Hồi 31: Nát óc tính cờ đành tự tử, vô tâm đi ẩu được thần công
Đoàn xe lừa lọc cọc suốt ngày đêm, buông rèm kín mít. Bọn Huyền Nạn, Đặng Bách Xuyên, Khang Quảng Lăng đều là những hào kiệt đương thời, nhưng hiện giờ võ công đã mất hết, biến thành tù nhân để mặc người xử trí. Mọi người chỉ phỏng đoán được là mình đang đi về phía Đông Nam.
Đi như vậy tám ngày, đến ngày thứ chín, đoàn xe bắt đầu tiến vào vùng núi, đường sá gập ghềnh. Đến giờ ngọ đường lên núi mỗi lúc một dốc thêm, sau cùng đến một nơi xe không leo lên nổi, đám đồ đệ phái Tinh Tú đành bảo bọn Huyền Nạn xuống xe. Nơi này là rừng trúc âm u, phong cảnh rất tịch mịch. Bên đường người ta đã dựng lên một cái quán lương đình bằng những cây trúc lớn, kiến trúc rất tinh xảo. Phùng A Tam nhìn mà thán phục vô cùng. Gã xem xét kỹ hồi lâu, trong lòng liền nảy mối nghi ngờ.
Mọi người vào quán ngồi nhìn ra, thấy bốn người trên đỉnh núi chạy xuống, hai tên đi đầu là đệ tử của Đinh Xuân Thu. Hẳn là trước khi đoàn xe dừng lại, chúng đã chạy lên núi để dò đường hoặc để báo tin. Hai người đi sau là hán tử ăn mặc theo kiểu nông thôn, chạy đến trước mặt Đinh Xuân Thu thi lễ rồi trình thư lên. Đinh Xuân Thu mở thư ra đọc rồi cười khẩy nói: “Hay lắm! Ngươi chưa chịu thua, còn muốn quyết một trận sinh tử thì đương nhiên ta phải bồi tiếp.”
Hán tử hơi biến sắc, lấy trong bọc ra một cái pháo lệnh, châm lửa đốt. Pháp lệnh vọt lên không trung nổ liên tiếp ba tiếng đoàng đoàng, tiếng sau lớn hơn tiếng trước. Pháp lệnh thông thường chỉ nổ một tiếng, Phùng A Tam không nghi ngờ gì nữa, nhìn Khang Quảng Lăng khẽ nói: “Đại ca! Thứ pháp lệnh này chính là của bản môn chế tạo.”
Chẳng mấy chốc có hơn ba mươi người đều ăn mặc theo kiểu nông thôn từ trên đỉnh núi đi xuống, tay cầm binh khí dài. Khi bọn họ xuống gần, mọi người mới nhìn rõ thì thấy trên tay họ không phải binh khí mà là những đòn khiêng bằng trúc. Giữa hai cái đòn trúc có buộc võng, người có thể ngồi được.
Đinh Xuân Thu mỉm cười nói: “Chủ nhân đã mời, quý vị chẳng nên khách khí, ngồi vào võng đi!” Bọn Huyền Nạn đều lên võng ngồi, cứ hai hán tử khiêng một người, nhanh nhẹn leo dốc lên núi. Đinh Xuân Thu đi trước, tay áo rộng thùng thình phất phơ trong gió. Lão không có vẻ gì hấp tấp nhưng chân cứ lướt đi tựa hồ không chấm đất, chỉ trong khoảnh khắc đã mất hút vào khu rừng trúc phía trước.
Đặng Bách Xuyên bị trúng Hóa Công Đại Pháp, vẫn cho rằng mình mắc phải tà pháp, chứ không phải kém sức. Bây giờ thấy khinh công của lão tuyệt diệu như vậy, mới biết rằng bản lĩnh lão cũng rất khủng khiếp, bất giác khâm phục nghĩ thầm: “Giả tỉ lão không dùng yêu thuật thì mình cũng không địch nổi.” Phong Ba Ác thẳng thắn khen luôn: “Khinh công lão yêu này thật là tuyệt diệu, Phong mỗ bội phục!”
Gã vừa mở miệng khen thì bọn đệ tử phái Tinh Tú đi áp giải cũng tranh nhau lên tiếng tán tụng sư phụ. Chúng cho rằng võ công Đinh Xuân Thu hiện nay vô địch thiên hạ, cả những bậc võ học đại sư tiền bối như Đạt Ma lão tổ gì gì đi nữa cũng không bằng được, thật là một kiểu nịnh bợ ai nghe cũng ngứa lỗ tai.
Bao Bất Đồng nói: “Các vị lão huynh! Phái Tinh Tú quả là có những tuyệt nghệ độc đáo, không tiền khoáng hậu, chưa có môn phái nào bì kịp.” Bọn đệ tử khoái chí hỏi lại: “Theo hảo hán thì môn nào lợi hại nhất trong võ công của bản phái?” Bao Bất Đồng đáp: “Không chỉ một môn mà ít ra là ba môn.” Bọn đệ tử lại càng cao hứng, hỏi: “Ba môn là những môn gì?”
Bao Bất Đồng nói: “Môn thứ nhất là Mã Thí Công (công phu rắm ngựa). Không khí trong quý phái hôi thối quá, nếu không luyện tinh thục môn này thì không thở nổi. Môn thứ hai là Pháp Loa Công (công phu thổi phồng), nếu không ra sức tán tụng thì chẳng những bị sư phụ ghét, mà giữa bạn đồng môn cũng tiêu diệt nhau không còn đất đứng. Còn môn thứ ba là Hậu Nhan Công (công phu mặt dày). Nếu không luyện môn này tới mức không biết liêm sỉ là gì, thì không thể luyện nổi hai kỳ công là Mã Thí Công và Pháp Loa Công.”
Bao Bất Đồng chưa nói ra đã yên trí là sẽ bị bọn đệ tử phái Tinh Tú nổi trận lôi đình nện cho tơi tả, nhưng khổ nỗi mấy câu này tựa như cục xương mắc trong cổ họng, không nói ra không được. Ai ngờ bọn chúng đều lẳng lặng gật đầu. Có tên nói: “Lão huynh thật là thông minh, hiểu thấu được kỳ công của bản phái. Ba loại thần công Mã Thí, Pháp Loa và Hậu Nhan rất khó luyện, người có kiến thức mới biết được cái hay của nó, còn số đông đều cho là tệ hại. Khi luyện Hậu Nhan Công tới mức coi thường được mọi điều thiện ác thị phi thì mới đủ hỏa hầu, gặp những lúc khó khăn mới khỏi thất bại.”
Bao Bất Đồng mở miệng châm chọc, gã không tưởng tượng nổi bọn này lại không hề cảm thấy bị xúc phạm, nên rất lấy làm kinh dị. Gã cười nói tiếp: “Thần công của quý phái vi diệu khôn lường. Tại hạ ngưỡng mộ vô cùng, muốn xin đại tiên mở lối chỉ dẫn thêm cho.”
Tên kia nghe Bao Bất Đồng gọi mình là đại tiên thì trong lòng phơi phới, nói: “Lão huynh không phải là người bản phái thì những chỗ ảo diệu trong thần công không thể đem truyền thụ cho lão huynh được, nhưng những đạo lý thô sơ thì nói cho lão huynh nghe cũng không sao. Quan hệ nhất là phải coi sư phụ như một vị thần minh, nếu lão gia phóng ra một phát rắm…”
Bao Bất Đồng cướp lời: “Đương nhiên phải coi là thơm. Lại còn phải ráng mà hít cho thấm sâu vào phế phủ, rồi tán dương cho thật mùi,” Người kia gật đầu nói: “Đúng lắm! Tư chất lão huynh rất tốt, xứng đáng đứng vào hàng ngũ bản phái, đáng tiếc là đã lầm đường theo đuổi bọn bàng môn tả đạo. Tuyệt nghệ của bản môn biến hóa thiên hình vạn trạng, nhưng bí quyết căn bản không phức tạp lắm, chỉ cần nhớ bốn chữ Mạt Sát Lương Tâm là đủ.”
Bao Bất Đồng gật đầu lia lịa nói: “Nghe đại tiên nói một lúc còn hơn đọc sách mười năm. Chả trách người xưa có câu: Sáng được nghe lời đạo đức, tối chết cũng không đáng tiếc. Tại hạ hâm mộ quí phái vô cùng, chỉ giận mình chưa được nhập môn. Chẳng hay đại tiên có tiến dẫn được chăng?” Người kia đáp: “Gia nhập bản phái không phải là chuyện dễ. Ta xem chừng lão huynh không chịu nổi những thử thách cực kỳ gian khổ.” Một tên đệ tử khác nói: “Nơi này có nhiều tai mắt, không nên nói chuyện nhiều. Gã họ Bao kia! Nếu người thực tâm muốn quy đầu bản phái, phải chờ tới lúc sư phụ vui vẻ, ta sẽ vì ngươi mà bẩm với sư phụ. Bản phái thu đồ đệ rất đông, ta xem ngươi gân cốt cũng không đến nỗi tệ, nếu được sư phụ ta phát lòng từ bi thu nhận thì về sau ắt có thành tựu.” Bao Bất Đồng trả lời một cách nghiêm trang: “Đa tạ, đa tạ! Bao mỗ tới lúc già rụng hết răng cũng chưa quên được ân đức của đại tiên.”
Bọn Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn nghe Bao Bất Đồng chọc ghẹo bọn đệ tử phái Tinh Tú thì không khỏi vừa tức mình vừa buồn cười, nghĩ thầm trong bụng: “Hạng người nịnh bợ vô liêm sỉ đến thế này e rằng trên đời hiếm có.”
Trong khi nói chuyện, đoàn người đã tiến vào một khe núi mọc toàn cây thông, gió thổi thông reo rào rạt tựa như tiếng sóng vỗ bờ. Đoàn người tiến sâu vào rừng thông một đoạn nữa thì đến trước ba gian nhà gỗ. Trước cửa, dưới một gốc cây lớn có hai người ngồi đối điện, phía sau người ngồi mé tả có ba người đang đứng.
Khi tiến vào gần đến nơi, Bao Bất Đồng thốt nhiên nghe thấy Lý Quỷ Lỗi ngồi ở chiếc võng sau mình hắng giọng lấy hơi dường như sắp lên tiếng, nhưng rồi lại thôi. Bao Bất Đồng quay lại nhìn thì thấy sắc mặt gã nhợt nhạt, vẻ cực kỳ sợ hãi, bèn hỏi: “Ngươi lại đóng vai gì vậy? Phải chăng là vở tuồng có ma quỉ nhát người?” Lý Quỷ Lỗi không nói không rằng, tựa như không nghe gã nói gì.
Đến nơi thì thấy giữa hai người đang ngồi có một phiến đá lớn, trên đó có vẽ bàn cờ. Bên phải là một ông lão vừa gầy vừa thấp, bên trái là một thanh niên ra dáng công tử. Bao Bất Đồng vừa nhìn đã nhận ra ngay Đoàn Dự, trong lòng cũng không thoải mái lắm, nghĩ thầm: “Gã tiểu tử này trước nay vốn đã vô lễ, hôm nay nhìn thấy lão gia đang xúi quẩy thế này, chắc hẳn sẽ buông lời chế giễu.”
Bàn cờ đục trên một phiến đá xanh lớn, những quân cờ trắng đen đều sáng bóng, lấp loáng dưới ánh mặt trời, hai bên đã đi hơn trăm nước cờ. Đinh Xuân Thu tiến lại nhìn, thấy ông lão gầy gò vừa hạ một quân cờ đen, nhíu mày như đang tính toán nước cờ biến hóa. Đoàn Dự đang cầm một quân cờ trắng do dự chưa đặt xuống. Bao Bất Đồng kêu to: “Này này, Đoàn tiểu tử! Ngươi thua rồi, lại đây chịu chung hoạn nạn với huynh đệ Bao mỗ đi.” Ba người đứng phía sau Đoàn Dự cùng quay đầu lại nhìn ra vẻ khó chịu, đó chính là bọn đại hộ vệ Chu Đan Thần.
Lúc đó đột nhiên nhóm Hàm Cốc bát hữu Khang Quảng Lăng, Phạm Bách Linh đều hấp tấp nhảy xuống võng, đến quì bên ông lão đang chơi cờ.
Bao Bất Đồng kinh ngạc hỏi: “Các ngươi làm trò quỉ gì thế?” Nhưng gã vừa hỏi xong đã tỉnh ngộ ngay, biết lão già gầy khẳng kheo kia là Lung Á lão nhân Thông Biện tiên sinh, tức là sư phụ của Hàm Cốc bát hữu. Nhưng gã lấy làm kỳ ở chỗ lão đang chạm trán đại địch là Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu mà sao còn nhàn hạ đánh cờ được, hơn nữa đối thủ lại không phải là người quan trọng gì, chỉ là một tên đồ gàn không hiểu võ công.
Khang Quảng Lăng lên tiếng: “Lão nhân gia tráng kiện tỉnh táo, tám huynh đệ tiểu bối thật vui mừng khôn xiết.” Vì Hàm Cốc bát hữu đã bị Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà trục xuất khỏi môn phái, nên họ không dám dùng danh phận sư đồ để xưng hô. Phạm Bách Linh nói: “Huyền Nạn đại sư chùa Thiếu Lâm cũng đến thăm lão nhân gia đây.”
Tô Tinh Hà đứng dậy nhìn mọi người xá dài rồi nói: “Huyền Nạn đại sư giá lâm mà lão phu không ra xa nghênh tiếp, thật là đắc tội!” Lão chỉ nhìn qua một cái, lại vội quay vào bàn cờ.
Mọi người thấy Lung Á lão nhân chẳng những thính tai mà miệng vẫn nói như thường, chẳng câm chẳng điếc chi hết, ai nấy đều kinh ngạc.
