau trước. Cành thông này đâm trúng chỗ nào cũng coi như đã bị cương đao chém trúng. Lời nói của ba vị Chung thị tam hùng không biết có đáng tin không?

Chung Triệu Văn thấy chàng khoác lác lại càng tức mình, lớn tiếng:

– Chung thị tam hùng ở Ngạc Bắc nổi danh là những nhân vật chính nghĩa khắp chốn giang hồ, khi tiểu huynh đệ còn chưa ra đời kia!

Hồ Phỉ nói:

– Thế thì hay lắm! Coi đao đây!

Chàng vung cành thông quét ngang đánh “véo” một tiếng. Chung Triệu Văn ở phía sau tiến lên vung cây bổng phản kích. Hồ Phỉ nhảy nghiêng người né tránh, cành thông đã chém vào cổ Chung Triệu Năng. Chung Triệu Năng xoay ngược cây phướn đập vào cành thông. Đồng thời Chung Triệu Anh cũng vung thiết bài đánh tới. Hồ gia đao pháp quả thật tinh diệu tuyệt luân. Chung thị tam hùng tuy võ công cao cường nhưng Hồ Phỉ dùng cành thông làm thanh đao tấn công, tung hoành giữa ba người. Chàng cầm cành thông nhỏ chém ngang bổ dọc, đâm trên quét dưới hiển lộ uy lực vô cùng.

Chung thị tam hùng càng đấu càng đưa ra những chiêu kỳ diệu. Nhưng Hồ Phỉ quyết không để cành thông nhỏ bé đụng vào ba thứ binh khí quái dị kia nên chiêu nào cũng lợi dụng sơ hở của đối phương để đánh vào nơi yếu hại. Chung thị tam hùng dù bị cành thông đánh trúng cũng chẳng sao, nhưng đã có lời giao ước nên quyết không để nó chạm vào người. Chung Triệu Văn nổi nóng quét ngang cây bổng đập mạnh vào xương đùi Hồ Phỉ. Ba anh em họ Chung chiêu nào cũng tiếp ứng với nhau, chỉ chờ Hồ Phỉ nhảy lên né tránh là Chung Triệu Năng vung Chiêu hồn phướn đánh vào đầu còn Chung Triệu Anh đưa thiết bài đánh bên hông trái. Ngờ đâu Hồ Phỉ không nhảy lên mà tiến lên một bước rồi đập cành thông trúng vào vai trái của Chung Triệu Văn.

Chiêu này cực kỳ lợi hại. Nếu đó là thanh cương đao thì lập tức Chung Triệu Văn phải đã đứt một cánh tay trái, còn cành thông đánh trúng dĩ nhiên không có gì đáng kể. Nhưng Chung Triệu Văn cũng tái mặt la lên:

– Hỏng rỏi! Hỏng rồi!

Hắn liệng cây Khốc tang bổng xuống đất, buông tay lùi lại. Chung Triệu Anh và Chung Triệu Năng trong lòng run sợ, cây Thiết bài, Chiêu hồn phướn thi triển những sát chiêu đánh rát hơn. Họ chỉ mong đập trúng Hồ Phỉ một phát là ngừng tay, xem như hòa. Nhưng sau mấy chiêu Chung Triệu Anh bị cành thông quét trúng cổ, Chung Triệu Năng bị vạch một đường vào chân phải. Hai người nhìn nhau, nét mặt thê thảm, rồi cùng quăng bình khí đi. Đột nhiên Chung Triệu Anh ọe một tiếng, miệng hộc ra một đống máu tươi.

Hồ Phỉ thấy bọn chúng tuân giữ lời ước, chàng nghĩ thầm:

– Ba anh em họ Chung tuy là người hung ác nhưng biết thủ tín, đã nói là giữ lời.

Chàng không đả thương Chung Triệu Anh mà hắn bị lửa giận công tâm đến thổ máu tươi nên trong lòng cảm thấy ấy náy, bèn chắp tay toan nói vài lời xin lỗi.

Chung Triệu Anh hừ một tiếng đáp:

– Võ công các hạ quả thật kinh nhân. Bội phục! Bội phục! Có điều đáng tiếc là các hạ còn nhỏ tuổi, bản lãnh như vậy mà không đi vào chính đạo thật phí cho một thân mang tuyệt kỹ.

Hồ Phỉ ngạc nhiên hỏi:

– Tại hạ có gì mà không đi theo chính đạo cơ chứ?

Chung Triệu Văn tức giận đáp:

– Tam đệ! Còn nói với y làm chi?

Rồi chúng đỡ Chung Triệu Anh lên ngựa dắt đi ngay. Ba món bình khí cổ quái bỏ cả lại trong vũng nước, chẳng thấy ai quay lại lấy. Hồ Phỉ thấy ba người cắm đầu đi thẳng một hơi không hề ngoảnh lại, trên mặt đất chỉ còn lại một xác ngựa và ba món binh khí, chàng không khỏi xúc cảm, nhìn theo một lát rồi quay lại cổ miếu. Chàng tiến vào trong miếu, kiếm cả điện trước lẫn điện sau không thấy bóng vợ chồng Lưu Hạc Chân đâu cả thì biết là hai người đã thừa cơ bỏ trốn xa rồi. Chàng cảm thấy mình vừa làm nên hảo sự trong lòng lấy làm đắc ý, Hồ Phỉ tự nhủ:

– Không hiểu Miêu Nhân Phụng ở đâu? Tuy người này mang ngoại hiệu là “Đả biến thiên hạ vô địch thủ” nhưng võ công không hiểu đến trình độ nào?

Chàng nghĩ tới giữa nhân vật này và tiên phụ có mối liên quan trọng đại. Ngày trước, tại Thương gia bảo chàng đã gặp một lần, hai trang đầu trong cuốn “Quyền kinh đao phổ” của chàng cũng nhờ vào uy phong của y mới lấy lại được từ tay Diêm Cơ. Lúc này thời gian cấp bách, chàng không biết có nên theo dõi vợ chồng Lưu Hạc Chân hay không? Còn Phụng Thiên Nam tuy đã trốn chạy nhưng chắc chưa đi xa, thù này mà không báo thì sao đáng mặt trượng phu? Trong lúc nhất thời, chàng không biết phải làm việc gì cho đúng. Chàng cúi đầu ngẫm nghĩ rồi quay lại đường cũ. Chàng đến chỗ vừa động thủ với ba anh em họ Chung thì không thấy ba món bình khí cổ quái đâu nữa, chỉ còn xác ngựa nằm dài trên mặt đất.

Chàng rất lấy làm lạ tự hỏi:

– Ta vừa đi vừa về chỉ trong khoảnh khắc mà bây giờ trời hãy còn sớm, không hiểu có người qua đường nào đã thuận tay nhặt lấy, hay là chưa có người qua lại. Chẳng lẽ ba anh em họ Chung đi rồi còn quay trở lui?

Chàng đi quanh bốn phía dò xét không thấy có gì khác lạ. Chàng quan sát lần nữa bỗng nhận ra trên cành cây lớn cách chỗ tỷ đấu chừng ba chục trượng có vết chân dính bùn. Vết chân cao cách mặt đất chừng một trượng ba thước, in vào chỗ cành cây không hướng ra đường, nếu không quan sát cẩn thận thì không thể nào phát hiện được. Vết chân dính bùn hãy còn ướt, chứng tỏ lưu lại chưa lâu. Vết chân đi giày nhỏ bé, hiển nhiên là giày đàn bà.

Hồ Phỉ động tâm tự hỏi:

– Chẳng lẽ lại là nàng? Lúc ta tỷ đấu với Chung thị tam hùng, nàng ẩn mình trên ngọn cây để theo dõi chăng?

Nghĩ tới đây chàng thấy trống ngục đập bình bình, liền tung mình lên vịn một cành cây, lộn mình trèo lên. Quả nhiên trên một cành đâm ngang, chàng lại nhìn thấy hai dấu chân phụ nữ hãy còn ướt. Bên cạnh cành cây nằm ngang này còn có hai cành như bị đạp gãy, vết gãy hãy còn rất mới.

Hồ Phỉ cảm thấy nghi hoặc, nghĩ thầm :

– Nếu là Viên cô nương thì khinh công rất cao, quyết không thể đạp gãy hai cành này.