Huyền Nạn đáp lễ nói: “Không dám, không dám!” Nhà sư thấy Tô Tinh Hà để hết tinh thần vào ván cờ thì nghĩ bụng: “Lão này ôm đồm đủ thứ, cầm, kỳ, thị, họa chẳng món nào là không giỏi. Chả trách võ công lão thua kém sư đệ.”
Giữa lúc im lặng, thốt nhiên Đoàn Dự lên tiếng: “Được lắm, cứ đi thế này!” rồi đặt một quân cờ trắng xuống bàn. Tô Tinh Hà có vẻ hoan hỉ, gật gật đầu rồi hạ một quân cờ đen ngay. Hai bên đi thêm mười mấy nước nữa, Đoàn Dự bỗng thở dài, lắc đầu nói: “Thế cờ Trân Lung biến ảo tinh diệu vô cùng, vãn bối không phá nổi.”
Vậy là Tô Tinh Hà thắng cuộc, thế mà lão lại tỏ vẻ buồn rầu nói: “Nước cờ của công tử vừa sâu sắc vừa nghiêm mật, mười mấy nước trước đã đến cảnh giới đăng phong tạo cực. Chỉ vì công tử không chịu nghĩ kỹ hơn một chút… Đáng tiếc, đáng tiếc! Hỡi ơi! Thật là đáng tiếc!” Lão than tiếc mấy lần liền, tỏ vẻ rất chân thành. Đoàn Dự lượm mười mấy quân cờ trắng lên bỏ vào hộp gỗ, Tô Tinh Hà cũng lượm mười mấy quân cờ đen dưới bàn cờ lên. Trên bàn cờ còn lại trận thế ban đầu.
Đoàn Dự lùi lại một bước, nhìn chằm chằm vào bàn cờ, nghĩ thầm: “Trận Trân Lung này chính là cuộc cờ ta đã thấy trong thạch động núi Vô Lượng. Không lẽ Thông Biện tiên sinh này có liên quan gì đến Thần Tiên tỉ tỉ ư? Lát nữa ta sẽ hỏi lại cho rõ ràng, nhưng không thể cho người khác nghe được, nếu không thì mọi người đều đến ngắm Thần Tiên tỉ tỉ, thật là xúc phạm đến nàng.”
Nhị đệ tử trong Hàm Cốc bát hữu là Phạm Bách Linh cũng là tay mê cờ. Gã quỳ ở đằng xa, thấy cuộc cờ này không phải là ván đấu chơi giữa sư phụ và vị công tử kia, mà là một thế Trân Lung do sư phụ mình bày ra để công tử kia phá giải, nhưng chàng không phá nổi. Hắn đang quỳ xuống đất nên nhìn không rõ, cứ phải nghển cổ lên. Tô Tinh Hà gọi: “Các ngươi lại cả đây! Bách Linh! Thế Trân Lung này quan hệ phi thường! Ngươi lại đây để coi cho rõ, nếu ngươi phá được thì thật là tốt.” Phạm Bách Linh mừng quá dạ một tiếng, rồi đứng dậy tiến lại bên bàn cờ chú ý nhìn.
Đặng Bách Xuyên khẽ hỏi: “Nhị đệ! Trân Lung là cái gì thế?” Công Dã Càn đáp: “Trong môn cờ vây thì Trân Lung là một loại thế cờ rất khó tính toán, cố ý sắp đặt ra để thách người khác phá giải.” Thông thường thế Trân Lung ít thì mười mấy con mà nhiều thì tới bốn năm chục con, nhưng ở đây có đến hơn hai trăm con, sinh hay kiếp đều khó mà lường được. Bàn cờ đã sắp đến tàn cục rồi, Công Dã Cần hiểu biết có hạn, gã nhìn bàn cờ một lúc mà không tính toán được gì bèn thôi không cố gắng nữa.
Phạm Bách Linh đã nghiên cứu vi kỳ đến mấy chục năm và đã thành một tay kỳ thủ nổi tiếng bậc nhất. Gã vừa trông vào bàn cờ đã thấy trong sinh có kiếp, lại có những nước cờ trường sinh, phản phục, phức tạp vô cùng. Gã cố trấn tĩnh, mới tính toán một nơi sống chết của đám cờ trắng góc phải, đã thấy khí huyết sôi lên. Gã định thần lại, phát giác ra ban nãy mình tính đám cờ trắng góc này thuộc về tử, mà thực ra nếu giết được một số cờ đen quanh đó thì vẫn còn đường vào chỗ sinh, nhưng liên quan rất nhiều. Gã suy nghĩ một lúc nữa thì thấy trước mắt tối sầm lại, hộc lên một tiếng rồi thổ máu tươi ra.
Tô Tinh Hà lạnh lùng nhìn Phạm Bách Linh, nói: “Thế cờ Trân Lung cực kỳ khó phá. Ta biết rằng tư chất ngươi có hạn, tuy rằng kỳ lực không yếu nhưng cũng khó mà giải được. Lúc này lại có lão tặc Đinh Xuân Thu bên cạnh, không chừng lão thi triển tà thuật làm mê hoặc tâm trí thì lại càng nguy hiểm. Vậy ngươi có thử phá giải không, hay là thôi?” Phạm Bách Linh đáp: “Sinh tử hữu mạng, đệ… đệ… vãn bối quyết tận tâm tận lực.” Tô Tinh Hà gật gật đầu nói: “Ngươi cứ từ từ mà suy nghĩ.” Phạm Bách Linh nhìn thế cờ hồi lâu rồi người lảo đảo, lại hộc máu tươi ra.
Đinh Xuân Thu cười nhạt nói: “Gã này chết mất, làm chi mà khổ thế? Lão tặc kia bày ra cạm bẫy này chỉ cốt để hành hạ rồi giết chết người ta thôi. Ngươi tự chui vào lưới rồi.”
Tô Tinh Hà đưa mắt lườm Đinh Xuân Thu hỏi: “Ngươi kêu sư phụ bằng gì?” Đinh Xuân Thu đáp: “Y là một tên lão tặc, ta kêu y bằng lão tặc chứ sao?” Tô Tinh Hà nói: “Lung Á lão nhân bữa nay không câm không tiếc nữa, chắc ngươi phải biết lý do tại sao chứ?” Đinh Xuân Thu nói: “Hay lắm! Người nói lời rồi lại nuốt lời. Đó là tự ngươi tìm lấy cái chết, đừng có trách ta tàn ác.”
Tô Tinh Hà thuận tay nhấc một phiến đá lớn bên mình đặt cạnh Huyền Nạn, cất tiếng: “Xin mời đại sư ngồi xuống đây.”
Huyền Nạn thấy Tô Tinh Hà vừa già vừa gầy khẳng gầy kheo, thân hình chưa chắc đã tới tám chục cân, thế mà lão nhấc phiến đá nặng ít ra cũng hai trăm cân dễ như chơi, tuyệt không cố gắng chút nào. Nhà sư nghĩ thầm: “Cứ nhìn cũng đủ biết công lực lão thâm hậu vô cùng. Chính mình lúc chưa bị mất võ công muốn nhấc tảng đá này lên cũng phải chật vật, đâu có được ung dung như lão.” Nhà sư chắp tay nói: “Đa tạ lão tiên sinh!”
Tô Tinh Hà lại nói: “Thế Trân Lung này do tiên sư của lão phu bày ra. Lão nhân gia đã mất ba năm tâm huyết mới sáng tác ra được thế cờ này, rất mong trên đời có người tri kỷ phá giải được. Tại hạ khổ công nghiên cứu trong ba mươi năm trời cũng chưa thành công.” Nói tới đây lão đảo mắt nhìn bọn Huyền Nạn, Đoàn Dự, Phạm Bách Linh một lượt rồi nói tiếp: “Huyền Nạn đại sư tinh thông thiền lý, chắc đã nghiệm ra, có người tốn công khổ luyện võ công bao nhiêu năm trời mà chưa chắc đã thấu triệt bằng người chỉ mất rất ít thời gian. Về kỳ lý cũng vậy, có khi đứa nhỏ chừng tám chín tuổi lại thắng được tay cao thủ. Tại hạ tuy rằng bất lực, nhưng những bậc anh tài trong thiên hạ rất nhiều, biết đâu lại có người phá được thế cờ này. Tiên sư qua đời, chỉ còn chút tâm nguyện này. Giả tỉ có người phá được thế cờ, hoàn thành tâm nguyện cho tiên sư thì lão nhân gia ở dưới suối vàng cũng mỉm cười khoan khoái.”
Huyền Nạn nghĩ thầm: “Thầy trò Thông Biện tiên sinh dạy nhau các môn cầm kỳ thi họa cùng tạp học, môn nào cũng đến chỗ tinh diệu. Họ dồn hết thông minh tài trí vào những nghề chơi, đến nỗi Đinh Xuân Thu hoành hành không còn úy kỵ gì nữa, vì không còn ai cấm đoán nổi. Như vậy thật là đáng buồn!”.
Bỗng lại nghe Tô Tinh Hà nói: “Vị sư đệ tại hạ đây…” Lão trỏ Đinh Xuân Thu nói tiếp: “Ngày trước y phản bội sư môn, hạ sát tiên sư và đánh tại hạ không sao trả đòn được. Lẽ ra tại hạ phải chết theo thầy cho trọn nghĩa, nhưng chưa hoàn thành được tâm nguyện của sư phụ, tìm được người giải phá thế Trân Lung thì có xuống suối vàng cũng chẳng dám nhìn mặt lão nhân gia. Vì lẽ đó mà tại hạ phải nhẫn nhục sống trên đời cho đến ngày nay. Mấy năm gần đây, tại hạ phải lập thệ với Đinh sư đệ là không nói không nghe gì nữa. Chẳng những một mình tại hạ biến thành Lung Á lão nhân, mà các đồ đệ mới thu nạp sau này cũng bị cưỡng bức cắt lưỡi chọc tai cho thành câm điếc. Hỡi ôi! Ròng rã ba mươi năm trời vẫn chưa được gì, thế Trân Lung của tiên sư để lại vẫn chưa có ai phá nổi. Vị công tử này phong tư tiêu sái…”
Bao Bất Đồng xen vào: “Gã này chưa chắc đã là anh tuấn, huống chi con người đẹp hay xấu thì đâu có liên quan gì đến chuyện đánh cờ? Sai bét, sai bét!” Tô Tinh Hà đáp: “Bên trong có mối quan hệ lớn lao.” Bao Bất Đồng nói: “Lão tiên sinh cũng đâu có phong lưu anh tuấn gì cho cam?” Tô Tinh Hà nhìn gã không nói gì, chỉ mỉm cười. Bao Bất Đồng nói: “Chắc lão tiên sinh cho rằng Bao mỗ còn xấu xa hơn nhiều phải chăng?”
Tô Tinh Hà không lý gì đến gã nữa, nói tiếp: “Đoàn công tử hạ được mười mấy quân đầu, đều là những nước cực kỳ tinh diệu. Tại hạ đang hy vọng tràn trề, ngờ đâu đi sai một nước đến nỗi bị thua.”
Đoàn Dự có vẻ thẹn thùng nói: “Tại hạ tư chất ngu độn đã phụ lòng kỳ vọng của lão trượng, thật xấu hổ vô cùng…”
Chưa đứt lời, bỗng nghe Phạm Bách Linh kêu to, miệng phun máu tươi ra như suối rồi ngã ngửa ra. Tô Tinh Hà khẽ nghiêng người, búng ba con cờ ra vèo vèo đánh trúng vào huyệt đạo trước ngực Bách Linh, gã thôi thổ huyết ngay.
Mọi người còn đang kinh ngạc, bỗng nghe đánh “cách” một tiếng, từ trên không bay xuống một vật trắng trúng vào bàn cờ.
Tô Tinh Hà nhìn lại, thì ra là một miếng gỗ cây tùng, rớt đúng vào điểm bát cửu ở vị khứ (tức là góc bên phải bàn cờ), rõ ràng đây là một nước đi. Lão ngẩng đầu lên nhìn xem thì thấy trên cây tùng ở cách năm trượng về bên trái có một mảnh trường bào lộ ra, rõ ràng có người nấp trên đó.
Tô Tinh Hà vừa kinh hãi vừa mừng thầm, nói: “Lại có một vị cao nhân gia lâm, lão phu vui sướng vô cùng” Lão đang cầm một quân cờ đen toan hạ xuống thì bỗng có tiếng vo vo nhè nhẹ, một vật màu đen bay từ sau lưng tới, rơi xuống điểm bát bát ở vị khứ, chính là chỗ Tô Tinh Hà muốn đặt cờ xuống.
Mọi người đều la lên một tiếng kinh ngạc, quay đầu nhìn ra thì không thấy ai hết. Cây tùng ở mé hữu không cao mấy, nếu có ai nấp ở đó thì trông thấy ngay, không hiểu người này nấp chỗ nào. Tô Tinh Hà nhìn lại thì thấy hạt đen này là một mẫu vỏ cây tùng vừa mới cạy ra, vị trí rất chuẩn, trong lòng thầm kinh hãi. Vật đen vừa rơi xuống thì từ cây tùng mé tả lại bắn xuống một hạt trắng, rớt vào điểm ngũ lục ở vị khứ.
Bỗng nghe tiếng vù vù vang lên, một hạt tròn màu đen bay trên không gian, rồi vừa xoáy vừa rớt xuống bàn cờ, trúng vào điểm tứ ngũ ở vị khứ. Vật này bay xoáy thành hình trôn ốc, khó mà biết phát ra từ đâu. Xem nó bay vòng vèo từ trên không mà rơi xuống rất chính xác thì đủ biết người đi nước cờ này có công phu phóng ám khí thật là khủng khiếp. Mọi người chung quanh đều khâm phục vô cùng, hoan hô rầm rộ.
Tiếng hoan hô chưa dứt, từ trên cây tùng vọng ra một âm thanh sang sảng: “Tuyệt kỹ phóng ám khí của Mộ Dung công tử quả nhiên thiên hạ vô song, thật đáng bội phục.” Đột nhiên có tiếng gió nhẹ rồi bên bàn cờ xuất hiện thêm một nhà sư đứng tuổi mặc tăng bào sắc xám, mắt sáng như sao, tướng mạo nghiêm trang, hé cười nửa miệng. Không ai nhìn rõ nhà sư này ở trên cây thông nhảy xuống lúc nào.
Đoàn Dự vừa nhìn thấy nhà sư thì giật mình kinh hãi, nghĩ thầm: “Lão ma đầu Cưu Ma Trí lại đến rồi!” Chàng lại nghĩ: “Chẳng lẽ người đi quân cờ trắng vừa rồi là Mộ Dung công tử sao? Thế là cuối cùng ta cũng gặp y.”
Cưu Ma Trí chắp tay trước ngực thi lễ với Tô Tinh Hà, Đinh Xuân Thu, Huyền Nạn đại sư, rồi nói: “Dọc đường tiểu tăng có nhận được thiệp mời đến kỳ hội của Thông Biện tiên sinh, không tự lượng sức mà đến đây để gặp cao thủ thiên hạ.” Lão lại hô lên: “Mộ Dung công tử! Hiện thân ra đi chứ!”
Sau một cây thông bỗng có tiếng cười nói vang lên, rồi hai người bước ra. Đoàn Dự mới nhìn thấy một người, trước mắt đã như tối sầm lại, bên tai vang lên những tiếng ù ù, miệng đắng nghét, toàn thân nóng bừng. Người này yểu điệu nhu mì, khoan thai bước tới, là con người chàng ngày đêm tưởng nhớ không lúc nào quên, chính thị Vương Ngữ Yên.
Ánh mắt nàng đầy vẻ ngưỡng mộ si mê, đang nhìn chăm chăm chàng thanh niên công tử kế bên. Đoàn Dự nhìn theo, thấy người đó trạc hai mươi bảy hai mươi tám tuổi, mặc áo sắc vàng nhạt, lưng đeo trường kiếm, phong tư tuấn nhã.
Đoàn Dự mới được thấy dung mạo Mộ Dung Phục lần đầu lòng chàng bỗng nhiên nguội lạnh, lẩm bẩm: “Người ta thường nói Mộ Dung công tử là rồng phượng trong loài người, quả nhiên danh bất hư truyền. Vương cô nương mến phục chàng là phải. Ôi thôi! Thế là ta đành đau khổ suốt đời.” Chàng tự trách, tự than, rồi lại tự thương mình, thẫn thờ không muốn nhìn Vương Ngữ Yên nữa, nhưng rồi không nhịn được lại liếc trộm nàng một cái, thấy dung nhan khuynh quốc khuynh thành đang hớn hở tươi cười, tựa hồ khoan khoái hoan hỉ vô cùng. Từ khi biết nàng, chưa bao giờ chàng thấy nàng vui vẻ như hôm nay. Bất giác chàng tự nhủ: “Trong mắt nàng chẳng hề có ta, chỉ đem lòng say mê biểu huynh. Bây giờ nàng thấy gã, trách nào chẳng cao hứng.”
Bốn người Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác đều đứng lên nghênh tiếp. Công Dã Càn nói nhỏ với Mộ Dung Phục về lai lịch ba người Tô Tinh Hà, Đinh Xuân Thu, Huyền Nạn. Bao Bất Đồng lại nói: “Gã đồ gàn họ Đoàn kia không biết võ công, khi nãy mới đánh cờ nhưng đã thua rồi.”
Mộ Dung Phục thi lễ với từng người một, ăn nói rất khiêm nhường. Mọi người đều không nghĩ Mộ Dung Cô Tô vang danh thiên hạ lại là một chàng thanh niên tuấn tú đến thế, đều rất ngưỡng mộ, ngay cả Đinh Xuân Thu cũng nói mấy câu khách sáo.
Sau cùng Mộ Dung Phục mới quay sang Đoàn Dự, gật đầu nói: “Đoàn huynh, khỏe chứ?” Vẻ mặt Đoàn Dự đang rất thảm hại, chàng lắc đầu đáp: “Chỉ có huynh mới khỏe, còn tại hạ… tại hạ chẳng khỏe chút nào.” Vương Ngữ Yên “A” lên một tiếng, gọi: “Đoàn công tử! Huynh cũng ở đây ư?” Đoàn Dự đáp: “Vâng. Tại hạ… tại hạ…”.
Mộ Dung Phục trừng mắt nhìn chàng rồi không để ý nữa, đến bên bàn cờ cầm một quân cờ trắng đặt xuống bàn đá. Cưu Ma Trí khẽ cười, nói: “Mộ Dung công tử! Võ công của công tử cao cường thật, nhưng kỳ thuật chắc chỉ tầm thường thôi.” Lão nói xong, đặt một quân cờ đen xuống. Mộ Dung Phục đáp: “Chưa chắc tại hạ đã chịu thua đại sư.” Chàng nói xong, cũng cầm một quân cờ trắng đặt xuống bàn. Cưu Ma Trí lập tức hạ xuống một quân.
Nãy giờ Mộ Dung Phục tính toán thế Trân Lung này, tự tin có thể phá giải. Nào ngờ đối phương chỉ đi một quân ngoài dự liệu là bao nhiêu nước y tính toán sẵn đều hóa ra công cốc. Qua một lúc lâu y mới đi được một quân. Cưu Ma Trí lại lập tức đi một quân. Hai người một nhanh một chậm, đi hơn hai mươi nước nữa, bỗng Cưu Ma Trí cười ha hả rồi nói: “Mộ Dung công tử ơi, không ăn thua rồi!” Mộ Dung Phục tức mình nói: “Đại sư chớ vội mừng, chính mình cũng có phá được đâu?” Cưu Ma Trí vẫn cười, đáp: “Thế Trân Lung này không thể phá giải được, người ta bày ra chỉ cốt để trêu ghẹo nhau thôi. Tiểu tăng tự biết mình, không muốn hao phí tâm lực vào chuyện vô ích. Mộ Dung công tử! Công tử cùng tiểu tăng mới loay hoay ở một góc biên cương còn chưa thoát ra được, nghĩ làm chi đến chuyện đuổi hươu ở Trung Nguyên?”
Mộ Dung Phục nghe mấy câu này bao hàm nhiều ẩn ý sâu xa, không khỏi giật mình, trong tâm trí chàng nảy ra bao nhiêu suy nghĩ. Bên tai cứ vang đi vang lại mấy câu: “Công tử cùng tiểu tăng mới loay hoay ở một góc biên cương còn chưa thoát ra được, nghĩ làm chi đến chuyện đuổi hươu ở Trung Nguyên?”
Cảnh vật trước mắt chàng dần dần mờ đi; những quân cờ đen, trắng trên bàn tựa hồ biến thành quân lính thật. Phía Đông một đoàn người ngựa, phía Tây một khu doanh trại, địch vây khốn ta, ta cũng vây lại địch thành một thế trận, chém giết lung tung không phân thắng bại. Mộ Dung Phục tưởng như binh mã Đại Yên đang bị địch bao vây, mình tả xung hữu đột đến kiệt lực cũng không có cách nào dẫn binh mã thoát ra khỏi gọng kìm của địch. Chàng càng nghĩ càng nóng ruột, rồi đột nhiên la hoảng: “Vận mệnh nhà Mộ Dung đã hết rồi, khó lòng phục quốc được! Bao nhiêu tâm cơ hao tổn đã mấy đời, rốt cuộc biến thành một trường ảo mộng. Ôi chao! Đó là số mệnh, còn biết làm gì nữa?” Bất ngờ chàng thét lên một tiếng, rút kiếm đâm vào cổ toan tự vận.
Mọi người ai nấy đều bất ngờ. Bọn Đặng Bách Xuyên nhất tề nhảy lại, song công lực đã mất hết, nên chậm mất một bước.
Đoàn Dự vừa hốt hoảng kêu lên: “Đừng làm thế!” vừa chĩa ngón tay trỏ ra điểm. Chỉ nghe “véo” một tiếng, thanh trường kiếm trong tay Mộ Dung Phục đã rớt xuống đất. Cưu Ma Trí cười nói: “Đoàn công tử! Lục Mạch Thần Kiếm quả là tuyệt diệu!”
Mộ Dung Phục thấy thanh trường kiếm văng khỏi tay thì giật nảy mình như người đang mơ chợt tỉnh. Vương Ngữ Yên nắm lấy tay gã, vừa khóc vừa nói: “Biểu huynh! Phá giải được hay không thế Trân Lung này đâu có gì quan hệ? Sao biểu huynh phải khổ sở đến thế?”
Mộ Dung Phục mơ hồ hỏi: “Ta làm sao vậy?” Vương Ngữ Yên nói: “May mà Đoàn công tử đánh rớt được thanh trường kiếm trong tay biểu huynh, nếu không thì… không thì…” Công Dã Càn nói: “Thế Trân Lung này mê hoặc lòng người, dường như có tà thuật bên trong. Công tử đừng nghĩ tới làm gì nữa!” Mộ Dung Phục quay lại nhìn Đoàn Dự hỏi: “Phải chăng chiêu vừa rồi đúng là một kiếm chiêu trong Lục Mạch Thần Kiếm? Đáng tiếc là tại hạ chưa trông rõ, các hạ có thể thi triển lại cho tại hạ được mở rộng tầm mắt chăng?”
Đoàn Dự chăm chăm nhìn Cưu Ma Trí, cứ sợ lão thấy mình xuất chiêu Lục Mạch Thần Kiếm lại nảy ra ý định bắt đi. Lộ kiếm pháp này lúc sinh nghiệm lúc không, nếu lão xuất thủ thì chàng không chống nổi. Chàng kinh hãi trong lòng, bèn bước sang trái ba bước cho xa Cưu Ma Trí, ở giữa lại có bọn ba người Chu Đan Thần, rồi mới đáp: “Tại hạ hốt hoảng trong lòng nên may mắn mà vận kình xuất chiêu được, muốn thử lại thì khó lắm. Vừa rồi công tử không trông thấy ư?”
Mộ Dung Phục bẽn lẽn đáp: “Lúc nãy tại hạ mê man, dường như có ma quỷ gì ám ảnh nên không biết gì hết.”
Bao Bất Đồng la lên một tiếng rồi nói: “Phải rồi! Đúng là Tinh Tú Lão Quái đứng bên thi triển tà pháp! Công tử phải cẩn thận mới được!”
Mộ Dung Phục liếc xéo Đinh Xuân Thu một cái, rồi quay sang Đoàn Dự tạ ơn: “Tại hạ trúng phải tà thuật, may mà được huynh đài cứu, cảm kích không sao nói hết. Đoàn huynh thân mang tuyệt kỹ Lục Mạch Thần Kiếm, có phải là nhân vật họ Đoàn ở Đại Lý hay không?” Bỗng nghe âm thanh lảnh lót từ xa vọng đến: “Đoàn gia Đại Lý có ai đến đấy, có phải Đoàn Chính Thuần không?”. Đó chính là giọng của Ác quán mãn doanh Đoàn Diên Khánh.
Chu Đan Thần lập tức mặt biến sắc. Chỉ nghe những tiếng kim khí va vào nhau loảng xoảng, rồi có giọng la lên: “Lão đại của chúng ta mới chính hiệu là Đại Lý Đoàn thị, còn bao nhiêu là hàng giả hết.” Đoàn Dự mỉm cười nói: “Té ra đồ đệ của ta cũng đã đến rồi.”
Tiếng kêu của Nam Hải Ngạc Thần chưa hết vang vọng, từ trên núi bỗng có một người phi thân xuống nhanh như chớp, chính là Vân Trung Hạc. Lão hô to: “Tứ Đại Ác Nhân bái phỏng Thông Biện tiên sinh, đồng thời xin tham dự kỳ hội này.” Tô Tinh Hà đáp: “Hoan nghênh chư vị đến đây.” Lão nói vừa xong, Vân Trung Hạc đã xẹt đến trước mặt mọi người.
Một lúc sau, ba người Đoàn Diên Khánh, Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần cùng đến nơi, Nam Hải Ngạc Thần quát lớn: “Lão đại chúng ta nhận được thiệp mời liền rất hoan hỉ, tạm gác mọi chuyện để đến đây đánh cờ. Võ công của lão là thiên hạ vô địch, so với Nhạc lão nhị ta còn lợi hại hơn nhiều. Ai không phục có thể lên đây cũng lão đối ba chiêu. Các ngươi muốn đơn đả độc đấu hay xông lên đánh loạn ẩu, sao không rút binh khí ra đi?” Diệp Nhị Nương nói: “Lão tam, ngươi nói bậy rồi. Đây là đấu cờ chứ không phải đấu võ, rút binh khí làm gì?” Nam Hải Ngạc Thần vặn lại: “Ngươi mới là nói bậy. Nếu không phải là động thủ đánh nhau thì lão đại đến đây để làm gì?” Đoàn Diên Khánh mắt vẫn nhìn bàn cờ không chớp. Lão ngưng thần suy nghĩ rất lâu rồi mới thò cây thiết trượng bên tay trái vào hộp cờ. Đầu gậy của lão tựa hồ như có sức hút, nhặt một quân cờ trắng đặt lên bàn. Huyền Nạn khen: “Võ công họ Đoàn nước Đại Lý quả là độc đáo cõi Thiên Nam, tiếng đồn không sai.”