Chàng trèo cao hơn lại thấy trên một cành nằm ngang khác có hai vết chân đàn ông. Mối nghi ngờ trong lòng liền được sáng tỏ, nhưng không khỏi cảm thấy thất vọng. Chàng lẩm bẩm:

– Té ra hai vợ chồng Lưu Hạc Chân đã nấp ở đây.

Lòng chàng lại nẩy ra nhiều điều nghi vấn:

– Hai người này đều bị trọng thương thì làm sao lên ẩn trên cây cao được mà không hề bị ta phát giác? Chung thị tam hùng đi rồi sao vợ chồng lão không gọi ta?

Trong lòng xoay chuyển ý nghĩ, chàng bụng bảo dạ:

– À, phải rồi! Vợ chồng lão tưởng ta không hiểu võ nghệ rồi đột nhiên thấy ta đả bại Chung thị tam hùng nên sinh lòng ngờ vực, sợ ta gây điều bất lợi cho họ nên không dám lộ diện. Trên chốn giang hồ đầy sóng gió hiểm ác, các bậc tiền bối thường để tâm đề phòng mọi chỗ. Huống chi họ đang có việc gấp, khi nào dám lơ đãng?

Nghĩ đến đó, chàng thấy lòng nhẹ nhõm. Chàng thấy dấu chân bùn trong đám cỏ đi về phía đông bắc, liền động tính hiếu kỳ lần theo dấu chân đuổi theo. Trời mưa lớn suốt đêm, đường đất chỗ nào cũng bùn lầy, dấu bàn chân một nam một nữ hiện lên rất rõ, việc theo dõi chẳng tốn công sức gì. Hồ Phỉ thấy thủy chung vết chân đều tránh đường lớn, cứ lần theo những bụi nhỏ quanh co mà đi. Chàng đi chừng hơn một giờ thì đến một thị trấn nhỏ. Bên ngoài thị trấn, dấu chân loạn xạ không nhận được rõ. Hồ Phỉ bụng bảo dạ:

– Hai người nhịn đói một đêm, bây giờ rất cần ăn uống. E rằng họ chỉ mua bánh bao ăn lót dạ rồi xuyên qua thị trấn mà đi. Như vậy không dễ gì mà truy tìm được.

Hồ Phỉ vào thị trấn mua một một cái áo tơi và một cái nón lá. Chàng khoác áo đội nón che sụp nửa mặt và dò chừng mấy phạn điếm cùng những hàng lừa ngựa. Chàng quan sát mấy nhà mà chẳng thấy dấu vết vợ chồng Lưu Hạc Chân đâu. Thị trấn này nhỏ bé, chớp mắt đã đi tới cuối phố. Chàng toan quay lại mua cơm ăn thì đột nhiên nghe tiếng một phụ nữ cất lên:

– Đại tẩu có kim chỉ xin cho tiểu muội mượn một chút.

Thanh âm chính thị của vợ Lưu Hạc Chân. Hồ Phỉ cúi đầu rồi liếc mắt nhìn qua dưới vành nón, thấy câu nói từ một căn nhà dân thường vọng ra, liền nghĩ bụng:

– Vợ chồng lão sợ địch nhân lần theo hành tung nên không dám vào khách điếm nghỉ chân. Họ đề phòng nghiêm mật như vậy, e rằng ngoài ba anh em họ Chung còn có những kẻ đối đầu khác lợi hại hơn đang gây khó dễ. Phóng lao thì phải theo lao, ta cứ ngấm ngầm bảo vệ họ cho bức thư kia được đến tay Miêu đại hiệp.

Chàng quay lại không tới bảy, tám căn nhà đã thấy có một tiểu khách điếm liền vào đó thuê phòng nghỉ chân, nhưng thủy chung mắt vẫn không rời khỏi căn nhà có vợ chồng Lưu Hạc Chân. Mãi cho đến chiều tối, vợ chồng Lưu Hạc Chân vẫn không lộ diện lần nào.

Hồ Phỉ bụng bảo dạ:

– Các bậc tiền bối làm việc rất thận trọng. Nhất định họ chờ đến trời tối mịt mới khởi hành.

Quả nhiên vào khoảng canh hai, chàng thấy vợ chồng Lưu Hạc Chân rời căn nhà người dân đó và rảo bước ra khỏi thị trấn. Cước bộ họ rất mau lẹ chẳng giống người bị thương chút nào.

Hồ Phỉ lẩm bẩm:

– Té ra lúc trước vợ chồng lão bị thương là hoàn toàn giả trá, chẳng những lừa được ba anh em họ Chung, mà còn lừa cả ta nữa.

Chàng không dám chần chờ, nhảy qua cửa sổ bám theo sau. Chàng thấy dưới nách Lưu Hạc Chân cắp một cái bọc khá dài, không hiểu trong bọc đựng gì. Khinh công của Hồ Phỉ cao thâm hơn Lưu Hạc Chân rất nhiều. Chàng rón rén theo sau mà hai người tuyệt nhiên không hề phát giác.

Hai người đi chừng năm, sáu dặm thì đến trước một căn nhà nhỏ. Lưu Hạc Chân đánh tay ra hiệu cho vợ nấp vào trong bụi cỏ. Lão tiến lại mấy bước dõng dạc nói:

– Kim Diện Phật Miêu đại hiệp có nhà không? Có bằng hữu từ phương xa đến bái phỏng.

Trong nhà có người hỏi vọng ra:

– Vị bằng hữu nào đó? Xin miễn trách cho Miêu Nhân Phụng mắt kém chưa nhận ra được.

Tiếng nói vang dội, nhưng Hồ Phỉ nghe ra bỗng có cảm giác vừa thê lương vừa đôn hậu. Lưu Hạc Chân đáp:

– Tiểu nhân họ Chung, vâng lệnh của ba anh em họ Chung ở Quỷ Kiến Sầu tại Ngạc Bắc có phong thư khẩn yếu đem đến cho Miêu đại hiệp.

Hồ Phỉ lấy làm lạ, tự hỏi:

– Tại sao lá thư này lại là của anh em họ Chung. Vậy thì việc gì họ lại ngăn cản?

Miêu Nhân Phụng nói:

– Xin mời vào!

Trong nhà có ánh đèn thắp lên. Nghe “kẹt” một tiếng, cánh cửa đã mở ra. Hồ Phỉ ẩn ở phía sau gốc cây dẻ, nhìn thấy bóng người cao lêu khêu đứng ở bục cửa, đầu y gần chạm vào đà cửa, tay phải cầm cây đèn. Lưu Hạc Chân chắp tay thi lễ rồi tiến vào trong nhà.

Hồ Phỉ chờ hai người vào nhà rồi mới nhẹ nhàng đi vòng tới bên cửa sổ mé trái dòm vào.

Miêu Nhân Phụng hỏi:

– Còn hai vị nữa sao không vào?

Lưu Hạc Chân nghĩ thầm:

– Làm gì còn những hai người?

Miệng lão chỉ ậm ừ cho xuôi chuyện. Hồ Phỉ nghe Miêu Nhân Phụng nói còn hai vị, trong lòng không khỏi kinh hãi nghĩ thầm:

– Miêu Nhân Phụng quả cực kỳ lợi hại. Ta bước chân rất nhẹ mà lão đã sớm biết có cả thảy ba người cùng đến.

Chàng nghĩ đứng đây nhìn trộm thế nào cũng bị phát giác. Còn đang suy nghĩ, bỗng nghe Lưu Hạc Chân hỏi:

– Tám năm trước đây, ba anh em họ Chung đã lãnh giáo những cao chiêu của Miêu đại hiệp, trong lòng vô cùng khâm phục. Hiện giờ họ đã luyện được ba món khí giới đặc biệt nên sai tiểu nhân đem đến cho Miêu đại hiệp coi trước, để khi động thủ Miêu đại hiệp khỏi cho là họ dùng binh khí quái dị để chiếm phần tiện nghi.

Lão nói rồi mở bao, lấy ba món binh khí để trên bàn kêu loảng xoảng. Hồ Phỉ nhận thấy hành động của Lưu Hạc Chân mỗi lúc một khó hiểu. Chàng cúi đầu nhìn qua khe cửa vào bên trong, thì thấy ba món binh khí để trên bàn là tấm Thiết lịnh bài, cây Khốc tang bổng và cành Chiêu hồn phướn. Trên các món binh khí đó hãy còn dính bùn đất loang lổ, chưa kịp lau chùi sạch sẽ. Miêu Nhân Phụng đằng hắng một tiếng, liếc mắt nhìn ba món binh khí không nói gì. Lưu Hạc Chân thò vào bọc, lấy một phong thư, hai tay đưa lên rồi nói:

– Xin Miêu đại hiệp mở ra xem. Tiểu nhân đã đưa thơ tới nơi, giờ xin cáo từ.