Khi xưa Đoàn Dự đã được xem thái tử Diên Khánh đấu cờ với Huỳnh Mi Tăng, biết lão nội công đã thâm hậu mà lại rất cao cờ, không chừng có thể phá được thế Trân Lung này cũng nên. Chu Đan Thần kề tai chàng nói nhỏ: “Công tử! Chúng ta lẻn đi thôi.” Nhưng Đoàn Dự vừa muốn xem Đoàn Diên Khánh đánh cờ, lại vừa muốn ngắm nghía Vương Ngữ Yên cho thỏa niềm thương nhớ bấy lâu, chỉ “ừ, ừ” mấy tiếng, lại bước đến gần bàn cờ hơn.
Tô Tinh Hà đã nghiên cứu thế Trân Lung thiên biến vạn hóa này đến mức thuộc lòng mọi nước đi, nên vừa thấy thái tử Diên Khánh hạ cờ xuống, lập tức lão lấy một quân cờ đen đi luôn. Đoàn Diên Khánh lại nghĩ một lúc lâu mới đi thêm một nước. Tô Tinh Hà cất tiếng khen: “Nước cờ này của các hạ thật là cao minh. Để xem những nước sau có phá được quan ải, tìm ra lối thoát chăng?” Nói xong, lão đặt một con cờ đen xuống để cản phá, Đoàn Diên Khánh lại hạ một quân trắng xuống.
Nhà sư trẻ tuổi chùa Thiếu Lâm là Hư Trúc bỗng kêu lên: “Không đi nước này được đâu!” Vừa rồi gã thấy Mộ Dung Phục đi đúng như nước này rồi sau cùng rút kiểm tự sát, nên sợ Đoàn Diên Khánh cũng theo vết xe đổ. Gã không yên lòng, bèn lên tiếng nhắc nhở.
Nam Hải Ngạc Thần cả giận quát: “Tên hòa thượng nhóc con này dám nói đại ca của lão gia đi nước đó không được ư?” Lão nắm lấy lưng nhà sư nhấc lên. Đoàn Dự nói ngay: “Đồ đệ ơi, đừng hại vị tiểu sư phụ đó!” Từ lúc mới đến, Nam Hải Ngạc Thần đã nhìn thấy Đoàn Dự, trong lòng hổ thẹn, đã định bụng không nói gì với chàng là tốt nhất. Lão nghe chàng gọi, tức mình nhưng không biết làm sao, đành hậm hực đáp: “Không hại thì thôi, có gì quan trọng đâu?”
Mọi người thấy Nam Hải Ngạc Thần không những tuân lời Đoàn Dự, mà nghe chàng gọi y là đồ đệ cũng không cãi lại, thì đều rất ngạc nhiên. Chỉ có bọn Chu Đan Thần là hiểu chuyện, không khỏi cười thầm.
Hư Trúc ngồi dưới đất, trong lòng suy nghĩ lung tung: “Sư phụ ta đã dạy, Phật tổ truyền lại ba phương pháp tu tập là Giới, Định, Tuệ. Trong kinh Lăng Nghiêm có nói: Nhiếp tâm là giới, từ giới sinh ra định, từ định chuyển thành tuệ. Bọn ta là người trần tục ngu độn, vì thế Đạt Ma tổ sư đã dạy cho những phương pháp học võ để nhiếp tâm, thế thì cũng có thể học đánh cờ để nhiếp tâm. Đấu võ tất có thắng bại, đấu cờ cũng có thắng bại, đều là chuyện trái ngược với thiên lý, nên bất luận học võ hay chơi cờ đều phải có tâm không phân biệt thắng bại. Những chuyện như tụng kinh, ăn uống, đi dạo, không có tâm thắng bại thì dễ, nhưng thí võ đấu cờ mà bỏ được tâm thắng bại thì khó vô cùng. Nếu trong lúc thí võ đấu cờ mà không có tâm thắng bại thì đã gần đạt đạo lắm rồi. Trong kinh Pháp Cú có nói: Thắng thì sinh thù oán, bại thì sinh tự ti, nếu không có tâm thắng bại thì tự nhiên thanh tịnh an ổn. May mà võ công của ta không giỏi, kỳ thuật lại thấp kém, khi cùng sư huynh đệ thí võ đấu cờ lúc nào cũng thắng ít bại nhiều, thường được sư phụ khen là vô sân vô oán, biết coi nhẹ chuyện hơn thua. Sao hôm nay ta mới thấy một nước cờ của Đoàn thí chủ đã sợ lão bị thua mà mở miệng chỉ điểm? Huống chi ta chẳng phải đệ nhất kỳ thủ, làm sao chỉ điểm người khác được? Nước cờ này của lão thì giống Mộ Dung công tử, nhưng biết đâu sau này lại biến hóa khác biệt, ta làm sao biết chắc mà khuyên ngăn? Thế là ta phạm vào điều tự cao tự mãn rồi.”
Đoàn Diên Khánh đi mỗi nước cờ lại phải suy nghĩ một lúc, càng về sau càng lâu, khi lão đi được hơn hai mươi nước thì mặt trời đã ngả về tây. Đột nhiên Huyền Nạn cất tiếng nói: “Đoàn thí chủ! Mười nước đầu thí chủ đi theo đường chính, nhưng từ nước thứ mười một trở đi lại rẽ sang đường tà, càng về sau càng sai lệch, không còn cách nào cứu vãn được nữa!” Vẻ mặt của Đoàn Diên Khánh cứ trơ trơ như xác chết, không để lộ tí cảm xúc nào, nhưng trong cổ họng phát ra thanh âm: “Phái Thiếu Lâm của đại sư là chính phái, vậy theo tôn ý thì có thể phá giải được thế Trân Lung này bằng đường chính đạo không?” Huyền Nạn thở dài nói: “Thế cờ này chính không phải chính, tà chẳng phải tà, dùng chính đạo phá không xong, mà theo tà đạo cũng không phá được!”
Đầu thiết trượng của Đoàn Diên Khánh dừng lại trên không, người lão run lên, nghĩ mãi không đi được. Hồi lâu lão lên tiếng: “Trước không có đường đi, sau đó quân truy sát. Đi đường chính không được, theo nẻo tà chẳng xong, thật là đau khổ!” Lão vốn thuộc chính tông họ Đoàn nước Đại Lý, nhưng về sau đi vào tà đạo, câu nói của Huyền Nạn vô tình khiến lão xúc động mãnh liệt. Hoàn cảnh lão cũng tương tự như Mộ Dung công tử, dần dần nhập vào ma chướng.
Thế cờ Trân Lung biến ảo trăm chiều, tùy theo bản ngã của con người mà thay đổi. Kẻ tham tài thì vì lòng tham mà sai lầm, người hay phẫn nộ thì lại vì nóng giận mà lỡ nước. Đoàn Dự thua cuộc là vì lòng nhân từ quá nặng biến thành nhu nhược, không nỡ thí quân. Mộ Dung Phục thất thủ là vì tham quyền vị bất chấp mọi thứ, nhất quyết không chịu lép vế, thí quân liều lĩnh. Còn nỗi hận suốt đời của Đoàn Diên Khánh là sau khi thành người tàn phế, không thể không bỏ võ học gia truyền chính tông, đành phải học pháp thuật bàng môn tả đạo. Mỗi khi lão phải để hết tâm trí vào việc gì thì ngoại ma xâm nhập khiến cho đầu óc hoang mang hỗn loạn.
Đinh Xuân Thu cười khẩy nói: “Đúng thế! Người ta lạc bước từ chính sang tà thì dễ, chứ cải tà qui chính thì khó vô cùng. Than ôi! Cuộc đời của ngươi hỏng rồi, hỏng rồi, thật là đáng tiếc! Lỡ bước thành thiên cổ hận, quay đầu trở lại không xong!” Lão nói mấy câu này đầy vẻ thương xót, nhưng Huyền Nạn cùng những tay cao thủ đều biết rõ Tinh Tú lão quái chẳng tử tế gì, nhân lúc cháy nhà mà cướp của, chỉ muốn Đoàn Diên Khánh tẩu hỏa nhập ma để trừ khử một đối thủ lợi hại.
Quả nhiên Đoàn Diên Khánh ngồi thừ mặt ra, nói bằng một giọng thê thảm: “Lão phu đang ở ngôi thái tử Đại Lý, thế mà nay lạc lõng giang hồ đến nỗi thân tàn ma dại, thật là xấu hổ với tiền nhân.”
Đinh Xuân Thu lại đổ thêm dầu vào lửa: “Các hạ chết xuống cứu tuyền cũng chẳng mặt mũi nào trông thấy tiền nhân họ Đoàn, nếu biết liêm sỉ thì tự tử cho rồi, cũng còn chút xíu anh hùng hào kiệt. Ôi! Các hạ tự tử đi thôi, tự tử đi thôi!” Lão nói bằng một âm điệu uyển chuyển khiến người nghe phải mềm lòng, người nào công lực tầm thường thì ắt phải mê man.
Đoàn Diên Khánh lẩm bẩm: “Ôi! Tự tử đi thôi!”. vừa nói vừa từ từ giơ thiết trượng lên điểm vào ngực mình. Nhưng công lực lão rất thâm hậu, còn ngấm ngầm kháng cự, tựa hồ trong thâm tâm lão có tiếng cãi lại: “Không được! Không được! Điểm mạnh vào thì hỏng bét!” Nhưng cây tả trượng cứ dần dần tiến vào từng tấc một.
Lúc này chung quanh Đoàn Diên Khánh có rất nhiều cao thủ, Huyền Nạn lấy đạo từ bi làm gốc, muốn cảnh tỉnh lão, nhưng công lực đã bị mất hết không làm gì được, mở miệng nhắc nhở đã vô ích mà còn tai hại thêm. Tô Tinh Hà vì lề luật của sư phụ mà không dám cứu viện, Mộ Dung Phục biết Đoàn Diên Khánh không phải là người tốt, nếu lão chết đi thì thiên hạ bớt được mối hại lớn, lại càng hay. Cưu Ma Trí là con người ưa gieo tai rắc họa, lão chỉ cười khẩy ngồi nhìn. Đoàn Dự cùng Du Thản Chi tuy công lực thâm hậu nhưng lại không hiểu gì chuyện trước mắt. Vương Ngữ Yên tuy biết nhiều những môn võ công các phái, song chẳng hiểu gì về bàng môn tả đạo. Diệp Nhị Nương nghĩ rằng Đoàn Diên Khánh đã đè đầu mình mấy chục năm, nhiều khi vô cớ cũng nóng giận quát tháo, bây giờ thấy lão sắp tự sát cũng không thèm ra tay tương trợ. Bọn Đặng Bách Xuyên, Khang Quảng Lăng đã mất hết công lực, mà cũng chẳng muốn dây vào chuyện giữa Tinh Tú Lão Quái với Đệ Nhất Ác Nhân làm gì.
Chỉ còn Nam Hải Ngạc Thần là sốt sắng. Lão thấy đầu trượng Đoàn Diên Khánh chỉ còn cách ngực vài tấc, nếu chần chừ giây lát để đầu gậy điểm vào tử huyệt là hết đời. Lão bèn la lên: “Lão đại! Hãy đón lấy nhà sư này!”, rồi xách Hư Trúc liệng tới trước mặt Đoàn Diên Khánh.
Đinh Xuân Thu la lên: “Cút đi! Đừng xen vào phá quấy!” rồi phóng chưởng ra. Nam Hải Ngạc Thần đã dùng hết sức để liệng Hư Trúc, nhưng vẫn bị phát chưởng ôn nhu của Đinh Xuân Thu hất ngược trở lại. Lão đưa hai tay đón lấy Hư Trúc, toan liệng tới Đoàn Diên Khánh lần nữa. Lão không ngờ chưởng lực của Đinh Xuân Thu hùng hậu vô cùng, chứa đựng đến ba luồng kình lực. Tay lão vừa nắm lấy Hư Trúc thì hai mắt lão trợn lên, loạng choạng lùi lại ba bước, vừa sắp đứng vững thì luồng kình lực thứ hai ùa đến khiến hai đầu gối lão nhũn ra, ngồi phệt xuống đất. Nam Hải Ngạc Thần đã tưởng đến đây là hết, không ngờ lại còn luồng kinh lực thứ ba ập tới khiến lão ngồi không vững, lại bị hất lộn ngược ra sau một vòng. Hư Trúc đang bị hai tay lão nắm lấy, lúc này lại bị lão đè lên người cơ hồ ngạt thở. Nam Hải Ngạc Thần vừa ngồi vững lại được, sợ Đinh lão quái còn luồng hậu kình thứ tư, liền nắm lấy Hư Trúc giơ lên đón đỡ. Nhưng mãi không thấy luồng kình lực thứ tư, Nam Hải Ngạc Thần bèn quắc mắt lên thóa mạ: “Con mẹ nó!”, rồi để Hư Trúc xuống đất.
Lúc Đinh Xuân Thu phân tâm phóng chưởng, áp lực thôi miên giảm xuống, cây trượng của Đoàn Diên Khánh tạm thời ngừng lại, chỉ còn cách ngực hai tấc. Đinh Xuân Thu lại nói: “Không kịp rồi! Không kịp rồi! Đoàn Diên Khánh, ngươi tự tử đi thôi, tự tử đi thôi, đừng chần chờ nữa!” Đoàn Diên Khánh nói: “Phải rồi! ta sống trên đời cũng chẳng ích gì, tự tử đi thôi!” Lão nói câu này thì đầu trượng lại từ từ đâm vào.