Dứt lời lão chắp tay thi lễ lui ra. Miêu Nhân Phụng cầm lá thư, nói:

– Hãy khoan! Sau khi ta coi xong thư còn phiền ông bạn chuyển lời nhắn lại.

Y tưởng đây là một chiến thư liền mở bóc ra coi. Hồ Phỉ nhân lúc Miêu Nhân Phụng coi thư, nhìn kỹ lại dung mạo thì thấy y so với mấy năm trước chàng gặp ở Thương gia bảo dường như già đi rất nhiều, vẻ mặt lại càng tiều tụy. Miêu Nhân Phụng coi thư, cặp mắt dần trợn ngược lên, phát ra những tia sáng cực kỳ phẫn nộ. Hồ Phỉ kinh hãi toan lùi ra thì đột nhiên thấy Miêu Nhân Phụng hai tay cầm lá thơ xé roạt thành hai mảnh. Thơ vừa bị xé rách bỗng thấy trước mặt y xuất hiện một làn khói vàng nhạt.

Miêu Nhân Phụng kêu lên:

– Thôi chết rồi!

Hai tay y dụi mắt, gương mặt lộ vẻ đau đớn. Lưu Hạc Chân nhảy lùi ra sau xa hơn một trượng. Biến cố xảy ra trong khoảnh khắc nhưng Hồ Phỉ đã hiểu rõ:

– Té ra Lưu Hạc Chân giấu thuốc độc trong thơ để làm mù cặp mắt của Miêu đại hiệp.

Chàng quát lên:

– Cẩu tặc đứng lại!

Chàng phi thân nhảy về phía Lưu Hạc Chân. Lão giang chân, cườm tay hạ xuống, rút cây liên tử thương xoay lại đâm một nhát, Hồ Phỉ trong lòng vừa thẹn vừa giận, nghiêng mình né tránh rồi vươn tay ra đoạt lấy cây liên tử thương. Bỗng chàng nghe thấy phía sau có tiếng gió mạnh xô tới rất gấp, một luồng chưởng lực mãnh liệt tuyệt luân đánh vào sau lưng. Hồ Phỉ đánh vung song chưởng phản kích, đón lấy chưởng lực của đối phương. Chàng biết Miêu Nhân Phụng trong lúc nóng giận, chưởng lực phóng ra không phải tầm thường, nên không dám trực tiếp đối chưởng mà sử dụng diệu thuật “Âm dương quyết” trong Thái Cực quyền do Triệu Bán Sơn truyền thụ để mong chế ngự được chưởng lực của đối phương.

Ngờ đâu hai tay chàng vừa đụng phải chưởng lực của Miêu Nhân Phụng liền cảm thấy mắt tối sầm lại, trước ngực cơ hồ nghẹt thở, chàng loạng choạng lùi lại ba bước liền. Chưởng lực của Miêu Nhân Phụng chỉ bị chế ngự một nửa, còn một nửa chàng phải hứng chịu. Chàng vội la lên:

– Miêu đại hiệp! Tại hạ đến giúp đại hiệp bắt giặc đây mà.

Lưu Hạc Chân thừa cơ hai người đấu chưởng lén chạy trốn. Miêu Nhân Phụng cảm thấy hai mắt đau đớn kịch liệt, chẳng khác gì mấy chục mũi kim đâm vào. Y cùng Hồ Phỉ trao đổi một chiêu cảm thấy võ công chàng rất cao cường, đúng là một tay kình địch thì không khỏi ngấm ngầm kinh hãi, nên câu Hồ Phỉ nói “Tại hạ giúp đại hiệp bắt giặc” y không nghe thấy.

Hồ Phỉ nhìn thấy vợ chồng Lưu Hạc Chân chạy về phía tây toan rượt theo bỗng phía trước có ba người chạy nhanh tới. Ba người này đều mặc áo xô quấn khăn tang, không cần nhìn rõ mặt cũng nhận ra Chung thị tam hùng. Hồ Phỉ quay đầu lại thấy Miêu Nhân Phụng hai tay bưng mắt, vẻ mặt cực kỳ đau khổ, muốn đến giúp nhưng lại sợ đột nhiên y phóng chưởng đánh ra.

Chàng vội hô lớn:

– Miêu đại hiệp! Tại hạ tuy chẳng phải là bằng hữu của đại hiệp nhưng quyết không có ý gia hại. Đại hiệp tin được chăng?

Mấy câu này chàng nói bằng một giọng cực kỳ thành khẩn. Miêu Nhân Phụng tuy chưa nhìn thấy mặt chàng, lại mới bị gian nhân ám toán, cặp mắt đau như dao cắt, nhưng vừa nghe câu nói đó tự nhiên cảm thấy thiếu niên này không phải hạng tồi bại. Thật là anh hùng lại biết anh hùng, mới nửa câu đã ý hiệp tâm đầu. Y nói ngay:

– Tiểu huynh đệ ngăn chặn gian nhân ở ngoài cửa cho ta.

Y không trả lời câu hỏi “Tin được chăng?” của Hồ Phỉ, mà bảo chàng ngăn chặn ngoại địch thì dĩ nhiên coi chàng như bạn thân. Hồ Phỉ trước ngực nóng bừng, cảm thấy câu nói này hào khí ngất trời. Nếu chẳng phải bậc đại anh hùng đại hào kiệt lòng dạ khoát đạt thì quyết không thể thốt ra được. Quả thật là chưa gặp nhau vẫn nghĩ đến nhau, mới gặp lần đầu mà đã như có tình cố cựu. Miêu Nhân Phụng nói một câu đủ khiến cho Hồ Phỉ cam tâm vì y nhảy vào dầu sôi lửa bỏng. Chàng thấy ba anh em họ Chung còn cách cửa nhà chừng hai chục trượng liền cầm cây đèn chạy vào bếp, dùng bầu múc nước trong lu đưa cho Miêu Nhân Phụng nói:

– Đại hiệp rửa mắt lẹ đi!

Miêu Nhân Phụng tuy mắt đau kịch liệt nhưng tâm trí hãy còn rất minh mẫn. Y nghe rõ trên đường lớn trước mặt có ba người chạy tới, mặt sau lại có bốn người đã nhảy lên mái nhà.Y đón lấy bầu nước tiến vào nội phòng, bế đứa con gái nhỏ đang nằm trên giường lên rồi mới cúi đầu xuống rửa mắt. Thứ độc dược này thật là khủng khiếp, dùng nước rửa lại càng đau thấu tâm can.

Đứa con gái y đang ngủ mơ mơ màng màng, cất tiếng hỏi:

– Gia gia! Gia gia chơi với Lan nhi phải không?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Ừ! Lan nhi ngoan lắm! Gia gia đang bế Lan nhi đây, Lan nhi đừng mở mắt ra cứ nhắm mắt lại mà ngủ đi nhé.

Con bé hỏi:

– Con sói già không ăn thịt cừu non chứ?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Dĩ nhiên là không ăn. Người đi sắn tới nơi, con sói già liền cúp đuôi chạy mất!

Con bé yên tâm thở phảo một cái, dúi gương mặt bầu bĩnh vào ngực phụ thân mà ngủ. Hồ Phỉ nghe hai cha con đối đáp ban đầu sửng sốt một chút rồi chàng hiểu ngay. Trước khi con bé đi ngủ đã nghe phụ thân kể chuyện cổ tích con sói già muốn ăn thịt con cứu non. Nó đang mơ ngủ chợt sực nhớ lại nên mới hỏi. Lúc này Chung thị tam hùng chỉ còn cách cửa lớn chừng mười trượng, bỗng nghe “vút” hai tiếng, hai người từ trên nóc nhà nhảy xuống sân. Hồ Phỉ đóng cửa lớn lại, kéo cái bàn chặn phía trong để cho ba anh em họ Chung không thể vào nhà ngay được, nhằm khỏi bị tiền hậu giáp công. Tiếp theo chàng phất tay áo quạt tắt ngọn nến. Hai người nhảy xuống sân rồi thấy trong nhà không có lửa sáng chưa dám sấn vào ngay.

Miêu Nhân Phụng khẽ nói:

– Hãy để bọn bốn người tiến cả vào.

Hồ Phỉ đáp:

– Dạ!