Hư Trúc nổi dạ từ bi, chỉ mong cứu mạng người. Y biết muốn giải trừ ma chướng ám ảnh Đoàn Diên Khánh thì phải bắt đầu từ cuộc cờ này, nhưng kỳ nghệ của mình thô thiển, thật không dám nghĩ tới chuyện giải phá thế Trân Lung cực kỳ phức tạp. Y thấy hai mắt Đoàn Diên Khánh trơ ra nhìn vào cuộc cờ, nguy cơ trong khoảnh khắc, đột nhiên trong lòng chợt động, nghĩ thầm: “Ta không phá được thế cờ thì cũng phải đi loạn lên một lúc để cho lão phân tâm, tỉnh lại là sống được.” Hư Trúc liền nói: “Vãn bối lại phá thế cờ đây!” Y lại bên Tô Tinh Hà, thò tay vào hộp lấy một quân cờ trắng, nhắm mắt đặt xuống bàn rồi cười ha hả.
Hư Trúc chưa mở mắt ra đã nghe Tô Tinh Hà giận dữ quát lên: “Bậy bạ! Ngươi chỉ vào đây phá quấy! Làm gì có lối chơi cờ tự sát kiểu này?” Y mở mắt ra, không khỏi tự thẹn, mặt đỏ bừng lên,.
Thì ra y nhắm mắt hạ cờ lại đúng vào chỗ quân đen đang bao vây, bên cờ trắng chỉ còn duy nhất một điểm đó để làm chỗ thở. Phép đánh cờ vây là phải tranh giành đất sống, thế mà Hư Trúc lại tự đặt quân trắng xuống để chẹn họng không khác gì tự sát. Bên cờ đen lại sắp được đi một quân nữa, thắng bại đã rõ ràng.
Bọn Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Đoàn Dự đều nổi lên cười ha hả. Huyền Nạn thì lắc đầu quầy quậy. Phạm Bách Linh tuy đang suy nhược cũng không nhịn được, reo lên: “Nước đi thế này thì không cười sao được?”
Tô Tinh Hà nói: “Tiên sư của lão phu đã có di mệnh: Thế Trân Lung này bất luận là ai cũng có thể tham gia phá giải. Nước đi của tiểu sự phụ tuy khác với lề lối thông thường, nhưng vẫn là một nước cờ không phạm luật.” Lão vừa nói vừa nhặt những quân cờ trắng mà Hư Trúc đã tự giết đem bỏ ra ngoài, rồi lại đi một quân đen xuống.
Đoàn Diên Khánh la lên một tiếng thật to, rồi như người đang mơ mộng choàng tỉnh giấc. Lão đưa mắt nhìn Đinh Xuân Thu nói: “Tinh Tú Lão Quái! Người thừa lúc ta gặp nguy mà ngầm thi độc kế. Việc này không thể bỏ qua được.”
Đinh Xuân Thu quay lại nhìn Hư Trúc bằng con mắt đầy căm tức, mắng thầm: “Thằng trọc con chết đâm này!”.
Đoàn Diên Khánh nhìn thế cờ thấy đã có biến hóa, lão tự biết mình sống sót là nhờ Hư Trúc cứu viện, trong lòng đâm ra có thiện cảm. Lão nghĩ thế nào Đinh Xuân Thu cũng hằn học báo thù Hư Trúc, bèn lặng lẽ ngồi bên để chiếu cố cho nhà sư. Lão nghĩ thầm: “Cao tăng Huyền Nạn có mặt tại đây, chắc Tinh Tú Lão Quái cũng không làm gì nổi môn hạ phái Thiếu Lâm. Nhưng giả tỉ Huyền Nạn cũng bị hôn mê không che chở được thì ta phải ra tay cứu viện, không thể để y uổng mạng vì ta.”
Bỗng nghe Tô Tinh Hà quay lại hỏi Hư Trúc “Tiểu sư phụ! Tiếu sư phụ đã tự giết một đám quân cờ của mình, bây giờ bên đen lại áp bức thêm một bước nữa, đối phó thế nào đây?” Hư Trúc mỉm cười đáp: “Tiểu tăng chơi cờ rất kém, chỉ đi bừa một nước cốt để cứu người. Bây giờ tiểu tăng không biết đi thế nào nữa, xin lão tiền bối lượng thứ cho.”
Tô Tinh Hà sa sầm nét mặt nói: “Tiên sư ta bày ra thế Trân Lung này để mời cao thủ khắp thiên hạ đến phá giải, phá giải không được cũng không sao, ai lỡ mang họa vào thân là lỗi tự mình. Ngươi đến đây phá quấy là khinh mạn tiên sư. Bất kể phái Thiếu Lâm nhà ngươi người nhiều thế mạnh đến đâu, lão phu tuy vừa câm vừa điếc cũng liều chết để bảo vệ danh dự tiên sư.” Lão đang cãi nhau mà tự xưng là vừa câm vừa điếc nghe thật buồn cười, nhưng râu lão đang vểnh lên, thanh âm sát phạt như lệnh vỡ, vẻ mặt cực kỳ hung dữ, nên chẳng ai dám cười ra tiếng. Hư Trúc chắp tay trước ngực thi lễ nói: “Lão tiền bối…”
Tô Tinh Hà quát lớn: “Hạ quân xuống đi, nói nhiều vô ích! Tâm huyết của tiên sư không thể để người khác đến giỡn chơi được.” Lão vung tay phải phóng ra một chưởng đánh “sầm” một tiếng, cát bụi bay mù, trước mặt Hư Trúc xuất hiện một cái hố sâu đến mấy thước. Chưởng lực mãnh liệt phi thường, nếu lão đánh nhích lên một thước thì xương cốt Hư Trúc sẽ nát ra như cám.
Hư Trúc sợ quá, trống ngực đập thình thình, giương mắt nhìn Huyền Nạn, chỉ còn biết mong sư bá tổ cứu nguy. Huyền Nạn chơi cờ chẳng giỏi gì, võ công lại mất hết, tuyệt chẳng có cách nào cứu được y. Lão tăng đã toan muối mặt năn nỉ Tô Tinh Hà, bỗng thấy Hư Trúc thò tay vào hộp lấy ra một con cờ trắng đặt xuống bàn, vào khoảng trống phía sau những con cờ trắng đã bị bắt.
Con cờ này đi rất đúng phép tắc. Suốt ba mươi năm trời Tô Tinh Hà đã nghiên cứu thế Trân Lung này rất kỹ, từng đặt ra hàng ngàn hàng vạn thế biến, nên bất cứ diễn biến ra sao, hậu quả đến đâu, lão thuộc lòng hết. Nhưng lão chưa bao giờ nghĩ tới nước cờ tự sát kỳ cục như của Hư Trúc vừa rồi. Dù là người mới học đánh cờ cũng không đi ngớ ngẩn đến thế, chẳng khác gì người học võ cầm kiếm đâm vào cổ mình. Thế mà không ngờ bên trắng tự sát cả một đám quân rồi cục diện biến thành sáng sủa hơn. Bên đen dĩ nhiên vẫn có ưu thế, nhưng bên trắng cũng rộng đường xoay xở không giống như trước, giữ được chỗ nọ bỏ mất chỗ kia. Cục diện quái lạ này thì Tô Tinh Hà có nằm mơ cũng không thấy. Nét mặt đầy vẻ kinh ngạc, lão suy tính hồi lâu mới hạ một quân cờ đen xuống.
Thì ra lúc Hư Trúc thấy Tô Tinh Hà phóng chưởng dọa mà sư bá tổ chẳng nói chẳng rằng, y đang luống cuống, bỗng một thanh âm nhỏ xíu lọt vào tai: “Đặt cờ xuống điểm tam cửu ở vị bình (góc dưới trái).” Hư Trúc chẳng hiểu ai mách nước, cũng chẳng biết là đúng hay sai, cứ cầm quân cờ trắng đặt xuống điểm tam cửu ở vị bình. Tô Tinh Hà hạ cờ đen rồi, thanh âm nhỏ nhẹ lại lọt vào tai Hư Trúc: “Điểm nhị bát ở vị bình.” Hư Trúc lại đặt cờ theo đúng lời mách bảo.
Quân cờ này vừa đặt xuống, bọn Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Đoàn Dự đều reo lên một tiếng kinh ngạc: “Úi chà!” Hư Trúc ngẩng đầu lên thì thấy người nào cũng ra chiều khâm phục mình, biết ngay đó là một nước cờ tuyệt diệu. Chính Tô Tinh Hà cũng tỏ vẻ vừa hoan hỉ vừa lo lắng. Cặp lông mày của lão nhíu lại.
Hư Trúc sinh nghi tự hỏi: “Sao lão lại có vẻ thích thú? Hay là ta đi nước này sai mất rồi?” Nhưng rồi y lại nghĩ: “Bất luận ta đi trúng hay trật, thì cũng ráng đánh thêm mười nước nữa, để tỏ ra không phải ta cố ý phá quấy làm nhục tiên sư lão, thì lão không trách mình vào đâu được nữa.” Tô Tinh Hà ngẫm nghĩ hồi lâu mới đặt con cờ đen xuống, Hư Trúc lại nghe thanh âm mách bảo, liền tuân theo mà hạ quân cờ trắng, vừa đi cờ vừa để ý quan sát sư bá tổ xem có phải người đã ngấm ngầm giúp mình không. Nhưng y thấy Huyền Nạn thủy chung vẫn không mở miệng, sắc mặt vẫn bồn chồn.
Thanh âm lọt vào tai Hư Trúc rõ ràng là phép Truyền Âm Nhập Mật của người có võ công thượng thừa, muốn nói với ai thì chỉ mình người đó nghe thấy, còn người khác tuy ngồi ngay bên cạnh cũng không nghe được. Nhưng bất luận là nói to hay nói nhỏ thì cũng phải có mở miệng nói, nhưng Hư Trúc chủ ý mãi vẫn chẳng thấy ai máy môi. Y vẫn nghe tiếng mách nước: “Điểm ngũ lục ở vị khứ”, liền tuân theo rồi tự nhủ: “Chắc là sư bá tổ rồi. Ngoài sư bá tổ ra, chẳng ai quen biết ta từ trước, thì họ giúp ta để làm gì? Mà chỉ có mình sư bá tổ là chưa nhập cuộc, còn ai nấy đều đã thất bại hết. Sư bá tổ mình thần công thật là phi thường, thi triển phép Truyền Âm Nhập Mật mà không cần mở miệng máy môi. Không biết đến bao giờ mình mới luyện được đến mức này.”
Hư Trúc không biết rằng người mách cho mình chính là Thiên hạ đệ nhất ác nhân Ác quán mãn doanh Đoàn Diên Khánh. Vừa rồi lão vì mải mê nghĩ thế cờ nên bị Đinh Xuân Thu giở trò làm rối loạn tâm thần suýt nữa tự sát, may nhờ Hư Trúc đi ẩu một nước mới cứu được mạng lão. Đoàn Diên Khánh thấy Tô Tinh Hà trách mắng Hư Trúc, bèn ngấm ngầm nhắc cho để kéo dài thêm mấy nước, đặng y có đường rút lui. Lão vốn giỏi thuật nói tiếng bụng, nói năng không cần máy miệng, lại dùng nội công thâm hậu để thi triển phép Truyền Âm Nhập Mật khiến hết thảy cao thủ bên cạnh đều không phát giác được.
Thế Trân Lung đã biến đổi rất nhiều, thì ra chỗ bí mật là bên trắng phải tự giết đi một số lớn quân mới có chỗ mà đi tiếp những nước kỳ diệu. Có điều dù là những kỳ thủ siêu việt cũng chưa ai dám nghĩ tới việc phải tự sát như vậy. Số quân trắng bị vây hãm quá nghiêm trọng, ngàn người như một đều phải cố gắng tìm cách thoát vây để xông ra, chẳng ai nghĩ đến việc đi vào tử lộ. Giả tỉ Hư Trúc không nhắm mắt hạ bừa một quân cờ thì e rằng đến ngàn năm sau cũng không một ai phá nổi thế Trân Lung đó.
Đoàn Diên Khánh vốn là một kỳ thủ đệ nhất thiên hạ, năm trước Huỳnh Mi Tăng ở nước Đại Lý thi đấu với lão bị thua xiểng liểng. Nhưng cuộc cờ ngày đó là hai bên đặt quân cờ xuống dần dần, không giống như thế cờ lần này, quân trắng chỗ nào cũng bị vây hãm.
Bọn Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Đoàn Dự không biết Đoàn Diên Khánh ngấm ngầm mách nước, chỉ thấy Hư Trúc đi những nước tuyệt diệu ăn luôn hai đám quân đen thì không nhịn được, reo lên khen ngợi.
Huyền Nạn lẩm bẩm: “Cuộc cờ này vốn dĩ ở trong tình trạng được mất thắng bại không rõ ràng, cho nên không có cách phá giải. Nước cờ của Hư Trúc đã hạ đúng chỗ sinh tử, lại không quan trọng chuyện thắng thua, nên mới phá giải được thế Trân Lung sinh tử này.” Lão tăng nhân đó tựa hồ như giác ngộ, nhớ lại suốt cuộc đời mình đắm chìm trong võ học, đối với công phu thiền định có bề khiếm khuyết. Huyền Nạn đột nhiên nghĩ thầm: “Ta vẫn chê cười Lung Á tiên sinh và Hàm Cốc bát hữu đi vào đường lệch, ôm đồm tạp học nên võ công không bằng Đinh Xuân Thu. Nhưng suốt đời ta chuyên luyện võ công, không chịu khó tham thiền, không gấp rút chứng nghiệm sinh tử, chẳng lẽ không phải đi vào đường lệch hay sao?” Nghĩ đến đây, cả người lão tăng toát mồ hôi đầm đìa.