Chàng lấy hỏa tập quẹt lửa, châm vào cây đèn cho sáng lên rồi đặt xuống bàn. Bỗng nghe ngoài cửa lớn Chung Triệu Anh cất tiếng hô:

– Ba anh em Chung Triệu Anh, Chung Triệu Văn, và Chung Triệu Năng ở Ngạc Bắc xin bái kiến Miêu đại hiệp để báo việc khẩn cấp.

Miêu Nhân Phụng “hừ” một tiếng chứ chẳng thèm để ý. Hai người trong sân một cầm đao, còn một cầm cây tam tiết côn. Chúng thấy Miêu Nhân Phụng cặp mắt nhắm nghiền không mở ra được, nhưng bị khiếp bởi oai danh “Đả biến thiên hạ vô địch thủ” nên chưa dám tiến vào nhà. Gã cầm đao nhìn lên nóc nhà vẫy tay một cái, hô:

– Hắn mù mắt rồi:

Hai người trên nóc nhà cả mừng nhảy xuống. Hồ Phỉ nhìn thấy thân thủ hai người rất này rất mau lẹ. So với hai người kia, bản lãnh của chúng còn cao cường hơn nhiều. Chàng liền lạng người đến sau lưng hai gã đó đẩy song chưởng về phía trước, quát lớn:

– Vào đi!

Luồng chưởng lực này cực kỳ cương mãnh, hai người không dám đỡ phải xông tới phía trước mấy bước, xoạc chân bước qua bục cửa, tiến vào nhà khách. Hồ Phỉ đứng ngoài cửa hông khẽ hít một hơi chân khí rồi thở mạnh ra, cây đuốc cao hơn một trượng đột nhiên tắt phụt. Trong nhà khách tối đen như mực.

Bốn người đến tập kích giật nảy mình, chúng sửng sốt một lúc rồi cầm binh khí xông vào đánh Miêu Nhân Phụng. Con bé ngủ trong lòng Miêu Nhân Phụng trở mình hỏi:

– Gia gia! Tiếng gì thế? Con sói già trở lại ư?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Không phải con sói già, chỉ có bốn con chuột cống.

Bỗng nghe tiếng binh khí rít lên nhằm đầu mình đánh xuống, lại có tiếng loảng xoảng của khóa sắt, y biết đây là những loại võ khí như tam tiết côn, liên tử thương, liền vươn tay chụp lấy đầu cây tam tiết côn rung mạnh một cái. Gã kia “ối” lên một tiếng, cánh tay tê chồn để cây tam tiết côn tuột mất. Miêu Nhân Phụng thuận tay vung ra đánh “chát” một tiếng trúng vào sau lưng hắn. Hắn lập tức ngưng thở ngất đi. Còn hai người sử đao, một người sử thiết tiên lặng lẽ từ ba mặt đánh tới. Con bé hỏi:

– Gia gia! Con chuột có cắn người không?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Chuột mò đến toan cắn trộm người, nhưng thấy con mèo già, lũ chuột liền chạy trốn.

Con bé lại hỏi:

– Tiếng gì vang lên thế? Có phải gió bão không? Gia gia! Trời sắp mưa rồi ư?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Phải rồi! Lát nữa còn có sấm nổ nữa đó!

Con bé hỏi:

– Lôi công Bồ Tát chỉ đánh người tàn ác chứ không đánh người tử tế phải không?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Phải rồi! Lôi công Bồ Tát thích những đứa bé gái ngoan ngoãn lắm.

Miêu Nhân Phụng một tay chiết giải ba món binh khí, miệng lại đối đáp với con gái, tựa hồ chẳng coi ba địch nhân vào đâu. Ba người kia ra chiêu tàn độc đều bị Miêu Nhân Phụng đưa tay mặt ra phản kích, hóa giải hết. Hán tử sử đao thứ nhất kinh hãi la lên:

– Gió dữ! Tản ra!

Hắn trở gót toan chạy ra ngoài, vừa tới bên cửa lớn liền bị hồ Phỉ vung chân trái ra quét té nhào xuống đất, tiện tay chàng đoạt lấy đơn đao. Miêu Nhân Phụng nói:

– Con cưng ngoan! Nghe sấm nổ đây này!

Y vung quyền đánh trúng vào hàm dưới hán tử sử thiết tiên đánh “binh” một tiếng, khiến hắn văng qua đầu Hồ Phỉ rớt xuống sân. Còn hán tử sử đao nữa, võ công cao hơn cả bọn, thủ cước rất linh hoạt, Miêu Nhân Phụng đánh liền hai quyền, hắn đều tránh thoát. Miêu Nhân Phụng sợ con gái khiếp sợ liền ngồi xuống ghế không rượt theo.

Bây giờ người kia biết rõ Miêu Nhân Phụng tuy mù mắt nhưng hắn không thể địch nổi. Hắn còn biết người giữ cửa cũng là tay cực kỳ lợi hai. Hắn bị khốn trong căn nhà nhỏ chẳng khác gì ba ba trong rọ, chẳng lẽ bó tay chịu chết? Đột nhiên hắn vung đao chém xuống đầu Miêu Nhân Phụng. Hắn nhân lúc Miêu Nhân Phụng né tránh lạng người tiến vào phòng ngoài bật lửa lên đốt rèm, rồi theo cửa sổ chuồn ra, nhảy lên nóc nhà. Tấm rèm cửa sa cháy rất lẹ, chỉ trong chớp mắt đã um khói cả nhà. Chung Triệu Anh ở ngoài cửa hô lớn:

– Miêu đại hiệp! Ba anh em tại hạ đến đây để tỷ võ nhưng hiện giờ quyết chẳng nhân lúc đại hiệp nguy cấp mà động thủ. Đại hiệp cứ yên lòng.

Chung Triệu Văn thấy ngọn lửa ló ra ngoài cửa sổ liền la hoảng:

– Cháy! Cháy!

Chung Triệu Năng cũng lên tiếng:

– Bọn tặc tử đê hèn như vậy. Đại ca, chúng ta phải mau cứu hỏa đã.

Ba người nhảy lên nóc nhà muốn tìm nước chữa lửa. Hồ Phỉ biết ba anh em họ Chung võ công rất cao thâm, bọn bốn người vừa rồi không thể bì kịp. Miêu Nhân Phụng dù bản lãnh cao cường, nhưng hai mắt không nhìn thấy gì, lại bế đứa nhỏ trong lòng thì khó bề chống đối. Chàng thấy mình nên ra tay tương trợ, liền lớn tiếng quát:

– Bọn gian đồ vô sỉ không được tiến vào!

Con bé la lên:

– Gia gia ơi, nóng quá!

Miêu Nhân Phụng đẩy cái bàn sang bên, vung chân đá ra, hai cánh cửa văng bay đi đến bốn, năm trượng. Y bế đứa nhỏ ra khỏi cửa lớn, rồi quay lên nóc nhà vẫy tay nói với ba anh em họ Chung:

– Xuống đây động thủ được rồi.

Y sợ con gái kinh hãi nên gọi địch nhân cũng cất giọng khe khẽ. Y nghĩ tới tám năm trước cùng Chung thị tam hùng đối địch, trong căn nhà bốc lửa và y cũng bị trọng thương, chỉ khác ở chỗ người bầu bạn với y không phải là con bé mà là một vị cô nương sau làm vợ y. Không phải, vị cô nương kia không bầu bạn với y, mà gặp lúc nguy cấp liền bỏ chạy ra ngoài trước….

Hồ Phỉ thấy thế lửa dữ quá, chỉ trong chớp mắt là thành trận cháy lớn. Chàng tính Miêu Nhân Phụng còn có thể chống cự được một lúc, mà lúc này việc cứu hỏa là khẩn cấp liền ném thanh đơn đao đi và chạy vào bếp thấy ba cái lu đá, lu nào cũng đầy nước. Chàng liền ôm một lu, quát to một tiếng:

– Lên!

Rồi nhấc bổng cái lu nặng bốn, năm trăm cân lên. Tuy chàng lực đã vào hạng nhất lưu cao thủ mà chân bước vẫn lảo đảo. Chàng phải nín hơi vận lực bê lu nước đến phòng ngoài, ném cả lu lẫn nước vào. Ngọn lửa bị lu nước đội lên liền nhỏ đi nhưng chưa tắt. Chàng lại bê lu thứ hai đến trước cửa phòng ngoài, toan vận hết lực ném vào thì đột nhiên nghe sau lưng đánh “véo” một tiếng, liền biết có người tập kích. Nguyên hán tử mới đây bị chàng đá té đã lượm đơn đao nhằm chém xuống sau lưng chàng.