Ban đầu Đoàn Dự còn chú ý đến cuộc cờ, về sau chỉ nhìn Vương Ngữ Yên chằm chặp, càng nhìn càng đau lòng vì Vương Ngữ Yên thủy chung chỉ để ý đến Mộ Dung Phục. Đoàn Dự than thầm: “Về đi thôi! Nếu còn ngồi nữa chỉ rước đau khổ vào mình, không chừng hộc máu ra mất.” Nhưng chàng than thì than vậy, vẫn không dứt khỏi Vương Ngữ Yên mà đi được. Chàng lẩm bẩm: “Ta phải đợi đến khi Vương cô nương quay lại để nói một câu: “Vương cô nương! Cô nương đã tìm thấy biểu huynh rồi, tại hạ cáo từ.” Nếu nàng nói: “Vâng, công tử cứ tùy tiện” thì ta sẽ ra đi. Nếu nàng nói: “Khoan đã, ta còn có chuyện muốn nói với công tử” thì ta phải đợi xem nàng dặn dò gì.
Thực ra Đoàn Dự cũng biết Vương Ngữ Yên chẳng thèm quay lại nhìn chàng một cái, thì làm gì còn có chuyện muốn nói với chàng? Đột nhiên, mớ tóc mềm mại sau gáy Vương Ngữ Yên hơi động đậy, trống ngực Đoàn Dự đập thình thình, Chàng lẩm bẩm: “Nàng sắp quay lại rồi!” Nhưng chỉ nghe thấy Vương Ngữ Yên thở dài, khẽ gọi: “Biểu huynh!”
Mộ Dung Phục chú ý nhìn bàn cờ, thấy bên trắng đã có vẻ thắng thế, dần dần dồn bên đen vào thế bí. Y lẩm bẩm: “Mấy nước sau này, ta cũng có thể nghĩ ra. Nhưng vạn sự khởi đầu nan, nước cờ đầu tiên thật là cổ quái, ta nghĩ đến suốt đời cũng không ra được.” Vương Ngữ Yên khẽ gọi, y không hề nghe thấy.
Vương Ngữ Yên lại thở dài, từ từ ngoảnh đầu lại. Đoàn Dự thấy vậy, tim đập loạn lên, kêu thầm: “Nàng quay đầu lại! Nàng quay đầu lại!” Quả nhiên khuôn mặt mỹ lệ của Vương Ngữ Yên quay lại. Đoàn Dự thấy mặt nàng thoáng gợn nỗi sầu, khóe mắt tựa hồ có vẻ oán hờn. Lúc nàng đến cùng Mộ Dung Phục thì hoan hỉ vô cùng, sao đột nhiên lại mất cả hứng thú? Đoàn Dự còn đang ngẫm nghĩ, bỗng thấy Vương Ngữ Yên đảo mắt nhìn sang, chạm vào ánh mắt của chàng. Đoàn Dự tiến lên một bước toan hỏi: “Vương cô nương! Cô nương muốn bảo tại hạ điều gì?” Nhưng Vương Ngữ Yên lại từ từ đưa mắt qua phía khác, lơ đãng nhìn xa xa một hồi, lại quay nhìn Mộ Dung Phục.
Trái tim Đoàn Dự chùng hẳn xuống, đau buồn không nói hết! Chàng tự nhủ: “Nàng không phải là không ngó tới ta, nhưng thà nàng không ngó còn hơn. Nàng nhìn ta mà dường như không thấy. Thủy chung tâm trí nàng vẫn để ý vào biểu huynh, có nghĩ gì đến Đoàn Dự đâu? Hỡi ôi! về đi thôi, về đi thôi!”
Bên này Hư Trúc vẫn nghe Đoàn Diên Khánh chỉ điểm để đi cờ. Cuộc cờ đã gần đến lúc kết thúc, bất luận bên đen đối phó cách nào cũng không bảo toàn được quân số, còn nếu muốn trốn thì bên trắng lại xông ra khỏi vòng vây, thật khó mà gắng gượng nữa.
Tô Tinh Hà ngẫm nghĩ hồi lâu rồi cười hì hì, đi một nước nữa. Đoàn Diên Khánh lại truyền âm nói: “Điểm thất bát ở góc trên bên trái.” Hư Trúc hạ cờ xuống đúng vào điểm đó. Tuy y chơi cờ rất kém, nhưng cũng hiểu rằng như vậy là phá xong, liền vỗ tay cười nói: “Như vậy đã xong chưa?”.
Tô Tinh Hà hoan hỉ chắp tay nói: “Tiểu thần tăng tài năng thiên phú, thật là đáng mừng!” Hư Trúc vội đáp lễ nói: “Không dám! Không dám! Không phải tiểu tăng…” Nhà sư toan nói mình được sư bá tổ chỉ điểm thì tiếng Truyền Âm Nhập Mật lại vào tai: “Bí mật này phải giữ thật kín, nhất định không được tiết lộ. Nguy hiểm chưa hết đâu, ngươi phải cẩn thận lắm mới được.” Hư Trúc tưởng là Huyền Nạn chỉ đạo cho mình, liền cúi đầu đáp: “Vâng, vâng!”
Tô Tinh Hà đứng lên nói: “Tiên sư bày ra thế cờ này đã mấy chục năm không ai phá được, tiểu thần tăng nay đã phá xong, lão phu cảm phục vô cùng!” Hư Trúc không hiểu nguyên do thế nào, chỉ khiêm tốn nói: “Tiểu tăng đi bừa may mà gặp nước, hoàn toàn nhờ các vị tiền bối thương yêu. Lão tiền bối quá khen, khiến tiểu tăng hổ thẹn vô cùng.”
Tô Tinh Hà đi tới trước ba gian nhà gỗ, giơ tay mời khách: “Xin mời tiểu thần tăng tiến vào.” Hư Trúc thấy ba gian nhà gỗ này thiết kế thật là cổ quái, không có cửa nẻo gì hết, y không biết vào lối nào và vào để làm gì? Hư Trúc đứng ngây người ra, bỗng nghe tiếng truyền âm lại lọt vào tai: “Thế cờ không có lối thoát, phải phá một đường trí mạng để thoát. Căn nhà gỗ này không có cửa, ngươi phải dùng võ công Thiếu Lâm phá ra mà vào.” Hư Trúc liền nói: “Tiểu tăng vô lễ!”, rồi đứng thành cung tiễn bộ chân trước chân sau, giơ tay phải lên đánh một chưởng vào ván gỗ.
Chưởng lực của y rất tầm thường, tới mức Tô Tinh Hà phải tưởng nội công của y đã bị Đinh Xuân Thu hóa giải mất. May mà ván gỗ không chắc chắn gì, Hư Trúc cũng đánh nứt ra được một khe. Y phải đánh thêm hai chưởng nữa mới phá được tấm ván ra, bàn tay đã thấy ngâm ngẩm đau.
Nam Hải Ngạc Thần cười ha hả nói: “Võ công tuyệt học phái Thiếu Lâm sao lại tầm thường đến thế?” Hư Trúc quay mặt lại đáp: “Tiểu tăng là đồ đệ hạng bét trong phái Thiếu Lâm, nên bản lĩnh chẳng ra gì, đó không phải là tuyệt học bản môn.” Y bỗng nghe tiếng truyền âm nói: “Ngươi vào ngay đi, nhớ đừng quay đầu lại, cũng đừng tranh luận với ai.” Hư Trúc nói: “Vâng!” rồi cất bước tiến vào.
Bỗng nhiên Đinh Xuân Thu lên tiếng gọi: “Đó là cửa nẻo của phái ta, sao tiểu hòa thượng kia dám tự tiện đi vào?”, tiếp theo vang lên hai tiếng ầm ầm. Hư Trúc cảm thấy một luồng kình phong kéo mình trở ra, rồi lại thấy hai đạo kình lực khác đẩy tới sau lưng. Nhà sư không tự chủ được, lăn vào trong nhà.
Vừa rồi Đinh Xuân Thu ngấm ngầm tập kích định đánh chết Hư Trúc, còn Cưu Ma Trí thi triển Khống Hạc Công muốn kéo y ra. Nhưng Đoàn Diên Khánh vận ám kình vào đầu gậy, tiêu trừ chưởng lực của Đinh Xuân Thu, Tô Tinh Hà ở gần Cưu Ma Trí liền phóng luôn hai chưởng để giải khai Khống Hạc Công, đẩy Hư Trúc vào.
Hai phát chướng này mạnh quá, Hư Trúc đứng không vững bị hất ra sau, trán y đập đánh binh một tiếng vào một tấm ván khác, tối tăm mặt mũi suýt ngất đi, một lát mới đứng vững được. Nhà sư sờ lên trán đã thấy một cục u, định thần nhìn lại thì thấy mình đang đứng trong một căn nhà trống rỗng không có đồ đạc gì, cũng chẳng có cửa nẻo chi hết, chỉ có một lỗ thủng trên ván do mình vừa phá vỡ ra để vào. Y đứng thộn mặt ra, nhìn quanh quẩn một hồi, lại muốn chui qua lỗ trống ra ngoài.
Hư Trúc vừa xoay mình thì nghe bên kia tấm ván phía sau có thanh âm già nua cất tiếng hỏi: “Ngươi đã vào đây, sao lại muốn ra?” Hư Trúc vội quay lại nói: “Xin tiền bối chỉ bảo cho đường lối.” Thanh âm đó lại nói: “Đường lối là do tự ngươi tìm ra, không ai chỉ bảo được. Thế cờ ta bày ra đã ba mươi năm không ai phá nổi, thế mà hôm nay ngươi đã tìm ra đường lối rồi. Sao còn không lại đây?”
Hư Trúc nghe đến bốn chữ “thế cờ ta bày” bất giác sởn gai ốc, kinh hãi nói: “Tiền bối… Tiền bối…” Lúc nãy Tô Tinh Hà nhắc đi nhắc lại thế cờ đó do tiên sư lão bày ra, thế thì thanh âm này là của người hay của ma? Bỗng nghe tiếng người già đáp lại: “Thời cơ đã đến, không nắm bắt lấy thì sẽ trôi qua! Ta chờ đây đã ba mươi năm, không thể chờ lâu hơn được nữa. Chú nhỏ kia, lại đây mau!”
Hư Trúc nghe thanh âm có vẻ ôn hòa từ ái, liền không nghĩ gì nữa, kê vai vào tấm vách đẩy mạnh. Vách gỗ đã mục nát, liền bể ra một chỗ. Hư Trúc thò đầu nhìn vào trong, cũng chỉ thấy một căn phòng trống rỗng. Y nhìn lại bất giác giật mình, thấy một người lơ lửng trên không. Nhà sư ngỡ là ma quỷ, sợ quá toan xoay mình chạy trốn, thì lại nghe người đó nói: “Ôi! Thì ra là một tiểu hòa thượng. Ôi! Lại là một tiểu hòa thượng mặt mũi xấu xa nữa. Trời ơi! Khó quá, khó quá, khó quá…”
Hư Trúc nghe lão thở dài ba tiếng, kêu “khó quá” sáu lần. Y định thần nhìn kỹ mới thấy lão bị treo lên xà nhà bằng một sợi dây đen. Vì vách ván phía sau lão cũng màu đen, tiệp màu với sợi dây nên nhìn thoáng qua thì không thấy sợi dây, cứ tưởng là lão tự lơ lửng trên không.
Tướng mạo Hư Trúc quả thật rất xấu xa: mày rậm, mắt to, mũi hếch lên trời, hai tai vểnh ra đón gió, môi dài như môi lợn. Vừa rồi trán y đập vào vách ván sưng lên một cục, lại càng khó coi. Hư Trúc bị bỏ rơi từ thuở nhỏ, được một nhà sư chùa Thiếu Lâm lòng dạ từ bi nhặt về chùa nuôi. Các nhà sư chùa Thiếu Lâm lúc không chuyên tâm tu hành thì lại lo luyện võ công, chẳng ai để ý tướng mạo Hư Trúc đẹp hay xấu làm gì. Nhà Phật đã dạy: Thể xác con người chỉ là một cái túi da dơ dáy, đẹp hay xấu cũng chẳng có gì đáng bận lòng, ai để ý đến cái túi da này nhiều tức là bị tà ma cám dỗ.
Hư Trúc ngẩng đầu lên nhìn kỹ lão già thì thấy râu lão dài tới ba thước mà sợi nào cũng đen nhánh, tuyệt không lẫn một sợi bạc. Mặt lão đẹp như ngọc, da dẻ mịn màng không có một nếp nhăn. Tuy lão đã già mà vẻ mặt vẫn tươi tắn, phong độ nhàn nhã. Hư Trúc ngắm nghía xong, trong bụng thấy hổ thẹn nghĩ thầm: “Về tướng mạo thì mình so với lão quả là một trời một vực.” Bây giờ nhà sư đã hết sợ hãi, cúi mình thi lễ nói: “Tiểu tăng là Hư Trúc xin bái kiến lão tiền bối!”
Lão kia gật đầu hỏi: “Tên họ ngươi là gì?” Hư Trúc sững sờ đáp: “Tiếu tăng đã xuất gia, không cần biết đến tên họ nữa.” Lão kia hỏi lại: “Trước khi xuất gia, tên họ ngươi là gì?”. Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng xuất gia từ nhỏ, thật sự không rõ tên họ.”
Lão kia nhìn Hư Trúc rồi thở dài nói: “Ngươi đã phá được thế cờ của ta thì tài trí không phải tầm thường. Nhưng tướng mạo ngươi xấu thế thì không được rồi! Khó quá, trời ơi, thật là khó quá! Thế này thì uổng công của ta rồi, mà lại uổng cả tính mạng của ngươi nữa. Nhà sư nhỏ tuổi kia! Ta cho một chút lễ vật để nhà sư mang về thôi!”
Hư Trúc nghe lão nói đi nói lại câu “khó quá” thì hào khí nổi lên, liền nói: “Tiểu tăng chơi cờ còn kém lắm, thế cờ của lão tiền bối cũng không phải tiểu tăng tự mình phá được. Nhưng lão tiền bối có việc gì khó khăn cần phải giải quyết, thì dù tiểu tăng bản lĩnh hèn kém cũng cố gắng mà làm. Còn lão tiền bối ban cho lễ vật thì tiểu tăng không dám nhận.”
Lão già nói: “Ngươi có lòng dạ hào hiệp như vậy thì tốt lắm, dù kỳ thuật nông cạn hay võ nghệ hèn kém cũng chẳng can gì. Ngươi đã vào tới đây tức là có tiền duyên với ta. Có điều tướng mạo ngươi… khó coi quá.”
Hư Trúc mỉm cười nói: “Tướng mạo xấu hay đẹp là tại trời sinh, chẳng những mình không tự chủ, mà cả song thân cũng không thể can thiệp vào được. Tiểu tăng xấu xí làm phiền lòng tiền bối, thì xin cáo từ vậy.” Nói xong y lùi lại hai bước.
Hư Trúc toan quay lưng đi thì lão già nói: “Khoan đã!”, rồi phất nhẹ tay áo một cái vào vai phải y. Tay áo là vật mềm mại, thế mà đè lên vai Hư Trúc khiến người y phải dần dần hạ thấp xuống. Lão già cười nói: “Ngươi còn trẻ mà đã cao ngạo như vậy là hay lắm!” Hư Trúc nói: “Tiểu tăng thực không dám kiêu ngạo, chỉ vì sợ tiền bối phiền lòng nên xin rút lui là hơn.”
Lão già gật đầu, hỏi: “Hôm nay còn có ai đến phá thế cờ nữa không?” Hư Trúc kể hết mọi người, lão già trầm ngâm một lúc rồi nói: “Thế thì cao thủ thiên hạ mười phần có đến sáu bảy tụ tập ở đây rồi. Không hiểu Khô Vinh đại sư chùa Thiên Long nước Đại Lý có đến không?” Hư Trúc đáp: “Trừ sư sãi tệ tự, không thấy một vị tăng lữ nào khác.”
Lão già thở dài lẩm bẩm một mình: “Ta đã chờ mấy mươi năm, dù có chờ thêm nữa cũng chưa chắc gặp được người tốt đẹp cả bề trong lẫn bề ngoài. Việc đời nhiều phần không được như ý thì cũng đành chịu chứ biết làm sao?” Dường như lão già đã quyết định, chỉ hỏi thêm: “Ngươi nói thế cờ này không phải tự ngươi phá giải được ư? Thế thì sao Tô Tinh Hà lại đưa ngươi vào đây?”
Hư Trúc đáp: “Con cờ đầu tiên là tiểu tăng nhắm mắt đặt liều xuống. Còn những nước về sau thì tiểu tăng được sư bá tổ là Huyền Nạn đại sư dùng thuật Truyền Âm Nhập Mật ngấm ngầm chỉ điểm cho.” Rồi nhà sư đem tình hình phá giải thế nào kể hết một lượt. Lão già nói: “Quả là ý trời! Quả là ý trời!”
Đột nhiên nét mặt của lão tươi tỉnh lên, rồi cười nói: “Đó là ý trời muốn vậy, nên người mới nhắm mắt đặt liều mà đúng vào chỗ phá được thế cờ của ta. Thế thì phúc duyên ngươi rất thâm hậu, có thể làm được việc lớn cho ta cũng chưa biết chừng. Hay lắm! Hay lắm! Hài tử, ngươi quỳ xuống lạy ta đi.”
Ở chùa Thiếu Lâm, Hư Trúc gọi những người lớn tuổi đều là sư phụ, sư bá, sư thúc, thậm chí là sư bá tổ, sư thúc tổ. Còn người ngang hàng, thì hoặc là hơn tuổi hoặc là bản lĩnh cao hơn, y đều phải gọi bằng sư huynh, vì thế mà tính khí đã quen phục tùng từ thuở nhỏ. Bây giờ y chưa hiểu chuyện gì, nhưng nghĩ rằng lão này là một bậc tiền bối trong võ lâm, thì có dập đầu lạy mấy lạy cũng là lẽ thường. Hư Trúc nghĩ vậy nên chẳng đắn đo gì nữa, quỳ hai chân xuống rồi dập đầu binh binh lạy luôn bốn lạy. Nhà sư toan đứng lên thì lão già cười nói: “Ngươi phải lạy thêm năm lạy nữa mới đủ, đó là lề luật của bản phái.” Hư Trúc chỉ “vâng” một tiếng rồi lại thêm năm lạy nữa.
Lão già khen: “Hảo hài tử Ngươi lại đây!” Hư Trúc đứng dậy, tiến đến trước mặt lão già.
Lão già nắm lấy cổ tay y, ngắm nghía thân hình một lát. Đột nhiên Hư Trúc cảm thấy mạch môn nóng ran, một luồng nội lực xông vào tâm mạch y, nội công của phái Thiếu Lâm liền theo phản xạ nổi lên chống lại, nội lực lão già vừa đụng phải liền rút về ngay. Hư Trúc không thấy khó chịu gì hết, biết lão chỉ muốn xem nội lực mình nhiều ít ra sao. Bất giác y then đỏ mặt, gượng cười nói: “Ngày thường tiểu tăng chỉ chuyên đọc kinh Phật, lúc còn nhỏ tính ưa đùa giỡn nên không để ý đến việc rèn luyện nội công, đến nỗi tiền bối phải chê cười.”
Không ngờ lão già lại hoan hỉ cười nói: “Hay lắm! Ngươi luyện nội công Thiếu Lâm càng ít, ta lại càng đỡ tốn công.” Lúc lão nói như vậy, Hư Trúc cảm thấy toàn thân mềm nhũn, tưởng chừng như đang ngồi trong một bồn nước nóng. Từ những lỗ chân lông dường như tiết ra một luồng nhiệt khí, y cảm thấy dễ chịu vô cùng.
Sau một lúc, lão già buông cổ tay Hư Trúc ra cười nói: “Xong rồi! Ta đã dùng Hóa Công Đại Pháp của bản môn trừ bỏ hết nội lực của phái Thiếu Lâm trong mình ngươi.”
Hư Trúc cả kinh la lên: “Tiền bối… nói sao? …”Y nhảy lên một cái, lúc hai chân vừa chấm đất, đầu gối liền nhũn ra ngồi phệt xuống đất. Y cảm thấy toàn thân không còn chút khí lực nào, đầu óc hôn mê, tưởng chừng như trời đất quay cuồng. Y biết rằng lão nói vậy là chuyện thực, bất giác nước mắt tuôn rơi, vừa khóc vừa nói: “Tiểu tăng… cùng tiền bối… đã không thù oán lại không đắc tội gì. Sao tiền bối lại hại tiểu tăng đến thế này?”
Lão kia cười nói: “Sao ngươi ăn nói kỳ quặc thế? Ngươi không kêu ta bằng sư phụ, tự xưng là đệ tử, mà lại kêu ta bằng tiền bối rồi tự xưng là tiểu tăng, thì còn ra thể thống gì nữa?” Hư Trúc cả kinh nói: “Sao? Tiền bối có phải là sư phụ tiểu tăng đâu?” Lão kia đáp: “Ngươi vừa dập đầu lạy ta chín lạy, đó chính là nghi lễ bái sư.” Hư Trúc vội đáp: “Không! không! Tiểu tăng là đệ tử phái Thiếu Lâm, không thể thờ người khác làm thầy. Tiền bối lại có tà thuật hại người, tiểu tăng nhất quyết không học.”
Lão kia cười hỏi: “Có thực ngươi không học chăng?” Nói xong lão phất hai tay áo để lên vai Hư Trúc, Hư Trúc tưởng chừng như vai mình có một hòn núi nhỏ đè lên, y không đứng vững được nữa, hai chân nhũn ra, ngồi phệt xuống đất. Nhưng miệng y vẫn không ngớt la: “Tiền bối có đánh chết thì tiểu tăng cũng không học.”
Lão kia cười ha hả, đột nhiên tung người lên lộn nửa vòng, đè đúng lên người Hư Trúc, chiếc khăn đội trên đầu lão rơi vào góc nhà. Chân trái lão móc vào xà nhà, lộn ngược đầu xuống đặt trên đỉnh đầu nhà sư.
Hư Trúc cả kinh hỏi: “Tiền bối… làm cái gì thế?”, rồi cố đảo người để gỡ đầu mình ra. Nhưng đầu lão kia đã dính chặt vào đầu y, tựa như có dán keo. Đầu Hư Trúc đảo sang trái thì người lão cũng xiêu qua trái, Hư Trúc đảo qua phải thì người lão lại xiêu qua phải. Người lão cứ thế mà đu đưa tựa như cây liễu trước gió.
Hư Trúc kinh ngạc vô cùng, đưa hai tay lên cố lôi kéo người lão xuống. Nhưng nhà sư cảm thấy tay mình mềm xèo không còn chút khí lực nào, thì bồn chồn nghĩ thầm: “Mình trúng phải tà thuật Hóa Công Đại Pháp, võ công đã mất hết mà cũng không còn đủ sức để mặc áo nhai cơm nữa. Từ đây mình sẽ thành người tàn tật, biết làm thế nào đây? Đột nhiên Hư Trúc thấy huyệt Bách Hội trên đỉnh đầu bị những tia nhiệt khí xông vào trong óc. Nhà sư kêu thầm: “Nguy rồi! Đời ta đến đây là hết!”, cảm thấy đầu óc mỗi lúc mỗi nóng thêm, rồi chỉ trong chốc lát là mắt hoa đầu váng, tưởng chừng như đầu mình sắp vỡ tung. Luồng nhiệt khí này lại từ trên đầu chạy xuống thân thể, chỉ trong khoảnh khắc, y không chịu nổi nữa, ngất đi.
Tuy Hư Trúc ngất đi, nhưng trong đầu vẫn hiện ra vô số ảo ảnh, lúc tưởng như bay trên trời, lúc tưởng như lặn dưới biển, có lúc lại tưởng mình đang tụng kinh ở chùa Thiếu Lâm, có lúc tưởng như đang ra sức luyện một môn võ công gì đó mà không thành tựu nổi. Lúc Hư Trúc tỉnh lại, y không biết mình ngất đi đã bao lâu, chỉ thấy hình như trời đang mưa.
Hư Trúc mở mắt ra, thì thấy vô số giọt nước đang lăn trên mặt mình, nhưng không phải là nước mưa mà chính là mồ hôi lão già kia. Hư Trúc nhìn lão già thì thấy đầy mồ hôi đang nhỏ xuống tong tỏng, khắp mặt mũi, đầu tóc, tay chân lão, chỗ nào cũng tuôn mồ hôi ra. Lúc này y mới nhận ra mình đang nằm dưới đất, còn lão già ngồi bên cạnh, hai cái đầu đã rời nhau từ lúc nào không biết.
Hư Trúc ngồi nhỏm dậy, ngơ ngác hỏi: “Tiền bối!…” Y bất giác giật mình không nói tiếp được, vì phát giác ra lão già tựa như đã biến thành một người khác. Bộ mặt đẹp như ngọc bây giờ đầy nét nhăn nheo, mái tóc vừa rậm vừa đen nhánh thì đã rụng hết, còn cái đầu trọc lóc. Bộ râu dài đen nhánh của lão cũng đã bạc phơ. Hư Trúc kinh ngạc vô cùng, tự hỏi: “Mình ngất đi bao lâu rồi? Ba chục năm hay năm chục năm rồi ư? Sao lão này bây giờ lại già đến thế, không tới trăm hai chục tuổi thì cũng phải trăm tuổi chứ không ít.” .
Cặp mắt lão già lờ đờ như mất hết sinh khí, trên bộ mặt nhăn nheo thoáng hiện một nụ cười. Lão nói: “Hoàn thành công việc rồi! Hài nhi, phúc trạch của ngươi còn thâm hậu hơn cả ta kỳ vọng. Ngươi thử phóng chưởng vào vách ván mà coi!”.
Hư Trúc chẳng hiểu tí gì, nhưng cũng vâng lời phóng chưởng ra chỗ không. Bỗng nghe mấy tiếng lắc cắc, nửa bức vách ván lập tức gãy ra. Giả tỉ nhà sư dùng toàn lực phóng chưởng thì còn ghê gớm hơn nhiều, Hư Trúc ngẩn người ra hỏi: “Thế này là sao?”
Lão già tỏ vẻ cực kỳ hoan hỉ, cười nói: “Ngươi hỏi chuyện gì?” Hư Trúc hỏi: “Tại sao… đột nhiên công lực tiểu tăng lại mạnh đến thế?” Lão già mỉm cười đáp: “Nếu người tự tập lấy thì suốt đời cũng chưa được một phần. Nội lực của sư phụ ngươi khổ luyện bảy chục năm trời há phải chuyện tầm thường?”
Hư Trúc biết là hỏng bét rồi, kêu lên: “Tiền bối… nói cái gì bảy mươi năm khổ luyện?” Lão già mỉm cười nói: “Ngươi còn chưa hiểu ư? Có thật ngươi chưa hiểu không?”
Hư Trúc đã hiểu ý lão già, có điều diễn biến quá đột ngột khiến y bàng hoàng, ấp úng hỏi lại: “Lão tiền bối đã truyền cho tiểu tăng một môn thần công gì đó phải không?”