Hồ Phỉ hai tay bê lu nước không cách nào kháng cự, vội xoay chân đá móc về phía sau. Cú đá này rất quái dị. Năm trước Diêm Cơ học được chiêu này mà đã khiến Mã Hành Không, một võ sư nổi danh, cũng khó bề chiết giải. Bây giờ Hồ Phỉ vung chân đá ngược trúng vào bụng dưới hán tử đánh “binh” một tiếng. Cả người lẫn đao hán tử bắn qua đầu Hồ Phỉ rớt xuống lu nước mà chàng đang ôm trong tay. Cái lu đá này chàng ôm vốn đã khó khăn lắm rồi, giờ đây lại tăng thêm năm, sáu chục cân nữa thì sao chịu nổi? Chàng thuận tay đẩy một cái cả lu nước lẫn người bay vào trong đống lửa. Cái lu nước vỡ tan làm cho hán tử khắp mình bị thương. May mà ngọn lửa tắt rồi nên hắn chưa bị nguy đến tính mạng.

Hồ Phỉ thấy lửa tắt, toan lại trợ lực Miêu Nhân Phụng, bỗng nghe sau nhà có tiếng quát tháo, chửi mắng xen lẫn tiếng quyền cước. Có hai kẻ đang đánh nhau kịch liệt. Tiếng quát mắng chính là thanh âm của Lưu Hạc Chân. Lão quát lớn:

– Hảo gian tặc! Ngươi mắc bẫy ta rồi!

Hồ Phi tự hỏi:

– Lão động thủ với ai vậy? Lão chính là kẻ đầu sỏ trong vụ này, phải bắt lão mới được.

Chàng từ cửa sau chạy ra thì thấy hai thanh đao bay lên không. Lưu Hạc Chân cùng một người nữa đang tay không đánh giáp lá cà. Chàng nhìn kỹ lại thì thấy chính là gã vừa phóng hỏa. Hồ Phỉ rất lấy làm quái lạ, nghĩ bụng:

– Những chuyện bữa nay thật khó hiểu. Hai người này rõ ràng là cùng một phe sao lại đánh nhau? Nhưng chúng đều chẳng phải là người tốt.

Chàng liền vọt lên trước thi triển đại cằm nã thủ chụp vào lưng hai người. Vì hai người đang đánh nhau kịch liệt, nên không kịp kháng cự, bằng không với bản lĩnh của họ dễ gì Hồ Phỉ chỉ chộp một cái là đã thành công.

Hồ Phỉ lắng tai nhưng không nghe thấy thanh âm cuộc đấu ngoài cửa lớn nữa. Chàng sợ Miêu Nhân Phụng chẳng nhìn thấy gì tất sẽ bị ba anh em họ Chung hạ độc thủ. Chàng nhìn thấy bên cạnh có cái giếng liền mỗi tay tóm một người, ném cả Lưu Hạc Chân cùng gã hán tử kia xuống đó. Chàng lại chạy vào bếp ôm cái lu thứ ba đè lên miệng giếng, rồi mới chạy quanh căn nhà ra phía cửa trước.

Chàng thấy ba anh em họ Chung đã nhảy xuống đất đứng cách Miêu Nhân Phụng bảy, tám trượng, tay chúng đều cầm một cặp phán quan bút mà không thể vào gần để động thủ. Chàng nói:

– Miêu đại hiệp! Đại hiệp để tại hạ bế em nhỏ cho.

Miêu Nhân Phụng ngẫm nghĩ:

– Ta mù mất rồi, dù có đánh lui được ba anh em họ Chung, nhưng bình sinh do cái ngoại hiệu “Đả biến thiên hạ vô địch thủ” quá quái ác, khiến ta kết oán với vô số kẻ thù. Tin ta bị mù mắt đồn đại ra ngoài giang hồ, cường địch tới tấp kéo đến thì làm sao chống cự nổi? Xem ra ta khó lòng bảo toàn được tính mạng, chỉ còn lo cho đứa con gái nhỏ mà thôi.

Y lấy tai thay mắt, lắng nghe Hồ Phỉ vừa đánh lui địch vừa dập tắt lửa một cách gọn ghẽ, quả là người trí dũng kiêm toàn. Tuy y chưa từng quen biết nhưng thấy chàng giàu lòng nghĩa khí như vậy, có thể giao con gái được, liền cất tiếng hỏi:

– Tiểu huynh đệ! Tôn tính đại danh là chi? Có liên quan gì với ta chăng?

Hồ Phỉ nghĩ tới tiên phụ không hiểu rốt cuộc có phải chết về tay Miêu Nhân Phụng hay không, nhưng lúc này chưa tiện nhắc tới, liền đáp:

– Bậc đại trượng phụ kết giao, ý khí tương đồng thì chỉ cần lấy tấm lòng đối đãi nhau, hà tất phải nêu tên đọc họ? Miêu đại hiệp mà tin được, thì tại hạ có tan xương nát thịt cũng quyết bảo vệ cho lệnh ái được chu toàn.

Miêu Nhân Phụng nói:

– Hay lắm! Miêu Nhân Phụng ta độc lai độc vãng, bình sinh chỉ có hai người bạn tri giao. Một là Liêu Đông đại hiệp Hồ Nhất Đao và hai là vị tiểu huynh đệ mà ta chưa biết họ tên cũng không thấy được mặt mũi này đây

Dứt lời y bế đứa nhỏ đưa cho Hồ Phỉ. Hồ Phỉ đối với Miêu Nhân Phụng một lòng khâm phục, nhưng vẫn e y là kẻ thù giết cha, ân oán hai bên khó bề xử sự. Chàng nghe phụ thân mình là bạn tri giao thuở bình sinh với Miêu Nhân Phụng thì trong dạ mừng thầm, đưa hai tay đón lấy đứa nhỏ. Chàng thấy nó mới bảy, tám tuổi mà rất xinh xắn. Chàng bế con bé trong tay, thấy vừa nhẹ nhàng vừa mềm mại. Dưới ánh sáng lờ mờ, chàng thấy nó đang nhắm mắt ngủ, hơi thở nhè nhẹ, khóe miệng khe khẽ mỉm cười.

Chung thị tam hùng thấy Hồ Phỉ cũng ở đây, lại nghe hai người đối đáp trong lòng đều lấy làm lạ. Miêu Nhân Phụng xé mảnh áo buộc lấy mắt, hai tay chắp để sau lưng, cất giọng trầm khàn nói:

– Loài gian tặc vô sỉ kia! Xông vào cả đi! Con gái ta đang ngủ, các ngươi đừng lớn tiếng làm nó phải thức giấc.

Chung Triệu Anh tiến lên một bước, giận dữ nói:

– Miêu đại hiệp! Ngày trước đồ nhi của bọn ta chết về tay đại hiệp. Anh em ta tìm đến để thanh toán món nợ đó. Vẻ sau mới biết ra gã đồ nhi dòm ngó đồ quý của người khác, hành sự không đoan chính, chết là đáng kiếp. Vụ này bọn ta đa tạ đại hiệp đã giúp bọn ta.

Miêu Nhân Phụng hừ một tiếng, đáp:

– Ngươi nói nhỏ ta cũng nghe được.

Chung Triệu Anh tức giận lại nói:

– Có điều khi ấy đại hiệp bị thương ở chân, ba anh em ta vẫn không địch nổi, trong lòng bất phục nên tám năm qua đã khổ luyện võ công. Bữa nay lại đến để thỉnh giáo. Dọc đường được biết có gian nhân mưu đồ ám toán đại hiệp, anh em ta bôn ba tới đây để báo cho đại hiệp biết mà đề phòng. Bây giờ gian nhân chạy đi rồi, tứ giáo hay không là tùy ở nơi đại hiệp. Sao đại hiệp buông lời khinh bạc, lại còn buộc hai mắt lại? Phải chăng Chung thị tam hùng là hạng bất tiếu không đáng để đại hiệp mở mắt ra xem? Hay là đại hiệp tự cho mình võ công tinh tuyệt, bịt mắt lại cũng thừa sức đả bại anh em ta?

Miêu Nhân Phụng nghe hắn nói thì dường như vụ mình bị trúng độc mù cả hai mắt, hắn chẳng hay biết, bèn hạ thấp giọng xuống đáp:

– Mắt ta mù rồi!

Chung Triệu Anh cả kinh, cất tiếng run run nói:

– Trời ơi! Nếu vậy thì bọn tại hạ trách lầm Miêu đại hiệp. Anh em tại hạ khổ công rèn luyện bảy, tám năm trời, võ công chẳng lấy gì làm tiến bộ. Việc lãnh giáo thôi hãy bỏ đi không nhắc tới nữa. Đại hiệp có biết một nhân vật ở Vi Đà môn tên là Lưu Hạc Chân không? Vừa rồi trong bọn người bị đại hiệp đánh đuổi không thấy có hắn. Chỉ một hai ngày nữa, hắn sẽ tới đây bái phỏng, mà đại hiệp lại bị mù mắt nên khi hắn đến cần phải đề phòng.

Hồ Phỉ hỏi xen vào:

– Chung đại gia! Vụ Lưu Hạc Chân hạ độc, đại gia không biết thật ư?

Chung Triệu Anh hỏi lại:

– Rốt cuộc ngươi là bạn hay là thù của Miêu đại hiệp? Chúng ta muốn ngăn chặn Lưu Hạc Chân sao ngươi lại cực lực giúp hắn?

Hồ Phỉ đáp:

– Vụ này nói ra càng thêm xấu hổ. Những điều ngoắt ngoéo bên trong tại ha không hề biết rõ. May thay gã Lưu Hạc Chân đã bị tại hạ bắt và đẩy xuống giếng sau nhà. Chúng ta hỏi hắn thì sẽ biết đầu đuôi.

Chàng quay lại hỏi Miêu Nhân Phụng:

– Rốt cuộc ba anh em họ Chung là người tốt hay là kẻ bại hoại?

Chung Triệu Văn lạnh lùng đáp:

– Chúng ta không hành hiệp trượng nghĩa, lại chẳng tế bần trợ cô thì còn là hảo nhân gì nữa?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Chung thị tam hùng tuyệt nhiên không phải là hạng tiểu nhân đê hèn.

Ba anh em họ Chung nghe Miêu Nhân Phụng bình phẩm câu này trong lòng hớn hở. Đúng là một lời khen của kẻ có tài còn hơn là vinh hoa phú quý. Ba gương mặt xấu xí đều lộ vẻ hoan hỷ lẫn cảm kích. Chung Triệu Văn cùng Chung Triệu Năng quành ra sau nhà, khiêng lu nước trên miệng giếng đặt sang một bên, quát lớn:

– Nhảy lên đây!

Bỗng nghe trong giếng có tiếng thở hồng hộc mà là thanh âm hai người. “Binh” một tiếng vang lên, lại “chát” một tiếng xen lẫn tiếng nước động bì bõm. Dường như hai người đang đánh nhau chí mạng. Cái giếng này một người xoay sở còn khó khăn, mà hai người lại đánh đấm nhau thì cảnh tượng thảm hại không cần hình dung cũng đủ biết

Chung Triệu Anh thòng cái thùng xuống, lớn tiếng hô:

– Bám vào miệng thùng để ta lôi các ngươi lên.

Y cảm thấy dây nặng trĩu biết là có người phía dưới nắm lấy, liền vận kình lực thu dây lại. Quả nhiên y kéo lên hai người mình mẩy ướt như chuột lột. Lưu Hạc Chân chân chưa chấm đất đã phóng chưởng đánh người kia. Người kia võ công kém hơn lão, ở trong giếng đã bị ăn đòn lại bị uống nước no, cứ ngầy ngầy ngật ngật Chung Triệu Năng thấy phát chưởng đó có thể đánh chết gã kia liền vươn tay ngăn lại, cầm cặp quán quan bút gí vào sau lưng hai người quát:

– Muốn sống thì đừng động thủ nữa.

Ba anh em họ Chung nắm hai người lôi vào trong nhà. Lúc này Hồ Phỉ đã giao đứa nhỏ lại cho Miêu Nhân Phụng. Chàng thắp đèn lên, rồi cùng Chung Triệu Anh đứng hai bên.

Phòng ngủ bị trận hỏa tai, nước đồ đầy nhà không còn chỗ đứng, Miêu Nhân Phụng đặt con gái xuống giường của mình ở trong sương phòng, lúc quay ra thì ba anh em họ Chung đã bắt Lưu Hạc Chân và người kia đưa tới.

Miêu Nhân Phụng thở dài nói:

– Thanh danh của Vi Đà Song Hạc hai mươi năm trước ta đã nghe nói đến. Hai vị Lưu sư huynh cùng Vạn sư huynh không phải là hạng tồi bại giang hồ.

Lưu Hạc Chân đáp:

– Miêu đại hiệp! Tại hạ mắc lừa kẻ gian, hối hận thì đã không kịp nữa. Mắt đại hiệp bị thương nặng lắm không?

Ba anh em họ Chung cùng “ủa” lên một tiếng. Họ không biết Miêu Nhân Phụng bị thương ở mắt là việc vừa mới xảy ra. Miêu Nhân Phụng không đáp, mà xoay về phía hán tử sử đao nói:

– Phải chăng ngươi là đệ tử của Điền Quy Nông? Võ công của Thiên Long môn ngươi đã học đến bảy thành hỏa hầu rồi.

Gã kia hồn vía lên mây, bèn quỳ mọp xuống dập đầu lia lịa đáp:

– Miêu đại hiệp! Tiểu nhân vâng lệnh người sai khiến chứ không phải tự mình hành động. Xin lão nhân gia rộng lượng dung tha.

Hắn “ọe” hai tiếng, miệng thổ ra đầy nước, Lưu Hạc Chân thóa mạ:

– Gian tặc! Ngươi lừa gạt khiến ta thật đau khổ!

Lão nhảy tới toan động thủ. Chung Triệu Anh giơ tay cản lại hỏi:

– Có điều gì cứ nói tử tế. Đầu đuôi vụ này ra làm sao?

Lưu Hạc Chân cũng là nhân vật nổi danh trong võ lâm, chỉ vì mắc lừa kế kẻ khác, mà khi nổi nóng lên không kiềm chế được. Lão bị Chung Triệu Anh cản liền nghĩ tới mình hành động sai lầm, lại bị người ném xuống giếng, tình trạng vô cùng thảm hại, quả thực bình sinh lão chưa gặp chuyện đại nhục thế này bao giờ. Lão tối sầm mắt lại, ngồi thừ người ra đáp:

– Hỏng rồi! Hỏng rồi! Miêu đại hiệp! Tại hạ đối với đại hiệp thực sự quá sai…

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Trong một đời người có ai lại không bị kẻ tiểu nhân lừa. Cái đó có chi đáng kể? Chắc Lưu huynh bị kẻ khác lừa gạt đưa thơ cho tại hạ?

Hai mắt trúng độc, hiển nhiên đã mù rồi mà vẫn nói năng ôn hòa, khiến Hồ Phỉ cùng ba anh em họ Chung đều sinh lòng bội phục. Chỉ định lực đó thôi, người khác cũng không thể bì kịp.

Lưu Hạc Chân đáp:

– Gã này tại hạ mới gặp tại Phong Diệp trang ở Hành Dương. Gã tự xưng danh là Trương Phi Hùng, bảo rằng ngày trước đã chịu ơn của Vạn sư ca nên được tin Vạn sư tạ thế liền đến điếu tang:

Miêu Nhân Phụng hỏi:

– Vạn Hạc Thành lão sư chết rồi ư?

Lưu Hạc Chân đáp:

– Đúng thế! Tại hạ thấy gã họ Trương này nói năng thành khẩn mà gã lại có ý muốn kết thân với tại hạ nên không nghi ngờ gì cả. Bọn tại hạ kết bạn đi ngược về mạn bắc. Dọc đường gã thấy Chung thị tam hùng liền tỏ vẻ khiếp sợ. Tối hôm ấy, tại hạ cùng gã ngủ chung một phòng trong khách điếm nghe gã nằm mơ nói những gì là nếu phong thư này mà không đưa được tới nơi thì bao nhiêu nhân sĩ hào kiệt sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Tại hạ tưởng việc này mình không thể tự thủ bàng quan liền hỏi dò thì gã nói: “Lưu lão sư! Tại hạ thấy lão sư làm khó dễ bọn thị vệ ở Thanh cung, đúng là bậc anh hùng hào kiệt, nên vụ này không cẩn phải giấu giếm lão sư”. Rồi gã lấy một phong thử ra nói là cần đưa đến tay Kim Diện Phật Miêu đại hiệp để xin đại hiệp ra tay cứu giúp, không thì mấy chục nghĩa sĩ sẽ bị Thanh đình giết chết.