Lão già cười hỏi: “Ngươi vẫn không kêu ta bằng sư phụ ư?” Hư Trúc cúi đầu đáp: “Tiểu tăng là đệ tử phái Thiếu Lâm, không dám phản bội sư môn qui đầu phái khác.” Lão già nói: “Trong thân thể ngươi không còn chút công lực Thiếu Lâm nào thì sao gọi là đệ tử phái Thiếu Lâm được? Nội thể ngươi đã súc tích bảy mươi năm thần công của phái Tiêu Dao thì sao lại không phải là đệ tử bản phái?” Hư Trúc chưa từng nghe nói đến phái Tiêu Dao, buột miệng hỏi lại: “Phái Tiêu Dao…” Lão già mỉm cười ngắt lời đáp: “Theo chính đạo của trời đất, phân rõ lục khí của vũ trụ, ngao du đến chỗ vô cùng, đó chính là Tiêu Dao. Ngươi nhảy lên một cái thử xem.”
Hư Trúc nổi tính hiếu kỳ, nhún chân đạp mạnh xuống đất, nhẹ nhàng nhảy lên. Đột nhiên nghe binh một tiếng, đầu nhà sư xuyên thủng mái nhà, rồi trước mắt sáng lòa. Y không hiểu mình sẽ bay lên cao tới đâu, bèn đưa tay ra giữ chặt lấy mái nhà cho khỏi lên cao nữa, rồi mới từ từ hạ mình xuống đất. Y tưởng như mình biết bay, nhất thời chưa thấy vui sướng gì mà chỉ thấy kinh hãi.
Lão già hỏi: “Ngươi thấy thế nào? Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng… đã đi vào con đường ma quỷ gì đây?” Lão già nói: “Ngươi ngồi xuống đây, ta nói rõ cho mà nghe. Không còn nhiều thời giờ để nói rườm rà, phải đi ngay vào chuyện chính. Ngươi muốn giữ nguyên môn phái, không chịu bái ta làm sư phụ thì ta cũng không ép.” Nói tới đây lão đổi giọng năn nỉ: “Tiểu sư phụ ơi! Ta thỉnh cầu tiểu sư phụ giúp ta một việc khẩn cấp, tiểu sư phụ có nhận lời chăng?”.
Bản tính Hư Trúc đã thích giúp đỡ người, y lại thấm nhuần giới luật của nhà Phật coi trọng việc bố thí, thấy người gặp nạn thì phải xả thân giúp đỡ. Y bèn nói: “Tiền bối đã gặp nguy, thì tiểu tăng phải cố gắng cứu trợ.” Y vừa nói ra khỏi miệng, lại nghĩ công phu của lão này có mấy phần bàng môn tả đạo, bèn giao hẹn: “Nếu tiền bối sai bảo tiểu tăng làm việc mờ ám thì không thể tuân mệnh được.”
Lão già nhăn nhó cười hỏi: “Việc như thế nào là mờ ám?” Hư Trúc chưng hửng đáp: “Tiểu tăng là đệ tử nhà Phật. Việc gì có hại cho người khác thì tiểu tăng nhất định không làm.” Lão già nói: “Có kẻ tàn ác, vô duyên vô cớ giết nhiều người vô tội. Giả tỉ ta nhờ ngươi trừ diệt hắn đi thì ngươi có thuận chăng?” Hư Trúc khẳng khái đáp: “Trước tiên là tiểu tăng cố tìm lời khuyên giải hắn sửa đổi lỗi lầm, quay về nẻo thiện.” Lão kia hỏi lại: “Nếu hắn ngoan cố không chịu tỉnh ngộ thì sao?” Hư Trúc đứng thẳng người lên nói: “Hàng phục ma quái để trừ hại cho đời là việc phải làm. Chỉ sợ tiểu tăng bản lĩnh tầm thường không làm nổi mà thôi.”
Lão già hỏi: “Vậy ngươi ưng chịu lời ta rồi chứ?” Hư Trúc gật đầu đáp: “Tiểu tăng ưng chịu rồi!” Lão già tỏ vẻ vui mừng nói: “Hay lắm! Ta nhờ ngươi đi giết một tên đại ác, chính là đệ tử ta tên gọi Đinh Xuân Thu. Hiện nay võ lâm gọi hắn là Tinh Tú Lão Quái.”
Hư Trúc thở phào một cái như trút được gánh nặng trong lòng. Y đã biết Tinh Tú Lão Quái nổi tiếng độc ác, nhiều lần các bậc trưởng bối ở chùa Thiếu Lâm cũng đã đề cập đến lão quái này. Y liền nói: “Việc trừ diệt Tinh Tú Lão Quái thì bất cứ ai trong võ lâm cũng nên làm. Chỉ sợ tiểu tăng bản lĩnh tầm thường, không làm nổi.” Nói tới đây ngẩng lên nhìn lão già, bỗng thấy trên mặt lão có vẻ trào lộng. Nhà sư hiểu ngay bốn chữ “bản lĩnh tầm thường” bây giờ nghe không ổn nữa.
Lão già nói: “Bản lĩnh người bây giờ chẳng kém gì Tinh Tú Lão Quái, nhưng muốn trừ diệt hắn thì quả là chưa đủ. Nhưng ngươi khỏi lo, ta đã có kế hoạch xếp đặt mọi sự.”
Hư Trúc nói: “Tiểu tăng đã từng nghe Tiết Mộ Hoa thí chủ kể đến chuyện ác của Đinh… Đinh thí chủ ở Tinh Tú Hải. Tiểu tăng vẫn tưởng lão thí chủ đã chết rồi, không ngờ còn ở nhân gian, vậy thì tốt quá.”
Lão già thở dài nói: “Mấy năm trước bỗng dưng nghịch đồ Đinh Xuân Thu sinh sự đánh ta rớt xuống vực thẳm, lão phu suýt chết dưới tay hắn. Cũng may đại đồ đệ Tô Tinh Hà giả câm giả điếc, giấu giếm được tai mắt của nghịch đồ nên lão phu mới sống thêm được ba mươi năm nay. Tư chất của Tô Tinh Hà cũng không tệ, chỉ tiếc rằng ta dẫn dắt nhầm đường, hắn chỉ say mê học những môn tạp học cầm kỳ thi họa, nhất quyết không chịu học võ công thượng thừa. Ba mươi năm nay ta chỉ mong mỏi tìm được một đồ đệ hợp ý để truyền thụ võ công một đời, rồi bảo hắn đi diệt Đinh Xuân Thu. Nhưng cơ duyên không phải là dễ gặp. Chỉ thông minh mà không lương thiện cũng chưa chắc là tốt, không chừng đi đến chỗ nuôi hổ trong nhà. Còn phần lớn những người bản tính lương thiện thì lại không đủ ngộ tính. Gần đây ta tự biết mạng mình sắp tận rồi, không thể đợi được nữa, nên mới công bố thế cờ Trân Lung ra thiên hạ để tìm một thiếu niên vừa thông minh vừa tuấn tú về truyền thụ võ công.”
Hư Trúc nghe lão nói đến người thông minh tuấn tú thì nghĩ thầm: “Mình cũng không ngu dốt gì lắm, nhưng hai chữ tuấn tú thì thật không đương nổi.” Y bèn cúi đầu xuống nói: “Trên thế gian chẳng thiếu gì người tuấn nhã. Ngay ngoài kia cũng có hai người là Mộ Dung công tử và Đoàn công tử. Tiểu tăng đưa họ vào để tiền bối xem thử, có được chăng?”.
Lão già cười ha hả nói: “Nay lão phu đã đem Bắc Minh Thần Công tu luyện bảy mươi năm trời truyền vào thân thể ngươi, làm sao truyền cho người thứ hai được nữa?” Hư Trúc kinh hãi đáp: “Tiền bối… tiền bối đã đem công phu rèn luyện suốt đời truyền hết cho tiểu tăng ư? Tiểu tăng… tiểu tăng làm sao báo đáp nổi ơn đức đó?”
Lão già nói: “Việc này đối với ngươi là họa hay là phúc, bây giờ khó mà nói được. Võ công cao cường chưa hẳn đã phúc. Ngươi nghĩ mà xem, vô số người trên thế gian chẳng biết chút võ công nào, thì lại không phải bận tâm lo nghĩ gì, tránh hết cạnh tranh cùng phiền não. Giả tỉ hồi trước ta chỉ học cầm, học kỳ, học thi, học họa, không theo đuổi võ học, thì chắc là đời ta sung sướng hơn nhiều.” Lão nói đến đây, thở dài một tiếng rồi ngẩng đầu lên nhìn mông lung qua cái lỗ trên nóc mà đầu Hư Trúc vừa đâm thủng, tựa như đang nhớ lại không ít chuyện quá khứ. Hồi lâu lão mới nói tiếp: “Hài tử! Đinh Xuân Thu tin rằng ta chết dưới tay hắn lâu rồi, nên hắn hành sự càn rỡ không kiêng nể ai nữa. Đây là một bức tranh, vẽ lại nơi ta đã hưởng phúc thanh nhàn nhiều năm trước, ở trong Vô Lượng Sơn nước Đại Lý. Ngươi đến đó mà tìm những kinh thư võ học ta cất giấu, theo đó mà tu tập võ công, chắc chắn sẽ giỏi bằng Đinh Xuân Thu. Nhưng tư chất của ngươi không phù hợp với võ công bản môn lắm, e rằng tập luyện nhiều trở ngại, không chừng còn bị nguy hiểm nữa. Bởi vậy ngươi phải vào trong thạch động của Vô Lượng Sơn, tìm vị nữ tiền bối trong đó mà nhờ chỉ điểm. Nàng thấy người tướng mạo xấu xa, chắc là không chịu dạy đâu, ngươi phải cầu xin nàng nể mặt ta mới được.” Lão nói đến đây, nổi lên ho liên tục, rồi ngồi thở hổn hển. Một lát sau, lão lấy trong bọc ra một cuộn tranh nhét vào tay Hư Trúc.
Hư Trúc thấy khó nghĩ, bèn nói: “Tiểu tăng học võ chưa tới đâu, lần này chỉ là vâng lệnh sư phụ xuống núi, đưa tin xong lập tức phải về chùa. Việc gì mà phương trượng bản tự cùng sư phụ không cho phép, thì tiểu tăng không tuân theo lời dặn của tiền bối được.”
Lão già nhăn nhó cười nói: “Nếu ý trời muốn để ác nhân làm càn thì ta cũng đành chịu, chẳng biết làm sao nữa. Ngươi… Ngươi…” Lão đang nói dở câu, đột nhiên toàn thân run bắn lên, từ từ quị xuống, phải chống tay xuống đất, rõ ràng đã sức cùng lực kiệt!
Hư Trúc cả kinh, vội đưa tay ra đỡ lão dậy, nói: “Lão… lão tiền bối! Tiền bối làm sao vậy?” Lão già đáp: “Ta đã chịu đau khổ ba mươi năm trời, nội công bảy mươi năm khổ luyện cũng truyền hết cho ngươi rồi, hôm nay mệnh trời đã hết. Hài tử! Ngươi không chịu kêu ta một tiếng sư phụ hay sao?” Mấy câu này lão nói nhát gừng, hơi thở không liên tục được nữa.
Hư Trúc nhìn thấy đôi mắt lão già tỏ vẻ khẩn cầu trông rất tội nghiệp, bất giác y mềm lòng, buột miệng gọi lên hai tiếng: “Sư phụ!”.
Lão già cả mừng, ráng sức rút chiếc nhẫn bằng bảo thạch màu đen bên tay trái ra, toan đeo vào tay Hư Trúc, nhưng ngươi chẳng còn một chút sức lực, tay run run nắm không chặt, Hư Trúc lại gọi: “Sư phụ!”, rồi cầm lấy cái nhẫn tự đeo vào tay mình.
Lão già nói: “Hay! Hay lắm!… Hài tử… ngươi là đệ tử thứ ba của ta… Ngươi… ngươi kêu Tô Tinh Hà bằng đại sư ca!… Ngươi họ gì?” Hư Trúc đáp: “Thật sự đệ tử không biết.” Lão già nói: “Tướng mạo ngươi có chỗ khó coi, tất còn bị nhiều phen hoạn nạn. Thôi thì đành phó mặc cho trời! Đáng tiếc… thật là đáng tiếc!” Thanh âm lão mỗi lúc một yếu đi, đến cuối câu thì nghe không rõ nữa. Đột nhiên người lão gục ra trước, trán dập xuống đất đánh binh một tiếng, rồi không nhúc nhích gì nữa.
Hư Trúc gấp rút đặt tay lên mũi lão, thì thấy hơi thở đã tuyệt rồi. Y bèn chắp tay tụng niệm: “Nam Mô A Di Đà Phật! Nam Mô A Di Đà Phật! Cầu A Di Đà Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, tiếp dẫn hương hồn lão tiên sinh về cõi tây phương cực lạc.”
Hư Trúc chỉ mới ở bên lão chưa tới một giờ, kể ra cũng chưa có tình nghĩa gì sâu sắc cho lắm. Nhưng y nghĩ tới lão đối với mình như ruột thịt, mình lại đã thừa hưởng bảy mươi năm thần công của lão, tựa hồ một bộ phận của lão đã hòa nhập vào nội thể của mình. Lúc này lão chết đi, nhà sư không khỏi xúc động trong lòng, liền khóc rống lên.
Hư Trúc khóc một hồi rồi quì xuống đất, hướng về di thể lão già lạy mấy lạy, lâm râm khấn vái: “Lão tiền bối! Lúc nãy tiểu tăng gọi lão tiền bối bằng sư phụ, là chuyện giả chứ không phải thật. Lão tiền bối có linh thiêng xin đừng trách tiểu tăng!” Khấn xong y quay người đi ra, chui qua lỗ thủng trên hai lần vách ván ra ngoài, thân thể nhẹ nhàng khác hẳn lúc vào, tựa như đã qua một lần đầu thai chuyển kiếp.