Miêu Nhân Phụng vẫn ngồi im, không nói gì. Lão ngừng lại một chút rồi kể tiếp:

– Gã gian tặc họ Trương còn nói Chung thị tam hùng có mối thù với Miêu đại hiệp, nhất định sẽ tìm cách cản trở, mà gã không phải là đối thủ của Chung thị tam hùng nên xin tại hạ giúp cho một tay. Tại hạ nhận thấy có nghĩa vụ phải giúp đỡ gã liền nhận lời ngay. Nhưng dọc đường cùng Chung thị tam hùng giao thủ, lão già ta không địch nổi. Sau đó nội nhân Vương Trọng Bình đến tương trợ, nhưng vẫn không địch lại. Sự việc quả khéo xếp đặt, tại hạ đến Tương Phi miếu lại gặp tiểu huynh đệ đây. Ngày ở Phong Diệp trang tại hạ đã được y giúp đỡ. Sau lại thấy y hiển lộ thân thủ, võ công quả thật cao thâm. Thế rồi vợ chồng tại hạ giả vờ bị thương, sắp đặt mưu kế nhờ chàng cản trở Chung thị tam hùng. Quả nhiên vị tiểu huynh đệ đây mắc lừa tại hạ, còn tại hạ lại mắc lừa gian tặc.

Lão nói rồi hai mắt trợn ngược, chòm râu rung động, tỏ ra cực kỳ phẫn nộ.

Hồ Phỉ nghĩ lại những điều đã qua, thầm nhủ:

– Những lời lão này nói không có vẻ dối trá. Té ra những chuyện rắc rối giữa ta và Viên Tử Y phần lớn đã bị lão nhìn thấy.

Chàng nghĩ tới đây, thấy trước ngực nóng lên, chợt liếc thấy ba món binh khí để trên bàn, chàng hỏi:

– Lưu lão sư lượm binh khí của Chung thị tam hùng đến đây làm chi?

Lưu Hạc Chân đáp:

– Chung thị tam hùng đến đây tầm cừu, vị tất Miêu đại hiệp đã biết. Tại hạ muốn báo trước tin cho đại hiệp biết để mà đề phòng. Đưa binh khí tới trước là để thủ tín. Còn như tại hạ nói là thư này của anh em họ Chung đưa tới là cốt để cho huynh đệ nghe tiếng. Tại hạ biết tiểu huynh đệ vẫn bám sát theo sau, sợ tiểu huynh đệ có hành động bất lợi cho tại hạ. Tại hạ nói vậy khiến trong lòng tiểu huynh đệ đâm ra nghi hoặc, không biết đâu mà lần, do đó sẽ không động thủ với tạ hạ nữa. Còn Miêu đại hiệp coi thư sẽ hiểu đầu đuôi, ngờ đâu…ngờ đâu…

Lão nói tới đây khí tức xông lên cổ khiến lão nghẹn cả lời. Chung Triệu Anh nói:

– Anh em tại hạ vô tình nghe được gian mưu của họ Trương, lại thấy Lưu lão sư cứ cùng gã giấu giấu giếm giếm, liền đoán là hai người đến ám toán Miêu đại hiệp, nên bọn tại hạ hết sức ngăn cản. Không ngờ, trung gian còn nhiều điều ngoắt ngoéo. Miêu đại hiệp! Mắt đại hiệp bị thương ra làm sao?

Miêu Nhân Phụng không trả lời, giơ bàn tay to tướng như cái quạt lá bồ vẫy mấy cái, rồi nói:

– Việc đã qua rồi, không nên nhắc lại.

Hồ Phỉ đảo mắt nhìn quanh, muốn kiếm lá thư mà Miêu Nhân Phụng đã xé ra thì thấy hai mảnh giấy còn rớt trong góc nhà, một mảnh đã bị thấm nước. Chàng sợ trên hai mảnh giấy có chất kịch độc nên không dám lại gần, mà chỉ phóng tầm mắt nhìn lại, thấy trên giấy chỉ lèo tèo có ba hàng chữ, chữ nào cũng lớn bằng hạt đào. Chàng đọc thấy trong lá thư ghi như sau.

“Nhân Phụng lão huynh! Lệnh ái tư chất cao quý mà lão huynh là kẻ võ phu, ở với nhau thật không hợp. Việc dạy dỗ lệnh ái ắt sẽ có chỗ sai sót. Nay sai người đến đón về để tiểu đệ nuôi dạy mới phải. Đệ là Điền Quy Nông đốn thủ”

Chàng đoán là Miêu Nhân Phụng quý con gái hơn cả tính mạng. Điền Quy Nông đã dụ dỗ vợ y tư bôn, bây giờ lại muốn mang con gái y đi nữa, làm sao y không tức giận được? Y thuận tay xé phong thư cũng là lẽ tự nhiên. Chất độc được giấu sẵn trong kẽ giáp giấy hoa tiên, khi phong thư bị xé lập tức bay ra, thân thủ có mau lẹ cách mấy cũng không thể tránh kịp. Mưu Kế của Điền Quy Nông có thể nói là cực kỳ thâm độc. Hồ Phỉ nhớ lại tình cảnh của Miêu Nhân Phụng, Miêu phu nhân, Miêu Nhược Lan và Điền Quy Nông bốn người ở Thương gia bảo. Chàng hận là không gặp Điền Quy Nông để cho hắn một đao kết liễu cuộc đời.

Lưu Hạc Chân càng nghĩ càng căm tức, lớn tiếng quát:

– Họ Trương kia! Ngươi vâng lệnh sư mệnh ám toán Miêu đại hiệp, thì sao không tự mình đưa thư lấy, lại còn lừa cả lão Lưu này?

Trương Phi Hùng ấp úng đáp:

– Tiểu nhân sợ… sợ Miêu đại hiệp nhận ra tiểu nhân là đệ tử ở Thiên Long môn, tất nhiên đề phòng… lại khiếp… thần oai của Miêu đại hiệp nữa…

Lưu Hạc Chân hằn học nói:

– Ngươi sợ nếu như mưu gian bại lộ, trốn chạy cũng không kịp. Hảo tiểu tử! Hảo tiểu tử!

Lão quay lại nhìn Miêu Nhân Phụng:

– Miêu đại hiệp! Tại hạ xin đại hiệp giao thằng lỏi này cho tại hạ!

Miêu Nhân Phụng chậm rãi đáp:

– Lưu lão sư! Hạng tiểu nhân này ta không nên chấp chúng làm chi. Trương Phi Hùng! Ngoài sân còn hai tên đồng bọn của ngươi bị thương khá nặng. Ngươi dẫn chúng đi đi. Hãy về bảo sư phụ với sư mẫu ngươi rằng …

Y suy nghĩ không biết nên nói tiếp câu gì. Sau một lúc, y vẫy tay bảo gã:

– Ta cũng chẳng có gì để nói. Thôi ngươi đi đi!

Trương Phi Hùng đã tưởng mình làm mù mắt Miêu Nhân Phụng thì nhất định tính mệnh khó được bảo toàn, không ngờ y khoan hồng đại lượng không thèm truy cứu, thật là một điều vượt ra ngoài sự tiên liệu của gã. Trong lòng cảm kích, gã liền quỳ xuống, dập đầu binh binh lạy tạ.

Bọn chúng bốn người, định bụng thừa cơ Miêu Nhân Phụng mù mắt xông vào giết y, cướp lấy đứa bé mà chạy. Chẳng ngờ lại gặp Hồ Phỉ, một tay hảo thủ phi thường, can dự vào vụ này khiến độc kế của chúng chỉ mới thành công được bước đầu. Tên bị chàng gạt chân ngã nhào mình đầy thương tích nhân lúc nhốn nháo chạy trốn rồi. Còn hai tên bị Miêu Nhân Phụng dùng cây tam tiết côn và quyền đả thương rất nặng. Một tên đến giờ vẫn chưa hồi tình, một tên rên rỉ luôn mồm, toàn thân không còn chút sức lực nào.

Lưu Hạc Chân nghĩ thầm:

– Chắc là Miêu Nhân Phụng giả vờ tha cho ba người bọn chúng, nhưng không hiểu y dùng độc kế gì để hành hạ bọn này?

Lão từng trải giang hồ thường gặp nhiều người sau khi bắt được địch nhân rồi không giết ngay, mà làm cho chúng đau khổ sống dở chết dở rồi mới từ từ giết. Bỗng thấy Trương Phi Hùng đỡ hai gã sư đệ bị thương dậy, lê bước ra ngoài cổng rồi đi xa dần. Miêu Nhân Phụng thủy chung vẫn không ra tay. Lưu Hạc Chân thấy ba gã kia khuất dần trong bóng tối, lão không nhịn được nữa, bèn lên tiếng:

– Miêu đại hiệp! Gã họ Trương thủ cước rất linh hoạt, để gã đi xa e rằng gã chạy mất!

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Tại hạ đã tha chúng rồi, còn bắt lại làm chi?

Y dừng lại một chút rồi tiếp:

– Bọn chúng vốn không quen biết tại hạ. Vụ này chỉ do người khác sai khiến chúng mà thôi.

Lưu Hạc Chân vừa kinh ngạc vừa bẽn lẽn, liền đứng thẳng người lên nói:

– Miêu đại hiệp! Lưu Hạc Chân này chưa từng phụ ai, mà bữa nay vì đui mù ngu xuẩn làm hại đại hiệp.

Lão nói xong liền đưa ngón tay trỏ bên trái lên đâm vào mắt mình. Hồ Phỉ vội vươn tay cản lại, nhưng vẫn chậm một bước. Mọi người thấy lão đứng sững giữa phòng, trên mặt có hai dòng máu tươi chảy xuống, dĩ nhiên đôi mắt đã hỏng rồi. Ba anh em họ Chung cả kinh nhất tề đứng dậy.

Miêu Nhân Phụng nói:

– Lưu lão sư sao lại tự làm khổ mình như vậy? Tại hạ chẳng có ý oán trách gì lão sư cả đâu.

Lưu Hạc Chân cười khanh khách, lão hoa tay một cái rảo bước ra ngoài cửa phòng. Thuận tay lão bẻ một cành cây làm gậy dò đường rồi cất bước đi thẳng. Chỉ một lúc sau, bỗng nghe tiếng phụ nữ thét lên kinh hãi, đó chính là Vương Trọng Bình, vợ lão. Năm người trong nhà đều cảm thấy thê lương, không ngờ Lưu Hạc Chân lại cương liệt đến thế.

Miêu Nhân Phụng chỉ sợ Hồ Phỉ cũng bị ray rứt liền nói:

– Tiểu huynh đệ! Huynh đệ đã nhận lời chiếu cố cho con gái ta, vậy chớ có quên nhé.

Hồ Phỉ hiểu tâm ý, hiên ngang đáp:

– Đã lầm lỗi thì phải tận lực tìm cách cứu vãn bù đắp. Lưu Hạc Chân tự hủy hoại mình, trong lòng cảm thấy yên ổn nhưng hành động đó chẳng có ích gì.

Chung Triệu Anh thở dài nói:

– Đúng thế! Nhưng Lưu lão sư cũng xứng đáng là một hảo hán lừng lẫy.

Năm người ngồi đối diện nhau hồi lâu không nói gì. Sau một lúc, Hồ Phỉ lên tiếng hỏi:

– Miêu đại hiệp! Tròng mắt đại hiệp thế nào rồi? Có nên lấy nước rửa không?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Không cần nữa. Chỉ có điều là nó đau đớn vô cùng.

Y đứng lên, quay về phía ba anh em họ Chung nói:

– Ba vị lặn lội đường xa đến đây, mà chẳng có gì đãi khách, thật là khiếm khuyết quá đỗi. Tại hạ cần đi nằm một lúc, xin ba vị miễn trách cho.

Chung Triệu Anh đáp:

– Miêu đại hiệp cứ tùy tiện, bất tất phải khách sáo.

Ba người đánh tay ra hiệu, chia nhau đi canh giữ cửa trước cửa sau vì sợ Điền Quy Nông chưa chịu bỏ qua, hoặc lại phái người khác đến tập kích. Hồ Phỉ tay cầm đèn nến đi theo Miêu Nhân Phụng vào sương phòng. Y nằm xuống giường rồi, chàng lấy chăn đắp cho y. Con bé vẫn ngủ say. Đêm nay trong nhà xảy ra trận huyên náo đến long trời lở đất nó cũng không hề hay biết.

Hồ Phỉ toan quay lui, chợt nghe tiếng bước chân vang lên. Có người đang chạy tới rất gấp. Chung Triệu Anh quát:

– Tên tiểu tử kia! Ngươi còn trở lại nữa ư?

Nghe “choang” một tiếng! Có tiếng binh khí đụng nhau. Giọng nói của Trương Phi Hùng la lên:

– Tiểu nhân có đôi lời muốn nói với Miêu đại hiệp, thực tình chẳng có ý gì đen tối.

Chung Triệu Anh khẽ nói:

– Miêu đại hiệp ngủ rồi. Có chuyện gì hãy để đến sáng mai mà nói.

Trương Phi Hùng nói:

– Hay lắm! Vậy tiểu nhân nói với các hạ cũng được. Miêu đại hiệp đại nhân đại nghĩa tha mạng cho tiểu nhân, câu này chẳng thể không nói ra. Mắt của Miêu đại hiệp trúng phải phấn độc “Đoạn trường thảo” mà gia sư lấy nơi Độc Thủ Dược Vương. Tiểu nhân nghĩ rằng nếu cầu Độc Thủ Dược Vương điều trị may ra khỏi được. Tiểu nhân muốn tự ý đi thỉnh cầu, nhưng nghĩ mình vô danh tiểu tốt không thể làm nổi việc này.

Chung Triệu Năng “ủa” lên một tiếng. Tiếng bước chân lại vang lên, Trương Phi Hùng trở gót đi ngay. Hồ Phỉ nghe nói cả mừng, từ trong phòng chạy ra lớn tiếng hỏi:

– Vị Độc Thủ Dược Vương đó ở đâu?

Chung Triệu Anh đáp:

– Lão ẩn cư ở bờ hồ Động Đình, nhưng… nhưng…

Hồ Phỉ hỏi:

– Nhưng làm sao?

Chung Triệu Anh khẽ đáp:

– Cầu lão quái nhân đó trị bệnh e không phải là chuyện dễ.

Hồ Phỉ nói:

– Hay dở gì chúng ta cũng phải mời cho được lão đến đây. Lão đòi cài gì mình cứ đưa cái đó.

Chung Triệu Anh lắc đầu đáp:

– Khó ở chỗ lão chẳng đòi gì hết.

Hồ Phỉ nói:

– Dùng cách mềm dẻo mà không được thì đành phải cứng rắn vậy.

Chung Triệu Anh trầm ngâm không đáp. Hồ Phỉ nói:

– Việc này không thể chậm trễ được. Tiểu đệ lên đường ngay. Ba vị ở lại đây để bảo vệ cho Miêu đại hiệp, phòng ngừa địch nhân lại đến.

Chàng chạy vào sương phòng, nhìn Miêu Nhân Phụng, nói:

– Miêu đại hiệp! Tại hạ đi thỉnh y sinh về để chữa mắt cho đại hiệp.

Miêu Nhân Phụng lắc đầu đáp:

– Mời Độc Thủ Dược Vương ư? Đừng đi cho vất vả lại về tay không.

Hồ Phỉ nói:

– Không thể thế được, thế gian chẳng có việc gì khó cả!

Dứt lời chàng xoay mình ra khỏi phòng hỏi:

– Chung đại gia! Vị Độc Thủ Dược Vương đó tên là gì? Có cách nào tìm ra chỗ ở của lão không?

Chung Triệu Văn đáp:

– Hay lắm! Tại hạ cùng đi với huynh đệ! Câu chuyện của lão, trên đường đi Chung mỗ sẽ từ từ nói cho huynh đệ nghe.

Gã quay lại nói với Chung Triệu Anh và Chung Triệu Năng:

– Đại ca, tam đệ ở lại đây canh chừng nhé!

Triệu Anh và Triệu Năng mặt hơi biến sắc, vì cùng có ý lo sợ. Họ đồng thanh nói:

– Đi đường cẩn thận!

Vì việc khẩn cấp, hai người Hồ, Chung liền thi triển khinh công chạy về hướng bắc. Đến khi trời sáng, hai người vào thị trấn mua được hai con ngựa, liền lên ngựa đi ngay.

comments

Phi Hồ ngoại truyện